Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Giải ngân vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ



NGUYỄN THANH HƯƠNG



GIẢI NGÂN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC
(ODA) Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP




Người hướng dẫn : PGS.TS. Trịnh Thị Hoa Mai







Hà Nội - 2005
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU 1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢI NGÂN
VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA) 4


1.1. Tổng quan về vốn hỗ trợ phát triển chính thức 4
1.1.1. Khái niệm 4
1.1.2. Đặc điểm 6
1.1.3. Phân loại 11
1.1.4. Vai trò của nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức 16
1.2. Giải ngân vốn hỗ trợ phát triển chính thức 20
1.2.1. Khái niệm 20
1.2.2. Các hình thức giải ngân vốn ODA 21
1.2.3. Các giai đoạn cơ bản của giải ngân vốn ODA 22
1.2.4. Điều kiện để thực hiện giải ngân vốn ODA 26
1.2.5. Kinh nghiệm thúc đẩy quá trình giải ngân vốn ODA 29

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI NGÂN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN
CHÍNH THỨC ODA Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA 35
2.1. Tình hình thu hút và phân bổ vốn ODA 35
2.1.1. Tình hình thu hút ODA trong những năm qua ở Việt Nam 35
2.1.2. Phân bổ vốn ODA theo ngành, lĩnh vực kinh tế 37
2.2. Thực trạng tiến trình giải ngân vốn ODA ở Việt Nam
thời gian qua 42
2.2.1. Giải ngân theo các ngành, lĩnh vực kinh tế 45
2.2.2. Giải ngân theo đặc điểm nguồn viện trợ 52
2.2.3. Giải ngân theo hình thức sử dụng vốn ODA 55
2.2.4. Giải ngân theo các nhà tài trợ 58
2.3. Đánh giá về giải ngân vốn ODA ở Việt Nam thời gian qua 62
2.3.1. Những kết quả đạt được 62
2.3.2. Một số hạn chế và những nguyên nhân 65

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY GIẢI NGÂN VỐN ODA Ở
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 76
3.1. Phƣơng hƣớng sử dụng ODA thời kỳ 2001 - 2010 76

3.1.1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội 10 năm tới 2001 - 2010 76
3.1.2. Nhu cầu và khả năng thu hút vốn ODA của Việt Nam 78
3.1.3. Mục tiêu, quan điểm sử dụng nguồn vốn ODA 85
3.2. Một số giải pháp thúc đẩy tiến trình giải ngân vốn ODA 81
3.2.1. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện công tác giải ngân 90
3.2.2. Nhóm giải pháp thuộc về chính sách vĩ mô của Nhà nước 98
3.2.3. Nhóm các giải pháp nhằm tăng cường
khả năng thu hút vốn ODA 101

KẾT LUẬN 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO 110
PHỤ LỤC 113
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADB
Ngân hàng phát triển Châu Á
ADF
Quỹ phát triển Châu Á
CG
Nhóm tư vấn
DAC
Uỷ ban hỗ trợ phát triển
ESAF
Quỹ hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu tăng cường
EU
Liên minh Châu Âu
FAO
Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hợp Quốc
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài

F/S
Báo cáo nghiên cứu khả thi
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
GEF
Tổ chức môi trường thế giới
IFAD
Quỹ quốc tế về phát triển nông nghiệp
IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế
JBIC
Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản
JICA
Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản
KH&ĐT/MPI
Kế hoạch và đầu tư
LHQ/UN
Liên hợp quốc
NGO
Tổ chức phi chính phủ
ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức
OECD
Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển
OECF
Quỹ hợp tác kinh tế quốc tế (Nhật Bản)
PRGF
Quỹ hỗ trợ tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo
PRSC
Quỹ tín dụng hỗ trợ xoá đói giảm nghèo

SAC
Quỹ tín dụng điều chỉnh cơ cấu
UNDP
Chương trình phát triển LHQ
UNDCP
Chương trình phòng chống ma tuý quốc tế của LHQ
UNICEF
Quỹ LHQ dành cho trẻ em
UNFPA
Quỹ dân số LHQ
UNESCO
Tổ chức văn hoá, giáo dục và khoa học LHQ
UNHCR
Cao uỷ LHQ về người tỵ nạn
WB
Ngân hàng thế giới
WFP
Chương trình lương thực thế giới của LHQ
WHO
Tổ chức Y tế thế giới


1
MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài
Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) có nghĩa rất lớn đối với sự phát
triển kinh tế, xã hội trong giai đoạn hiện nay, nhất là trong bối cảnh nền kinh
tế Việt Nam rất cần vốn đầu tư lớn để thực hiện công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.

Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm giai đoạn 2001 -
2010, văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định “tiếp tục nâng cao khả
năng cạnh tranh về thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) và vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)”.
Kể từ khi nối lại quan hệ với các nhà tài trợ vào tháng 11/1993, Việt
Nam đã tiến hành công tác vận động và đã nhận được cam kết viện trợ vốn
ODA của nhiều tổ chức quốc tế và các nước phát triển. Dự kiến khả năng đưa
vào thực hiện nguồn vốn ODA trong giai đoạn 2005 - 2010 là từ 11 - 12 tỷ
USD. Tuy nhiên cho đến nay, lượng vốn ODA được đưa vào đầu tư phát triển
kinh tế xã hội trên phạm vi cả nước còn chiếm tỷ lệ thấp so với vốn được ký
kết.
Mức giải ngân vốn ODA trong những năm qua còn thấp, chỉ đạt bình quân
1,05 tỷ USD/năm. Riêng trong giai đoạn 1996 - 2004, mức giải ngân có cao
hơn, đạt bình quân 1,25 tỷ USD/năm. Như vậy, mức giải ngân thấp trong
những năm qua cần phải được cải thiện để đáp ứng mục tiêu đề ra trong
Văn kiện (trung bình 2 tỷ USD/năm). Việc tổng hợp, đánh giá đúng tình hình
giải ngân ODA ở Việt Nam trong thời gian qua và trên cơ sở đó đưa ra những
giải pháp nhằm giải ngân nhanh hơn trong giai đoạn tới để phục vụ cho những
mục tiêu chiến lược, là việc hết sức cấp bách và cần thiết.
Tiến trình giải ngân vốn nhanh hay chậm là minh chứng rõ nhất của một
chiến lực thu hút và sử dụng vốn ODA có hiệu quả hay chưa, thể hiện mức độ
hấp thụ vốn của nền kinh tế nước tiếp nhận. Trước yêu cầu đó,
2
“Giải ngân vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) ở Việt Nam
– Thực trạng và Giải pháp” được chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ Kinh tế
chính trị đồng thời hy vọng đề xuất những giải pháp và kiến nghị cho chiến
lược huy động và sử dụng vốn ODA có hiệu quả nhất ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Với vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế của nhiều quốc
gia trên thế giới, vốn ODA đã được các nhà kinh tế và đầu tư nhiều giới

nghiên cứu rộng rãi cả về mặt lý thuyết cũng như trong thực tiễn nền kinh tế
hiện đại. Thực tế ở Việt Nam thời gian qua đã có không ít những công trình,
hội thảo, báo cáo, luận án nghiên cứu cách tháo gỡ những vướng mắc nhằm
tăng cường huy động, sử dụng hợp lý và giải ngân có hiệu quả nguồn vốn ODA.
Có thể kể đến những nghiên cứu tiêu biểu của:
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Báo cáo tình hình ODA năm 2004, tháng 4/2004.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư/Vụ kinh tế đối ngoại: Kế hoạch sử dụng nguồn
vốn hỗ trợ phát triển chính thức giai đoạn 2001 - 2005. Tháng 8/2001.
- UNDP: Tổng quan viện trợ phát triển chính thức Việt Nam, các báo cáo
năm 1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 2004.
Vừa qua, ngày 17/03/2004, tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị về giải ngân
nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ
chức với sự tham dự của lãnh đạo các Bộ, ngành hữu quan, đại diện các tỉnh,
thành phố và Ban quản lý các dự án ODA. Đây là hội nghị nghiên cứu công
tác giải ngân ODA ở tầm vĩ mô, có sự phối hợp giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư
và các cơ quan có liên quan, thảo tờ trình lên Thủ tướng Chính phủ nhằm ban
hành những chỉ thị bước đầu về tăng cường giải ngân vốn ODA.
Trong phạm vi khuôn khổ một luận văn khó có thể bao quát hết những
vấn đề lớn có liên quan đến nguồn vốn ODA, vì thế, luận văn đã đi sâu vào
việc đề xuất các nhóm giải pháp cụ thể, đặc biệt có các bước chi tiết tiến hành
hoàn thiện công tác giải ngân ODA bằng các biện pháp kinh tế chủ yếu về tổ
chức thực hiện công tác giải ngân, hạn chế rủi ro và ngăn ngừa các hiện tượng
bất cập nảy sinh trong việc sử dụng nguồn vốn này.
3
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu tổng quan về ODA, đề tài tiến hành phân tích tình
hình giải ngân và đánh giá thực trạng giải ngân vốn ODA ở Việt Nam thời
gian qua để từ đó đề xuất các giải pháp cũng như những kiến nghị chủ yếu
nhằm thúc đẩy và góp phần nâng cao hiệu quả giải ngân vốn ODA ở Việt
Nam trong thời gian tới, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu quá trình giải ngân vốn ODA ở Việt Nam trên góc độ
quản lý nhà nước trong đó trực tiếp đến các nguồn vốn ODA vay của
Việt Nam từ năm 1993 đến nay. Do thời gian sử dụng vốn, hoàn trả nợ đối
với các khoản vay ưu đãi rất dài và hiện tại hầu hết các chương trình, dự án sử
dụng ODA còn đang trong giai đoạn triển khai thực hiện nên phạm vi nghiên
cứu của đề tài chủ yếu giới hạn trong các khâu đầu của chu kỳ dự án đầu tư
nghiên cứu ứng dụng mà không đi sâu vào quy trình nghiệp vụ giải ngân.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài lấy phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin làm phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Ngoài ra, trong quá
trình nghiên cứu, đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản khác
như: phương pháp thống kê toán học, phương pháp phân tích tổng hợp,
phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp dự báo, mô phỏng. Các
phương pháp này được sử dụng kết hợp hoặc riêng rẽ trong quá trình nghiên
cứu.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Xác định được rõ nét thực trạng giải ngân vốn ODA trên cơ sở tổng
quát thực tiễn khách quan ở Việt Nam trong thời gian qua, những thành quả
đạt được cũng như những nguyên nhân làm hạn chế quá trình này trong giai
đoạn hiện nay.
4
- Đề xuất những giải pháp vì mục tiêu phát triển bền vững nhằm đẩy
mạnh chiến lược giải ngân vốn ODA ở Việt Nam trong thời gian tới để thực
hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta giai đoạn 2001 - 2010.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về giải ngân vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)

Chương 2: Thực trạng giải ngân vốn ODA ở Việt Nam thời gian qua
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn ODA ở Việt Nam trong thời gian tới.
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢI NGÂN VỐN HỖ
TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA)


1.1. TỔNG QUAN VỀ VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC
1.1.1. Khái niệm
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II
bằng kế hoạch Mashall của Mỹ viện trợ cho các nước Châu Âu nhằm phục
hồi các ngành công nghiệp bị chiến tranh tàn phá. Để tiếp nhận nguồn viện trợ
tái thiết nền kinh tế của kế hoạch này, xuất phát từ ý tưởng thành lập một tổ
chức bao gồm các nền kinh tế phát triển đồng ý cung cấp giúp đỡ các nước
đang phát triển, các nước Châu Âu đã đưa ra một chương trình phục hồi kinh
tế có phối hợp và thành lập một tổ chức hợp tác kinh tế của Châu Âu.
Ngày 14 tháng 12 năm 1960, tại Paris đã diễn ra lễ ký kết thành lập
“Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển”, gọi tắt là OECD (Organization for
Economic Cooperation and Development). Trong khuôn khổ hợp tác và phát
triển, các nước OECD đã lập ra những Uỷ ban chuyên môn, trong đó có Uỷ
ban hỗ trợ phát triển (DAC – Development Assistance Commitee), chuyên
5
trách về công tác viện trợ nhằm giúp các nước đang phát triển phát triển kinh
tế và nâng cao hiệu quả đầu tư. Thường kỳ các nước thành viên DAC thông
báo cho Uỷ ban các khoản đóng góp của họ cho các chương trình viện trợ
phát triển và trao đổi với nhau các vấn đề liên quan tới chính sách viện trợ
phát triển. Từ đây, viện trợ phát triển mới thực sự phổ biến và được quốc tế
hoá.
Từ sự thoả thuận của các nước công nghiệp phát triển sau chiến tranh về
sự trợ giúp dưới dạng viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu

đãi cho các nước đang phát triển, sự đóng góp của các nước phát triển cho quá
trình tăng trưởng kinh tế của những nước nghèo không còn mang tính tự giác
nữa mà đã có tính chất bắt buộc. Năm 1970, Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc đã
đề nghị các nước tài trợ giành khoảng 0,7% GNP của nước mình để tạo nguồn
viện trợ cho các nước nghèo.
Khái niệm ODA được Uỷ ban hỗ trợ phát triển DAC chính thức đề cập
vào năm 1969: “Hỗ trợ phát triển chính thức ODA là nguồn vốn hỗ trợ chính
thức từ bên ngoài bao gồm các khoản viện trợ và cho vay với các điều kiện ưu
đãi: ODA được hiểu là nguồn vốn dành cho các nước đang và kém phát triển
được các cơ quan chính thức của các Chính phủ trung ương và địa phương
hoặc các cơ quan thừa hành của Chính phủ, các tổ chức liên Chính phủ, các
tổ chức phi Chính phủ tài trợ. Vốn ODA phát sinh từ nhu cầu cần thiết của
một quốc gia, một địa phương, một ngành, được tổ chức quốc tế hay nước
bạn xem xét và cam kết tài trợ thông qua một Hiệp định quốc tế, được đại
diện có thẩm quyền hai bên nhận và hỗ trợ vốn ký kết. Hiệp định quốc tế hỗ
trợ này được chi phối bởi công pháp quốc tế.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB) thì hỗ trợ phát triển chính thức, bao
gồm các khoản viện trợ không hoàn lại cộng với các khoản vay có thời gian
dài và lãi suất thấp hơn so với mức lãi suất thị trường. Mức độ ưu đãi của
một khoản vay được đo lường bằng yếu tố cho không – Grand element. Một
6
khoản tài trợ không phải hoàn trả sẽ có yếu tố cho không 100%, gọi là các
khoản viện trợ không hoàn lại. Một khoản vay ưu đãi được coi là ODA phải
có yếu tố cho không ít nhất là 25%.
Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) cũng đã đưa ra quan
điểm về ODA : Nguồn viện trợ phát triển chính thức bao gồm các khoản cho
không và các khoản vay đối với các nước đang phát triển, đó là nguồn vốn do
các bộ phận chính thức cam kết (nhà tài trợ chính thức), nhằm mục đích cơ
bản là phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội và được cung cấp bằng các điều
khoản tài chính ưu đãi (nếu là khoản vay, sẽ có yếu tố cho không, ít nhất là 25%)

Nghị định 17 - CP ra ngày 04 tháng 05 năm 2001 của Chính phủ
Việt Nam quy định: “Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là hoạt động hợp
tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam với Nhà tài trợ (Chính phủ nước ngoài, các tổ chức liên
Chính phủ hoặc liên quốc gia) dưới các hình thức chủ yếu: hỗ trợ cán cân
thanh toán, hỗ trợ chương trình và hỗ trợ dự án với yếu tố không hoàn lại
(hay còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%”.
Như vậy, theo cách hiểu chung nhất của chúng ta hiện nay: “Hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA – Official Development Assistance) là các khoản
viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi của các cơ quan tài
chính thuộc các tổ chức quốc tế, các cơ quan đại diện hợp tác phát triển quốc
tế của các nước nhằm hỗ trợ cho sự phát triển và thịnh vượng của các nước
khác (không tính đến các khoản viện trợ cho mục đích thuần tuý quân sự).
Các đối tác viện trợ chính thức cung cấp ODA (nguồn cung cấp) trên thế
giới quan trọng nhất hiện nay là:
- Các đối tác song phương chủ yếu là các nước phát triển và các nước
trong Uỷ ban hỗ trợ phát triển DAC thuộc tổ chức OECD.
- Các đối tác đa phương là các tổ chức quan trọng thuộc hệ thống Liên
Hợp Quốc (UNDP, UNESCO, IFAD, FAO, WFP,…); các tổ chức tài
chính quốc tế (IMF - Quỹ Tiền tệ Quốc tế, WB - Ngân hàng Thế giới,
7
ADB - Ngân hàng phát triển Châu Á, OPEC - Tổ chức các nước xuất
khẩu dầu mỏ…); các cơ quan, tổ chức hợp tác phát triển của các cường
quốc kinh tế như Liên minh Châu Âu - EU, … và các tổ chức phi Chính
phủ.

1.1.2. Đặc điểm
ODA là sự chuyển giao không hoàn lại hoặc có hoàn lại với những điều
kiện ưu đãi nhất định từ một phần tổng sản phẩm quốc dân của nước phát
triển sang các quốc gia đang phát triển, chậm và kém phát triển, trong đó chủ

sở hữu vốn không trực tiếp quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn.
Từ kết quả của viện trợ quốc tế có thể thấy được đặc điểm của nguồn vốn
ODA:
a) ODA có tính chất ưu đãi:
ODA là một khoản nợ nước ngoài với mục đích tài trợ cho phát triển,
thực chất ODA là một khoản tài trợ nợ, tuy nhiên không giống như các khoản
tài trợ nợ khác như trái phiếu, vay tín dụng ngân hàng, ngoài phần cho không
khá lớn, các khoản ODA vốn vay sẽ trả gốc lẫn lãi nhưng với những điều kiện
ưu đãi hết sức đặc biệt: lãi suất thấp hơn các khoản vay thông thường rất
nhiều (thường dưới 3%/năm); thời gian sử dụng vốn dài thường từ 20 - 50
năm, trong đó thời gian ân hạn (không phải trả lãi) từ 5 - 10 năm và thời gian
chịu lãi suất với lịch trả nợ cũng đa dạng, gồm nhiều giai đoạn và được áp
dụng những tỷ lệ trả nợ khác nhau theo từng giai đoạn. Chẳng hạn, WB tài trợ
với thời hạn vay 40 năm, ân hạn 10 năm, không lãi và phí quản lý
0,75%/năm; Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) có thời hạn vay 30 năm, 10
năm ân hạn, phí quản lý 1%/năm; Nhật Bản cho vay thời hạn 30 năm, 10 năm
ân hạn, lãi suất từ 1% đến 2,3%/năm; Quỹ phát triển Pháp cho vay thời hạn
32 năm, 8 năm ân hạn lãi suất 3,5%/năm…
Để được xếp vào ODA, một khoản cho vay phải có thành tố viện trợ cho
không quy đổi tối thiểu 25%. Thành tố hỗ trợ cho không giúp lượng hoá mức
8
độ ưu đãi của một khoan vay vốn ODA so với khoản vay thương mại thông
thường:
Bảng 1.1: Xác định yếu tố cho không trong viện trợ
Nguồn vốn
Thời gian (năm)
Yếu tố
cho không (%)
Hoàn trả
Ân hạn

Cho không


100%
Vay thương mại, lãi 10%


0%
Vay, lãi 3%
11
3
35
Vay, lãi 2%
25
7
45
Vay, lãi 1%
25
2.5
55
Vay, lãi 0,75%
25
7
70
Vay, lãi 0%
25
7
76
(Nguồn: Nhìn lại 5 năm huy động và sử dụng ODA. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 10/1997)
Rõ ràng ODA là hỗ trợ cho phát triển lâu dài và bền vững.

b) Đối tác sử dụng viện trợ ODA là các nước đang phát triển, chậm
phát triển và các nước nghèo với thu nhập bình quân trên đầu người thấp,
dưới 1000$/năm. Mức thu nhập bình quân đầu người của quốc gia được coi
là tiêu chí quan trọng khi quyết định viện trợ ODA. WB, IMF quy định nước
được nhận ODA là những nước có thu nhập bình quân đầu người <
750$/năm, thời hạn là 40 năm, ân hạn 10 năm, lãi suất 0,75%/năm. Đối với
Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Quỹ phát triển Châu Á (ADF) cung cấp
vốn vay ưu đãi cho những nước nghèo nhất có quy định: quỹ này được sử
dụng để cho vay các nước thành viên có thu nhập bình quân đầu người dưới
610$/năm (80% vốn vay ADB từ nguồn ADF), từ 610$ đến 1171$/năm (60%
vốn vay ADB từ nguồn ADF) và trên 1171$/ năm (40% vốn vay ADB từ
nguồn ADF) với lãi suất 1% trong thời gian ân hạn và 1,5% sau thời gian ân
hạn, thời gian vay 32 năm trong đó có 8 năm ân hạn.
c) Cách thức cung cấp ODA rất đa dạng, phong phú, vì vậy khá phức
tạp.
Có thể nhận xét rằng có bao nhiêu nhà tài trợ thì có chừng ấy quy trình
và thủ tục cung cấp ODA. Chính vì thế, khả năng chủ động sử dụng ODA
9
thấp hơn các nguồn vốn khác. Thành phần nguồn vốn ODA phức tạp, tồn tại
dưới nhiều hình thức: ODA không hoàn lại, ODA có hoàn lại với nhiều dạng
hỗ trợ khác nhau như hỗ trợ dự án, hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ, hàng hoá…
ODA vốn vay nghĩa là có hoàn lại, lại kết hợp nhiều hình thức: có ODA vay
thuần tuý, có ODA vay hỗn hợp.
d) Quy chế thực hiện ODA cũng đa dạng:
Loại ODA ràng buộc có nhiều ưu đãi hơn về thời gian, lãi suất nhưng
ngược lại nó kèm theo nhiều điều kiện ràng buộc hơn như những điều kiện bắt
buộc về thu nhập bình quân, điều kiện về giá trị dự án, điều kiện phải sử dụng
trang thiết bị kỹ thuật và dịch vụ của nước cấp viện trợ… để nhằm kiểm soát
ODA có hiệu quả. Loại ODA không ràng buộc nghĩa là thực hiện thông qua
đấu thầu, cạnh tranh quốc tế. Hoặc có loại ODA ràng buộc một phần (một

phần chỉ tiêu ở nước viện trợ, phần còn lại ở bất kỳ nơi nào)
e) Về mục đích đầu tư vốn, ODA chủ yếu tài trợ cho các dự án tập
trung vào hai lĩnh vực là đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế và cơ sở hạ tầng xã hội.
Hay nói cách khác, ODA chủ yếu được sử dụng cho các lĩnh vực mà các nhà
đầu tư nước ngoài cảm thấy ít thu được lợi nhuận và cần thời gian dài để thu
lại vốn. Đó là các dự án hạ tầng kinh tế được lập và chú trọng theo thứ tự vào
các lĩnh vực: năng lượng (chủ yếu tập trung vào nhà máy thuỷ điện và nhiệt
điện), giao thông vận tải (chủ yếu là đường bộ và cầu), hải cảng, viễn thông
và thuỷ lợi; là cơ sở hạ tầng xã hội như y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình,
giáo dục, bảo vệ môi trường, hỗ trợ ngân sách…
f) ODA là nguồn viện trợ gắn liền với mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội.
Viện trợ ODA có mục đích xuất phát từ bản thân các nước viện trợ, đó là
hỗ trợ cho sự phát triển của các nước đang phát triển nói riêng và sự phát triển
toàn cầu nói chung nhưng cũng cần hiểu rằng ODA không phải là quà tặng,
ngay cả những khoản viện trợ không hoàn lại cũng có những điều kiện nhất
định của nó. Lợi ích chính trị luôn đi đôi với lợi ích kinh tế vì mục tiêu cuối
10
cùng là tăng cường phát triển kinh tế song song với quan hệ chính trị trên cơ
sở hợp tác, đối thoại, phát triển và phồn vinh:
Thứ nhất, ODA gắn liền với điều kiện chính trị
ODA là một trong những phương tiện để thực hiện ý đồ chính trị của
nước cấp viện trợ đối với nước nhận viện trợ. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh
ODA dùng để lôi kéo thêm đồng minh vì có sự đối đầu Đông - Tây, nhằm cân
bằng lực lượng. Kể từ sau ngày các nước XHCN cũ ở Đông Âu thay đổi thể
chế chính trị vào những năm đầu của thập kỷ 90, các nước phương Tây đã
cung cấp vốn ODA, tạo điều kiện giúp đỡ các nước này chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường. Bên cấp viện trợ và các nguồn vốn chính thức khác thường
cấp viện trợ cho những người bạn về chính trị và đồng minh quân sự mà
không cấp viện trợ cho những đối tượng mà họ cho là kẻ thù. Trong các nước
cấp viện trợ thì Nhật nặng về Châu Á với 20% dành cho vùng Nam Á và

48,8% dành cho vùng Viễn Đông. Viện trợ của Đức và Áo dành phần lớn cho
các nước Đông Âu và Liên Xô cũ, còn viện trợ của Mỹ gần đây hầu như dành
cho Trung Đông.
Thứ hai, ODA gắn liền với điều kiện kinh tế
Chính vì ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong
những điều kiện nhất định từ một phần sản phẩm quốc dân của quốc gia phát
triển sang quốc gia đang phát triển nên các nước viện trợ nói chung đều muốn
đạt được những ảnh hưởng về kinh tế, đem lại lợi nhuận cho hàng hoá và dịch
vụ trong nước. Họ gắn quỹ viện trợ với việc mua hàng hoá và dịch vụ của
nước họ như là một biện pháp nhằm tăng cường khả năng làm chủ thị trường
xuất khẩu và giảm bớt tác động của viện trợ đối với cán cân thanh toán. Các
nước như Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng
hoá và dịch vụ của nước mình. Canada là 70% viện trợ phải mua hàng hoá và
dịch vụ của họ, Thuỵ Sĩ là 1,7%, Hà Lan là 2,25%, New Zeland 0%. Tính
chung trong toàn khối DAC là 22% viện trợ phải được sử dụng để mua hàng
11
hoá và dịch vụ của quốc gia viện trợ. Ngoài ra, vốn ODA còn dọn đường cho
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chảy vào nước tiếp nhận viện trợ.
Thứ ba, ODA gắn liền với các nhân tố xã hội
Nhìn chung, công chúng các nước OECD đều ủng hộ nguyên tắc giúp đỡ
những người cần được giúp đỡ. Uỷ ban Châu Âu chứng minh rằng 40% dân
số coi vấn đề phát triển là rất quan trọng. Ngoài ra, 80% dân số Châu Âu cho
rằng cần phải tăng ngân sách phát triển của liên minh Châu Âu EU. Theo
Nghị quyết của Liên Hợp Quốc, các nước giàu cần trích 0,7% tổng sản phẩm
quốc dân (GNP) của mình để thực hiện nghĩa vụ đối với các nước nghèo, tức
là các nước đang phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế các nước công nghiệp
phát triển lại thực hiện nghĩa vụ rất khác nhau. Theo số liệu năm 1990 cho
thấy, một số nước thực hiện vượt định mức này như: Nauy 1,14% GNP; Đan
Mạch 0,96% GNP; Thuỵ Điển 0,92% GNP; Hà Lan 0,88% GNP, trong khi đó
Mỹ chỉ trích 0,17% GNP; Nhật Bản 0,33% GNP… Ngoài ra, ở các nước có

ODA dưới 0,7% GNP, hơn 70% dân chúng cho rằng Chính phủ nên tăng ngân
sách viện trợ phát triển của nước mình. Ở Nhật Bản, một nước cấp viện trợ
lớn nhất thế giới, theo thăm dò Chính phủ khoảng 47% số người được hỏi
muốn duy trì mức viện trợ hiện tại và 33% muốn tăng hơn nữa.
Về phía nước được nhận viện trợ phần lớn là các nước nghèo, hạn hẹp về
nguồn vốn nên không thể không khai thác và sử dụng nguồn vốn ODA cho sự
phát triển của đất nước. Song nguy cơ lệ thuộc vào nước ngoài, gánh nặng nợ
nần là một thực tế khó tránh khỏi. Mặt khác, các nước nhận viện trợ phải lo
giữ được ổn định về đường lối chính trị và kinh tế, luôn phải giữ được thế chủ
động về kinh tế, chính trị, giữ được bản sắc và truyền thống văn hoá dân tộc.
Từ tính chất và đặc điểm của hỗ trợ phát triển chính thức ODA, các nước
đang phát triển cần giải quyết thoả đáng mối quan hệ kinh tế - chính trị - xã
hội nhằm tranh thủ sự phát triển ở mức cao nhất nhưng cũng phải rất thận
trọng khi sử dụng ODA để không bị lệ thuộc vào bên ngoài.

12
1.1.3. Phân loại:
Tính chất và mục đích viện trợ ODA đa dạng, phạm vi rất rộng, được cụ
thể trong các chương trình dự án của nước nhận viện trợ ODA và đối tác cấp
ODA. Trải qua những giai đoạn thăng trầm với những điều kiện, quyết định
chiến lược và điều kiện thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau của
nhiều nước, và các tổ chức tài trợ đến nay còn nhiều phức tạp, có thể phân
loại ODA theo các tiêu chí sau:
1.1.3.1. Phân loại theo chủ thể tài trợ:
Đây là hình thức quan trọng nhằm đưa ra các đánh giá về khả năng cam
kết hỗ trợ vốn của từng nhà tài trợ và chính sách ưu tiên của họ đối với các
nước đang phát triển. Theo cách thức phân loại này, nguồn ODA bao gồm:
- Hỗ trợ song phương: Là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến
nước kia (thường là nước phát triển viện trợ cho nước kém phát triển
hơn) thông qua hiệp định được ký kết giữa hai Chính phủ. Thông thường

trong tổng số ODA lưu chuyển trên thế giới, phần viện trợ song phương
chiếm tỷ trọng lớn (có khi lên đến 80%), lớn hơn rất nhiều nếu so với
phần viện trợ đa phương. Vì ODA song phương là nguồn vốn được
chuyển trực tiếp giữa hai Chính phủ với nhau nên thủ tục tiến hành cung
cấp và tiếp nhận só với nguồn ODA đa phương đơn giản hơn và thời gian
ký kết viện trợ cũng nhanh hơn. Song các nước cung cấp lại yêu cầu nội
dung của các khoản viện trợ phải rất chi tiết và cụ thể và vì thế hỗ trợ
phát triển song phương chỉ được thực hiện khi một số điều kiện ràng
buộc của nước cung cấp viện trợ được thoả mãn.
- Hỗ trợ đa phương được thực hiện thông qua các tổ chức tài chính quốc tế
(Ngân hàng Thế giới - WB, Quỹ tiền tệ Quốc tế - IMF…), các tổ chức
khu vực (Liên minh Châu Âu - EU, Ngân hàng phát triển Châu Á -
ADB…), các tổ chức phi Chính phủ hoặc của một Chính phủ nước này
dành cho một Chính phủ nước nào đó nhưng được thực hiện thông qua
các tổ chức đa phương trên. Về cơ bản, tài trợ đa phương có thể đáp ứng
13
tương đối linh hoạt các yêu cầu của mỗi nước, với phạm vi rộng hơn và
là điểm tựa để thu hút nguồn vốn vào một số lĩnh vực hoặc khu vực, đặc
biệt là các nước nghèo.
- Hỗ trợ song phương tập thể: Giữa hai hình thức ODA song phương và
ODA đa phương còn có hình thức ODA song phương tập thể. Đây là
hình thức các nhà tài trợ song phương cùng góp vốn đồng tài trợ cho các
chương trình, dự án hỗ trợ phát triển. Hình thức này hiện chưa được sử
dụng phổ biến nhưng sẽ là xu hướng tài trợ trong tương lai vì nó tận
dụng được nguồn lực và lợi thế của mỗi nhà tài trợ cho việc phát triển có
quy hoạch tổng thể theo từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể.
1.1.3.2. Phân loại theo đặc điểm nguồn tài trợ:
Việc phân loại ODA trên cơ sở tính chất và đặc điểm của từng nguồn
vốn tài trợ nhằm tạo điều kiện trong việc đánh giá mức độ ưu đãi của từng
nguồn vốn, giúp cho Chính phủ các nước nhận viện trợ xây dựng tốt chính

sách thu hút vốn, lựa chọn danh mục các chương trình, dự án ưu tiên sử dụng
vốn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội trong từng lĩnh vực.
Theo cách phân loại này, nguồn vốn ODA được chia thành:
- Viện trợ không hoàn lại: Bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà bên nhận
không phải hoàn lại) để bên nhận thực hiện các chương trình dự án theo
sự thoả thuận trước giữa các bên. Có thể coi viện trợ không hoàn lại như
một nguồn thu của ngân sách nhà nước, được sử dụng theo hình thức nhà
nước cấp phát lại cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Viện trợ không hoàn lại được sử dụng ưu tiên cho những chương trình và
dự án thuộc các lĩnh vực y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình, giáo dục
và đào tạo, các vấn đề xã hội như xoá đói, giảm nghèo, phát triển nông
thôn và miền núi, phát triển và tăng cường thể chế, bảo vệ môi trường
môi sinh, quản lý đô thị, nghiên cứu khoa học và công nghệ… Ngoài ra,
ODA không hoàn lại còn hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất trong một số
14
trường hợp cá biệt mà trước nhất là đối với các dự án góp phần tạo việc
làm, giải quyết các vấn đề xã hội ở những nước nhận viện trợ…
Viện trợ không hoàn lại thường được thực hiện dưới dạng:
+ Hỗ trợ kỹ thuật: Thông qua các chuyên gia quốc tế, các tổ chức tài trợ
thực hiện việc chuyển giao công nghệ, hoặc truyền đạt những kinh
nghiệm xử lý, bí quyết kỹ thuật… cho nước nhận tài trợ (dĩ nhiên các
chuyên gia này sẽ được hưởng mức lương rất cao, thường chiếm đến
60 - 70% giá trị khoản viện trợ)
+ Viện trợ nhân đạo bằng hiện vật: Các nước tiếp nhận ODA dưới hình
thức hiện vật nhưng được tính giá khá cao như lương thực, vải, thuốc
chữa bệnh, có khi là vật tư cho không.
- Viện trợ có hoàn lại (còn gọi là các khoản vay ưu đãi, tín dụng ưu đãi):
là các khoản ODA mà các nhà tài trợ cho các nước cần vốn vay một
khoản tiền (tuỳ theo quy mô và mục đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi
và thời gian trả nợ thích hợp. Các khoản tín dụng ưu đãi có nhiều loại và

thường có thời hạn vay trên 20 năm ân hạn đến 10 năm, lãi suất từ 0,5% -
3%/năm. Đồng thời, khoản viện trợ có hoàn lại có chứa đựng thành tố hỗ
trợ quy đổi đạt ít nhất 25% giá trị khoản vay. Tín dụng ưu đãi chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng số vốn ODA trên thế giới và là nguồn phụ thêm để
bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước, vì vậy nó được sử dụng dưới hình
thức tín dụng đầu tư cho các mục đích có khả năng thu hồi vốn, hoàn trả
lại cho Nhà nước cả vốn lẫn lãi để trả nợ nước ngoài. Thông thường, vốn
ODA cho vay theo dự án và các chương trình xây dựng hoặc cải tạo cơ
sở hạ tầng - kinh tế - xã hội với những điều kiện do hai bên đàm phán,
thoả thuận dựa trên những điều kiện cho vay do các nhà tài trợ đưa ra.
- Viện trợ hỗn hợp: Đây là hình thức kết hợp giữa các khoản viện trợ
không hoàn lại, vay ưu đãi, hay tín dụng thương mại (lãi suất tính theo
thị trường). Khoản tài trợ hỗn hợp được coi là ODA phải đảm bảo yếu tố
ưu đãi ít nhất là 25%.
15
1.1.3.3. Phân loại theo hình thức sử dụng vốn:
Hình thức phân loại này là nhằm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, gắn
trách nhiệm vay với khả năng hoàn trả nợ. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính
thức được chia thành:
- Hỗ trợ dự án: Loại viện trợ này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn
thực hiện ODA, là hình thức phổ biến áp dụng trong quá trình cấp vốn
cho các nước nhận viện trợ. Các dự án đầu tư thường có giá trị lớn so với
các loại hình khác, thời gian dự án kéo dài, trong đó thường có công tác
xây dựng nên có thể xem đây là hình thức đầu tư phát triển trực tiếp để
tạo ra của cải, vật chất cho xã hội. Hình thức tài trợ theo dự án phải tuân
thủ nhiều quy định nghiêm ngặt nhất của các nhà tài trợ cũng như yêu
cầu quản lý trong từng nước tiếp nhận vốn, phải có dự án cụ thể chi tiết
về các hạng mục sử dụng ODA từ khâu chuẩn bị dự án, lập báo cáo
nghiên cứu khả thi, giải phóng mặt bằng, xây lắp, mua sắm…
Hỗ trợ dự án có 2 loại:

+ Viện trợ cơ bản (Dự án đầu tư): thường cấp cho những dự án xây dựng
đường xá, cầu cống, đê đập hoặc kết cấu hạ tầng. Thường các dự án này
có kèm theo một bộ phận chủ yếu của viện trợ kỹ thuật dưới dạng thuê
chuyên gia nước ngoài để kiểm tra những hoạt động nhất định nào đó
hoặc để soạn thảo, xác nhận các báo cáo cho các đối tác viện trợ.
+ Viện trợ kỹ thuật (Hỗ trợ kỹ thuật): thường cấp cho nhiều trường hợp:
- Viện trợ tri thức (chiếm tỷ trọng lớn nhất) gồm viện trợ cho hoạt động
chuyển giao công nghệ, đào tạo kỹ thuật hoặc phân tích về mặt quản
lý, kinh tế, thương mại, thống kê hoặc các vấn đề xã hội.
- Viện trợ tăng cường cơ sở
- Lập kế hoạch tư vấn cho các chương trình
- Nghiên cứu tiền đầu tư
- Hỗ trợ các lớp đào tạo tham quan, khảo sát ở nước ngoài như cấp học
bổng đào tạo dài hạn hoặc thiết bị nghiên cứu.
16
- Hỗ trợ chương trình: Đây là loại hình được thực hiện lồng ghép một
hoặc nhiều mục tiêu với tập hợp nhiều dự án. Hỗ trợ theo chương trình
có thể thực hiện để tăng cường cải cách cơ cấu kinh tế vĩ mô, cải cách
thể chế và hợp tác theo ngành kinh tế hoặc trong lĩnh vực xã hội như tài
trợ cho sự phát triển chung về giáo dục. Việc thực hiện các chương trình
này thường kéo dài trong nhiều năm, với sự tham gia của nhiều cơ quan,
tổ chức từ trung ương đến địa phương.
- Hỗ trợ cán cân thanh toán: Bao gồm các khoản ODA nhằm hỗ trợ ngân
sách nhà nước (Chính phủ). Đây là nguồn tài trợ bên ngoài để bù đắp
thâm hụt hay bội chi ngân sách diễn ra khá phổ biến tại các nước đang
phát triển do nhu cầu chi cho đầu tư phát triển ngày càng tăng trong khi
khả năng thu ngân sách còn hạn hẹp. Hình thức này thường được thực
hiện thông qua các dạng:
+ Chuyển giao tiền tệ trực tiếp cho nước nhận (loại hình này ít gặp)
+ Viện trợ hàng hoá (hay hỗ trợ nhập khẩu), tức là chính phủ nước nhận

ODA tiếp nhận một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với các
khoản cam kết, bán cho thị trường nội địa và thu nội tệ.
Ngoại tệ hoặc hàng hoá chuyển vào trong nước theo hình thức hỗ trợ cán
cân thanh toán có thể được chuyển hoá thành hỗ trợ ngân sách. Điều này
xẩy ra khi hàng hoá nhập vào nhờ hình thức này được bán trên thị trường
trong nước và số thu nhập bằng bản tệ được đưa vào ngân sách của
Chính phủ. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng nếu huy động một khối lượng
lớn các khoản ODA cho vay để sử dụng cho việc tiêu dùng ngân sách
trong một thời gian dài sẽ dẫn đến hậu quả là không tạo ra được năng lực
trả nợ của nền kinh tế, làm tích tụ một khối lượng nợ nước ngoài vượt
quá giới hạn an toàn về nợ quốc gia và khả năng trả nợ của ngân sách
nhà nước, đẩy đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng nợ.

1.1.4. Vai trò của nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
17
Hỗ trợ phát triển chính thức, ngay từ khi ra đời đã có hai mục tiêu tồn tại
song song, nhưng thực chất lại mâu thuẫn với nhau. Mục tiêu thứ nhất là thúc
đẩy tăng trưởng dài hạn và giảm nghèo ở các nước đang phát triển. Mục tiêu
thứ hai là tăng cường lợi ích chiến lược và chính trị ngắn hạn của các nước tài
trợ. Vì vậy, các mục tiêu chiến lược và mục tiêu phát triển có ẩn chứa mâu
thuẫn nhưng không nhất thiết phải xung đột với nhau và phải thể hiện ra. Các
nước tài trợ trên thế giới hàng năm đều căn cứ vào kết quả phát triển kinh tế -
xã hội của mình để từ đó điều chỉnh khối lượng vốn tài trợ cung cấp cho các
nước đang phát triển. Bởi vì, mỗi nước tài trợ đều mong muốn lượng ODA do
mình cung cấp được định hướng theo các mục tiêu nói trên, hướng ưu tiên sử
dụng vốn vào một số mục đích và một số khu vực nhất định. Do vậy, nó có
thể phù hợp hoặc chưa phù hợp với các mục tiêu mà các nước tiếp nhận ODA
đề ra. Đây là vấn đề lớn đang tồn tại trong lĩnh vực hỗ trợ phát triển trên thế
giới và vì thế tác dụng của vốn hỗ trợ phát triển chính thức đối với mỗi bên sẽ
mang ý nghĩa khác nhau: một mặt, ODA có thể tác dụng tích cực tới cả bên

cung cấp viện trợ và bên tiếp nhận viện trợ, mặt khác, tác động tích cực của
ODA đối với bên này lại tiềm ẩn yếu tố tiêu cực tới bên kia:
1.1.4.1. Đối với các nước tài trợ:
Viện trợ song phương tạo điều kiện cho các công ty của các nước cung
cấp ODA hoạt động thuận lợi hơn tại các nước tiếp nhận viện trợ một cách
gián tiếp. Các công ty này nhận được sự ưu đãi của các nước sở tại trong công
việc kinh doanh như: giành được quyền ưu tiên trong các cuộc đấu thầu, bán
sản phẩm, làm cho các sản phẩm của học tăng thêm tính cạnh tranh so với các
sản phẩm cùng loại có xuất xứ từ các nước khác. Với sự gia tăng của vốn
ODA, các dự án đầu tư của những công ty thuộc nước viện trợ cũng tăng theo
với những điều kiện thuận lợi, đồng thời kéo theo sự gia tăng về thương mại
giữa hai quốc gia: nước nhận viện trợ có thêm điều kiện tốt để phát triển kinh
tế, sức mua của thị trường nội địa tăng lên cũng có nghĩa là thị trường xuất
khẩu của những nước cung cấp ODA được mở rộng. Khi cấp viện trợ ODA,
18
các nước viện trợ đều xuất phát từ quyền lợi kinh tế sát sườn của chính mình
nhằm mục đích thu về những khoản lợi nhuận cao. Để đạt được điều đó thông
qua cách thức viện trợ ODA, các nhà tài trợ đưa ra các điều kiện ràng buộc
đối với nước nhận viện trợ. Ví dụ đối với những quốc gia hỗ trợ dự án khi
chấp nhận cung cấp ODA, có nghĩa là một động tác cộng phí từ ngân sách
nước họ đã được hình thành, tiếp theo là nhà thầu của những nước này trúng
thầu để họ trực tiếp thực hiện dự án theo nội dung điều ước hỗ trợ vốn ODA
mà Chính phủ hai nước đã chấp thuận. Đồng thời khi chuyên gia hay nhà thầu
nước ngoài vào làm việc tại nước tiếp nhận họ sẽ được miễn thuế thu nhập,
thuế lợi tức tại nước nhận ODA.
Ngoài những nguồn lợi về kinh tế, thông qua ODA, các đối tác viện trợ
nước ngoài củng cố mạnh mẽ vị thế của mình trên trường Quốc tế, sử dụng
ODA như một công cụ, một điều kiện để áp dụng “dân chủ” quan hệ hợp tác
với một số nước. Thực tế chứng minh rằng quan hệ chính trị tốt khiến cho
nguồn vốn ODA có ý nghĩa quan trọng trong quá trình ổn định kinh tế - xã

hội. Đây là tác động tích cực với cả hai bên tuy nhiên điều đó cũng tiềm ẩn
những yếu tố tiêu cực. Khi ảnh hưởng chính trị của nước cung cấp viện trợ
quá lớn gây ra những áp lực cho nước nhận viện trợ dẫn đến những ảnh
hưởng tiêu cực về mặt kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội trong tương lai dài
cho nước nhận viện trợ tăng lên. Một số tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức
tôn giáo có thể lợi dụng viện trợ thực hiện các hoạt động bất hợp pháp, thiếu
lành mạnh.
Ảnh hưởng tiêu cực lớn nhất đối với các nước cung cấp viện trợ là áp
lực của công chúng trong nước. Họ cho rằng việc Chính phủ cung cấp tài trợ
cho các nước khác đồng nghĩa với việc làm giảm thu nhập và mức sống của
nhân dân trong nước. Áp lực này càng trở nên mạnh mẽ hơn trong điều kiện
nền kinh tế của những nước cung cấp viện trợ gặp khó khăn do những suy
thoái và khủng hoảng kinh tế trong nước. Điều này đã xảy ra với một số nước
cung cấp viện trợ như Nhật Bản (trong thập kỷ 90), Hàn Quốc (những năm
19
cuối của thập kỷ 90, khi khủng hoảng kinh tế ở khu vực Đông Á và Đông
Nam Á xảy ra). Ngoài ra, việc Chính phủ của một nước phát triển dành vốn
ODA để viện trợ cho những nước khác có thể cũng ảnh hưởng đến một số
chương trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trong nước.
1.1.4.2. Đối với các nước tiếp nhận viện trợ:
Nguồn vốn ODA tài trợ cho các nước đang phát triển rất thành công khi
các khoản tài trợ này đã giúp các nước thoát ra từ khủng hoảng để có được sự
phát triển nhanh chóng. Nguồn lực này cũng đóng vai trò quan trọng trong
từng sự biến đổi, đóng góp các ý tưởng về chính sách phát triển, đào tạo các
nhà hoạch định chính sách công, tài trợ cho cải cách và mở rộng các dịch vụ
công cộng nhằm thúc đẩy phát triển xã hội. Ngược lại, đôi khi tài trợ cũng
thất bại và không hiệu quả nếu các nước được nhận vốn tài trợ không có chính
sách huy động, sử dụng và giải ngân hợp lý. Vai trò chủ yếu của ODA đối với
công cuộc tăng trưởng và phát triển của các nước nghèo là:
Thứ nhất, viện trợ ODA thúc đẩy tăng trưởng, góp phần làm giảm đói

nghèo, cải thiện các chỉ tiêu xã hội. Có thể nói đây là mục tiêu chính của viện
trợ ODA đối với các nước đang phát triển. Nhờ có viện trợ, nước nhận viện
trợ có cơ chế quản lý tốt, tạo được môi trường thuận lợi hấp dẫn các nhà đầu
tư nước ngoài, thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), thúc đẩy
mạnh mẽ đầu tư tư nhân và phát triển nguồn nhân lực, cải thiện thể chế và
chính sách kinh tế, là chìa khoá để tạo bước nhảy vọt về lượng trong thúc đẩy
tăng trưởng, làm giảm đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ chặt
chẽ với tạo công ăn việc làm nhằm tăng thu nhập đầu người, dẫn đến giảm tỷ
lệ đói nghèo, cải thiện các chỉ tiêu xã hội như tuổi thọ, tỷ lệ nhập học, tỷ lệ trẻ
em sơ sinh tử vong, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng…
Thứ hai, viện trợ bổ sung cho sự thiếu hụt nguồn vốn đầu tư trong nước
nhằm rút ngắn thời gian tích luỹ vốn ban đầu, đồng thời bổ sung nguồn ngoại
tệ cho đất nước, nhằm tạo nguồn bù đắp thâm hụt cán cân vãng lai và đáp ứng
nhu cầu chuyển đổi tiền bản tệ để nhập khẩu trang thiết bị cho các dự án đầu
20
tư, chuyển giao công nghệ - kỹ thuật nhằm tạo ra khả năng ứng dụng các
thành tựu của khoa học - công nghệ, đồng thời giới thiệu phương thức quản lý
tiên tiến. Đây là vai trò quan trọng mà các nhà tài trợ, nhà cung cấp có thể
mang lại cho các nước nhận viện trợ kỹ thuật công nghệ hiện đại, kỹ xảo
chuyên môn, bí quyết và trình độ quản lý tiên tiến, làm tăng thêm tiềm lực
khoa học - công nghệ của các nước đang phát triển.
Nhưng như đã nói ở trên, tác dụng của ODA đối với mỗi bên có thế có
những ý nghĩa khác nhau: hạn chế rõ nhất của viện trợ phát triển chính thức
ODA là các nước nhận viện trợ phải đáp ứng yêu cầu của bên cấp viện trợ,
nếu không sẽ không được nhận viện trợ. Thông thường các nhà tài trợ đều sử
dụng viện trợ như là công cụ để buộc các nước tiếp nhận thay đổi chính sách
kinh tế - xã hội, chính sách đối ngoại sao cho phù hợp với lợi ích của bên
cung cấp. Vì vậy, các điều kiện viện trợ bị coi như các trói buộc.
Nguồn vốn ODA đa phương, đặc biệt là nguồn viện trợ không hoàn lại
mặc dù có ưu điểm giúp các nước tiếp nhận viện trợ khôi phục và phát triển

kinh tế nhưng nó cũng có mặt tiêu cực ở chỗ dễ tạo ra nạn tham nhũng trong
các quan chức Chính phủ hoặc phân hoá giầu nghèo trong tầng lớp dân
chúng nếu việc sử dụng, giải ngân nguồn vốn này không có chính sách kiểm
soát, quản lý chặt chẽ. Ngay ở trong một nước, tình trạng tập trung ODA vào
các thành phố trọng điểm cũng tạo ra sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế của
nước tiếp nhận.
Tóm lại, nguồn vốn ODA chỉ phát huy hết tác dụng của nó trong một cơ
chế quản lý tốt, một thể chế lành mạnh và một môi trường chính trị ổn định.
Nếu không, chẳng những ODA đã không phát huy vai trò của nó mà còn đem
lại gánh nặng nợ nần cho các nước đang phát triển. Nhận thức được tầm quan
trọng của vấn đề này, một số nước đang phát triển đă tích cực nắm bắt tình
hình cung cấp và định hướng ưu tiên sử dụng vốn ODA của các nhà tài trợ, từ
đó làm cơ sở cho việc điều chỉnh hợp lý cơ chế quản lý, xây dựng chiến lược

×