Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở tỉnh Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 131 trang )

Đại học quốc gia hà nội
Tr-ờng đại học kinh tế



D-ơng Thị Miên




Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
ở Tỉnh h-ng yên

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 603101


Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Thanh






Hà Nội 2009

119
Mục lục
Trang phụ bìa


Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục bảng biểu
Mở đầu
Ch-ơng 1 Một số vấn đề lý luậ n và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn 1
1.1. Cơ cấu kinh tế nông thôn 1
1.1.1. Cơ cấu kinh tế 1
1.1.2.Cơ cấu kinh tế nông thôn 9
1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn 10
1.2.1. Khái niệm 10
1.2.2. Yêu cầu khách quan của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
ở n-ớc ta 12
1.2.3. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn 15
1.2.4. Các chỉ tiêu phản ánh và nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn 21
1.3. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn của một số tỉnh 29
1.3.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở Phú Thọ 29
1.3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở Vĩnh Phúc 32
1.3.3. Một số bài học rút ra cho quá trình chuyển dịch kinh tế nông thôn ở tỉnh
H-ng Yên 35
Ch-ơng 2 Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở tỉnh
H-ng Yên 38
2.1. Những nhân tố ảnh h-ởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh
H-ng Yên 38
2.1.1. Vị trí địa lý 38

120
2.1.2. Dân số và nguồn nhân lực 40
2.1.3. Điều kiện xã hội 40

2.1.4. Điều kiện kinh tế 42
2.2. Tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở tỉnh H-ng Yên giai
đoạn 1997-2008 45
2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu GDP theo ngành 45
2.2.2. Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động 61
2.2.3. Phát triển thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, cơ giới hoá và áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn 62
2.2.4. Công nghiệp chế biến nông sản 67
2.2.5. Tiểu thủ công nghiệp 69
2.2.6. Phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hoá; xây dựng đời sống văn hoá xã
hội và phát triển nguồn nhân lực 73
2.3. Đánh giá chung về thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn tỉnh
H-ng Yên giai đoạn 1997-2008. 75
2.3.1. Những kết quả đạt đ-ợc 75
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 79
Ch-ơng 3. Quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn ở tỉnh H-ng Yên trong thời gian tới 83
3.1. Bối cảnh quốc tế, trong n-ớc và của tỉnh 83
3.1.1 Bối cảnh quốc tế 83
3.1.2. Bối cảnh trong n-ớc và của tỉnh 85
3.2.1. Quan điểm 89
3.2.2. Mục tiêu 90
3.2.3. Những giải pháp cơ bản thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn ở tỉnh H-ng Yên 93
Kết luận và kiến nghị 113
Tài liệu tham khảo 116



1

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬ N VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN
1.1. Cơ cấu kinh tế nông thôn
1.1.1. Cơ cấu kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã thúc đẩy phân công lao động xã
hội. Các ngành, lĩnh vực được phân chia theo tính chất sản phẩm, chuyên môn
kỹ thuật. Khi các ngành, các lĩnh vực kinh tế được hình thành, nó đòi hỏi phải
giả quyết mối quan hệ giữa chúng với nhau. Mối quan hệ đó vừa thể hiện sự
hợp tác, hỗ trợ nhau, song cũng cạnh tranh với nhau để phát triển. Sự phân
công và mối quan hệ hợp tác trong hệ thống nhất là tiền đề trong quá trình
hình thành cơ cấu kinh tế.
“Cơ cấu” là một phạm trù triết học phản ánh cấu trúc bên trong của một
đối tượng. Khi nghiên cứu cơ cấu của một đối tượng nào đó, chúng ta thường
tiếp cận đến tập hợp những mối quan hệ cơ bản và tỷ lệ giữa các bộ phận hợp
thành của một hệ thống trong một thời gian nhất định. Như vậy, cơ cấu không
chỉ là những biểu hiện tỷ lệ bằng số đơn thuần giữa các bộ phận hợp thành, mà
còn thể hiện mối quan hệ biện chứng, mối liên kết hữu cơ giữa các yếu tố, các
bộ phận hợp thành của một chỉnh thể, hay nói cách khác, cơ cấu là thuộc tính
của một hệ thống. Bởi vậy, khi nghiên cứu về cơ cấu của một đối tượng nào
đó không thể không có cách tiếp cận hệ thống đối với nó.
Theo cách tiếp cận như vậy, có thể nói, cơ cấu của nền kinh tế quốc
dân (trên phương diện cơ cấu của ngành kinh tế vĩ mô) là tổng thể những mối
quan hệ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế, như các lĩnh vực sản xuất,
phân phối, lưu thông, tiêu dùng…, các ngành kinh tế (công nghiệp, nông


2
nghiệp, dịch vụ,…), các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế… Đó là những

yếu tố, những bộ phận hợp thành một chỉnh thể - nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, “cơ cấu kinh tế” là một khái niệm rộng và quá trình hình
thành, phát triển của nó chính là quá trình thực tế ra đời và xác lập của một
phương thức sản xuất. Chính toàn bộ những quan hệ giữa những người đảm
nhiệm sản xuất với nhau và giữa họ với tự nhiên – tức là những điều kiện
trong đó họ tiến hành sản xuất - toàn bộ những quan hệ đó hợp thành những
quan hệ xã hội, xét về mặt cơ cấu kinh tế của nó.
Xét theo lý luận kinh tế chính trị, cơ cấu kinh tế gồm hai mặt hợp thành
là hệ thống quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Khi phân tích quá trình
sản xuất động xã hội, học thuyết của C. Mác cũng nhấn mạnh, cơ cấu kinh tế
của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với một quá trình phát
triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất, đó là tính thống nhất giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong khái niệm cơ cấu kinh tế, là kết
quả của sự phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Cơ cấu kinh tế còn thể hiện trên cả hai mặt: chất lượng và số lượng. Cơ
cấu là một sự phân chia về chất lượng và một tỷ lệ về số lượng của những quá
trình sản xuất xã hội.
Tựu trung, có thể hiểu, cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế, là tổng
thể các mối quan hệ lao động và phát triển kỹ thuật một cách mạnh mẽ làm
thay đổi toàn bộ hay phần lớn về chất lượng cũng như số lượng tương đối ổn
định của các yếu tố kinh tế hoặc các bộ phận của lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất trong một hệ thống tái sản xuất xã hội, với những điều kiện kinh tế
xã hội nhất định, vào một khoảng thời gian nhất định.
1.1.1.2. Phân loại cơ cấu kinh tế


3
Để quan sát sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế, nhất thiết phải nghiên
cứu làm rõ các loại hình cơ cấu kinh tế. Từ góc độ nhìn nhận của quá trình

phân công lao động xã hội và tái sản xuất xã hội, có thể phân chia cơ cấu kinh
tế theo các loại cơ cấu khác nhau. Các loại cơ cấu đều biểu hiện tính chất, đặc
trưng chủ yếu của chúng, cụ thể gồm: cơ cấu kinh tế ngành, xét theo góc độ
phân công lao động xã hội theo ngành; cơ cấu kinh tế lãnh thổ, xét theo góc độ
phân công lao động theo vùng lãnh thổ; cơ cấu thành phần kinh tế, xét theo
góc độ quan hệ sở hữu; cơ cấu kinh tế kỹ thuật, xét theo góc độ trình độ khoa
học, công nghệ
Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp ngành kinh tế được hình thành trên các
tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ tổng hợp giữa các ngành với nhau và
phản ánh trình độ phân công lao động xã hội của nền kinh tế và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Cơ cấu ngành kinh tế quyết định cơ cấu lãnh thổ
và cơ cấu thành phần kinh tế. Cơ cấu lãnh thổ là sự hợp lý hoá cơ cấu ngành
trên mỗi vùng lãnh thổ, kết hợp giữa chúng một cách tối ưu, cơ cấu thành
phần kinh tế là sự vận động của từng loại thành phần kinh tế trong quá trình
phát triển các ngành và các vùng lãnh thổ nhằm phát huy đến mức cao nhất
sức mạnh kinh tế của từng vùng và toàn bộ nền kinh tế. Việc nghiên cứu cơ
cấu ngành kinh tế là nhằm tìm ra những cách thức duy trì tỷ lệ hợp lý của
chúng và những lĩnh vực cần ưu tiên tập trung các nguồn lực có hạn của quốc
gia trong mỗi thời kỳ, thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân
một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Biểu thị cơ cấu ngành kinh tế bằng vị trí, tỷ trọng của mỗi ngành trong
hệ thống nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành kinh tế là biểu hiện quan trọng
nhất và đặc trưng nhất của cơ cấu kinh tế


4
Để xem xét số lượng các ngành tạo nên nền kinh tế và chất lượng các
mối quan hệ giữa chúng với nhau ra sao, người ta thường chia nền kinh tế
thành các nhóm ngành để quan sát. Về mặt định lượng, cơ cấu ngành kinh tế

bao gồm số ngành kinh tế và tỷ trọng mỗi ngành đó trong tổng thể nền kinh tế
quốc dân; về mặt định tính, cơ cấu ngành thể hiện mối quan hệ giữa các ngành
kinh tế và vị trí của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân.
Cơ cấu theo ba nhóm ngành lớn: nhóm ngành nông lâm ngư nghiệp gồm
các ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và ngư nghiệp; nhóm ngành công
nghiệp, xây dựng gồm các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp khai
thác, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, công nghiệp lọc dầu;
nhóm ngành dịch vụ gồm các ngành thương mại, du lịch, giao thông vận tải,
tài chính ngân hàng, bưu điện và các ngành dịch vụ khác.
Việc phân tích cơ cấu của nền kinh tế theo các khu vực dựa trên cơ sở
phân công lao động xã hội, tuy nhiên vẫn chưa thể thấy rõ những hạt nhân cần
có của chính cơ cấu. Không phải khi nào tỷ trọng công nghiệp cao cũng nói
lên cơ cấu kinh tế hiện đại hoặc cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Chẳng hạn, khi tỷ
trọng công nghiệp chiếm trong GDP lớn và tỷ lệ nông, lâm, thuỷ sản qua chế
biến tuy cao nhưng năng suất lao động thấp, ngân sách thu được ít, để tạo ra
một đơn vị GDP cần mức tiêu hao điện năng lớn thì cơ cấu kinh tế đó không
hiệu quả.
Cơ cấu theo hai nhóm ngành dựa trên phương thức, công nghệ sản xuất:
Nông nghiệp và phi nông nghiệp. Việc phân chia cơ cấu kinh tế thành hai nhóm
ngành này để quan sát trình độ của cơ cấu, yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế. Khi phân tích theo hai nhóm ngành này, chúng ta cần quan
sát phương thức, công nghệ tạo ra sản phẩm. Khi nhóm ngành phi nông nghiệp
càng phát triển và chiếm tỷ trọng càng lớn thì nền kinh tế càng phát triển ở trình
độ cao. Nhóm ngành nông nghiệp gồm các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp,


5
ngư nghiệp; nhóm ngành phi nông nghiệp gồm các ngành công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ. Đối với các nước đang phát triển thì việc xem xét cơ cấu kinh
tế theo kiểu này có ý nghĩa to lớn. Việc chuyển dân cư nông thôn sang sống tại

các đô thị và chuyển lao động nông nghiệp sang làm việc trong các khu vực phi
nông nghiệp là vấn đề có tính quy luật tiến tới sự hiện đại; sự chuyển động này
đến một mức độ nào đó thì nền kinh tế được coi là đã phát triển. ở các nước
đang phát triển các ngành nông nghiệp thường chiếm tỷ trọng lớn trong nền
kinh tế; khi đó công nghệ của nền kinh tế không cao.
Để xác định một quốc gia đã thuộc vào nhóm các nước phát triển hay
chưa, chúng ta cần dựa trên kết quả phân tích cơ cấu giữa các nhóm ngành
nông nghiệp và phi nông nghiệp. Theo nhiều nhà kinh tế, một nước khi các
ngành phi nông nghiệp chiếm trên 85% lao động xã hội và tạo ra khoảng trên
80% GDP thì nước đó được coi là quốc gia phát triển.
Cơ cấu theo hai nhóm ngành dựa vào tính chất sản phẩm cuối cùng:
Nhóm ngành sản xuất sản phẩm vật chất và nhóm ngành sản xuất sản phẩm
dịch vụ. Việc phân chia cơ cấu kinh tế theo hai nhóm ngành này nhằm nghiên
cứu về mức độ hài hoà giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế không thể không quan sát quan
hệ giữa hai khối ngành này. Dịch vụ phát triển được coi như làm "trơn tru" các
quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu khu vực sản xuất phát triển mà khu vực
dịch vụ không phát triển thì sản xuất cũng sẽ bị ngưng trệ. Sự hài hoà giữa hai
khối ngành này là rất cần thiết. Đặc trưng tiêu biểu nhất là các ngành dịch vụ
phải tăng nhanh hơn các ngành sản xuất vật chất.
Khi xem xét cơ cấu ngành kinh tế, chúng ta cũng phải chú ý đến tỷ trọng
hay mức đóng góp của các sản phẩm chủ lực cho nền kinh tế, cũng như của
các sản phẩm chứa hàm lượng công nghệ cao, hàm lượng chất xám cao. Nếu
như các sản phẩm này chiếm tỷ trọng càng lớn thì nền kinh tế càng tốt và


6
ngược lại. Một nền kinh tế được xem là phát triển phải có các ngành chế tác
chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (trên 30%). Mặt khác, phải chú ý đến cơ cấu nội
bộ của các ngành kinh tế. Tính hợp lý trong nội bộ của các ngành và cơ cấu

ngành kinh tế sẽ bảo đảm tính hiệu quả cho sự phát triển nền kinh tế.
Cơ cấu giữa hai nhóm ngành sản xuất vật chất và khối sản xuất sản
phẩm dịch vụ cần được nghiên cứu kỹ nhằm phát huy toàn diện, đầy đủ quan
hệ giữa chúng làm cho nền kinh tế có sức mạnh tổng hợp, phát triển cân đối,
hài hoà giữa các mặt, giữa đầu vào và đầu ra.
Cơ cấu kinh tế lãnh thổ
Việc phân loại cơ cấu của nền kinh tế theo lãnh thổ là để xem có bao
nhiêu lãnh thổ tạo nên cấu trúc lãnh thổ của nền kinh tế và các lãnh thổ liên
kết với nhau ra sao, lãnh thổ nào có ý nghĩa động lực. Các xí nghiệp được "sắp
xếp" theo lãnh thổ và chúng gắn với nhau tạo nên sức mạnh kinh tế của mỗi
lãnh thổ. ở đâu có những xí nghiệp quan trọng, có ý nghĩa then chốt, đột phá
thì ở nơi đó hay lãnh thổ đó có vai trò động lực.
Cơ cấu kinh tế lãnh thổ là kết quả của phân công lao động xã hội theo
lãnh thổ. Nếu cơ cấu ngành kinh tế được hình thành từ quá trình thực hiện
chuyên môn hoá sản xuất thì cơ cấu lãnh thổ hình thành từ việc phân bố sản
xuất theo không gian địa lý. Cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu ngành kinh tế là hai
mặt của cơ cấu kinh tế. Bản chất của chúng đều là kết quả của sự phân công
lao động xã hội. Cơ cấu lãnh thổ hình thành đồng thời với cơ cấu ngành và
thống nhất trong vùng kinh tế. Trong một vùng cụ thể, cơ cấu lãnh thổ phản
ánh sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong điều kiện lãnh thổ đó.
Chúng ta phải chia lãnh thổ thành những vùng có quy mô lớn để hoạch
định chiến lược, chính sách phát triển. Các vùng lớn đó có ý nghĩa như những
khung sườn để các địa phương nằm trong đó làm căn cứ hoạch định chính
sách phát triển cho địa phương mình.


7
Như vậy, chúng ta cần phải xem xét cơ cấu lãnh thổ dưới các góc độ: (i)
cơ cấu giữa lãnh thổ phát triển và lãnh thổ chậm phát triển; (ii) cơ cấu giữa các
lãnh thổ động lực và các lãnh thổ còn lại. Đây là các dạng cơ cấu lãnh thổ cần

được phân tích để có được chính sách phát triển hài hoà giữa các vùng lãnh
thổ. Do nhiều nguyên nhân khác nhau đã dẫn đến sự chênh lệch về trình độ
phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng. Trình độ phát triển của các vùng
được thể hiện bằng một trong những chỉ tiêu tổng hợp là GDP bình quân đầu
người.
Một cơ cấu lãnh thổ được coi là hợp lý phải đạt được ba nhóm mục tiêu:
(i) đạt được những mục tiêu toàn vùng: phải hoàn thành những nhiệm vụ kinh
tế quốc dân, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên và các nguồn
lực khác có trong vùng, hoàn thiện cơ cấu kinh tế của vùng để phát triển tối ưu
kinh tế vùng trước mắt cũng như trong lâu dài, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật,
những điều kiện kinh tế - xã hội khác cho việc phát triển nhanh chóng kinh tế,
nâng cao đời sống của nhân dân trong vùng, bảo vệ môi trường; (ii) đạt được
những mục tiêu của ngành: hoàn thành nhiệm vụ sản xuất những sản phẩm
chủ yếu, đáp ứng nhu cầu của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, giảm đến mức
thấp nhất chi phí sản xuất, phối hợp hài hoà với các bộ phận khác trong và
ngoài ngành nằm ở các vùng khác; (iii) đạt được những mục tiêu của nền kinh
tế cả nước: thể hiện đúng chiến lược phát triển quốc gia.
Do các nguồn tài nguyên thiên nhiên, lao động, kết cấu hạ tầng của
mỗi quốc gia không được phân bố đồng đều nên có những vùng có nhiều điều
kiện thuận lợi hơn cho phát triển so với các vùng khác; việc đầu tư phân tán
cho các vùng sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế cao. Trước thực tế đó, nhiều
quốc gia đã lựa chọn phương thức đầu tư tập trung cho các vùng có nhiều
thuận lợi hơn, các vùng vốn đã có sự phát triển hơn so với các vùng lãnh thổ
khác để tạo điều kiện cho các vùng này phát triển nhanh hơn, mạnh hơn và trở


8
thành những trọng điểm phát triển, những đầu tàu tạo gia tốc phát triển chung
cho toàn bộ nền kinh tế. Với lý do đó, nhiều học giả cho rằng chính sách đầu
tư có trọng điểm theo lãnh thổ luôn góp phần quan trọng trong chiến lược phát

triển cơ cấu lãnh thổ của nền kinh tế.
Nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia như Trung Quốc, Hàn
Quốc, Malaysia, Thái Lan cho thấy, các quốc gia này thường lấy các vùng có
lợi thế so sánh để tập trung đầu tư, lập các trọng điểm công nghiệp như khu
công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao, khu chế xuất, khu mậu dịch tư do,
khu công nghiệp cảng, nhằm tạo hướng đột phá trong phát triển lãnh thổ để
từ đó có sức lan toả phát triển các lãnh thổ khác (những lợi thế so sánh của
vùng bao gồm: vị trí gần đường giao thông, ven biển, gần các đô thị (hoặc
ngay chính các đô thị đó), có điều kiện phát triển và mở rộng giao lưu kinh tế
với bên trong và bên ngoài, có khả năng tiếp cận và hoà nhập nhanh chóng
vào các thị trường hàng hoá, dịch vụ.
Các nghiên cứu gần đây đã khẳng định phát triển kinh tế có trọng điểm
theo lãnh thổ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá là hướng đi đúng,
phù hợp với hoàn cảnh của nhiều nước đang phát triển.
Cơ cấu thành phần kinh tế
Việc phân loại cơ cấu của nền kinh tế theo thành phần kinh tế là để xem
có bao nhiêu loại hình kinh tế tồn tại, phát triển trong hệ thống kinh tế dưới
góc độ sở hữu; trong đó loại hình kinh tế nào có ý nghĩa quyết định đối với
nền kinh tế. Các thành phần kinh tế ở nước ta là kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài).
Khi coi phân công lao động xã hội là cơ sở hình thành cơ cấu ngành, cơ
cấu lãnh thổ, thì chế độ sở hữu lại là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh
tế. Một cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý phải dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức


9
tinh tế với chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất, sự phân công lao động xã hội và quan hệ sản xuất làm biến đổi các
hiện tượng và quá trình kinh tế của từng vùng cũng như trên phạm vi cả nước.

Cơ cấu thành phần kinh tế cũng là nhân tố tác động đến cơ cấu ngành
kinh tế và cơ cấu lãnh thổ. Sự tác động đó là một biểu hiện sinh động của mối
quan hệ hữu cơ giữa các loại cơ cấu trong nền kinh tế. Trong đó, cơ cấu ngành
kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả. Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ
có thể được chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ và trên
phạm vi cả nước. Mặt khác, việc phân bố không gian lãnh thổ một cách hợp lý
có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần kinh tế trên
từng lãnh thổ nói riêng và cả nước nói chung.
Trong quá trình phát triển kinh tế chắc chắn sẽ tồn tại và phát triển các
hình thức sở hữu đối với của cải và tài sản xã hội. Mọi hoạt động kinh tế và
kết quả của nó đều có chủ. Sự phân định cơ cấu loại hình kinh tế có sự khác
biệt theo ngành. Các loại hình kinh tế liên kết chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau
cùng phát triển, tạo ra những điều kiện tốt nhất để giải phóng triệt để sức sản
xuất của đất nước.
1.1.2.Cơ cấu kinh tế nông thôn
Cơ cấu kinh tế nông thôn là một tổng thể các mối quan hệ kinh tế
trong khu vực nông thôn, nó có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau theo
những tỷ lệ nhất địnhvề mặt lượng và liên quan chặt chẽ về chất; chúng tác
động qua lại lẫn nhau trong không gian và thời gian nhất định, phù hợp với
những điều kiện kinh tế – xã hội nhất định, tạo ra một hệ thống kinh tế ở
khu vực nông thôn thống nhất trong toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia.
Cơ cấu kinh tế nông thôn là một phức hợp của những nhân tố cấu
thành của một lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong nông - lâm -


10
ngư nghiệp, cùng với các ngành thủ công truyền thống, các ngành tiểu thủ
công nghiệp, công nghiệp chế biến và phục vụ nông nghiệp, các ngành
thương nghiệp và dịch vụ. Tất cả có quan hệ hữu cơ với nhau trong kinh tế
vùng và lãnh thổ trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Cơ cấu kinh tế nông thôn được hình thành do khách quan, phát triển
lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hộ, mang tính lịch sử và xã
hội nhất định. Không ngừng vận động, biến đổi, phát triển theo hướng ngày
càng hợp lý, hoàn thiện và có hiệu quả. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông thôn là quá trình lâu dài, không nóng vội hoặc đốt cháy giai đoạn.
Song không thể ngồi chờ, nó có tính quy luật kinh tế tự nhiên và xã hội
nghiêm ngặt, con người phải định hướng và tac động tích cực để sự chuyển
dịch ra đời một cơ cấu kinh tế nông thôn đúng quy luật khách quan và đem
lại hiệu quả kinh tế, chính trị, xã hội tốt nhất cho con người.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
1.2.1. Khái niệm
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng hợp lý
theo con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá là làm biến đổi cơ bản, toàn
diện kinh tế –xã hội về cả nội dung lẫn hình thức tổ chức sản xuất, cả quy
hoạch tổ chức sản xuất, quy hoạch đồng ruộng, quy hoạch nông thôn, lẫn đời
sống nhân dân.
Mục tiêu của quá trình này gồm các vấn đề: từ chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi, cơ cấu mùa vụ ngoài đồng, nhằm xoá đói giảm
nghèo, công bằng xã hội, đô thị hoá nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá gắn liền
với việc hợp tác hoá và phát triển nông nghiệp chế biến hàng nông sản. trên cơ
sở thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa
học - kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất


11
lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp phù hợp với đặc điểm của
từng vùng, từng địa phương. Cùng với sự phát triển công nghiệp và thủ công
nghiệp, các hình thức dịch vụ như thương mại, tín dụng, kỹ thuật nông nghiệp,
vận tải, thông tin, văn hoá, giải trí…được phát triển rộng rãi ở nhiều vùng

nông thôn.
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta đang
chuyển dịch theo hướng tích cực: giảm tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp,
tăng tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Trong khi sản xuất nông
nghiệp, lâm ngư nghiệp vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và khá ổn
định trong nhiều năm, thì việc phục hồi làng nghề thủ công truyền thống, phát
triển làng nghề mới, phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt là công nghiệp
chế biến gắn với vùng nguyên liệu, cũng được chú trọng đầu tư phát triển.
Trong quá trình này đã xuất hiện những mô hình tổ chức là mầm mống của xu
hướng phát triển trong tương lai của nông thôn. đó là việc hình thành và phát
triển các cụm công nghiệp nhỏ ở các làng nghề truyền thống ở ngoại thành Hà
Nội, ở Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng Yên,…Sự phát triển này được coi là phù
hợp với xu thế khách quan của phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp ở
nông thôn, không những giải quyết khó khăn về mặt bằng sản xuất, khắc phục
tình trạng ô nhiễm môi trường, mà còn phù hợp với yêu cầu đô thị hoá nông
thôn một cách khoa học, tạo thuận lợi cho việc mở rộng giao lưu hàng
hoá…Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều doanh nghiệp công
nghiệp với trình độ trang bị hiện đại thuộc các ngành, các thành phần kinh tế
được xây dựng ở nông thôn. Sự phát triển các ngành phi nông nghiệp ở nông
thôn (thủ công nghiệp, xây dựng, thương mại và các hoạt động dịch vụ khác)
đã góp phần chuyển một phần lao động nông nghiệp có thu nhập thấp sang
phát triển các ngành nghề có thu nhập cao hơn, giải quyết thêm việc làm và


12
dần dần thay đổi bộ mặt ở một số vùng nông thôn. Cơ cấu nông thôn theo
ngành sản xuất chính đang có những thay đổi theo chiều hướng tích cực.
Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở nước ta cũng bộc
lộ nhiều khiếm khuyết, bất cập. Đó là:
- Tốc độ chuyển dịch hết sức chậm chạp. Về cơ bản cơ cấu kinh tế nông

thôn vẫn mang tính chất của nền kinh tế thuần nông, nhiều ngành phi nông
nghiệp nói chung vẫn chưa thoát khỏi tình trạng “nghề phụ”. Sự phát triển
công nghiệp và các hoạt động dịch vụ ở nông thôn chủ yếu tập trung ở ngoại
vi các thành phố lớn, các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và một số tỉnh miền Trung.
Đến nay vẫn còn khá nhiều vùng “trắng “ về công nghiệp. Các hoạt động dịch
vụ còn đơn giản và chất lượng thấp.
- Khả năng thu hút lao động vào các hoạt động phi nông nghiệp vẫn hết
sức hạn chế. Điều đó bắt nguồn từ quy mô và tốc độ phát triển các hoạt động
này còn thấp kém. Nhiều ngành nghề phi nông nghiệp vẫn còn trong trạng thái
phát triển bấp bênh, sản xuất phân tán, manh mún, trang bị kỹ thuật lạc hậu,
năng suất và khả năng cạnh tranh thấp kém. Tuy trình độ phát triển chưa
caovà lượng lao động dư thừa ở nông thôn còn lớn, nhưng việc bảo đảm lao
động cho lao động cho các làng nghề hiện nay đang rất khó khăn do chất
lượng lao động nông thôn thấp kém, công tác đào tạo nghề còn gặp nhiều bất
cập.
- Giữa các ngành trong kinh tế nông thôn chưa có sự phát triển gắn kết,
hộ trợ nhau trong một tổng thể thống nhất. Tỷ trọng nông sản được chế biến
còn rất thấp. Chẳng hạn, tỷ trọng mía đường được chế biến công nghiệp là
30%, chè là 55%, rau quả là 5%, thịt xuất khẩu là 1%.
1.2.2. Yêu cầu khách quan của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn ở nƣớc ta


13
Nông thôn luôn tồn tại khách quan trong mọi chế độ xã hội, có vị trí, vai
trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Những sản phẩm của
kinh tế nông thôn không những đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của đời sống xã
hội, mà còn cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, tạo cơ sở cho công nghiệp
và các ngành kinh tế quốc dân khác phát triển, góp phần thực hiện thắng lợi
những mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế, xã hội, xây dựng và phát triển đất nước. Do

đó, đối với mọi quốc gia, khai thác nguồn lực, tiềm năng to lớn trong khu vực
này, đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, nhất là đối với các quốc gia
đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu.
Thực tiễn các nước có nền kinh tế phát triển cho thấy, để phát huy vị trí,
vai trò của nông thôn đối với đời sống xã hội, mới khai thác được mọi tiềm
năng, nguồn lực và thế mạnh của nông thôn cho sự phát triển, đó cũng là vấn
đề cơ bản có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế -xã hội của các nước
trong thời kỳ đầu của quá trình xây dựng, đưa nền kinh tế từ lạc hậu lên nền
kinh tế tiên tiến và hiện đại như Đan Mạch, Phần Lan, Philíppin, Thái
lan…Đặc biệt trong những thập kỷ gần đây, một số nước và vùng lãnh thổ
như: Hàn Quốc, Xingapo, Đài Loan, Hồng Công, quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn theo hướng hiện đại làm thay đổi cơ cấu kinh tết từ nông –
công nghiệp, sang cơ cấu kinh tế nông – công – nghiệp và dịch vụ, đưa nền
kinh tế đang phát triển trở thành nước công nghiệp mới. Đánh giá sự thành
công về phát triển kinh tế của các quốc gia này, Viện nghiên cứu phát triển
kinh tế quốc tế Harvard nhận định: “Sự quan tâm …về lợi ích của các vùng
nông thôn là một trong những nguyên nhân chính của sự phát triển kinh tế
nhanh ở châu Á”.
Thực tiễn trên chứng tỏ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn theo hướng hiện đại là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá


14
trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước. Đối với mọi quốc gia, vai
trò của nông nghiệp và kinh tế nông thôn không chỉ dừng lại trong cung cấp
lương thực, thực phẩm cho đời sống xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp, mà
còn là thị trường rộng lớn của công nghiệp và các ngành kinh tế quốc dân
khác, trực tiếp liên quan đến môi sinh, bảo vệ môi trường. Bởi vậy, không
phải ngẫu nhiên ở hàng loạt nước, điểm xuất phát của sự phát triển hay cải cách

kinh tế, chính trị, lại từ việc chuyển dịch kinh tế nông thôn theo hướng hiện đại.
Ở nước ta, trong quá trình lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước, Đảng
cộng sản Việt Nam luôn khẳng định tầm quan trọng của nông nghiệp, nông
thôn và có những chủ trương, chính sách đúng đắn thúc đẩy sản xuất phát
triển, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Điều đó xuất phát từ
những lý do sau:
- Nguồn nhân lực lao động dồi dào, tiềm năng trong nông thôn còn rất
lớn, đây là điều kiện có sẵn, lợi thế cơ bản của đất nước cần được khơi dậy và
phát huy, thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng hiện đại xuất phát
từ yêu cầu của phát triển bền vững và nâng cao đời sống xã hội nông thôn.
Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế nông thôn do công nghiệp hoá, hiện
đại hoá tạo ra đã đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho gần 80% dân số
sinh sống ở nông thôn, đáp ứng yêu cầu của phát triển bền vững, nâng cao đời
sống xã hội nông thôn.
Nông thôn phát triển, đời sống nông dân no đủ, họ sẽ tin tưởng vào cuộc
sống, vào chế độ xã hội, từ đó yên tâm làm giàu, xây dựng nông thôn hiện đại,
góp phần giữ vững chính trị và ổn định xã hội của cả nước. Hiện nay, Việt
Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua nhiều năm chiến tranh,
do đó, đang tồn tại sự chênh lệch khá xa về kinh tế và văn hoá giữa thành thị
và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi. Hơn nữa, sự lạc hậu của nông


15
nghiệp và nông thôn đã làm tăng thêm làn sóng di cư tự do từ nông thôn ra
thành thị, tạo nên hiện tượng quá tải ở thành thị và tiềm ẩn nguy cơ của sự bất
ổn. Do vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng hiện đại để giảm
dần sự cách biệt về trình độ phát triển giữa các vùng trong cả nước.
- Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng hiện đại xuất phát
từ tình trạng yếu kém của nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.

Hiện nay, mặc dù đã qua một thời gian dài thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nhưng nông nghiệp, nông thôn nước ta
vẫn còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết; còn rất nhiều tiềm năng chưa được
khai thác và khai thác một cách có hiệu quả. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học -
công nghệ, nhất là các loại giống cây trồng, vật nuôi còn hạn chế. Công nghiệp
chế biến và ngành nghề kém phát triển. Thị trường nông sản gặp nhiều khó
khăn, khả năng cạnh tranh của hàng nông sản nước ta còn thấp. Cả nước mới cơ
giới hóa được khoảng 54% diện tích khâu làm đất. Cơ cấu kinh tế nông thôn
chuyển dịch chậm, chưa gắn bó hiệu quả với thị trường. Sản xuất nông nghiệp
còn phân tán, manh mún, mang nhiều yếu tố tự phát. Công nghiệp nông thôn
chậm phát triển, nhất là trong chế biến nông sản, dịch vụ còn bất cập, nhỏ lẻ…
Để phát huy những lợi thế tiềm năng, khắc phục tình trạng yếu kém và
sớm xây dựng được một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, hiện đại, hiệu quả và
bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng
các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và
xuất khẩu, xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn
minh, thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một tất yếu
ở Việt Nam.
Bởi vậy, trong thời kỳ đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế nông thôn góp phần tạo ra
những tiền đề quan trọng không thể thiếu đảm bảo thắng lợi cho các mục tiêu


16
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, đưa đất nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã
hội.
1.2.3. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
Một là, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn lạc hậu sang cơ
cấu kinh tế mới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá với năng suất cao
hơn, chất lượng, hiệu quả hơn.

Đây là nội dung cơ bản nhất của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn,
có ý nghĩa chiến lược trước mắt cũng như lâu dài đối với quá trình cách mạng.
Trước mắt nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả về lực lượng sản xuất, tiềm
năng lớn trong nông thôn, tạo điều kiện cho nông dân làm giàu và làm thay
đổi bộ mặt nông thôn theo hướng tích cực, đồng thời còn là chìa khoá mở ra
con đường phát triển nông thôn trong thời kỳ mới.
Kinh nghiệm về công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn của nhiều
nước trên thế giới cho thấy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng
công nghiệp hoá là bước đi hết sức quan trọng, trong đó gắn phương thức
truyền thống với phương pháp hiện đại, ứng dụng công nghệ mới, đặc biệt là
công nghệ sinh học, công nghệ thông tin để phát triển sản xuất. đẩy mạnh phát
triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt là công nghệ chế biến nông sản với công
nghệ thích hợp, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Coi công nghệ chế
biến là mắc xích quan trọng nối liền sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, tạo điều
kiện để người lao động gắn với thị trường trong nước và ngoài nước. Nhờ phát
triển của công nghệ chế biến, đưa sản phẩm tươi sống hoặc ở dạng thô, thành
những sản phẩm hàng hoá dưới dạng sơ chế, tinh chế đem lại giá trị kinh tế
ngày càng cao cho người lao động.
Nước ta đi lên CNXH từ một nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nông nghiệp
là chủ yếu, muốn có nền kinh tế phát triển cao, cùng với sự chuyển dịch cơ
cấu của nền kinh tế quốc dân, ở nông thôn yêu cầu cấp bách cũng phải chuyển


17
dịch cơ cấu kinh tế, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới: nông nghiệp -
công nghiệp và dịch vụ, bao gồm cả nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp chế
biến nói riêng và công nghiệp nông thôn nói chung, du lịch và các hoạt động
dịch vụ khác.
Mục tiêu của sự chuyển dịch đó là nhằm khai thác nguồn tài nguyên to
lớn về đất đai, rừng, biển, bao gồm vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn, nguồn

lao động dồi dào, ưu thế và địa lý sinh thái để tăng năng suất cây trồng, vật
nuôi, tăng hiệu quả của sản xuất kinh doanh, từng bước đa dạng hoá kinh tế
nông thôn, cải thiện đời sống nông dân, tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập
quốc dân, tạo nguồn tích luỹ và thị trường rộng lớn để đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Để thoát khỏi thế độc canh của nền nông nghiệp
truyền thống, từng bước tiến tới một nền nông nghiệp hiện đại, cơ cấu nông
nghiệp phải chuyển hướng vào tăng tỷ suất hàng hoá phù hợp với nhu cầu của
thị trường, nâng cao năng suất và hiệu quả trên mỗi đơn vị diện tích và mỗi
lao động. Đặc biệt chú trọng phát triển các vùng sản xuất có khối lượng hàng
nông sản lớn, thực hiện chuyên canh kết hợp với đa dạng hoá các sản phẩm
nông nghiệp, đa dạng hoá các ngành nghề ở nông thôn, phù hợp với đặc điểm
kinh tế-xã hội, hệ sinh thái và lợi thế so sánh của từng vùng, đi đôi với mở
rộng giao lưu trong nước và nước ngoài để tiêu thụ hàng hoá nông sản cho
nông dân và các thành phần kinh tế trong nông thôn.
Ở nước ta, lực lượng lao động nông nghiệp chiếm phần lớn trong tổng
số lực lượng lao động xã hội, song năng suất lao động rất thấp, đời sống gặp
nhiều khó khăn. Vì vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa dần lao
động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ là cấp thiết, thông qua
đó thúc đẩy nhu cầu tiếp cận công nghệ hiện đại và khoa học- công nghệ tiên
tiến vào sản xuất, nâng cao dân trí và tăng nhanh đội ngũ trí thức ở nông thôn,
cải thiện điều kiện lao động và đời sống của nông dân.


18
Xuất phát từ đặc điểm của nền kinh tế-xã hội ở nước ta trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là con đường
cơ bản để tiến hành phân công lại lao động, xã hội hoá nền sản xuất, phát triển
kinh tế hàng hoá, tạo nhiều việc làm, sản xuất ra nhiều sản phẩm, nâng cao thu
nhập, ổn định và cải thiện đời sống của nhân dân. Qua đó tác động tích cực

đến đến phát triển công nghiệp và dịch vụ của nền kinh tế quốc dân, làm cho
nông dân “rời ruộng nhưng không rời làng”, tích cực tham gia các hoạt động
kinh tế nông thôn.
Hai là: thực hiện thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, cơ giới hoá, sinh học hoá
trong các ngành sản xuất nông nghiệp.
Để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện phải gắn với điều kiện bảo
đảm trên thực tế cho sản xuất nông nghiệp như thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, cơ
giới hoá và sinh học hoá, góp phần đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, hạn chế
thiên tai ảnh hưởng đến sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất và hiệu quả
của sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, đây là một quá trình lâu dài, trước hết
phải từng bước thực hiện điện khí hoá, cơ giới hoá những khâu thích hợp và
phù hợp với từng vùng sinh thái trong các khu vực nông thôn.
Bài học kinh nghiệm về cơ giới hoá, điện khí hoá ở Nam Ninh (Nam
Định) và Quỳnh Lưu (Nghệ An) những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX
cho thấy: khoa học kỹ thuật hiện đại là điều kiện quan trọng cho sự thành công
của công nghiệp hoá kinh tế nông thôn, song phải phù hợp với trình độ và kỹ
năng sử dụng của người lao động, với đặc điểm đồng ruộng và cơ sở hạ tầng ở
nông thôn, có như vậy mới phát huy được hiệu quả của các thiết bị máy móc,
đưa năng suất lao động lên cao.
Nước ta, đất chật người đông, do đó quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá cần đẩy mạnh cơ giới hoá, điện khí hoá, trước hết tập trung vào khâu làm


19
đất, chăm sóc thu hoạch, bảo đảm tính thời vụ và đặc thù của sản xuất nông
nghiệp. Khác với nhiều nước, có nền kinh tế phát triển, thực hiện cơ khí hoá,
điện khí hoá để giải phóng bớt lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và
các ngành kinh tế khác. Điện khí hoá, cơ khí hoá trong nông nghiệp nước ta,
phải nhằm tạo ra nhiều ngành nghề mới (cơ khí chế tạo công cụ sản xuất, xay
xát, chế biến nông sản, các ngành nghề thủ công…), thu hút lao động dư thừa

ở nông thôn và tăng thu nhập cho người lao động, thông qua đó để chuyển bớt
lao động trong nông nghiệp sang các hoạt động phi nông nghiệp ngay trên địa
bàn nông thôn. Đây là cách tổ chức sản xuất mang tính đặc thù của quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở nước ta, phù hợp với đặc điểm kinh tế –xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Tận dụng các điều kiện thiên nhiên như sức nước, địa thế thuận lợi, để
phát triển thuỷ điện vừa và nhỏ phục vụ cho sản xuất, cũng như đời sống sinh
hoạt của nhân dân, từng bước giảm chênh lệch sự hưởng thụ về đời sống vật
chất và tinh thần giữa các vùng dân cư nông thôn.
Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng các biện pháp sinh học nhằm tạo tạo
ra nhiều cây trồng vật nuôi có chủng loại tốt, năng suất cao, thích ứng với điều
kiện về thời tiết, khí hậu, đất đai canh tác trong vùng.
Ba là, đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản với
công nghệ ngày càng cao, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công
nghiệp ở đô thị.
Công nghiệp chế biến giữ vai trò quan trọng trong công nghiệp nông
thôn, nhằm nâng cao giá trị của nông sản hàng hoá, nhất là đối với các sản
phẩm có số lượng lớn, tiêu dùng rộng rãi trên thị trường trong nước và thị
trường thế giới như gạo, thịt lợn, cà phê, chè, hải sản…Do vậy cần xây dựng,
phát triển công nghiệp chế biến với nhiều loại quy mô và công nghệ thích hợp,
kết hợp giữa khoa học truyền thống với công nghệ hiện đại ở các vùng nông


20
thôn, thị trấn, thị tứ, liên kết với công nghiệp ở đô thị và khu công nghiệp tập
trung, với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong và ngoài nước, bảo
đảm chế biến phần lớn nông, lâm, thuỷ sản của các vùng, đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân và không ngừng tăng lên giá trị xuất khẩu nông sản hàng
hoá.
Bốn là, đẩy mạnh phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và

các ngành nghề mới trong các vùng nông thôn.
Các ngành nghề, làng nghề là một dạng hoạt động kinh tế của nông dân,
được hình thành và phát triển lâu dài trong nông thôn Việt Nam, có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế –xã hội. Điều quan trọng là
phát triển các ngành nghề, làng nghề ở nông thôn không đòi hỏi phải đầu tư
nhiều vốn, sử dụng được lực lượng lao động tại chỗ và với nguồn nguyên liệu
dồi dào, phù hợp với khả năng đối với nông thôn và nông dân ở nước ta.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH- HĐH nói riêng, hoạt
động kinh tế của các ngành nghề, làng nghề truyền thống và sự ra đời của các
ngành nghề mới hiện nay, có tác dụng tích cực đối với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, làm thay
đổi bộ mặt nông thôn theo hướng ngày càng văn minh, hiện đại.
Trong nông thôn nước ta, các ngành nghề, làng nghề hầu hết là tiểu, thủ
công nghiệp như: gốm, sứ, đúc đồng, đúc gang, nghề rèn, chạm khắc đá, gỗ,
sơn mài, đan lát, mây tre, may mặc…Ngày nay, trước sự tác động của cơ chế
thị trường, trong nông thôn xuất hiện nhiều ngành nghề mới, sản xuất ra nhiều
mặt hàng tiêu dùng và mặt hàng xuất khẩu, nguyên liệu cho công nghiệp chế
biến, tạo điều kiện cho các hoạt động dịch vụ ở nông thôn phát triển, đáp ứng
kịp thời cho yêu cầu sản xuất của kinh tế nông thôn và sinh hoạt của nhân dân.


21
Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế nước ta, các ngành nghề, làng
nghề truyền thống được khôi phục và các ngành nghề mới ra đời, sẽ thu hút
khoảng trên 50% lao động thường xuyên và 20% lao động không thường
xuyên từ lao động nông nhàn. Từ đó, tạo điều kiện cho nhiều hoạt động kinh
tế và các hoạt động dịch vụ liên quan phát triển, phục vụ cho sản xuất nông
thôn, góp phần tăng thu nhập cho người lao động.
Những sản phẩm do những ngành nghề, làng nghề tạo ra, có thị trường

tiêu thụ lớn cả trong nướcvà người nước, thu hút được nhiều lao động phổ
thông, giải quyết nhiều việc làm và đóng góp một phần quan trọng vào phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở địa phương, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao
động.
Yêu cầu đối với phát triển ngành nghề, làng nghề là gắn với sản xuất
nông nghiệp, tạo ra sự phát triển ổn định, bền vững. Song phải tuỳ thuộc vào
đặc điểm, điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng của từng địa phương để sản xuất,
vừa đạt được mục tiêu về kinh tế, xã hội, vừa bảo đảm về môi trường, sinh
thái, giữ gìn văn hoá truyền thống của địa phương. Đó là nguồn lực, điều kiện
quan trọng, để phát triển kinh tế nông thôn ổn định, bền vững.
Năm là, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, từng bước hình thành
nông thôn mới văn minh, hiện đại.
Cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm hệ thống đường giao thông, mạng
lưới điện phục vụ cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ và sinh họat cho dân cư,
trường học, trạm y tế, hệ thống thông tin liên lạc, thuỷ lợi, hệ thống cung cấp
nước sạch và các cơ sở công nghệ, dịch vụ kinh tế- xã hội khác.
Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ở đây, là quá trình tạo ra tiền
đề vật chất, kỹ thuật, phục vụ cho phát triển kinh tế nông thôn, góp phần nâng
tầm quản lý xã hội lên một trình độ mới. Đồng thời làm chuyển biến căn bản


22
bộ mặt của nông thôn, đưa nông thôn lên bắt nhịp với sự năng động của nền
kinh tế thị trườngtheo định hướng XHCN.
Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, vận tải hàng hoá và đi lại bằng
hệ thống giao thông đường sắt xuyên quốc gia, thông tin liên lạc, đánh dấu
bước nhảy vọtvề trình độ phát triển kinh tế từ xã hội phong kiến sang xã hội tư
bản chủ nghĩa. Nhờ kế thừa và phát triển mới về các cơ sở hạ tầng kinh tế, xã
hội, nên nền kinh tế tư bản phát triển nhanh chóng. Vì vây, trong Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản (1848), C.Mác và Ph. Ăngghen đánh giá, sự ra đời của chủ

nghĩa tư bản với 100 năm, đã tạo ra một khối lượngcủa cải vật chất, bằng tất
cả các xã hội trước đó cộng lại.
Nước ta trong giai đoạn đầu tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, nông thôn có vai trò quan trọng trong quá trình tích luỹ cho sự phát
triển, đóng góp một phần lớn vào tổng thu nhập của nền kinh tế quốc dân, đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội, tạo cơ sở cho sự phát triển các ngành
kinh tế, đặc biệt là công nghiệp và các hoạt động dịch vụ. Do đó, tập trung đầu
tư vốn, nguồn nhân lực, khoa học- công nghê, quản lý, tạo ra sự chuyển biến
lớn cho kinh tế nông thôn là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của cách mạng
trong giai đoạn hiện nay.
1.2.4. Các chỉ tiêu phản ánh và nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông thôn
1.2.4.1 Chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
Cơ cấu kinh tế phản ánh cả về lượng lẫn về chất mối tương quan tỷ lệ
giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế khi đánh giá quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Cần chú ý cả những quan hệ tỷ lệ về mặt lượng cũng như phân
tích sự thay đổi về chất (theo quan điểm lượng đổi chất đổi) của các mối
tương quan ấy. Hơn nữa, trong quá trình phân tích, đánh giá, không thể không
chú ý tới những đặc điểm riêng của mỗi loại cơ cấu kinh tế (và cả cơ cấu kinh

×