Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 115 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

NGUYỄN THỊ TÝ
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ








Hà Nội - 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ





NGUYỄN THỊ TÝ






ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM




Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01




LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM THỊ HỒNG ĐIỆP




Hà Nội – 2011
MỤC LỤC
Trang
Danh mục các chữ viết tắt i
Danh mục các bảng ii

MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 6
6. Đóng góp mới của luận văn 8
7. Bố cục của luận văn 8
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐẦU TƢ
TRỰC TIẾP RA NƢỚC NGOÀI CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1.1. Môt số vấn đề lý luận chung về đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài . 9
1.1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài 9
1.1.2. Các hình thức đầu tư ra nước ngoài 11
1.1.3. Những điều kiện cần thiết đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của doanh nghiệp 14
1.1.4. Tính tất yếu khách quan đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và
vai trò của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 22
1.2. Cơ sở thực tiễn 33
1.2.1. Xu hướng vận động của FDI trên thế giới 33
1.2.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài 36
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP RA NƢỚC NGOÀI
CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
2.1. Đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài của các DNVN thời gian qua 45
2.1.1. Chính sách đầu tư của nhà nước Việt Nam đối với hoạt động
đầu tư ra nước ngoài 45
2.1.2. Tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các DNVN 49
2.2. Đánh giá chung về đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam 64
2.2.1. Những kết quả đạt được 64

2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân 69
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM THÚC
ĐẨY ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP RA NƢỚC NGOÀI CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM
3.1. Bối cảnh quốc tế và trong nƣớc tác động đến đầu tƣ trực tiếp
ra nƣớc ngoài 78
3.1.1. Bối cảnh quốc tế 78
3.1.2. Bối cảnh trong nước 79
3.1.3. Những cơ hội và thách thức 81
3.2. Phƣơng hƣớng đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam 85
3.2.1. Về địa bàn đầu tư ra nước ngoài 85
3.2.2. Về lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài 85
3.2.3. Về chủ thể đầu tư ra nước ngoài 86
3.2.4. Về xây dựng chính sách về đầu tư ra nước ngoài 86
3.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy đầu tƣ trực tiếp ra
nƣớc ngoài của các DNVN 87
3.3.1. Nhóm giải pháp về phía Nhà nước Việt Nam 88
3.3.2. Nhóm giải pháp về phía doanh nghiệp 92
KẾT LUẬN 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO 103


i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


TT
Tên viết tắt
Nguyên nghĩa

1
ASEAN
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
(Association of Southeast Asia Nations)
2
BOT
Hợp đồng Xây dựng-Kinh doanh-Chuyển giao
(Building- Opeate –Transfer)
3
BTO
Hợp đồng Xây dựng-Chuyển giao-Kinh doanh
(Building – Transfer – Opeate)
4
BT
Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao
(Building – Transfer)
5
CIEM
Viện nghiên cứu quản lý Trung ương
(Central Institute for Economic Management)
6
DNVN
Doanh nghiệp Việt Nam
7
ĐTRNN
Đầu tư ra nước ngoài
8
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
(Foreign Direct Investment)

9
M&A
Sáp nhập và mua lại
(Mergers & Acquisition)
10
UNTCAD
Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển
(United Nation Conference on Trade and Development)
11
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
(World Trade Organization)

ii
DANH MỤC CÁC BẢNG

TT
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài theo năm
49
Bảng 2.2
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của DNVN tại
từng thời điểm
51
Bảng 2.3
Một số quốc gia và vùng lãnh thổ nhận đầu tư
trực tiếp từ VN
53

Bảng 2.4
Cơ cấu đầu tư ra nước ngoài của các DNVN
59


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đầu tư
trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment: FDI) là vấn đề mang tính
chất toàn cầu và là xu thế chung của các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới. Thực hiện FDI là nhằm mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, tận dụng nguồn tài nguyên, nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí
vận chuyển hàng hoá, tránh được chế độ giấy phép xuất khẩu trong nước và
tận dụng quota xuất khẩu của nước nhận đầu tư để mở rộng thị trường, tiếp
cận người tiêu dùng, nâng cao trình độ khoa học công nghệ, năng lực quản lý
và trình độ tiếp thị giữa các quốc gia. Hoạt động FDI bao gồm 2 dòng: (1)
Thu hút FDI từ nước ngoài vào trong nước; (2) Tiến hành đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài. Ngày nay, tùy thuộc vào nhu cầu, khả năng và điều kiện của mỗi
nước mà hoạt động FDI cân bằng và song hành với việc thu hút FDI.
Việt Nam đến nay trải qua 25 năm đổi mới, đã và đang thành công trong
việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI. Cùng với tiếp nhận dòng
vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài là hướng đi tất yếu và phù hợp
với điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, nhất là khi Việt Nam chính thức là
thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Do đó các doanh
nghiệp Việt Nam (DNVN) cần phải chủ động, tranh thủ thời cơ để thâm nhập
vào thị trường thế giới. Dưới tác động của nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng, đã
có thêm nhiều DNVN có khả năng tài chính cũng như kinh nghiệm để đầu tư
ra nước ngoài. Dự án đầu tiên của các DNVN đầu tư ra nước ngoài vào năm

1989 và đến nay, DNVN đã có mặt tại nhiều nước và vùng lãnh thổ thuộc
năm châu lục.

2
Đứng trước xu thế mở cửa, hội nhập trên thế giới và tình hình thực tiễn ở
Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách,
pháp luật hướng dẫn và quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung, đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài nói riêng qua các kỳ Đại hội của Đảng. Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định và chỉ rõ: “Khuyến
khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước
ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài” [13, tr 115].
Tuy nhiên, trở ngại cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN) của
DNVN không nhỏ. DNVN tuy đông đảo về số lượng song hầu hết yếu về
vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý còn hạn chế nên khả năng cạnh tranh
gặp nhiều khó khăn. Số dự án và quy mô vốn đầu tư của DNVN ra nước
ngoài còn nhỏ, kinh nghiệm còn hạn chế, thường hoạt động riêng lẻ, thiếu cơ
chế liên kết cũng như cập nhật thông tin tại địa bàn sẽ đầu tư các thị trường
đầu tư truyền thống vẫn là Đông Nam Á và Đông Âu, các nhà đầu tư Việt
Nam chưa thực sự mạnh dạn vươn ra các thị trường xa như Úc, Bắc Mỹ, Châu
Phi, Trung Đông… Các chủ đầu tư lớn vẫn chủ yếu là các Tổng Công ty, các
Tập đoàn lớn (có vốn đầu tư nhà nước), các chủ đầu tư tư nhân còn ít, chủ yếu
thực hiện các dự án đầu tư nhỏ lẻ, quy mô vốn hạn chế.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của doanh nghiệp Việt Nam” được tác giả chọn làm luận văn thạc sĩ của
mình để góp phần tìm ra những giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài của DNVN trong thời gian tới.







3
2. Tình hình nghiên cứu
Xung quanh chủ đề nghiên cứu đã có một số công trình nghiên cứu khoa
học được đăng tải như:
- Cục Đầu tư Nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thủ tục đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài và tình hình đầu tư của các DNVN tại Nga, Cần Thơ,
tháng 8, 2009.
Trong bài báo cáo này, sau khi đã trình bày về thủ tục đầu tư ra nước ngoài,
Cục Đầu tư Nước ngoài đã phân tích tình hình đầu tư của các DNVN tại Nga,
liệt kê một số dự án lớn Việt Nam đầu tư tại Nga, chỉ ra một số tồn tại của các
DNVN đầu tư tại Nga, qua đó đưa ra những định hướng đầu tư ra nước ngoài
trong thời gian tới và giải pháp thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài.
- Nguyễn Mạnh Hùng, Đầu tư ra nước ngoài – hướng đi và cách làm
mới nâng cao khả năng cạnh tranh của Viettel, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số
10, 2009.
Trong bài viết này, tác giả chỉ ra vấn đề cạnh tranh gay gắt giữa các doanh
nghiệp viễn thông di động Việt Nam và trước sự cạnh tranh gay gắt đó, buộc
các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam phải tìm ra những hướng đi mới để tự
nâng cao sức cạnh tranh của mình. Tác giả đưa ra ví dụ điển hình về nâng cao
sức cạnh tranh, đó là: chủ động đầu tư ra nước ngoài – cách làm mới để
Viettel nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập. Viettel táo bạo đầu tư sang
Campuchia bước đầu thành công đã thể hiện một cách làm mới đầy táo bạo và
nhanh nhạy để chủ động cọ sát với bên ngoài, nâng cao khả năng cạnh tranh
trên thị trường thế giới.
- Nguyễn Thị Hường, Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của DNVN, Tạp
chí Kinh tế và Dự báo, số 9/2007.
Trong bài báo này, trên cơ sở phân tích vai trò của đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài không chỉ đối với các nước phát triển mà cả với các nước đang phát


4
triển, tác giả đã đi vào nghiên cứu thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của DNVN tính đến năm 2006. Qua đó, tác giả đã chỉ ra những hạn chế còn
tồn tại trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của DNVN trong thời gian qua và
những nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan dẫn tới những tồn tại,
hạn chế đó, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy các doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
- Hà Phương, Thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài để chủ động hơn với thế
giới, Tạp chí Nghiên cứu và Dự báo, số 16, 2008.
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích kết quả đầu tư ra nước ngoài của
DNVN đến hết tháng 7 năm 2008 và khẳng định: đầu tư ra nước ngoài của
DNVN kết quả vẫn còn khiêm tốn. Từ thực trạng đó, tác giả đã đưa ra những
định hướng và giải pháp thúc đẩy DNVN đầu tư ra nước ngoài.
- Đinh Trọng Thịnh, Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài, NXB Tài chính, Hà nội, 2006.
Trong cuốn sách này, tác giả đã hệ thống hóa lý luận về việc đầu tư ra nước
ngoài của doanh nghiệp các nước đang phát triển. Đồng thời, xem xét, giới
thiệu và đánh giá các chính sách của Việt Nam, các kinh nghiệm của một số
quốc gia trong khu vực đối với lĩnh vực khuyến khích đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài. Tác giả cũng đã xem xét, đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của các DNVN trong thời gian từ 1989 đến năm 2005, đưa ra những
giải pháp thiết thực nhằm thúc đẩy mạnh hơn nữa hoạt động đầu tư ra nước
ngoài của các DNVN.
- Vũ Đình Tích, Đầu tư của các DNVN tại Lào: hiện trạng và triển vọng,
Tạp chí Thông tin và dự báo kinh tế - xã hội, số 19, 7/2007.
Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra một số văn bản pháp luật và chính
sách của nhà nước về đầu tư sang Lào và khẳng định, trong bối cạnh hiện nay,
đầu tư sang Lào của DNVN là hoạt động có rất nhiều tiềm năng phát triển.


5
Trên tinh thần đó, tác giả đã liệt kê các DNVN thăm dò, khảo sát, xúc tiến,
triển khai hoạt động sản xuất, kinh doanh trên đất Lào tính đến tháng 3 năm
2007 và chỉ ra những thuận lợi và khó khăn, hạn chế của DNVN khi đầu tư
trên đất Lào, đồng thời phân tích những triển vọng đầu tư của DNVN tại Lào.
Từ đó đưa ra một số kiến nghị để tăng hiệu quả đầu tư tại Lào.
Nhìn chung, các công trình trên tiếp cận dưới những góc độ khác nhau cả
lý luận và thực tiễn về đầu tư ra nước ngoài, thấy được sự cần thiết đẩy mạnh
đầu tư ra nước ngoài của các DNVN trong giai đoạn hiện nay và đều gợi ý
những hướng đi và giải pháp cho các DNVN đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài.
Song chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của DNVN dưới góc độ kinh tế chính trị. Hơn nữa, sự nhìn nhận vấn đề
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của DNVN, cũng như thực tiễn hoạt động đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài của DNVN vẫn còn có sự khác nhau. Vậy nên, trên
cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu trên, tác giả nghiên cứu đề tài: “Đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài của DNVN” góp phần giải đáp những câu hỏi: Đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài đem lại lợi ích gì cho DNVN và cho sự phát triển
kinh tế, xã hội của đất nước? Thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của các DNVN thời gian qua? Những khó khăn, hạn chế còn tồn tại
trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của DNVN? Giải pháp nào để đẩy mạnh
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong tương lai?
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ sự cần thiết khách quan, vai trò đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của DNVN và phân tích, đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của DNVN, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của DNVN trong thời gian tới.


6

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về FDI.
- Làm rõ sự cần thiết và vai trò đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của DNVN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của DNVN.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của DNVN.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của DNVN.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 2001 đến năm 2010 (có khảo sát
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của DNVN từ năm 1989 đến 2001).
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý thuyết kinh tế về đầu tư trực tiếp
nước ngoài của học thuyết kinh tế của Chủ nghĩa Mác – Lênin, các học thuyết
kinh tế hiện đại về đầu tư ra nước ngoài; các quan điểm, chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp như: trừu tượng hoá khoa học, phân
tích tổng hợp, thống kê so sánh, lôgíc và lịch sử. Gắn lý luận với thực tiễn để
làm sáng tỏ vấn đề.
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học
Trong luận văn, tác giả sẽ sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học để
gạt bỏ khỏi quá trình nghiên cứu các hiện tượng được nghiên cứu những cái
đơn giản, ngẫu nhiên, tạm thời hoặc tạm gác lại một số nhân tố nào đó nhằm

7
tách ra những cái điển hình, ổn định, vững chắc, từ đó tìm ra bản chất các
hiện tượng và quá trình về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của DNVN.

- Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp phân tích tổng hợp được tiến hành thông qua các công đoạn: thu
thập dữ liệu, kiểm tra dữ liệu, phân tích dữ liệu và kiểm tra kết quả phân tích.
Đề tài tập trung làm rõ tính tất yếu khách quan, vai trò đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài của DNVN và phân tích, đánh giá những mặt tích cực và hạn chế
của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của DNVN, những nguyên nhân chủ yếu
ảnh hưởng đến sự thành công và thất bại, trên cơ sở đó đề xuất những phương
hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
DNVN.
- Phương pháp thống kê so sánh
Đề tài sử dụng các số liệu thứ cấp về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
DNVN chủ yếu từ năm 2001 đến năm 2010 (có khảo sát hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của DNVN từ năm 1989 đến 2001) và so sánh, xử lý
các số liệu để rút ra các kết luận. Thông tin thứ cấp được thu thập từ: Cục đầu
tư nước ngoài – Bộ kế hoạch và đầu tư, Tổng cục thống kê, phòng Thương
mại và công nghiệp Việt Nam, báo chí, tạp chí chuyên ngành, internet và
thông tin của các tổ chức nghiến cứu liên quan.
- Phương pháp lôgic – lịch sử
Phương pháp lôgic – lịch sử được sử dụng để bài viết vừa mang tính liên tục
kế thừa của các công trình nghiên cứu của các tác giả về đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài của DNVN theo một chiều dọc của thời gian vừa có tính quan hệ
mật thiết giữa cái chung và cái riêng giữa các các công trình nghiên cứu và đề
tài của chúng tôi theo chiều ngang của không gian.



8
6. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần tổng hợp kinh nghiệm của Trung Quốc về đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài từ đó rút ra những bài học có thể áp dụng vào hoàn cảnh đầu tư

trực tiếp ra nước ngoài của DNVN.
- Góp phần phân tích và đánh giá thực trạng về đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của DNVN, khẳng định các mặt tích cực cần được phát huy, những hạn
chế phải tìm ra nguyên nhân từ đó gợi mở một số giải pháp và kiến nghị nhằm
tăng cường, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
DNVN.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của doanh nghiệp Việt Nam
Chương 2: Thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp
Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của doanh nhiệp Việt Nam










9
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐẦU TƢ TRỰC
TIẾP RA NƢỚC NGOÀI CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM


1.1. Một số vấn đề lý luận chung về đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài
1.1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào
nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công
ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) đưa ra định nghĩa như sau về FDI:
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một
nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút
đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để
phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả
nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh
doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công
ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty"”.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là
một tác vụ đầu tư bao hàm một quan hệ dài hạn, phản ánh một lợi ích lâu bền
của một thực thể cư ngụ tại một nước gốc (nhà đầu tư trực tiếp) đối với một
thực thể cư ngụ tại một nuớc khác (doanh nghiệp tiếp nhận đầu tư).”
Ngân hàng Pháp Quốc (Banque de France) định nghĩa: “Một đầu tư là
đầu tư trực tiếp nước ngoài khi nào:
(a) Thiết lập được một pháp nhân hoặc một chi nhánh ở nước ngoài;
(b) Nắm giữ được một tỷ lệ có ý nghĩa về vốn, cho phép nhà đầu tư nước
ngoài có quyền kiểm soát việc quản lý doanh nghiệp nước ngoài tiếp
nhận đầu tư (tham gia bằng hoặc trên 10%);

10
(c) Các khoản cho vay hoặc ứng trước ngắn hạn của nhà đầu tư cho công ty
tiếp nhận đầu tư một khi đã thiết lập giữa hai bên mối quan hệ công ty
mẹ và chi nhánh.” [57, tr 114]
Theo Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dùng cho các khối ngành
không chuyên Kinh tế - Quản trị kinh doanh trong các trường đại học, cao

đẳng) của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình
thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng quản lý vốn của người đầu tư
thống nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ
chức quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro
trong kinh doanh và thu lợi nhuận.” [1, tr 326]
Nghị định 78/2006/NĐ – CP quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
chỉ rõ: “Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư
ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý
hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài.” [36]
Dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau về FDI nhưng đa số các định
nghĩa FDI đều bao hàm một số nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chủ đầu tư là người nước ngoài.
Thứ hai, chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý, điều hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh ở nước ngoài.
Thứ ba, mục đích của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhằm mục
đích sinh lợi.
Tóm lại, FDI là hình thức chủ đầu tư nước ngoài bỏ ra toàn bộ hoặc một
phần vốn đủ lớn vào các dự án để thiết lập các cơ sở sản xuất kinh doanh
nhằm giành quyền quản lý và trực tiếp điều hành đối tượng mà họ đã bỏ vốn
ra đầu tư nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư đó ở
nước ngoài. FDI là quá trình trong đó một hay nhiều bên (có quốc tịch khác
nhau) cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư nhằm đưa lại

11
lợi ích cho tất cả các bên tham gia. Yếu tố nước ngoài của đầu tư trực tiếp thể
hiện sự khác nhau về mặt quốc tịch của các bên tham gia đầu tư với những
đặc thù riêng về sự can thiệp của chủ đầu tư nước ngoài vào quá trình sản
xuất kinh doanh; về tính chất lâu dài của dự án; về sự gắn liền với quá trình
chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm…Mọi hoạt động FDI đều nhằm mục
đích sinh lợi. FDI ngày nay là một hình thức kinh doanh vốn (tư bản tiền tệ),

kèm theo kinh doanh chất xám hay công nghệ (tư bản tri thức), kết hợp với
khai thác lợi thế về chi phí sản xuất tại nơi đầu tư, về thị trường, để sản xuất
ra hàng hoá và dịch vụ, tìm lợi nhuận.
1.1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
FDI được thực hiện thông qua hai kênh chủ yếu: đầu tư mới (Greenfield
Investment – GI) và Mua lại và sáp nhập (Mergers & Acquisition – M&A).
1.1.2.1. Đầu tư mới
Đầu tư mới là hình thức các chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở nước ngoài
thông qua việc xây dựng một doanh nghiệp mới. Với những hình thức được
áp dụng phổ biến sau:
* Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức
mà hai hay nhiều bên hợp tác kinh doanh với nhau dựa trên cơ sở hợp đồng
hợp tác kinh doanh, không thành lập pháp nhân mới. Hợp đồng hợp tác kinh
doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành hoạt động
đầu tư tại nước sở tại, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả
kinh doanh cho mỗi bên; hoạt động dựa trên văn bản ký kết giữa các bên. Khi
hết thời gian hiệu lực thì các bên không còn ràng buộc về mặt pháp lý.
* Hình thức doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập có tư cách
pháp nhân do một hoặc nhiều chủ đầu tư nước ngoài góp chung vốn với

12
doanh nghiệp nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên doanh; các bên cùng tham
gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn
của mỗi bên.
* Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do chủ đầu tư nước
ngoài đầu tư toàn bộ vốn để thành lập; chủ đầu tư nước ngoài có quyền điều
hành toàn bộ doanh nghiệp theo quy định của pháp luật nước sở tại.

Doanh nghiệp 100% nước ngoài là một pháp nhân của nước nhận đầu tư.
* Hình thức đầu tư theo hợp đồng BOT, BT, BTO (gọi chung là hình thức
BOT)
- Hợp đồng Xây dựng-Kinh doanh-Chuyển giao (Building- Opeate –
Transfer: BOT): là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong
một thời hạn nhất định; hết thời hạn nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn
hoặc với một giá tượng trưng công trình đó cho nước tiếp nhận đầu tư.
- Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao – Kinh doanh (Building – Transfer
– Opeate: BTO): là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng
xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước tiếp nhận
đầu tư. Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư sẽ cùng với nhà đầu tư nước ngoài
khai thác công trình đó trong một thời gian nhất định đủ để thu hồi vốn và
đảm bảo có lãi.
- Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao (Building – Transfer: BT): là hình
thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước tiếp
nhận đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng;
sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho
nước tiếp nhận đầu tư. Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư tạo điều kiện cho nhà

13
đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận
hợp lý hoặc thanh toán cho nhà đầu tư nước ngoài theo thoả thuận trong hợp
đồng BT.
1.1.2.2. Đầu tư thực hiện sáp nhập và mua lại (Mergers & Acquisition:
M&A)
FDI thông qua M&A là hình thức nhà đầu tư nước ngoài được quyền sáp
nhập và mua lại công ty, chi nhánh ở nơi đầu tư. Điều kiện M&A công ty, chi
nhánh theo quy định của pháp luật về cạnh tranh và pháp luật khác có liên

quan của nước tiếp nhận đầu tư.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, hoạt động M&A được hiểu là hoạt
động M&A doanh nghiệp và được xem xét dưới nhiều góc độ: như một trong
các hành vi tập trung kinh tế được điều chỉnh bởi pháp luật cạnh tranh, như
một trong những hình thức tổ chức lại doanh nghiệp được điều chỉnh theo
pháp luật về doanh nghiệp và như một trong những hình thức đầu tư trực tiếp
được điều chỉnh theo pháp luật về đầu tư.
Trên thế giới, các vụ sáp nhập và mua lại có thể được phân thành 3 loại:
chiều ngang, chiều dọc và kết khối.
Mỗi hình thức đầu tư có những ưu nhược điểm riêng và áp dụng trong
các trường hợp khác nhau. M&A có 4 lợi ích cơ bản so với đầu tư mới. Thứ
nhất, công ty có thể nhanh chóng để hiện diện tại một thị trường nước ngoài
hơn là đầu tư mới. Thứ hai, bằng hình thức này, công ty có thể ngăn cản các
đối thủ cạnh tranh, nhất là trong các thị trường toàn cầu hoá nhanh
chóng. Thứ ba, công ty mua lại có thể tăng hiệu quả các công ty được mua lại
bằng cách chuyển giao công nghệ, vốn và kinh nghiệm quản lý. Cuối cùng,
M&A có thể ít rủi ro hơn đầu tư mới và có thể tận dụng được các tài sản giá
trị của công ty được mua như mối quan hệ khách hàng, hệ thống phân phối,
nhãn hiệu, hệ thống sản xuất. Tuy nhiên, hình thức M&A có nhược điểm là

14
bên mua lại có thể đánh giá công ty được mua với giá quá cao, thường là do
họ quá lạc quan về lợi ích do sự cộng hợp giữa công ty đi mua và công ty
được mua. Ngoài ra sự khác biệt về văn hoá tổ chức và cách vận hành sẽ tạo
ra sự mâu thuẫn dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp. Ngược lại, đầu tư mới có lợi
thế hơn so với M&A là công ty có thể linh hoạt hơn để có thể tạo ra một công
ty theo ý muốn; xây dựng văn hoá tổ chức cho một công ty mới dễ hơn là thay
đổi văn hoá từ công ty khác.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì hình thức M&A còn
là con đường nhanh chóng hơn để tiếp cận với công nghệ hiện đại cũng như

sở hữu được thương hiệu nổi tiếng. Cho nên, song song với hình thức đầu tư
mới, các DNVN cần chú ý đến hình thức M&A để khai thác các lợi thế của
nó.
1.1.3. Những điều kiện cần thiết đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh
nghiệp
1.1.3.1. Những điều kiện theo lý thuyết chiết trung – Eclectic của
Dunning
Lý thuyết chiết trung – Eclectic (Dunning - Đại học Needs Anh – học giả
nổi tiếng nhất về FDI trên thế giới) đã kế thừa hầu hết những ưu điểm của các
học thuyết khác về FDI.
Một mô hình được xây dựng khá công phu của Dunning (1977, 1980,
1981a, 1981b, 1986, 1988a, 1988b, 1993), tổng hợp các yếu tố chính của
nhiều công trình khác nhau lý giải về FDI, và đề xuất rằng có 3 điều kiện cần
thiết để một doanh nghiệp có động cơ tiến hành đầu tư trực tiếp. Cách tiếp cận
này được biết đến dưới tên mô hình “OLI”: lợi thế về sở hữu (Ownership
Advantages); lợi thế địa điểm (Location Advantage) và lợi thế nội bộ hoá
(Internalization Incentives).

15
Lợi thế về sở hữu của một doanh nghiệp có thể là một sản phẩm hoặc
một qui trình sản xuất mà có ưu thế hơn hẳn các doanh nghiệp khác hoặc các
doanh nghiệp khác không thể tiếp cận. Đó cũng có thể là một số tài sản vô
hình hoặc các khả năng đặc biệt như công nghệ và thông tin, kỹ năng quản lý,
marketing, hệ thống tổ chức và khả năng tiếp cận các thị trường hàng tiêu
dùng cuối cùng hoặc các hàng hoá trung gian hoặc nguồn nguyên liệu thô,
hoặc khả năng tiếp cận nguồn vốn với chi phí thấp. Dù tồn tại dưới hình thức
nào, lợi thế về quyền sở hữu đem lại quyền lực nhất định trên thị trường hoặc
lợi thế về chi phí đủ để doanh nghiệp bù lại những bất lợi khi kinh doanh ở
nước ngoài.
Lợi thế địa điểm giúp các doanh nghiệp có lợi khi tiến hành sản xuất ở

nước ngoài thay vì sản xuất ở nước mình rồi xuất khẩu sang thị trường nước
ngoài. Các lợi thế về địa điểm bao gồm không chỉ các yếu tố về nguồn lực,
mà còn có cả các yếu tố kinh tế và xã hội, như dung lượng và cơ cấu thị
trường, khả năng tăng trưởng của thị trường và trình độ phát triển, môi trường
văn hoá, pháp luật, chính trị và thể chế, và các qui định và các chính sách của
chính phủ.
Lợi thế nội bộ hoá: nếu một doanh nghiệp sở hữu một sản phẩm hoặc
một qui trình sản xuất và nếu việc sản xuất sản phẩm ở nước ngoài có lợi hơn
xuất khẩu hay cho thuê, thì cũng chưa chắc doanh nghiệp đã xây dựng một
chi nhánh ở nước ngoài. Một trong những cách lựa chọn khác là cấp giấy
phép cho một doanh nghiệp nước ngoài để họ sản xuất sản phẩm hoặc sử
dụng qui trình sản xuất. Tuy nhiên, do khó có thể tiến hành trao đổi các tài
sản vô hình này trên thị trường, sản phẩm hoặc quy trình sản xuất sẽ được
khai thác trong nội bộ doanh nghiệp hơn là đem trao đổi trên thị trường. Đây
chính là một lợi thế nội bộ hoá.

16
Tóm lại, theo học giả Dunning trong lý thuyết chiết trung – Eclectic, để
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cần phải hội đủ ba điều kiện: lợi
thế về sở hữu, lợi thế về địa điểm và lợi thế về nội bộ hóa. Tại bất cứ thời
điểm nào, các doanh nghiệp của một nước, so với các doanh nghiệp của các
nước khác, càng nắm giữ nhiều các lợi thế về quyền sở hữu, thì họ càng có
động cơ mạnh để sử dụng chúng trong nội bộ hơn là phổ biến ra bên ngoài, họ
càng tìm được nhiều lợi ích khi sử dụng chúng ở một nước khác thì họ càng
có động cơ để phát triển sản xuất ở nước ngoài.
Cho đến nay mô hình OLI của Dunning có thể coi là cách lý giải đầy đủ
về những điều kiện đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, khi đề cập đến các
điều kiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, lý thuyết chiết trung – Eclectic chỉ
mới đề cập đến các điều kiện về phía doanh nghiệp mà chưa đề cập đến các
điều kiện về phía nhà nước. Trong khi đó, để doanh nghiệp đầu tư ra nước

ngoài không chỉ cần những điều kiện từ phía các doanh nghiệp mà còn cần
các chính sách hỗ trợ từ phía nhà nước.
1.1.3.2. Những điều kiện theo cách tiếp cận từ phía Nhà nước và
doanh nghiệp
Nhìn chung có thể tập hợp lại các điều kiện cần thiết đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài của doanh nghiệp bao gồm: những điều kiện về phía doanh nghiệp
và những chính sách hỗ trợ từ phía nhà nước.
* Những điều kiện về phía doanh nghiệp
Trong quá trình tìm kiếm cơ hội đầu tư ra nước ngoài, các nhà đầu tư
luôn so sánh mức độ hấp dẫn và rủi ro giữa môi trường kinh doanh nước họ
và môi trường kinh doanh nước nhận đầu tư. Để có thể tiến hành đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài, doanh nghiệp các nước đang phát triển cần đảm bảo được
các điều kiện sau đây:


17
Thứ nhất, các doanh nghiệp cần có tiềm lực tài chính mạnh.
Đầu tư ra nước ngoài thực chất là quá trình di chuyển vốn ở phạm vi
quốc tế từ nước đầu tư tới nước nhận đầu tư. Vốn đầu tư bao gồm các nguồn
lực tài chính và nguồn lực hiện vật để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh
doanh, xây dựng các nhà máy mới, duy trì và mở rộng các tiềm lực sẵn
có…Vốn là một yếu tố không thể thiếu đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, tổ
chức nào. Muốn cạnh tranh được trên thị trường thì các doanh nghiệp phải đủ
mạnh, tức là phải có nguồn vốn dồi dào, có đủ năng lực thực hiện đầu tư
nhanh chóng để chớp thời cơ thu lợi nhuận. Vì thế với bất kỳ doanh nghiệp
nào có tiềm lực tài chính mạnh mẽ sẽ có điều kiện tiên quyết mở rộng hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình không chỉ trong nước mà khắp mọi nơi
trên thế giới. Song để có nguồn vốn dồi dào, hay tiềm lực tài chính mạnh, các
doanh nghiệp phải có một quá trình lâu dài tích tụ và tập trung vốn.
Thứ hai, trình độ khoa học - công nghệ của các doanh nghiệp phải đạt

tới mức độ có thể cạnh tranh trên thị trường nước nhận đầu tư, hoặc có
những bí quyết kỹ thuật, kỹ năng riêng có để sản xuất sản phẩm.
Trình độ khoa học – công nghệ là yếu tố quan trọng thứ hai liên quan đến
hiệu quả hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Tiến bộ khoa học – công
nghệ là yếu tố quyết định sự thắng lợi trong cạnh tranh và đạt được mục tiêu
của các công ty và các tập đoàn. Nhờ có khoa học – công nghệ mà các công
ty, các tập đoàn có khả năng tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm có chất lượng
cao, đa dạng về mẫu mã, chủng loại, phù hợp với nhu cầu của nhiều thị
trường. Khi các sản phẩm đó chiếm lĩnh được nhiều khu vực thị trường trên
thế giới thì chắc chắn các tập đoàn sẽ nâng cao được uy tín và vị thế của
mình. Với sự đa dạng hóa sản phẩm dựa trên khoa học – công nghệ hiện đại,
lợi nhuận thu được sẽ cao hơn so với việc sản xuất một loại sản phẩm giúp
cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ổn định. Trên thương trường,

18
để có sản phẩm có hàm lượng khoa học – công nghệ cao, đòi hỏi các doanh
nghiệp phải có nguồn lực lớn đủ mạnh chi phối các yếu tố đầu vào của sản
xuất và công nghệ chế tạo sản phẩm. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp nhỏ
và vừa phải tìm được những “khoảng trống” thị trường hay có những bí quyết
kỹ thuật, những tiến bộ mới của khoa học – công nghệ mới có thể đầu tư ra
nước ngoài có hiệu quả.
Với những tiềm lực khoa học – công nghệ của mình, các doanh nghiệp sẽ
dễ dàng tiến hành đầu tư vượt ra khỏi biên giới quốc gia, bằng việc thành lập
các chi nhánh ở nước ngoài, đưa các bí quyết công nghệ, phương thức sản
xuất hiện đại để tiến hành sản xuất kinh doanh ở nước sở tại. Thực hiện điều
này đối với các nước đang phát triển không phải dễ. Khoa học – công nghệ
phát triển thì các doanh nghiệp mới tập trung được nguồn lực khoa học, công
nghệ để có thể nâng cao được khả năng và tiềm lực của mình, thúc đẩy sản
xuất không những ở trong nước mà còn cả ở nước ngoài. Vì vậy mà khoa học
– công nghệ giữ vai trò quan trọng đối với việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

của các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển.
Thứ ba, các doanh nghiệp phải có khả năng cạnh tranh cao trên thị
trường.
Cạnh tranh là tất yếu trên thị trường. Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp thể hiện chủ yếu ở hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh
hiện tại cũng như tương lai; các sản phẩm của doanh nghiệp tạo ra có khả
năng cạnh tranh cao, được người tiêu dùng chấp nhận và đảm bảo được thị
trường tiêu thụ; doanh nghiệp được tổ chức hợp lý, năng động, áp dụng công
nghệ tiên tiến, có đội ngũ cán bộ công nhân giỏi chuyên môn; có khả năng
tiếp cận các nguồn vốn cho việc đầu tư theo chiều rộng lẫn chiều sâu.
Để vượt qua các đối thủ cạnh tranh, việc áp dụng nhiều phương pháp
quản lý mới nhằm tinh gọn bộ máy, tái cấu trúc quá trình kinh doanh, giảm

×