Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Quản lý nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Việt Nam và giải pháp cho những năm tiếp theo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.92 KB, 52 trang )

LỜI GIỚI THIỆU
Trong công cuộc xây dựng đất nước tất các nguồn vốn đều vô cùng
quan trọng, nó sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế tạo điều kiện phát huy hết
tiền lực của đất nước. trong đó chúng ta không thể không kể đến nguồn vốn
ODA.
Ngoài tính chất ưu đãi, vốn ODA khác so với hai loại vốn trên là: ODA
chỉ là sự chuyển nhượng vốn mang tính chất trợ giúp từ các nước phát triển
sang các nước đang phát triển. Đặc điểm này cho thấy nguồn vốn ODA là
nhân tố quan trọng tạo nên các cơ hội phát triển cho các nước nghèo và kém
phát triển.
Về thực chất ODA cũng là một khoản nợ nước ngoài mà các nước nhận
tài trợ cần phải trả. Vì thế, việc quản lý và sử dụng ODA sao cho có hiệu quả
phù hợp với các mục tiêu và định hướng phát triển của đất nước là một yêu
cầu khách quan.
Chính vì nguồn vốn ODA có đặc biệt quan trọng với đất nước chúng ta
vì vậy em đã chọn đề tài: “Quản lý nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) của Việt Nam và giải pháp cho những năm tiếp theo” làm đề tài
của mình. Tuy nhiên, Vì sự hiểu biết còn nhiều hạn chế nên nội dung của đề
tài không tránh khỏi những sai sót. Do vậy, em mong nhận đươc sự giúp đỡ,
chỉ bảo thầy cô để cho đề tài của em thêm hoàn thiện.
.
1
CHƯƠNG I: Cơ sở lý luận về quản lý nguồn vốn (ODA)
I. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
1. khái niệm:
ODA là tên gọi tắt của ba chữ tiếng Anh: Official Development
Assistance, có nghĩa là Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ
phát triển chính thức.
Năm 1972, OECD, Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển đã đưa ra khái
niệm ODA là “một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích chính là
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện


tài chính của giao dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không
hoàn lại chiếm ít nhất 25%”.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần thu nhập quốc gia từ các
nước phát triển sang các nước đang và chậm phát triển. Liên hiệp quốc, trong
một phiên họp toàn thể của Đại hội đồng vào năm 1961 đã kêu gọi các nước
phát triển dành 1% GNP của mình để hỗ trợ sự nghiệp phát triển bền vững về
kinh tế và xã hội của các nước đang phát triển.
Theo Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
ban hành kèm theo Nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính
Phủ thì ODA được định nghĩa như sau: “Hỗ trợ phát triển chính thức (gọi tắt
là ODA) được hiểu là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính
Phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Nhà tài trợ là Chính phủ
nước ngoài, các tổ chức tài trợ song phương và các tổ chức liên quốc gia hoặc
liên chính phủ”.
Một cách khái quát, chúng ta có thể hiểu ODA bao gồm các khoản viện
trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại, hoặc tín dụng ưu đãi của các Chính
phủ, các tổ chức liên Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức thuộc
2
hệ thống Liên hợp quốc (United Nations -UN), các tổ chức tài chính quốc tế
dành cho các nước đang và chậm phát triển.
Trên thế giới, ODA đã được thực hiện từ nhiều thập kỷ gần đây, bắt đầu
từ kế hoạch MacSall của Mỹ cung cấp viện trợ cho Tây Âu sau chiến tranh
thế giới thứ II. Tiếp đó là hội nghị Colombo năm 1955 hình thành những ý
tưởng và nguyên tắc đầu tiên về hợp tác phát triển. Sau khi thành lập, tổ chức
hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) năm 1961 và Ủy ban hỗ trợ phát triển
(DAC), các nhà tài trợ đã lập lại thành một cộng đồng nhằm phối hợp với các
hoạt động chung về hỗ trợ phát triển. trong thời kỳ chiến tranh lạnh và đối đầu
Đông – Tây, thế giới tồn tại ba nguồn vốn chủ yếu:
- Liên Xô và Đông Âu
- Các nước thuộc tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển.

- Các tổ chức quốc tế và phi chính phủ.
Về thực chất, ODA la sự chuyển giao một phần GNP từ các nước phát
triển sang các nước đang phát triển. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc kêu gọi các
nước phát triển dành 1% GDP để cung cấp ODA cho các nước đang phát triển
và chậm phát triển.
Bản thân các nước phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hợp
tác giúp đỡ các nước đang phát triển để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Đi đôi với sự quan tâm lợi ích kinh tế đó, các nước phát triển nhất là đối với
các nước lớn còn sử dụng ODA như một công cụ chính trị để xác định vị trí
và ảnh hưởng tại các nước và khu vực tiếp cận ODA.
Các nước đang phát triển đang thiếu vốn nghiêm trọng để phát triển kinh
tế xã hội. Vốn ODA là một trong các nguồn vốn ngoài nước có ý nghĩa hết
sức quan trọng, nó giúp thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế đất nước. Tuy
nhiên, ODA không thể thay thế được vốn trong nước mà chỉ là chất xúc tác
tạo điều kiện khai thác sử dụng các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước.
ODA có hai mặt: Nếu sử dụng một cách phù hợp sẽ hỗ trợ thật sự cho công
3
cuộc phát triển kinh tế xã hội, nếu không đó sẽ là một khoản nợ nước ngoài
khó trả trong nhiều thế hệ. Hiệu quả sử dụng ODA phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, mà một trong số đó là công tác quản lý và điều phối nguồn vốn này. Nghị
đinh số 20 của Chính phủ khẳng định ODA cho Việt Nam là một trong những
nguồn quan trọng của ngân sách Nhà nước được sử dụng cho những mục tiêu
ưu tiên của công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Tính chất ngân
sách của ODA thể hiện ở chỗ nó được thông qua Chính phủ và toàn dân được
thụ hưởng lợi ích do các khoản ODA mang lại.
Việc cung cấp ODA được thực hiện thông qua các kênh sau đây:
- Song phương:
+ Trực tiếp Chính phủ với Chính phủ.
+ Gián tiếp Chính phủ với Chính phủ thông qua các tổ chức phi chính
phủ hoặc tổ chức quốc tế.

- Đa phương:
+ Các tổ chức quốc tế cung cấp ODA trực tiếp cho Việt Nam.
+ Các tổ chức phi chính phủ cung cấp ODA trực tiếp cho Việt Nam.
Xu hướng của nguồn vốn ODA những năm gần đây:
ODA là nguồn vốn vay ưu đãi, không phải vốn vay mang tính thương mại,
nên trong tổng số vốn vay bao giờ cũng có hai phần. Một phần là cho không,
chiếm ít nhất 25%, còn lại là phần vay ưu đãi với lãi suất thấp (dưới 3%, trung
bình 1-2%/ năm), hoặc không lãi suất, thời gian trả nợ dài hạn (25-40 năm),
kèm theo thời gian ân hạn (08-10 năm). Ví dụ, Ngân hàng phát triển châu Á
(ADB) cho Việt Nam vay 55 triệu USD năm 2004 để "phát triển giáo dục
trung học cơ sở", với thời hạn 32 năm, 8 năm ân hạn, lãi suất 1% năm trong
thời gian ân hạn và 1,5%/ năm trong thời gian sau đó.
các nước nhận ODA phải là những nước có thu nhập dưới mức trung bình
tính theo chuẩn của Liên hiệp quốc hay còn gọi là các nước đang phát triển.
4
Năm 2005 theo tài liệu của UNDP, hiện nay có 20% dân số thế giới sống mỗi
ngày chỉ có 1USD. Do vậy, ODA chủ yếu dùng để phát triển kinh tế, xã hội
thuần tuý và không mang tính lợi nhuận nhằm để giúp các nước đang phát
triển thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Lĩnh vực được đầu
tư nhiều nhất bằng ODA là phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật và xã
hội, y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo, phát triển nông thôn, ô nhiễm môi
trường.
Bảng 1. ODA của các nhà tài trợ chính giai đoạn 1990-2003
ĐVT: Tỷ USD
Năm
Nước
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Tổng ODA 54,3 58,3 62,4 56,1 58,8 58,8 55,6 48,5 52,1 53,2 53,7 52,4 58,3 69,0
Nhóm G7 42,4 45,6 48,6 44,6 46,6 44,7 41,3 35,1 38,6 39,4 40,2 38,2 42,6 49,9
Mỹ 11,4 11,3 11,7 10,1 9,9 7,4 9,4 6,9 8,8 9,1 10,0 11,4 13,3 16,3

Nhật 9,1 11,0 11,2 11,3 13,2 14,5 9,4 9,4 10,6 12,2 13,5 9,8 9,3 8,9
Pháp 7,2 7,4 8,3 7,9 8,5 8,4 7,5 6,3 5,7 5,6 4,1 4,2 5,5 7,3
Đức 6,3 6,9 7,6 7,0 6,8 7,5 7,6 5,9 5,6 5,5 5,0 5,0 5,3 6,8

Nguồn: www.oecd.org
Nhà tài trợ chính ODA là các nước thuộc nhóm OECD. Đây là nhóm
những nước phát triển nhất thế giới, cũng như các tổ chức phi chính phủ như
UNDP, WB, ADB, IMF và các tổ chức khác thì cũng do nhóm các nước này
chi phối, đóng góp và có ảnh hưởng lớn. Nhìn vào Bảng 1 ta thấy lượng ODA
cung cấp của các nước nhóm G7 chiếm tỷ trọng lớn, bình quân hơn 70% tổng
ODA thế giới. Năm 1990 ODA thế giới là 54,3 tỷ USD thì nhóm G7 đóng
góp 42,4 tỷ USD, chiếm 78,08% và đến năm 2003 vẫn chiếm 72,31%, tương
đương 49,9 tỷ USD. Trong số các nước viện trợ ODA thì Mỹ là nhà viện trợ
lớn nhất, sau đó là đến Nhật Bản. Riêng năm 1995 ODA của Mỹ thấp nhất chỉ
5
đạt 7,4 tỷ USD, chiếm 12,56% và năm nhiều nhất là 2003 với 16,3 tỷ USD,
chiếm 23,62% tổng ODA của thế giới.
ODA không ổn định, khối lượng có xu hướng giảm. Giai đoạn 1990-2002
ODA thế giới tăng liên tục trên 7%/ năm, riêng năm 1992 đạt mức cao nhất kể
từ 1990-2002 với 62,4 tỷ USD và đột ngột tăng lên năm 2003 với 69 tỷ USD,
tăng 18,35%, tương đương 10,7 tỷ USD so với 2002. Từ năm 1997 -2001
mức ODA của thế giới ở mức thấp, trong đó năm 1997 ở mức thấp nhất là
48,5 tỷ USD do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (xem Bảng 1).
Ngoài ra, để giải thích cho lý do sụt giảm ODA cả về con số tuyệt đối và
tương đối những năm 1990 vì có liên quan đến ba sự kiên sau: các vấn đề
ngân sách ở các nước OECD, chiến tranh lạnh kết thúc và nguồn vốn tư nhân
đổ vào các nước đang phát triển tăng mạnh
Trong những năm gần đây, các nước OECD đang phải đấu tranh để kiểm
soát thâm hụt ngân sách và kiềm chế gia tăng chi tiêu của chính phủ. Mặc dù
viện trợ cho nước ngoài chiếm một phần rất nhỏ của ngân sách, nhưng nó là

một trong những nội dung đầu tiên phải cắt giảm. Trong giai đoạn 1991-1997,
tất cả các nhà tài trợ lớn đều giảm tỷ lệ viện trợ trong GNI của mình. Mỹ là
nước giảm viện trợ mạnh nhất vào năm 1997 viện trợ của nước này chỉ còn
0,08% GNI. Thuỵ Điển và các nước Bắc Âu khác có truyền thống là những
nước hào phóng cũng chỉ đóng góp 1% GNI cho viện trợ. Nhưng, trong số các
nước lớn thì Pháp là nước duy nhất đóng góp hơn 0,45%. Năm 1997 các nước
OECD chỉ đóng góp được 0,22% GNI. Chiến tranh lạnh kết thúc đã ảnh
hưởng tới quyết định của một số nước do đó có nguy cơ mất đi sự hỗ trợ to
lớn của chính phủ các nước tài trợ.
Năm là, ODA do chính nước nhận viện trợ quản lý và sử dụng nhưng
luôn có sự giám sát từ phía nhà tài trợ, tuy nhiên sự giám sát này không trực
tiếp. Chính vì nguyên nguyên nhân này mà ODA đôi khi sử dụng kém hoặc
6
không hiệu quả nếu như nước tiếp nhận ODA thiếu hoặc chưa nhận thức được
trách nhiệm của mình trong việc quản lý và sử dụng nguồn viện trợ này sao
cho hiệu quả. Hơn nữa, cùng với sự ưu đãi từ nguồn viện trợ này như việc vay
ưu đãi với lãi suất thấp, chỉ bằng 1/10 so với vốn vay thông thường và một
phần cho không, thời gian trả nợ dài gồm cả thời gian ân hạn là 40-50 năm.
Điều kiện ưu đãi này đã dẫn đến một số người có tư tưởng xem nhẹ hiệu quả
sử dụng ODA với tư cách là khoản vay cần phải trả nợ. Thực tế điều này đã
xảy ra với một số nước châu Phi như Cộng hoà dân chủ Cônggô hoặc vụ án
PMU 18 ở Việt Nam vừa qua.
ODA có quá nhiều nhà tài trợ trong khi ít chú trọng đến sự phối hợp. Điều
này gây ra khó khăn và quá tải về năng lực của bộ máy công quyền cho nước
nhận viện trợ về thủ tục cũng như sự phối kết hợp giữa nhiều các nhà tài trợ
với nhau về cùng một lĩnh vực, một dự án, một công trình trong cùng một
nước. Đôi khi dẫn đến sự trùng lặp về đòi hỏi từ phía các nhà tài trợ. Điển
hình là vùng cận Sahara châu Phi phải giao dịch với hơn 30 nhà tài trợ, hàng
tá các tổ chức phi chính phủ khác; Etopia nhận viện trợ 37 nhà tài trợ trong
năm 2003. Mỗi nhà tài trợ mang đến hàng tá dự án; Việt Nam cũng vậy với

hàng chục, hàng trăm các nhà tài trợ song phương, đa phương và tổ chức phi
chính phủ khác.

7
Bảng 2. ODA của thế giới phân bổ theo khu vực qua một số năm
ĐVT: %
Năm
Khu vực
1990-1991 1995-1996 2000-2001
Cận Sahara châu Phi 33,8 33 30,4
Nam và Trung Á 14,7 15,0 17,6
Châu Á khác và châu Đại
Dương
16,6 22,1 20,6
Trung Đông và Bắc Phi 20,9 13,0 10,5
Châu Âu 2,9 4,3 7,8
Mỹ Latin và Caribê 11,7 12,5 13,1
Nguồn: www.oecd.org
ODA phân bố không đều giữa các khu vực trên thế giới. Bảng 2 thể hiện
tiểu vùng Sahara châu Phi là khu vực nhận được ODA lớn nhất của thế giới
chiếm trên 33% và có giảm chút ít về sau nhưng không đáng kể. Khu vực này
thuộc điểm nóng về nạn đói và suy dinh dưỡng trên thế giới hiện nay với tỷ lệ
nghèo 41,1%, giảm 6% so với năm 2000. Khu vực thấp nhất nhận được ODA
viện trợ là châu Âu, nhưng có xu hướng tăng lên từ 2,9% lên 4,3% và 7,8%
năm 2000-2001. Đặc biệt, khu vực Trung Đông và Bắc Phi có xu hướng
giảm từ 20,9% xuống 13% và đến năm 2000-2001 còn 10,5%. Những năm
gần đây khu vực châu Á chiếm tỷ lệ ODA cao nhất do đạt được tốc tăng
trưởng kinh tế cao và ổn định như Trung Quốc và Ấn Độ.
Việt Nam hiện vẫn là nước đang phát triển với thu nhập đầu người dưới
1000 USD/ năm, nên Việt Nam cũng là một trong những nước nhận viện trợ

nguồn vốn ODA hàng năm và trong phạm vi bài viết này tôi xin nêu lên một
vài đặc điểm điển hình của nguồn vốn ODA ở Việt nam giống với những đặc
điểm đã nêu ở trên. Cụ thể là nguồn vốn ODA của Việt Nam thu hút được chủ
yếu từ các nước phát triển thuộc nhóm OECD, trong đó Nhật Bản là đối tác
quan trọng nhất và lớn nhất với tổng vốn ODA viện trợ cho Việt Nam từ 1993
8
đến 2007 đạt gần 10 tỷ USD, thứ hai là WB đạt gần 8 tỷ USD, thứ ba là ADB
hơn 4 tỷ USD. Trong giai đoạn 1993-2008, nguồn vốn ODA cho Việt Nam
chủ yếu được viện trợ trong các ngành và lĩnh vực sau (Xem Biểu đồ 3). Giao
thông Vận tải và bưu chính viễn thông là ngành tiếp nhận vốn ODA lớn nhất
với tổng giá trị ký kết đạt khoảng 9,88 tỷ USD. Năng lượng và công nghiệp là
lĩnh vực lớn thứ hai với tổng số vốn đã ký đạt trên 7,6 tỷ USD. Lĩnh vực nông
nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo lớn thứ ba đạt
tổng trị giá khoảng 5,5 tỷ USD. Y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, khoa học
kỹ thuật là những lĩnh vực lớn thứ tư với tổng số vốn đã ký kết đạt khoảng 4,3
tỷ USD. Điều đáng lưu ý nữa là hiện nay Việt Nam có khoảng hơn 50 nhà tài
trợ song phương và hàng chục nhà tài trợ đa phương, trong đó mỗi nhà tài trợ
lại có những quy trình, thủ tục và phương pháp quản lý riêng; mặt khác đôi
khi những quy trình, thủ tục, và cách quản lý này lại khác với những quy định
của pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, còn có sự trùng lặp về các thủ tục giữa các
nhà tài trợ trong cùng một dự án, một lĩnh vực. Tất cả những điều này gây ra
gây khó khăn không nhỏ trong công tác quản lý cho Việt Nam, cũng như gây
ra sự chồng chéo về thủ tục và lẵng phí không cần thiết.
2. Các loại hình ODA
2.1. Xét theo mục đích ODA gồm các hình thức chủ yếu sau:
- Hỗ trợ cán cân thanh toán:
Thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp (chuyển giao tiền tệ nhưng đôi khi
là hiện vật hoặc hỗ trợ nhập khẩu). Ngoại tệ và hàng hoá chuyển trong nước
qua hình thức này được chuyển hoá thành hỗ trợ ngân sách.
- Hỗ trợ chương trình (còn gọi là viện trợ phi dự án):

9
Là viện trợ khi đạt được một hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung
cấp một khối lượng ODA cho một mục đích tổng quát với thời hạn nhất định
để thực hiện nhiều nội dung khác nhau của một chương trình.
- Hỗ trợ dự án:
Là hình thức chủ yếu của hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm hỗ trợ
cơ bản và hỗ trợ kỹ thuật. Trên thực tế có trường hợp một dự án kết hợp cả
hai loại hình hỗ trợ cơ bản và hỗ trợ kỹ thuật.
2.2. Xét theo hình thức tiếp nhận vốn
- Viện trợ không hoàn lại: Thường là hỗ trợ kỹ thuật, chủ yếu là chuyển
giao công nghệ, kiến thức, kinh nghiệm thông qua các hoạt động của chuyên
gia quốc tế. Đôi khi viện trợ này là hoạt động nhân đạo như lương thực, thuốc
men hoặc các loại hàng hoá khác... nên chúng rất khó huy động vào các mục
đích đầu tư phát triển. Thêm vào đó các khoản viện trợ không hoàn lại thường
kèm theo một số điều kiện về tiếp nhận, về đơn giá... mà nếu nước tiếp nhận
có vốn chủ động sử dụng thì chưa chắc đã phải chấp nhận những điều kiện
như vậy hoặc không sử dụng với đơn giá thanh toán cao gấp 2-3 lần. Do đó
khi sử dụng các nguồn vốn ODA cho không, cần hết sức thận trọng.
- Các khoản vay ưu đãi ODA có thể sử dụng cho mục tiêu đầu tư phát
triển. Tính chất ưu đãi của khoản vay này thể hiện ở khía cạnh sau:
+ Lãi suất thấp.
+ Thời gian vay dài.
+ Thời gian ấn hạn từ khi vay đến khi trả vốn gốc đầu tiên khá dài
thường khoảng 5-10 năm trở lên.
Thông thường các nước tiếp nhận ODA để đầu tư vào các dự án kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội, nhằm tạo ra điều kiện thuận lợi cho sản xuất và đời
sống, tạo môi trường hạ tầng cơ sở để tiếp tục thu hút vốn đầu tư.
10
3. Vai trò của ODA trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các
nước đang phát triển.

Đối với tất cả các quốc gia tiến hành công nghiệp hoá đất nước thì vốn
là một yếu tố một điều kiện tiền đề không thể thiếu. Nhất là trong điều kiện
hiện nay, với những thành tựu mới của khoa học và công nghệ cho phép các
nước tiến hành công nghiệp hoá có thể rút ngắn lịch sử phát triển kinh tế khắc
phục tình trạng tụt hậu và vận dụng được tối đa của lợi thế đi sau.
Nhưng để làm được những điều đó thì nhu cầu về nguồn vốn là vô cùng
lớn trong khi đó ở giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hoá thì tất cả các
nước đều dựa vào nguồn vốn bên ngoài mà chủ yếu là ODA và FDI.
Trong đó ODA là nguồn vốn của các Chính phủ, các quốc gia phát
triển, các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi Chính phủ hoạt động với mục
tiêu trợ giúp cho chiến lược phát triển của các nước đang và chậm phát triển.
Do vậy, nguồn vốn ODA có những ưu đãi nhất định, do những ưu đãi này mà
các nước đang và chậm phát triển trong giai đoạn đầu của công cuộc công
nghiệp hoá đất nước thường coi ODA như là một giải pháp cứu cánh để vừa
khắc phục tình trạng thiếu vốn đầu tư trong nước, vừa tạo cơ sở vật chất ban
đầu nhằm tạo dựng một môi trường đầu tư thuận lợi để kêu gọi nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư trong
nước phát triển. Như vậy, có thể nói nguồn vốn ODA có vai trò quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế của các nước đang và chậm phát triển, điều
đó được thể hiện như sau:
- ODA có vai trò bổ sung cho nguồn vốn trong nước. Đối với các nước
đang phát triển các khoản viện trợ và cho vay theo điều kiện ODA là nguồn
tài chính quan trọng giữ vai trò bổ sung vốn cho quá trình phát triển.
Trong thời kỳ đầu của các nước NIC và ASEAN Viện trợ nước ngoài
có một tầm quan trọng đáng kể.
11
Đài loan: trong thời kỳ đầu thực hiện công nghiệp hoá đã dùng viện trợ
và nguồn vốn nước ngoài chiếm 50% tổng khối lượng vốn đầu tư trong nước.
Sau khi nguồn tiết kiệm trong nước tăng lên, Đài loan mới giảm sự lệ thuộc
vào viện trợ.

Hàn Quốc: có được nguồn viện trợ từ Mỹ rất lớn chiếm 81,2% tổng
viện trợ của nước này trong những năm 70-72 nhờ đó mà giảm được sự căng
thẳng về nhu cầu đầu tư và có điều kiện thuận lợi để thực hiện các mục tiêu
kinh tế.
Còn ở hầu hết các nước Đông Nam Á sau khi giành được độc lập, đất
nước ở trong tình trạng nghèo nàn và lạc hậu, để phát triển cơ sở hạ tầng đòi
hỏi phải có nhiều vốn và khả năng thu hồi vốn chậm. Giải quyết vấn đề này
các nước đang phát triển nói chung và các nước Đông nam Á nói riêng đã sử
dụng nguồn vốn ODA.
Ở Việt Nam ODA đóng vai trò rất quan trọng trong chương trình đầu tư công
cộng, làm nền tảng cho hoạt động phát triển kinh tế - xã hội gần đây của Việt
Nam. Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đã phát triển mạnh ở Việt Nam trong
thập kỷ qua nhờ công cuộc đổi mới với mức tăng trưởng GDP bình quân đạt
7,5%/ năm. dự báo của các chuyên gia kinh tế là lạc quan. Việt Nam tiếp tục
cần một lượng vốn cho tăng trưởng trong giai đoạn 2006-2010, trong khi khả
năng và kinh nghiệm giải ngân đã có một bước tiến đáng kể so với giai đoạn
2001-2005.
Tuy nhiên, cũng có không ít những khó khăn trong quá trình vận động,
thu hút ODA ở giai đoạn sắp tới. Đó là, các nước giàu trên thế giới như Mỹ,
Nhật Bản, EU... đều giữ nguyên hoặc cắt giảm nguồn vốn ODA, trong khi
nhu cầu vốn cho các nước đang phát triển có thu nhập thấp lại tăng mạnh,
nhất là các nước vùng Trung Đông, châu Phi và các nước đang khắc phục hậu
quả động đất, sóng thần.
12
Theo dự báo của các chuyên gia, những nhà tài trợ đã dành cho Việt
Nam nhiều vốn ODA (như Nhật Bản, EU...) sẽ tiếp tục tăng hoặc giữ nguyên
mức cam kết trong giai đoạn tới. Tuy nhiên, đỉnh điểm của việc vận động, thu
hút vốn ODA có thể sẽ diễn ra vào các năm 2005- 2006 và giảm dần vào năm
2009-2010. “Do vậy, chúng ta phải tranh thủ thời kỳ “hoàng kim” sắp tới để
thu hút càng nhiều càng tốt vốn ODA cho giải ngân vào những năm tiếp sau

năm 2010”, một quan chức Bộ KH&ĐT bày tỏ quan điểm.
Thực tế cho thấy, thời gian giải ngân cho mỗi dự án sử dụng vốn ODA,
đặc biệt là các dự án xây dựng cơ bản, thường phải mất 5 năm kể từ khi nhà
tài trợ cam kết cho đến khi kết thúc dự án. Như vậy, giai đoạn 2006-2010 chủ
yếu sẽ giải ngân phần vốn ODA cam kết trong thời kỳ 2001-2005. “Nguốn
vốn đã được đảm bảo chắc chắn, vấn đề còn lại là những nỗ lực giải ngân của
chúng ta mà thôi”, vẫn vị quan chức này nói.
Theo tính toán, nếu không có gì đột biến thì tổng nguồn vốn ODA giải
ngân trong giai đoạn 2005-2010 là khoảng 11 tỷ USD. Trong năm 2005, mức
giải ngân sẽ vào khoảng 1,7 tỷ USD và tăng lên 2 tỷ USD vào năm 2006, rồi
ổn định ở mức 2,2 đến 2,3 tỷ USD trong các năm tiếp theo. Tuy nhiên, nguồn
vốn cam kết có thể giảm từ mức dự kiến 3,5 tỷ USD trong năm nay xuống
còn trên 2,8 tỷ USD vào năm 2010.
. Do chúng ta vẫn là nước đang phát triển nên hoạt động quản lý kinh
tế - xã hội ở Việt Nam cho thấy đất nước ta tiếp cận rất tốt nguồn ODA ưu đãi
dưới hình thức viện trợ không hoàn lại và tín dụng có lãi suất thấp. Sự khan
hiếm nguồn FDI hiện nay do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã cũng
gây ra suy giảm trong tiến trình tiến hành cải cách kinh tế ở Việt Nam, đã tạo
thêm căng thẳng cho các nguồn lực đầu tư công cộng hỗ trợ thúc đẩy tăng
trưởng trong khi vẫn đảm bảo thúc đẩy các dịch vụ xã hội. Do đó, ODA ngày
13
càng đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ các chi tiêu phát triển của
Chính phủ.
Trên thực tế do tính chất ưu đãi của vốn ODA mà các quốc gia sử dụng
nó thường lo sợ về gánh nặng nợ nần nhưng thực tế thì đó là nỗi lo sợ của các
nước quản lý và sử dụng nguồn vốn này không hiệu quả. Gánh nặng nợ nần
sẽ được giảm rất nhiều nếu biết quản lý để đem lại hiệu quả sử dụng ODA
cao.
- ODA dưới dạng viện trợ không hoàn lại giúp các nước nhận viện trợ
tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn

nhân lực. Những lợi ích quan trọng mà ODA mang lại cho các nước nhận tài
trợ là công nghệ, kỹ thuật hiện đại, trình độ chuyên môn và trình độ quản lý
tiên tiến. Đồng thời bằng nguồn vốn ODA các nhà tài trợ còn ưu tiên đầu tư
cho phát triển nguồn nhân lực vì việc phát triển của một quốc gia có quan hệ
mật thiết với việc phát triển nguồn nhân lực.
- ODA giúp các nước đang phát triển hoàn thiện cơ cấu kinh tế. Đối với
các nước đang phát triển khó khăn kinh tế là điều kiện không tránh khỏi.
Trong đó nợ nước ngoài và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế ngày một gia
tăng là tình trạng phổ biến. Để giải quyết vấn đề này các quốc gia cần phải cố
gắng hoàn thiện cơ cấu kinh tế bằng cách phối hợp với ngân hàng thế giới,
quỹ tiền tệ quốc tế và các tổ chức quốc tế khác tiến hành chính sách điều
chỉnh cơ cấu. Chính sách này dự định chuyển chính sách kinh tế Nhà nước
đóng vai trò trung tâm sang chính sách khuyến khích nền kinh tế phát triển
theo định hướng phát triển kinh tế khu vực tư nhân. Nhưng muốn thực hiện
được việc điều chỉnh này cần phải có một lượng vốn cho vay mà các Chính
phủ lại phải dựa vào nguồn vốn ODA.
- Hỗ trợ phát triển chính thức tăng khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài và tạo điều kiện mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước
14
đang và chậm phát triển. Để có thể thu hút được các nhà đầu tư trực tiếp nước
ngoài bỏ vốn đầu tư vào một lĩnh vực nào đó thì chính tại các quốc gia đó
phải đảm bảo cho họ có một môi trường đầu tư tốt (cơ sở hạ tầng, hệ thống
chính sách, pháp luật ...) đảm bảo đầu tư có lợi với phí tổn đầu tư thấp, hiệu
quả đầu tư cao muốn vậy đầu tư của Nhà nước phải được tập trung vào việc
nâng cấp, cải thiện và xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng...
Nguồn vốn Nhà nước thực hiện đầu tư này là phải dựa vào ODA bổ
sung cho vốn đầu tư hạn hẹp của ngân sách của Nhà nước. Môi trường đầu tư
một khi được cải thiện sẽ tăng sức hút đồng vốn nước ngoài. Mặt khác việc sử
dụng nguồn vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho
các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh

doanh có khả năng mang lại lợi nhuận.
4. Bất lợi khi tiếp nhận ODA:
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược
như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về
an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có
chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế
(những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế -
chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới). Được thể hiện như
sau:
- Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào
thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu
hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng
bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước
tài trợ, yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao.
15
- Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng
thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn
phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự
án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các
chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA
thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so
với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế
giới).
- Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch
đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc
nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hóa, dịch vụ do
họ sản xuất.
- Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng
thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý

của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham
gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
- Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA
phải hoàn lại tăng lên.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí, xây dựng chiến lược, quy hoạch
thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý, trình độ quản lý
thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành
dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn
vốn này còn thấp... có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần.
II. Quản lý ODA
1. Mục tiêu: Quản lý dự án ODA nhằm hạn chế hiện tượng tiêu cực, tham ô
lãng phí làm thất thoát vốn…Quản lý dự án ODA làm làm tinh giảm quy trình
thủ tục hành chính, thúc đẩy việc thu hút và giải ngân, nâng cao hiệu quả sử
16
dụng nguồn vốn ODA. Đóng góp vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
2. Nguyên tắc:
- ODA là nguồn vốn quan trọng của ngân sách Nhà nước, được sử dụng
để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ưu tiên.
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về ODA trên cơ sở phân cấp,
tăng cường trách nhiệm và bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các cơ
quan quản lý ngành và địa phương.
- Quá trình thu hút, quản lý và sử dụng ODA phải tuân thủ những yêu
cầu dưới đây:
+ Chính phủ nắm vai trò quản lý và chỉ đạo, phát huy cao độ tính chủ
động và trách nhiệm của cơ quan chủ quản và cơ quan, đơn vị thực hiện.
+ Bảo đảm tính tổng hợp, thống nhất và đồng bộ trong công tác quản lý
ODA.
+ Bảo đảm sự tham gia rộng rãi của các bên có liên quan, trong đó
có các đối tượng thụ hưởng.

+ Bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch về quyền hạn và trách nhiệm của các
bên có liên quan.
+ Bảo đảm hài hoà thủ tục giữa Việt Nam và Nhà tài trợ.
- Quá trình thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA phải tuân theo
các quy định của Luật ngân sách Nhà nước, Quy chế Quản lý và sử dụng
nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, Quy chế Quản lý vay và trả nợ nước ngoài
và các chế độ quản lý hiện hành khác của Nhà nước. Trường hợp điều ước
quốc tế về ODA đã được ký kết giữa Nhà nước hoặc Chính phủ với nhà tài trợ
có quy định khác thì thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó.
3. Chức năng và quy trình quản lý dự án ODA
3.1. Chức năng quản lí nguồn vốn ODA của chính phủ:
17
- Thực chất giá trị thực tế của vốn ODA thấp hơn giá trị danh nghĩa của
nó. Điều này có nghĩa tính ưu đãi của vốn ODA giảm, chi phí để có vốn này
sẽ tiến gần tới vốn thương mại trên thị trường tài chính, nếu không có sự quản
lý chặt trong thu hút thì chi phí này càng cao.
- Nước tiếp nhận dễ bị rơi vào tình trạng sử dụng không hiệu quả nguồn
vốn ODA. Cần phải có sự quản lý nhà nuớc về vốn ODA để sử dụng có hiệu
quả hơn.
3.2. Quy trình quản lý dự án ODA:
Quản lý và sử dụng, một dự án ODA bao gồm các bước sau:
- Xác định dự án và đánh giá ban đầu.
- Chuẩn bị đầu tư.
- Thực hiện đầu tư.
- Nghiệm thu và đánh giá.
18
SƠ ĐỒ QUY TRÌNH QUẢN LÝ DỰ ÁN ODA.
• Xác định dự án và đánh giá ban đầu.

• Chuẩn bị và thiết kế dự án.

• Thực hiện và theo dõi dự án.
• Hoàn thành và đánh giá dự án.
- Xác định dự án và đánh giá ban đầu:
19
Xác định
mục tiêu
chiến lược
quốc gia
Xem xét
đãnh giá
những đề
xuất chính
thức
Đưa ra
những đề
xuất chính
thức (dự
án đề
xuất)
Dự án đề
xuất được
giám đốc
quản lý
chương
trình quốc
gia xem xét
đánh giá
tiếp
Phê
duyệt

dự án
Xây dựng
báo cáo
nghiên
cứu tiền
khả thi
Dự thảo
văn kiện
thiết kế
dự án
Xây dựng
báo cáo
nghiên cứu
khả thi
Tuyển
chọn kí
kết với
nhà rhầu
thực hiện
dự án
Đàm phán
về bản ghi
nhớ
Triển
khai dự
án
Theo dõi dự
án vè tài
chính hiện
vật trong

quá trình
thực hiện
Nhà thầu
chuẩn bị
báo cáo
hoàn thành
dự án
Đánh giá
sau hoàn
thành đối
với một số
dự án được
lựa chọn
Rút ra bài
học kinh
nghiệm
Dự án đề xuất có thể được xác định theo nhiều cách. Việc xác định này
có thể thực hiện qua đánh giá ngành hoặc các đoàn chương trình, thông qua
cách tiếp cận chính thức đối với Đại sứ quán của nước tài trợ tại nước nhận
viện trợ, theo đề nghị của Chính phủ nước tiếp nhận viện trợ hoặc thông qua
các cách tiếp cận chính thức với các tổ chức khác.
Khi nhận được yêu cầu chính thức đề án sẽ được Văn phòng của nước
viện trợ đánh giá và xem xét xem dự án đề xuất có nằm trong chiến lược quốc
gia nêu trong báo cáo quốc gia hay không. Nếu đề án phù hợp và đáp ứng các
yêu cầu thông tin tối thiểu đề án sẽ được trình lên giám đốc quản lý chương
trình quốc gia để đánh giá tiếp.
Nếu thấy đề án này có thể phát triển được giám đốc chương trình quản
lý quốc gia sẽ đệ trình Chính phủ phê chuẩn việc sử dụng tiền ngân sách cho
dự án. Nếu được phê chuẩn sẽ chính thức hoá việc đưa dự án vào danh mục
chương trình quốc gia và cho phép tiến hành thiết kế chi tiết.

- Chuẩn bị dự án và thiết kế:
Giai đoạn hoàn thiện đề án được gọi là giai đoạn chuẩn bị. Giai đoạn
chuẩn bị này bao gồm một số hoặc tất cả các bước sau đây và kết thúc bằng
việc Bộ trưởng hoặc Đại diện của Bộ Tài chính phê duyệt cho phép thực hiện:
+ Nghiên cứu tiền khả thi
+ Nghiên cứu khả thi
+ Dự thảo văn kiện thiết kế dự án
Văn kiện thiết kế dự án bao gồm kế hoạch chi tiết về chi phí, nguồn lực
và kế hoạch thực hiện. Tuy nhiên, phê chuẩn tài chính mới có thể thay cho
phê chuẩn đưa ra trước đây khi dự án lúc đó còn trong giai đoạn chuẩn bị và
thiết kế.
- Thực hiện đầu tư và theo dõi dự án:
20
Bước đầu tiên của giai đoạn này là thảo luận để đi đến ký kết bản ghi
nhớ (MOU) thể hiện sự nhất trí giữa hai bên. MOU bao gồm các điều khoản
tiêu chuẩn, các phụ lục tham chiếu, trong đó mô tả dự án và định số trách
nhiệm của hai bên. Dự án sẽ chính thức được triển khai sau khi MOU được ký
kết và các nhà thầu đủ tiêu chuẩn được tuyển chọn. Nhiệm vụ đầu tiên của
nhà thầu chính thực hiện là chuẩn bị văn kiện thực hiện dự án (PID). Quá
trình này cho phép nhà thầu xác định những điều chỉnh cần thiết cho dự án từ
kinh nghiệm ban đầu khi triển khai dự án. Dự án sẽ được theo dõi trong quá
trình thực hiện. Qua công tác theo dõi các nhà tài trợ song phương biết được
tình hình thực hiện sự án có tốt không, nhà thầu thực hiện so với hợp đồng ra
sao, liệu có đạt được các mục tiêu đặt ra.
- Hoàn thành và đánh giá dự án:
Giai đoạn này bao gồm: Việc chuẩn bị báo cáo hoàn thành dự án (PCR)
đối với tất cả các dự án và tiến hành đánh giá sau dự án đối với một số dự án
được lựa chọn. Nhà thầu thực hiện cần chuẩn bị PCR trước khi kết thúc dự án.
PCR mô tả thiết kế dự án từ khi xây dựng dự án giai đoạn chuẩn bị đến khi bổ
sung trong giai đoạn thực hiện. Sự chấp thuận báo cáo này của nhà tài trợ

song phương đánh dấu thời điểm kết thúc dự án.
Sau khi dự án kết thúc có thể phải tiến hành đánh giá sau dự án, mô tả
lịch sử của dự án, những thành công của dự án, những thiếu sót và xác định
những bài học đúc kết trong khâu thiết kế và thực hiện dự án phân tích độc
lập của nhà tài trợ song phương cùng các văn kiện dự án khác có thể rút ra
những bài học và đưa vào cơ sở dữ liệu về bài học kinh nghiệm của nhà tài
trợ, tạo cơ sở để phản hồi thông tin vào hoạch định chính sách và chuẩn bị các
dự án trong tương lai.
21
4. Đánh giá quản lý ODA
4.1. Về môi trường pháp lý:
Trong thời gian qua, bắt đầu từ năm 1993, có sự kiện đánh dấu việc Việt
Nam chính thức nối lại quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế thông qua Hội
nghị các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (Hội nghị Paris năm 1993), nhằm tạo
điều kiện cho việc thu hút, quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính
thức tại Việt Nam, Chính phủ đã không ngừng hoàn thiện khung pháp lý cho
việc quản lý nguồn vốn này. Bắt đầu từ Nghị định 20/CP ban hành năm 1994,
tiếp đó là Nghị định 87/CP năm 1997, Nghị định 17/2001/NÐ-CP ban hành
năm 2001…, Chính phủ đã ban hành các văn bản khung pháp lý cao nhất cho
hoạt động thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn quan trọng này. Khuôn khổ
pháp lý cơ bản của hoạt động Quản lý Nhà nước về nguồn vốn ODA được bổ
sung, sửa đổi, hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện biến đổi của thực tế tiếp
nhận và quản lý nguồn vốn ODA.
Bên cạnh văn bản khung này, Chính phủ Việt Nam cũng đã ban hành
nhiều văn bản pháp quy khác nhằm quản lý và hỗ trợ hoạt động quản lý Nhà
nước ở các khía cạnh khác nhau trong lĩnh vực sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức. Trong số này có các văn bản về quy trình rút vốn ODA, thuế
giá trị gia tăng, Quy chế chuyên gia nước ngoài áp dụng đối với các dự án sử
dụng vốn ODA.
Ngoài ra, do ODA được coi là một nguồn vốn của ngân sách Nhà nước

(theo Luật Ngân sách), việc sử dụng nguồn vốn ODA cũng phải tuân theo các
quy định chung của Nhà nước Việt Nam về đấu thầu và quản lý đầu tư và xây
dựng trong trường hợp các quy định này không trái với các Ðiều ước quốc tế
mà Việt Nam ký
22
kết hoặc gia nhập. Tương tự, các thủ tục về thuế nói chung hoặc ký kết
thực hiện các Ðiều ước quốc tế về ODA nói riêng cũng nằm trong một khuôn
khổ chung của hệ thống pháp luật Việt Nam.
4.2. Các hoạt động hỗ trợ trong công tác quản lý Nhà nước về
ODA:
Song song với việc kiện toàn về mặt pháp lý, Chính phủ Việt Nam
cũng đã tiến hành một loạt các hoạt động tích cực, góp phần hỗ trợ công tác
quản lý ODA như:
- Chính phủ đã có sự phối hợp với các nhà tài trợ tổ chức hội nghị liên
quan đến thể chế ODA, các hội nghị kiểm điểm về tình hình thực hiện các dự
án đầu tư sử dụng vốn ODA.
- Nguyên tắc và nội dung của việc phân cấp trong quản lý nguồn vốn
ODA ở mọi ngành, mọi cấp từ trung ương đến địa phương đã được xác định
rõ ràng hơn về quyền hạn và trách nhiệm của từng đơn vị tham gia.
- Chính phủ chỉ đạo kịp thời và cụ thể việc thu hút và sử dụng ODA như
đảm bảo vốn đối ứng, vấn đề thuế VAT đối với các chương trình, dự án
ODA, nhờ vậy nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện các chương trình
dự án ODA đã được tháo gỡ
- Công tác theo dõi và đánh giá dự án ODA được quan tâm. Bộ Kế
hoạch và Ðầu tư đã phối hợp với các cơ quan liên quan theo dõi chặt chẽ tình
hình thực hiện của các dự án ODA, đặc biệt là đối với khoảng 40 dự án ODA
có quy mô vốn lớn, nhằm giải quyết kịp thời những khó khăn gây nên sự
chậm chễ trong quá trình thực hiện dự án.
- Hệ thống thông tin về ODA đang từng bước được hình thành theo
hướng chuẩn hoá phục vụ cho công tác phân tích và đánh giá dự án. Mỗi cơ

quan quản lý, thực hiện các chương trình dự án ODA từ Trung ương đến địa
phương sẽ phải thành lập đơn vị chuyên trách về theo dõi và đánh giá dự án.
Tuy nhiên, công tác này mới được triển khai ở một số cơ quan tổng hợp và
23
quản lý dự án, chưa phát triển thành một hệ thống thông tin bao quát được
toàn bộ hoạt động tiếp nhận và sử dụng ODA ở Việt Nam.
- Năng lực thực hiện và quản lý các chương trình, dự án ODA đã có
bước tiến bộ. Bằng nhiều hình thức đào tạo khác nhau và qua thực tế thực
hiện dự án, nhiều cán bộ của Việt Nam từ cấp cơ quan quản lý vĩ mô tới các
Ban Quản lý dự án đã làm quen và tích luỹ được kinh nghiệm thực hiện và
quản lý nguồn vốn ODA.
- Công tác điều phối cũng ngày càng tiến bộ. Ðể định hướng vào việc
thu hút và sử dụng ODA tập trung cho các mục tiêu phát triển ưu tiên của
Chính phủ, ngoài Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010, kế
hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 1996-2000, Chính phủ đã xây dựng các
chương trình đầu tư công cộng (PIP), Quy hoạch tổng thể phát triển công
nghiệp và kết cấu hạ tầng thời kỳ 1996-2010, Quy hoạch thu hút và sử dụng
ODA phục vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1996-2000 và
định hướng đến năm 2010 và quan trọng gần đây nhất là việc xây dựng Chiến
lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo (CPRGS) ở Việt Nam.
Hiện nay, một số nhà tài trợ đã bày tỏ mong muốn được coi đây là cơ sở để
kế hoạch hoá việc sử dụng nguồn vốn tài trợ của mình liên quan tới xoá đói,
giảm nghèo ở Việt Nam.
Tuy vậy, công tác quản lý và sử dụng ODA ở Việt Nam cũng còn có
những mặt yếu kém và đứng trước những khó khăn, thách thức, nhất là ở cac
khâu chuẩn bị, tổ chức thực hiện và theo dõi và đánh giá dự án. Ðể cải thiện
tình hình ở các khâu yếu nói trên, trong thời gian tới, Chính phủ dự kiến triển
khai các công tác sau:
- Sớm xúc tiến xây dựng để trình ban hành một Nghị định mới về Tái
định cư và giải phóng mặt bằng, nhằm giải quyết cơ bản những vướng mắc về

vấn đề này đối với các dự án ODA có xây dựng cơ bản.
- Chính phủ Việt Nam mong muốn tiếp tục tiến trình làm hài hoà thủ tục
tiếp nhận và thực hiện các chương trình, dự án ODA giữa Việt Nam và các
24
nhà tài trợ. Năm vừa qua, Nhóm 6 nhà tài trợ song phương Châu Âu bao gồm
Hà Lan, Anh, Nauy, Thụy Ðiển, Thụy Sỹ và Phần Lan đã có sáng kiến
Nghiên cứu hài hoà thủ tục giữa các nước này với thủ tục của Chính phủ Việt
Nam. Bên cạnh đó, Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á
(ADB), và JBIC đã và đang làm việc với Chính phủ Việt Nam về hài hoà thủ
tục nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện dự án. Trên
cơ sở mong muốn tăng cường hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn ODA,
giảm bớt các chi phí giao dịch trong việc thực hiện nguồn vốn này cũng như
làm giảm nhẹ gánh nặng hành chính cho Chính phủ nước tiếp nhận viện trợ,
Hài hoà thủ tục trong thời gian gần đây đã thu hút sự quan tâm ngày càng lớn
của các nhà tài trợ ở Việt Nam.
- Kiện toàn hệ thống theo dõi và đánh giá dự án từ các Bộ, ngành trung
ương tới địa phương nhằm thúc đẩy quá trình thực hiện và sử dụng hiệu quả
nguồn vốn ODA, đưa công nghệ thông tin vào phục vụ công tác quản lý và
theo dõi dự án.
Chính phủ tin tưởng rằng với sự hợp tác chặt chẽ giữa Chính phủ và các
nhà tài trợ sẽ tiếp tục được củng cố và phát triển nhằm thực hiện được mục
tiêu chung, cải thiện và nâng cao hiệu quả và chất lượng sử dụng ODA phục
vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội và đấu tranh chống lại đói nghèo ở
Việt Nam.
25

×