Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.12 KB, 92 trang )



MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
1
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp chế về cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta
6
1.1. Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
6
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nước.
11
1.3. Các quy định của Nhà nước về cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước.
16
Chương 2: Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước ở nước ta
29
2.1. Những thành tựu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
ở nước ta.
29
2.2. Những hạn chế trong tiến trình cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước.
44
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu
để đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong
những năm tới
57
3.1. Phương hướng đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp


nhà nước
57
3.2. Những giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước trong những năm tới ở Việt Nam.
60
Kết luận
81
Danh mục tài liệu tham khảo
84
Các công trình của tác giả đã công bố
90







1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới, về lĩnh vực kinh tế Đảng ta chủ trương thực
hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, nhiều hình thức sở hữu, vận động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đảng ta
cũng khẳng định, trong các thành phần kinh tế cùng kinh doanh theo pháp
luật, cùng phát triển, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với nhau, thì kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Trong thời gian qua, kinh tế nhà nước đã phát huy ngày càng tốt hơn

vai trò chủ đạo của mình trong toàn bộ nền kinh tế, thực sự trở thành lực
lượng vật chất quan trọng, công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ
mô nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước đang ngày càng nắm giữ nhiều vị
trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về
năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành luật pháp. Trong
các thành tựu khả quan chung mà nền kinh tế đất nước đạt được qua 3 năm
gần đây như: khắc phục được tình trạng suy giảm tốc độ tăng trưởng; đạt mức
tăng trưởng khá, năm sau cao hơn năm trước; nâng cao chất lượng, hiệu quả
và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và sản phẩm , có phần đóng góp quan
trọng của kinh tế nhà nước.
Tuy nhiên kinh tế nhà nước cũng còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém
như: hiệu quả đầu tư có xu hướng giảm sút đáng kể; tình trạng tham nhũng và
làm thất thoát, lãng phí vốn đầu tư kéo dài, chưa phát huy tốt nguồn lực của
doanh nghiệp nhà nước; có xu hướng bao cấp trở lại và bảo trợ dưới nhiều
hình thức cho doanh nghiệp nhà nước; nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn


2
thua lỗ kéo dài, làm hạn chế vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, trở thành
gánh nặng cho ngân sách
Đường lối đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã được đề ra từ Đại hội lần
thứ VI của Đảng, được tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa qua các kỳ Đại hội
Đảng lần thứ VII, VIII và IX. Trong toàn bộ tiến trình sắp xếp, đổi mới doanh
nghiệp nhà nước, có 4 nội dung cơ bản được tập trung chỉ đạo là: đổi mới cơ
chế, chính sách; sắp xếp doanh nghiệp nhà nước; tổ chức lại tổng công ty;
thực hiện thuê, khoán, bán, giải thể đối với những doanh nghiệp yếu kém kéo
dài, và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một trong những
giải pháp đổi mới doanh nghiệp nhà nước rất quan trọng, được Đảng ta lần
đầu tiên đề ra ngay từ cuối những năm 80 thế kỷ trước, được nêu rõ hơn tại

Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (khoá VII). Trong Nghị quyết Hội nghị này có
viết: chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ
phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới. Đặc biệt, các Hội
nghị Trung ương lần thứ 3 và lần thứ 9 (khoá IX) tiếp tục khẳng định: phải
đẩy mạnh cổ phần hoá những doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không
cần giữ 100% vốn; xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản
trong việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; kiên quyết đẩy nhanh
tiến độ cổ phần hoá và mở rộng diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ
phần hoá, kể cả những doanh nghiệp lớn và một số tổng công ty kinh doanh
có hiệu quả.
Sau hơn 10 năm thực hiện, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng vẫn còn nhiều mặt vướng mắc và hạn
chế cần phải giải quyết. Do đó “Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước ở nước ta” được chọn làm đề tài luận văn này.



3
2. Tình hình nghiên cứu
Vì đây là một vấn đề thời sự nên cho đến nay đã có rất nhiều công trình
đề cập đến vấn đề này. Cụ thể: Hoàng Mạnh Tường, Cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam thực trạng và giải pháp, trường Đại học
KHXH&NV, 1998; Lê Trung Tuyến, Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - lý luận và thực tiễn, trường Đại học
KHXH&NV, 1998; Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, Báo cáo
sơ kết 7 tháng đầu năm và chương trình công tác 5 tháng cuối năm 2003. Tuy
nhiên, những công trình trên thường đi vào lý luận cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước, chủ trương, chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hoặc về
quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Có rất ít công trình tổng kết
thành tựu, hạn chế và nguyên nhân vì sao cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

chậm. Luận văn này kế thừa các công trình nghiên cứu trước đây, nhưng sẽ đi
sâu vào phân tích nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong quá
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Từ đó, đề xuất những giải pháp để
đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích
Tổng quan về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đi sâu phân tích,
đánh giá thực trạng những ưu, khuyết điểm và kinh nghiệm thành công, hạn
chế của tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hơn 10 năm qua, nhất
là trong 5 năm gần đây.
* Nhiệm vụ
- Chú ý nêu những khó khăn, trở ngại và nguyên nhân cơ bản của tình
trạng yếu kém trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
- Từ thực tiễn cổ phần hoá của các bộ, ngành, địa phương doanh
nghiệp, đề xuất những kiến nghị, giải pháp đồng bộ, khả thi và hiệu quả về


4
mọi mặt cơ chế, chính sách, luật pháp, tổ chức, tư tưởng, nhận thức để đẩy
mạnh tiến trình này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu bao gồm cả những vấn đề lý luận và thực tiễn ở
tầm vĩ mô đối với cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Nhưng đề tài sẽ tập
trung chủ yếu vào việc phân tích nguyên nhân của những thành tựu và những
hạn chế của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta thời gian
qua và đề xuất giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Ở đây, các vấn đề được xem xét chủ yếu dưới góc độ khoa học kinh tế
chính trị.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử, đặc biệt là phương pháp logic-lịch sử, phân tích
tổng hợp và thống kê.
Trong phần khảo sát, nghiên cứu thực tế, luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu thực chứng, qui nạp.
6. Những đóng góp của luận văn
- Đã điểm lại tiến trình hoàn thiện quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và việc thể chế hoá chủ trương
này thành các quy phạm pháp luật ngày càng đầy đủ, đồng bộ phù hợp với
tình hình thực tiễn ở nước ta.
- Đã điểm lại tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước từ năm 1992
đến năm 2005, nêu lên những thành tựu chủ yếu, những mặt hạn chế; chỉ ra
nguyên nhân của những thành tựu và những hạn chế đó.


5
- Đề xuất những phương hướng chính và những giải pháp khả thi để
đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương, bảy tiết; các tài liệu tham khảo; các công trình của tác giả đã
công bố và các văn bản pháp luật có liên quan tới sắp xếp lại doanh nghiệp
nhà nước.






















6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP CHẾ
VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở NƢỚC TA
1.1. Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc
1.1.1. Công ty cổ phần và vai trò của nó trong lịch sử
Sự phát triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và các quan hệ tín dụng đã
đưa tới sự xuất hiện công ty cổ phần vào đầu thế kỷ XVII và đến nửa sau thế
kỷ XIX đã được phát triển rộng rãi theo xu hướng từ đơn giản đến phức tạp,
từ qui mô nhỏ đến qui mô lớn, từ lĩnh vực này đến lĩnh vực khác; từ một
ngành đến nhiều ngành; từ quốc gia đến quốc tế thông qua các công ty đa
quốc gia.
Công ty cổ phần là một xí nghiệp mà vốn của nó được hình thành dưới
hình thức bán cổ phiếu. Người chủ sở hữu cổ phiếu gọi là cổ đông. Mỗi cổ
đông có cổ phần bằng tổng số cổ phiếu đã mua và được hưởng lợi tức từ các
cổ phiếu đó (hay là cổ tức).
Cổ phiếu là một loại chứng khoán có giá, số tiền ghi trên cổ phiếu là

mệnh giá hay giá trị danh nghĩa của cổ phiếu. Lợi tức cổ phiếu không cố định
mà phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty. Giá trị thị trường của cổ
phiếu lên xuống tuỳ theo cổ tức và tỷ lệ nghịch với tỷ suất lợi tức ngân hàng.
Thị trường chứng khoán là nơi mua, bán chứng khoán có giá.
Nếu giá trị danh nghĩa của một cổ phiếu là 100 Bảng Anh và cổ tức là
10% thì với một tỷ suất lợi tức ngân hàng là 5%, giá trị thị trường của cổ
phiếu sẽ tăng lên thành 200 Bảng Anh, đại biểu cho tư bản giả là 200 Bảng
Anh. Nếu cổ tức giảm xuống tình hình sẽ ngược lại. Giá trị thị trường của cổ
phiếu một phần là giá trị đầu cơ và quyết định giá trị thị trường đó là số thu
nhập (cổ tức) mà người ta mong đợi, dự đoán trước chứ không phải là cổ tức
thực [34, tr 18].


7
Về mặt tổ chức và quản lý, đại hội các cổ đông là cơ quan tối cao bầu
ra hội đồng quản trị và quyết định phương hướng kinh doanh cùng những vấn
đề quan trọng khác trong hoạt động của công ty. Phiếu biểu quyết trong đại
hội cổ đông được quy định theo số lượng cổ phiếu.
Vào những năm đầu thế kỷ XX, dưới tác động của cuộc cách mạng
công nghiệp phải xây dựng nhiều công trình kết cấu hạ tầng như: giao thông,
điện lực, khai thác mỏ… cần rất nhiều vốn vì thế mà công ty cổ phần phát
triển rất nhanh. Nhờ sự ra đời của các công ty cổ phần mà vốn được tập trung
nhanh chóng và xuất hiện những công ty lớn…
Cần phân biệt cổ phần hoá với tư nhân hoá.
Doanh nghiệp nhà nước khi chuyển thành công ty cổ phần thì đó là quá
trình xã hội hoá chứ không phải là quá trình tư nhân hoá. Cổ phiếu tức là giấy
chứng nhận góp vốn vẫn thuộc quyền sở hữu của cổ đông, còn tài sản thực tế
đã được xã hội hoá. Trong trường hợp công ty phát hành thêm trái phiếu để
huy động vốn thì người có trái phiếu công ty chỉ là chủ nợ của công ty, chứ
không phải là người đồng sở hữu công ty. Ví dụ, ngành đường sắt bán cổ

phiếu, thì người mua (cổ đông) chỉ có thể quyết định số phận của những tờ cổ
phiếu đó, họ không thể thu hồi lại phần đường sắt (giá trị thực) làm của riêng.
Trong trường hợp họ bán số cổ phiếu của họ thì chỉ là chuyển quyền sở hữu
cổ phiếu mà thôi. Dĩ nhiên, những người nắm đa số cổ phiếu có thể được
quyền tham gia Hội đồng quản trị, lãnh đạo công ty, nhưng, như C. Mác đã
nhận xét: "Trong các công ty cổ phần, chức năng tư bản tách rời quyền sở hữu
tư bản; và do đó lao động cũng vậy, nó hoàn toàn tách rời với quyền sở hữu
về tư liệu sản xuất và về lao động thặng dư. Đó là kết quả của sự phát triển
cao nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là điểm quá độ tất nhiên để tư bản
lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất, nhưng không phải với tư
cách là sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ nữa, mà với tư cách


8
là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp, thành sở hữu xã hội trực tiếp"
[35, 668].
C. Mác coi sự xuất hiện công ty cổ phần là tiền đề thủ tiêu tư bản với tư
cách là sở hữu tư nhân ở ngay trong những giới hạn của bản thân phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Các công ty cổ phần là điểm quá độ để biến tất cả
những chức năng của quá trình tái sản xuất hiện còn gắn liền với quyền sở
hữu tư bản đơn giản thành những chức năng của những người sản xuất liên
hiệp, tức là thành những chức năng xã hội, đây chính là hình thức quá độ sang
một phương thức sản xuất mới.
1.1.2. Vì sao cần cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được tiến hành ở nhiều nước, do
những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
1.1.2.1. Nâng cao hiệu quả kinh doanh
Đầu thế kỷ XX, cùng với các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật và
sự xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất đã xuất hiện những doanh nghiệp
nhà nước đóng vai trò là công cụ cho nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô.

Tuy nhiên, nhìn chung các doanh nghiệp nhà nước đều hoạt động kém hiệu
quả. Ví dụ: ở Italia, nước có tỷ trọng sở hữu nhà nước trong nền kinh tế cao
nhất thì thâm hụt của các doanh nghiệp nhà nước là 4,5% GDP. Ở Bồ Đào
Nha, khu vực kinh tế quốc doanh thua lỗ 1/3 GDP trong khoảng thời gian từ
1974 - 1986 [41]. Các nước tư bản khác cũng đều có hiện tượng tương tự.
Vì vậy, từ cuối thế kỷ XX, hầu hết các nước tư bản đều diễn ra quá
trình cổ phần hoá hoặc tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước trên qui mô
lớn với cách thức tiến hành khác nhau. Cách thức phổ biến nhất là bán đấu giá
các cổ phiếu của các doanh nghiệp cho tất cả những ai muốn mua thông qua
sở giao dịch chứng khoán. Hoặc có thể bán một phần cho cá nhân, hoặc chỉ
bán cho những người làm trong doanh nghiệp đó.


9
Ở nước Anh đã bán 40% tài sản khu vực quốc doanh trị giá hơn 20 tỷ
Bảng Anh. Ở Pháp trong thời gian hơn một năm đã thực hiện 1/3 chương
trình tư nhân hoá thu được 7 tỷ Frăng. Tây Đức trong những năm 1984 - 1987
đã thực hiện bán hoàn toàn hay một phần cổ phần khống chế của nhà nước
trong hơn 50 công ty với tổng giá trị thu được trên 5 tỷ D.M [49]
1.1.2.2. Đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trường
Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở trong đó các quan hệ
kinh tế đối nội, kinh tế đối ngoại không ngừng phát triển. Sự vận động của cơ
chế thị trường thông qua các quy luật kinh tế, như quy luật giá trị, quy luật
cung - cầu, quy luật cạnh tranh, đòi hỏi các doanh nghiệp có tính năng động
và tính tự chủ rất cao. Trong sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường, các chủ
thể sản xuất kinh doanh không thể nắm chắc quan hệ cung - cầu và các mối
quan hệ ở tầm vĩ mô của nền kinh tế, nên cần phải có sự điều tiết của Nhà
nước. Nhưng sự can thiệp thái quá của Nhà nước vào hoạt động của các
doanh nghiệp lại dẫn đến sự trì trệ. Bởi vậy, xuất hiện xu hướng nới lỏng sự
điều tiết của Nhà nước, theo phương châm: "Nhà nước ít hơn, thị trường

nhiều hơn". Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một giải pháp để tăng tính
năng động, kinh doanh và phát huy tính tích cực, tự chủ của doanh nghiệp.
Ở những nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây
thường phát triển tràn lan các doanh nghiệp nhà nước, không tính đến hiệu
quả kinh tế, khi chuyển sang kinh tế thị trường, việc cổ phần hoá những
doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn trở thành cấp thiết.
Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta được hình thành từ năm
1954 ở miền Bắc và từ 1975 ở miền Nam, phần nhiều do ý chí chủ quan của
các cơ quan Nhà nước chứ không phải do yêu cầu khách quan của trình độ
phát triển lực lượng sản xuất. Đây là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự hoạt
động kém hiệu quả của hầu hết các doanh nghiệp ấy.


10
Chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp tích cực, những thành
tựu to lớn của các doanh nghiệp nhà nước trong những năm kháng chiến,
nhưng trong thời kỳ hoà bình xây dựng, nhất là khi chuyển sang kinh tế thị
trường thì những khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp nhà nước càng
ngày càng tăng lên, nhiều doanh nghiệp đã bị phá sản. Do vậy, việc sắp xếp
lại các doanh nghiệp nhà nước là vấn đề rất lớn mà Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm, trong đó có việc cổ phần hoá một số lớn doanh nghiệp nhà
nước.
1.1.2.3. Huy động vốn từ các thành phần kinh tế
Vốn là một vấn đề rất hệ trọng đối với hoạt động của một doanh
nghiệp. Phần lớn doanh nghiệp nhà nước dựa vào ngân sách và ngân hàng để
có vốn, nhưng nguồn vốn từ ngân sách ở nước ta có hạn, nhiều doanh nghiệp
nhà nước nợ ngân hàng chưa trả được nên khó vay thêm, bởi vậy, việc chuyển
doanh nghiệp thành công ty cổ phần sẽ mở rộng thu hút nguồn vốn trong xã
hội, tăng khả năng đầu tư trang thiết bị mới cho doanh nghiệp.
1.1.2.4. Tăng cường quản lý dân chủ

Cổ phần hóa tức là chuyển sang một hình thức quản lý hiện đại hơn,
bên cạnh vai trò chi phối của nhà nước, có sự tham gia của các thành phần
khác. Trên thế giới hiện nay có 2 loại hình cổ phần hóa. Một là, doanh nghiệp
nhà nước cổ phần hóa. Hai là doanh nghiệp tư nhân cổ phần hóa. Và với hình
thức công ty cổ phần đó, tính dân chủ trong kinh doanh, trong doanh nghiệp
được tăng lên. Người công nhân cũng tham gia mua cổ phiếu nên quyền và ý
thức làm chủ của công nhân cũng được tăng lên. Tăng quyền làm chủ của
người lao động, xã hội hóa hoạt động sản xuất, kinh doanh… chính là hướng
đi tất yếu lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, Nhà nước có thể rút bớt một phần
vốn do bán bớt cổ phần của Nhà nước để đầu tư chiều sâu, cho những doanh
nghiệp mà Nhà nước tiếp tục nắm 100% vốn, nâng cao hiệu quả kinh doanh.


11
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nƣớc
Từ "cổ phần" đã rất quen thuộc với nhân dân ta từ trên 40 năm nay, kể
từ khi Đảng ta vận động nhân dân góp cổ phần vào hợp tác xã mua bán, hợp
tác xã tín dụng,… Hợp tác xã cung ứng hàng tiêu dùng và dịch vụ cho xã
viên, tiêu thụ hàng hóa cho xã viên, chia lãi theo cổ phần (dù rằng rất nhỏ).
Nhưng trước khi đổi mới, trong nhận thức và hành động Đảng ta đã
không thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng chủ trương xây dựng
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển, đề cao quá mức vai trò quan trọng của kinh tế quốc doanh, coi đó
là hình mẫu cao của kinh tế xã hội chủ nghĩa, dẫn đến xu hướng quốc doanh
hoá tràn lan nhằm đảm bảo vai trò độc tôn của quốc doanh.
Từ khi đổi mới các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp, cơ cấu lại
theo hướng chỉ tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế
quốc dân.
Đại hội VI (năm 1986) của Đảng ta đã chủ trương phát triển nhất quán

kinh tế nhiều thành phần, coi đó là đặc trưng của thời kỳ quá độ, đa dạng hoá
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, nhưng vẫn đặt vấn đề "làm cho kinh tế
quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các thành phần kinh tế khác"
[32, tr 59], "chiếm tỷ trọng lớn cả trong sản xuất và lưu thông, thể hiện được
tính ưu việt" [32, tr 61].
Đại hội VII (năm 1991) nhận định kinh tế quốc doanh đang nắm các
vị trí then chốt, gần một phần ba các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh
vươn lên trong kinh doanh và thích ứng được với cơ chế mới. Nhưng điểm
yếu nhất của kinh tế quốc doanh là hiệu quả hoạt động nhìn chung còn thấp
[32, tr 235]. Đại hội đề ra nhiệm vụ khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản
lý kinh tế quốc doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả,


12
nắm vững những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế. Cho thuê và chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ
sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên [32, tr 274]. Như vậy, Đại
hội VII vẫn chưa đề xuất vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước một
cách cụ thể.
Đến Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khóa VII
(11-1991), Đảng ta đã đi đến nhất quán chủ trương: "Chuyển một số doanh
nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số
công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh
nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp". Cũng trong thời
gian đó, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 10 (12-1991) đã đưa việc cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nước vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 1991-
1995: "thí điểm việc cổ phần hoá một số cơ sở kinh tế quốc doanh để rút kinh
nghiệm và có thêm nguồn vốn phát triển".
Như vậy, mục tiêu, đối tượng, hình thức và các chính sách cổ phần hoá
đã được xác định rõ ràng hơn. Đảng và Nhà nước khẳng định cổ phần hoá ở

Việt Nam không phải là tư nhân hóa vì cổ phần hoá hướng tới tháo gỡ khó
khăn về vốn, về cơ chế cho doanh nghiệp nhà nước hiện có, không nhằm thu
hẹp sở hữu nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Vốn thu được từ bán cổ
phần, Nhà nước không được chi dùng cho ngân sách mà để đầu tư tiếp vào
nền kinh tế. Nói cách khác, thời gian này cổ phần hoá nặng về mục tiêu thu
hút vốn và chuyển đổi mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
nhà nước hơn là thu hẹp sở hữu nhà nước. Tuy nhiên đối tượng cổ phần hoá
trong giai đoạn này vẫn còn khá hẹp, chỉ bao gồm các doanh nghiệp nhà nước
vừa và nhỏ, kinh doanh có lãi và Nhà nước không cần thiết giữ 100% vốn.
Đối tượng mua cổ phiếu chủ yếu là cán bộ công nhân viên trong doanh
nghiệp, có cho phép cổ đông trong nước ngoài doanh nghiệp nhưng mức độ


13
khuyến khích chưa cao. Nguyên tắc định giá doanh nghiệp nhà nước vẫn còn
chung chung, chủ yếu căn cứ vào kiểm kê giao vốn. Người lao động trong
doanh nghiệp cổ phần hoá được mua cổ phiếu chậm trả 12 tháng. Tiến trình
cổ phần hoá tập trung giao cho Bộ Tài chính, doanh nghiệp sau cổ phần
hoá chưa được hưởng ưu đãi đáng kể.
Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đã nêu rõ hơn
các hình thức cổ phần hóa phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất - kinh
doanh. Để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo nên động lực, ngăn chặn tiêu
cực, thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả thì sở hữu nhà
nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối. Việc bán cổ phiếu đã tiến thêm một
bước, thí điểm việc bán một phần cổ phiếu của một số doanh nghiệp nhà
nước cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp. Trên cơ sở cổ phần
hóa, tổ chức Hội đồng quản trị gồm đại diện cho sở hữu nhà nước, sở hữu của
công nhân doanh nghiệp và các chủ sở hữu khác. Định thể chế và tiêu chuẩn
để Hội đồng quản trị tuyển chọn giám đốc điều hành. Hoàn thiện và áp dụng
rộng rãi các hình thức khoán trong doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước hỗ trợ,

khuyến khích và thực hiện từng bước vững chắc, phù hợp với yêu cầu phát
triển của nền kinh tế, việc đổi mới các liên hiệp xí nghiệp, các tổng công ty
theo hướng tổ chức các tập đoàn kinh doanh, khắc phục tính chất hành chính,
trung gian. Xoá bỏ dần (có qua làm thí điểm) chế độ bộ chủ quản, cấp hành
chính chủ quản và sự phân biệt xí nghiệp trung ương và xí nghiệp địa phương
[32, tr 416].
Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta nhận thức lại không phải kinh tế
quốc doanh mà là kinh tế nhà nước (trong đó các doanh nghiệp nhà nước là
nòng cốt) mới đóng vai trò chủ đạo. Đại hội đặt ra chủ trương "triển khai
tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để huy động
thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm


14
cho tài sản nhà nước ngày càng tăng lên, không phải để tư nhân hoá. Bên
cạnh những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, sẽ có nhiều doanh nghiệp
nhà nước nắm đa số hay nắm tỷ lệ cổ phần chi phối" [32, tr 479]. Việc huy
động vốn được thực hiện bằng cách "gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho
người lao động tại doanh nghiệp, cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh
nghiệp tùy từng trường hợp cụ thể và vốn huy động được phải dùng để đầu
tư mở rộng sản xuất kinh doanh" [32, tr 479].
Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII tháng 6 năm
1997 đã xác định lại cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước là chủ
trương rất quan trọng. Song, cổ phần hoá hay xã hội hóa không đồng nghĩa
với phi nhà nước hóa và càng không phải tư hữu hóa. Phương châm cơ bản ở
đây vẫn là Nhà nước và nhân dân cùng làm. Trong đó Nhà nước có vai trò
nòng cốt, thực hiện quản lý nhà nước, tổ chức cho nhân dân và trong điều
kiện cụ thể tham gia cùng làm với dân; không làm thay dân, cũng không
khoán trắng.
Đại hội IX (năm 2001) đã đề ra mục tiêu trong 5 năm (2001 - 2005)

phải cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và
nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời phát triển
thêm doanh nghiệp mà Nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối
ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Đẩy mạnh thực
hiện chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với những doanh
nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn. Việc bán cổ phần cho các tổ
chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp được mở rộng. Thực hiện việc giao, bán,
khoán, cho thuê các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ.
Sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp không hiệu quả và không
thực hiện được các biện pháp trên [32, tr 722].


15
Trong chương trình cụ thể hóa về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, Đảng chủ trương đẩy mạnh cổ
phần hóa những doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100%
vốn, xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng
cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt, Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ Ba khoá IX đã nêu lên những định hướng quan trọng và
chỉ ra những lĩnh vực mà Nhà nước vẫn giữ 100% vốn, những lĩnh vực mà
Nhà nước phải giữ cổ phần chi phối hoặc 100% vốn, quy định chi tiết đối với
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và đối với doanh nghiệp hoạt động công
ích [37].
Hội nghị Trung ương 9 khóa IX (tháng 1 năm 2004) quyết định tiếp tục
sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà
nước, trọng tâm là cổ phần hóa mạnh hơn nữa. Về chỉ đạo, Trung ương đã
quyết định đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa và mở rộng diện các doanh nghiệp
nhà nước cần cổ phần hóa, kể cả một số công ty và doanh nghiệp lớn trong
các ngành như điện lực, luyện kim, cơ khí, hóa chất, phân bón, xi măng, xây
dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân

hàng, bảo hiểm Giá trị tài sản doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần
hóa, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất, về nguyên tắc phải do thị trường
quyết định. Việc mua bán cổ phiếu phải công khai trên thị trường, khắc phục
tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp.
Diện các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá mở rộng hơn và
thực hiện nguyên tắc thị trường trong việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước. Nhà nước chỉ giữ cổ phần chi phối đối với các tổng công ty, công ty cổ
phần hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực thiết yếu và chỉ giữ 100%
vốn nhà nước trong các doanh nghiệp hoạt động đảm bảo an ninh, quốc phòng
và một số doanh nghiệp sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích thiết yếu mà


16
chưa cổ phần hoá được. Chuyển các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang
hình thức công ty cổ phần. [29, tr 110].
Như vậy, hơn 10 năm qua, quan điểm của Đảng ta về cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước ngày càng sáng tỏ, ngày càng phù hợp hơn với sự
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tình hình thực
tiễn ở nước ta.
1.3. Các quy định của Nhà nƣớc về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nƣớc.
Những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước được thể chế hoá thành các qui phạm pháp luật và
thực thi từng bước
Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng bộ trưởng về
một số chính sách đổi mới cơ chế hạch toán kinh doanh trong các xí nghiệp
quốc doanh, ý tưởng về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã được đưa ra.
Quyết định nêu rõ: "Cần thí điểm tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước và giao cho Bộ Tài chính chủ trì". Tuy nhiên do quan điểm về cổ phần
hoá lúc này chưa định hình rõ ràng nên ý tưởng của những người đề ra chính

sách mới chỉ dừng ở mức tạo ra một cơ chế để doanh nghiệp nhà nước huy
động vốn là chính. Do đó, trong chỉ đạo thiên về hướng cho phép doanh
nghiệp nhà nước phát hành thêm cổ phiếu hoặc khuyến khích các doanh
nghiệp nhà nước hùn vốn cổ phần để hình thành công ty cổ phần mới. Tư
tưởng chung ở giai đoạn này là sở hữu nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo ngay
trong các công ty cổ phần.
Ngày 10/5/1990 Chính phủ ra Quyết định số 143/HĐBT, chủ trương
nghiên cứu và làm thử mô hình chuyển xí nghiệp quốc doanh sang công ty cổ
phần, quy định phạm vi thí điểm cổ phần hoá giới hạn trong các doanh nghiệp
nhà nước vừa và nhỏ đáp ứng được điều kiện làm ăn có lãi, đã hạch toán,


17
người lao động nhất trí và có khả năng mua cổ phiếu. Với Quyết định số
143/HĐBT, trình tự, cách thức tiến hành cổ phần hoá đã bước đầu được quy
định. Mặc dù vậy trong 2 năm tiếp theo 1991 - 1992 chưa có doanh nghiệp
nhà nước nào đăng ký cổ phần hoá. Thực tế khó khăn này buộc Đảng và Nhà
nước phải chỉ đạo sát sao hơn nữa. Cũng trong thời gian đó Quốc hội khóa
VIII, kỳ họp thứ 10 ngày 26/12/1991 đã đưa cổ phần hoá vào nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1991 - 1995: "thí điểm việc cổ phần hoá một số
cơ sở kinh tế quốc doanh để rút kinh nghiệm và có thêm nguồn vốn phát
triển". Cụ thể hóa chủ trương của Đảng và Quốc hội, Hội đồng Bộ trưởng đã
có Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 về tiếp tục thí điểm chuyển một số
doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nêu rõ quy trình cổ phần hoá
và các chính sách liên quan. Với các quy định trên: mục tiêu, bản chất đối
tượng, hình thức và các chính sách cổ phần hoá đã được xác định rõ ràng hơn.
Tuy nhiên đối tượng cổ phần hoá trong giai đoạn này vẫn còn khá hẹp, chỉ
bao gồm các doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ, kinh doanh có lãi và Nhà
nước không cần thiết giữ 100% vốn. Đối tượng mua chủ yếu là cán bộ công
nhân viên trong doanh nghiệp, có cho phép cổ đông trong nước ngoài doanh

nghiệp nhưng mức độ khuyến khích chưa cao. Nguyên tắc định giá doanh
nghiệp nhà nước vẫn còn chung chung, chủ yếu căn cứ vào kiểm kê giao vốn
theo Nghị định số 388/HĐBT.
Quyết tâm thực thi cổ phần hoá trong thực tế, Chủ tịch Hội đồng bộ
trưởng đã ra Quyết định số 203/CT ngày 8/6/1992 chọn 7 doanh nghiệp nhà
nước do Chính phủ chỉ đạo tiến hành thí điểm cổ phần hoá và giao cho mỗi
Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chọn từ 1 - 2
doanh nghiệp thí điểm chuyển thành công ty cổ phần. Tiếp đó, để định hướng
chỉ đạo cổ phần hoá gắn liền với sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 84/TTg ngày 4/3/1993 về việc xúc tiến


18
thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp đa
dạng hoá hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước. Chỉ thị đã chỉ
ra rằng: "Cổ phần hoá chưa kết hợp chặt chẽ với sắp xếp doanh nghiệp, đặc
biệt là doanh nghiệp gặp khó khăn; trong khi sắp xếp, thiên về giải thể hơn là
áp dụng hình thức đa sở hữu". Tháng 12 - 1993 Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ
4 ra Nghị quyết nêu rõ: "Đổi mới cơ bản về tổ chức và cơ chế quản lý doanh
nghiệp nhà nước, thực hiện các hình thức cổ phần hoá thích hợp với tính chất
và lĩnh vực sản xuất để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo thêm động lực, ngăn
chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả".
Như vậy, ở giai đoạn này Đảng và Nhà nước đã đi đến nhận thức và
chủ trương coi cổ phần hoá là một giải pháp căn bản không những giúp doanh
nghiệp nhà nước thu hút vốn mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước
làm ăn hiệu quả. Nhờ sự chỉ đạo kiên quyết của Đảng và Nhà nước, từ năm
1992 - 1996 cả nước đã cổ phần hoá thành công được 5 doanh nghiệp. Sau cổ
phần hoá, cả 5 doanh nghiệp này đều hoạt động tốt, các chỉ tiêu về vốn, doanh
thu, lợi nhuận và công ăn việc làm đều rất khả quan. Đây là thành công bước
đầu khẳng định niềm tin cổ phần hoá là đúng đắn và cổ vũ Đảng, Nhà nước ta

bước vào giai đoạn cổ phần hoá mở rộng một cách tự tin hơn.
Tổng kết kinh nghiệm trong giai đoạn thí điểm, tháng 5/1996 Chính
phủ ban hành Nghị định số 28/CP về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước
thành công ty cổ phần. Với Nghị định này, lần đầu tiên Nhà nước đã đưa ra
được một quy trình và hệ chính sách cổ phần hoá đồng bộ về các mặt: Mở
rộng diện cổ phần hoá ra tất cả các doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước
không cần giữ 100% vốn có phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, quy
mô vừa và nhỏ; mở rộng thêm hình thức cổ phần hoá một bộ phận doanh
nghiệp; mở rộng quyền quyết định cổ phần hoá cho bộ và địa phương (doanh
nghiệp dưới 3 tỷ đồng); thực thi chính sách ưu đãi cho không cổ phiếu đối với


19
người lao động trong doanh nghiệp đi cùng chế độ vay trả chậm để mua cổ
phiếu; giảm thuế cho doanh nghiệp sau cổ phần hoá trong 2 năm và miễn phí
chuyển tài sản, được vay vốn như doanh nghiệp nhà nước Dưới tác động của
các chính sách ưu đãi mới và chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước, cổ phần hoá
giai đoạn này có bước tiến nhanh hơn. Trong thời gian từ tháng 5/1996 đến
tháng 7/1998 nước ta đã cổ phần hoá thêm được 25 doanh nghiệp nhà nước.
Đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định một cách tương đối đồng bộ
về các chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Nghị định này
được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997. Để nhấn
mạnh hơn nữa nhiệm vụ tái cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước trong đó có cổ
phần hoá, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị 20/TTg ngày 21/4/1998 yêu cầu
các Bộ và địa phương phải tiến hành quy hoạch tổng thể, phân định rõ các
doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hoá. Đồng thời Chính phủ cũng ban hành
Nghị định số 44/1995/NĐ-CP ngày 29/6/1998 về việc chuyển doanh nghiệp
nhà nước thành công ty cổ phần thay thế Nghị định số 28/CP không còn phù
hợp với thực tiễn cổ phần hoá giai đoạn mới.
Điểm mới căn bản của Nghị định số 44/CP là đối tượng cổ phần hoá đã

được xác định cụ thể hơn trong danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước;
nhờ vậy số lượng doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hoá đã mở rộng nhiều
so với Nghị định số 28/CP; quy trình cổ phần hoá cũng rõ ràng và đơn giản
hơn; chính sách ưu đãi cho người lao động và doanh nghiệp cổ phần hoá
nhiều hơn, dễ thực hiện hơn, phù hợp với thông lệ của kinh tế thị trường hơn;
quyền quyết định cổ phần hoá của bộ, tỉnh và thành phố trực thuộc Trung
ương, tổng công ty 91 được mở rộng hơn. Chẳng hạn Nhà nước bán cổ phiếu
cho người lao động theo giá ưu đãi giảm 30% để cổ phiếu đó trở thành cổ
phiếu phổ thông lưu hành được trên thị trường chứng khoán nhằm khuyến
khích người lao động mua cổ phiếu; hoặc chế độ tự chủ của doanh nghiệp khi


20
sử dụng quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng mua cổ phiếu cho người lao động; các
doanh nghiệp sau cổ phần hoá không bị phân biệt đối xử; các cơ quan chỉ đạo
cổ phần hoá được tăng cường quyền lực hơn; phân cấp rộng hơn (doanh
nghiệp dưới 10 tỷ) cho các bộ, tổng công ty 91 và địa phương trong quyết
định cổ phần hoá Với những chỉ đạo tích cực đó, giai đoạn 1998 - 2000
được coi là giai đoạn bùng nổ của cổ phần hoá. Riêng trong nửa cuối năm
1998 và năm 1999 đã cổ phần hoá được 340 doanh nghiệp, gấp nhiều lần 7
năm trước đó [39]. Tuy nhiên trong các năm 2000, 2001 tốc độ cổ phần hoá
đã có phần chậm lại. Lý do của sự chững lại nằm ở chỗ: các doanh nghiệp nhà
nước chưa cổ phần hoá gặp khá nhiều khó khăn, trước hết là vấn đề nợ do lịch
sử để lại. Song toàn bộ cơ chế giám sát doanh nghiệp nhà nước trước kia và
hiện nay không cho phép Nhà nước có thể xử lý nhanh và minh bạch các
khoản nợ này. Nếu xử lý thiếu thận trọng các món nợ sẽ dẫn đến 2 kết cục
nguy hiểm: 1) bỏ qua sai lầm của các cá nhân và tập thể, quy về phí tái cơ cấu
chung buộc Nhà nước phải chịu và do đó vô tình khuyến khích thêm những
kẻ đang rắp tâm lợi dụng chi phí của Nhà nước để tiếp tục vụ lợi cá nhân. 2)
Gây nên sự bất bình trong xã hội và làm mất lòng tin nơi những người làm ăn

chân chính, hợp pháp. Năm 2001 doanh nghiệp nhà nước còn khoản nợ xấu
5.600 tỷ đồng. Đến năm 2003 khoản nợ đó vẫn còn tới 4.900 tỷ.
Ngoài ra còn tình trạng lao động không thích hợp với công nghệ trong
các doanh nghiệp nhà nước; trên thực tế Nhà nước chưa thiết lập được hệ
thống trợ cấp thất nghiệp; toàn bộ các văn bản pháp lý liên quan đến người
lao động trong các doanh nghiệp nhà nước chưa cho phép doanh nghiệp được
tự quyền sa thải người lao động vì lý do công nghệ, hiệu quả. Các giải pháp
hành chính như Nghị định số 16/CP ngày 18/10/2000 khuyến khích người lao
động nghỉ hưu sớm và Quỹ hỗ trợ cổ phần hoá không giải quyết được căn bản
tình trạng lao động vừa thừa vừa thiếu của doanh nghiệp nhà nước, đôi khi


21
còn ngược lại, cho phép người giỏi ra đi, giữ người không làm việc được ở
lại.
Tình trạng không rõ ràng về tài sản của doanh nghiệp nhà nước cũng là
một vấn đề cần tháo gỡ. Sau nhiều cuộc sáp nhập, thay đổi chế độ quản lý tài
chính, rốt cuộc cho đến nay vẫn rất khó xác định đúng giá trị của nhiều doanh
nghiệp. Qui định của Nhà nước trong lĩnh vực này còn nhiều điểm chưa rõ
ràng. Bộ Tài chính, cơ quan chịu trách nhiệm kiểm soát việc bảo tồn vốn nhà
nước, chưa có quyền cho phép doanh nghiệp nhà nước được định giá theo cơ
chế thị trường (đấu giá, hoặc xác định qua tổ chức định giá), nhưng lại phải
chịu trách nhiệm rất lớn về việc không được làm thất thoát vốn nhà nước qua
cổ phần hoá. Thế nào là thất thoát vốn cũng chưa được quy định rõ ràng. Cán
bộ Bộ Tài chính hiểu đơn giản rằng không thất thoát tức là định giá doanh
nghiệp nhà nước phải không được thấp hơn giá trị sổ sách kế toán. Đây là
cách hiểu cứng nhắc, nó chỉ cho phép cán bộ tài chính tự bảo vệ được mình,
còn giá trị doanh nghiệp nhà nước thì được xác định nhiều khi không đúng
thực chất. Nghị định số 44/CP dù đã cụ thể hơn Quyết định số 28/CP về định
giá doanh nghiệp nhà nước nhưng vẫn không thể giải quyết được các vấn đề:

giá cả của lợi thế; giá cả của quyền sử dụng đất; xử lý tài sản không cần sử
dụng Cho đến nay trong việc xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước vẫn
còn nhiều điểm bất đồng giữa những người thực hiện cổ phần hoá và gây nghi
ngờ cho dân chúng. Nếu không tháo gỡ được vấn đề này thì cổ phần hoá sẽ
khó tiến triển đúng kế hoạch.
Do gặp phải một số khó khăn không dễ hóa giải như thế nên tiến trình
cổ phần hoá thực tế chưa năm nào hoàn thành kế hoạch được giao. Cụ thể hóa
hơn nữa tinh thần của Đại hội IX, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có
Hội nghị chuyên đề về doanh nghiệp nhà nước trong đó Đảng ta vạch ra
những định hướng chỉ đạo sau đây:


22
- Mục tiêu cổ phần hoá là nhằm tạo ra mô hình tổ chức sản xuất hiệu
quả, đó là các công ty cổ phần với các lợi thế của nó.
- Mở rộng tối đa đối tượng cổ phần hoá, chỉ giữ lại các doanh nghiệp
100% vốn nhà nước ở các lĩnh vực thật cần thiết.
- Thiết kế chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp cổ phần hoá và người
lao động hợp lý hơn.
- Định giá doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc thị trường.
Cụ thể hóa định hướng, chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 64/2002/NĐ-CP (ngày 19/6/2002) về cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước thay thế Nghị định số 44/1998/NĐ-CP. Nét mới của Nghị định số
64/2002/NĐ-CP là khuyến khích mở rộng bán cổ phiếu cho cổ đông ngoài
doanh nghiệp, loại bỏ mức khống chế cổ phiếu do cán bộ quản lý doanh
nghiệp mua, nới rộng chính sách ưu đãi cho người lao động và doanh nghiệp
cổ phần hoá hơn nữa.
Song, tác động tích cực của Nghị định số 64/2002/NĐ-CP không được
như mong đợi. Tốc độ cổ phần hoá nửa cuối năm 2002 và năm 2003 có được
đẩy nhanh lên chút ít nhưng còn thấp hơn kế hoạch khá nhiều.

Nhằm tăng sức ép đẩy nhanh cổ phần hoá, ngày 13/5/2004 Thủ tướng
Chính phủ đã ra Quyết định số 84/2004/QĐ-TTg về thí điểm cổ phần hoá 3
tổng công ty lớn (Tổng Công ty Thương mại - Xây dựng, Tổng công ty Điện
tử và Tin học và Tổng công ty Xuất nhập khẩu xây dựng VINACONEX) và
ngày 16/11/2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định 187/2004/NĐ-CP về việc
chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần thay thế Nghị định số
64/2002/NĐ-CP với những thay đổi quan trọng về cơ chế nhằm tháo gỡ được
những vướng mắc của doanh nghiệp, qua đó sẽ thúc đẩy nhanh tiến trình cổ
phần hóa.


23
Vấn đề thay đổi đầu tiên, đó là mở rộng diện cổ phần hoá theo tinh thần
của Nghị quyết Trung ương 9 khoá IX [51]. Nếu như Nghị định trước đây chỉ
quy định đối tượng doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá là các
doanh nghiệp độc lập và bộ phận doanh nghiệp (nhỏ) thì trong nghị định mới
này, bổ sung thêm diện cổ phần hoá là các tổng công ty Nhà nước, kể cả ngân
hàng thương mại Nhà nước và các tổ chức tài chính Nhà nước. Nghị định
cũng quy định nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan chủ quản như
Uỷ ban nhân dân, tổng công ty trong xử lý những vấn đề tồn đọng của doanh
nghiệp.
Trong Nghị định mới này, phương thức xác định giá trị doanh nghiệp
đã được đổi mới theo hướng tính đúng, chính xác, minh bạch và nhanh chóng.
Doanh nghiệp cổ phần hoá có tổng giá trị tài sản theo sổ kế toán từ 30 tỷ đồng
trở lên thì việc xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá thực hiện thông qua
các tổ chức có chức năng định giá như: các công ty kiểm toán, công ty chứng
khoán, tổ chức thẩm định giá, ngân hàng đầu tư trong nước và ngoài nước có
năng lực định giá. Trường hợp nếu doanh nghiệp lựa chọn các tổ chức định
giá nước ngoài chưa hoạt động tại Việt Nam, phải được sự thỏa thuận của Bộ
Tài chính. Với doanh nghiệp cổ phần hoá có tổng giá trị tài sản theo sổ kế

toán dưới 30 tỷ đồng thì không nhất thiết phải thuê tổ chức định giá. Trường
hợp không thuê tổ chức định giá thì doanh nghiệp sẽ tự xác định giá trị doanh
nghiệp và báo cáo về cơ quan có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp.
Thay vì chỉ áp dụng một phương pháp duy nhất để xác định giá trị
doanh nghiệp là phương pháp tài sản như trước đây, trong Nghị định
187/2004/NĐ-CP, đã quy định kết hợp thực hiện xác định giá trị doanh
nghiệp bằng 3 phương pháp cơ bản:
- Phương pháp tài sản ròng, trong đó định giá doanh nghiệp dựa vào
việc xác định giá trị các tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh


24
nghiệp, với sự bổ sung các chuẩn mực trong việc xác định chất lượng tài sản,
giá cả tài sản và giá trị lợi thế kinh doanh.
- Phương pháp chiết khấu dòng tiền, việc định giá doanh nghiệp căn cứ
vào khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong quá khứ và trong tương lai để
xác định giá trị doanh nghiệp.
- Phương pháp đấu giá bán doanh nghiệp và đấu giá bán cổ phần của
doanh nghiệp dựa vào sự tính toán của các nhà đầu tư và quan hệ cung - cầu
trên thị trường để xác định giá trị đúng của doanh nghiệp.
Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp theo các nguyên tắc trên sẽ được
báo cáo về các bộ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố để thẩm tra, ra quyết
định công bố giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Các trường hợp giá trị doanh
nghiệp được xác định thấp hơn sổ sách từ 500 triệu đồng trở lên thì phải thoả
thuận với Bộ trưởng Bộ Tài chính trước khi quyết định.
Những điểm sửa đổi, bổ sung về cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp
trong Nghị định số 187/2004/NĐ-CP phù hợp hơn với yêu cầu mới.
Cụ thể, quy định về xử lý và xác định giá trị tài sản là giá trị quyền sử
dụng đất của doanh nghiệp cho phù hợp với quy định của Luật Đất đai mới
ban hành năm 2003. Đối với diện tích đất doanh nghiệp cổ phần hoá đang sử

dụng làm mặt bằng xây dựng trụ sở, văn phòng giao dịch; xây dựng cơ sở sản
xuất kinh doanh; đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ
sản, làm muối (kể cả đất đã được Nhà nước giao có thu hoặc không thu tiền
sử dụng đất) thì doanh nghiệp cổ phần hoá được quyền lựa chọn thuê đất hoặc
giao đất theo quy định của Luật Đất đai.
Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hoá lựa chọn thuê đất thì không tính
giá trị đất vào giá trị doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hoá
thực hiện hình thức giao đất thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị
doanh nghiệp cổ phần hoá. Giá trị quyền sử dụng đất tính vào giá trị doanh

×