Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Giải quyết việc làm cho lao động khu vực nông thôn ở Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 114 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
_________________________



PHẠM THỊ THANH HƢƠNG

























GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
KHU VỰC NÔNG THÔN Ở HÀ NỘI




LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ





HÀ NỘI - 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
_________________________


PHẠM THỊ THANH HƢƠNG



GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
KHU VỰC NÔNG THÔN Ở HÀ NỘI




Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS, TS. MAI NGỌC CƢỜNG



HÀ NỘI - 2011

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của GS, TS. Chu Văn Cấp. Các số
liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, bảo đảm tính khách
quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày tháng năm 2011.

Tác giả






Đinh Thị Thúy Hường
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DU LỊCH VÀ PHÁT TRIỂN DU
LỊCH 7
1.1. Du lịch và vai trò của nó trong phát triển kinh tế - xã hội 7
1.1.1. Du lịch và phát triển du lịch 7
1.1.2. Vai trò của phát triển du lịch đối với phát triển kinh tế - xã hội 27
1.2. Kinh nghiệm về phát triển du lịch của một số tỉnh ở Việt Nam 32
1.2.1. Kinh nghiệm của Quảng Ninh trong phát triển du lịch 32
1.2.2. Kinh nghiệm của Hải Phòng trong phát triển du lịch 33
1.2.3. Kinh nghiệm của Thừa Thiên Huế phát triển du lịch 34
Chƣơng 2. TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở TỈNH NINH
BÌNH TRONG THỜI GIAN QUA 38
2.1. Tiềm năng phát triển du lịch ở tỉnh Ninh Bình 38
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã hội 38
2.1.2. Tài nguyên du lịch 47
2.2. Thực trạng phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong thời gian từ
2000 đến 2010 61
2.2.1. Tình hình kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình 61
2.2.2. Thực trạng về lực lượng kinh doanh và nguồn nhân lực du lịch ở Ninh
Bình 66
2.2.3. Đầu tư, xúc tiến du lịch và quản lý Nhà nước về du lịch 69
2.2.4. Đánh giá chung về phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong
thời gian qua 74
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở
TỈNH NINH BÌNH TỚI NĂM 2015 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2020 79

3.1. Mục tiêu, phương hướng phát triển du lịch ở tỉnh Ninh Bình 79
3.1.1. Bối cảnh phát triển du lịch Việt Nam trong đó có tỉnh Ninh Bình giai
đoạn 2011 - 2020 79
3.1.2. Mục tiêu và phương hướng phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình 80
3.2. Giải pháp phát triển du lịch ở Ninh Bình trong thời gian tới 86
3.2.1. Đẩy mạnh việc xúc tiến tuyên truyền, quảng bá du lịch, mở rộng thị
trường khách du lịch 86
3.2.2. Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá du lịch và sản
phẩm dịch vụ du lịch 89
3.2.3. Đầu tư phát triển du lịch 91
3.2.4. Đào tạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch và
tăng cường công tác quản lý du lịch 94
KẾT LUẬN 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103



























DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN



CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
HĐND: Hội đồng nhân dân
HĐC: Hồ Đồng Chương
CTQG: Chính trị quốc gia
QLNN: Quản lý nhà nước
UBND: Ủy ban nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
XKLĐ: Xuất khẩu lao động




1
MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay du lịch được coi là một ngành “công nghiệp không khói”.
Vai trò của ngành du lịch được đánh giá là rất quan trọng đối với nền kinh tế
của một quốc gia, sự phát triển mạnh mẽ của nó tại một số quốc gia đã góp
phần tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế. Theo các chuyên gia kinh tế đánh
giá thì du lịch quốc tế là một loại hình xuất khẩu đặc biệt, sản phẩm và dịch
vụ được cung cấp cho người nước ngoài nhưng lại được tiêu thụ ngay tại
nước sở tại và đem lại nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia. Chính vì thế, các
nước trên thế giới rất chú trọng đầu tư phát triển du lịch, nhằm thúc đẩy kinh
tế tiến lên.
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Phát triển du lịch thực sự
trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn; Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động trên cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống
văn hoá, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du
lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực. Xây dựng và
nâng cấp cơ sở vật chất, hình thành các khu du lịch trọng điểm; Đẩy mạnh
hợp tác, liên kết với các nước” [6, tr.178-179]. Phát triển quan điểm Đại hội
IX Đại hội Đảng lần thứ X chỉ rõ: “Khuyến khích đầu tư phát triển và nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động du lịch đa dạng hoá sản phẩm và các loại
hình du lịch” [7, tr.202]. Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011) cũng đã
chỉ rõ: Tập trung sức phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng
tri thức và công nghệ cao, như: du lịch, hàng hải, hàng không, công nghệ
thông tin… Đa dạng hoá sản phẩm và các loại hình du lịch, nâng cao chất
lượng để đạt đẳng cấp quốc tế.
Cùng với sự phát triển của du lịch cả nước, Ninh Bình một tỉnh có tiềm
năng du lịch đa dạng và phong phú, nằm ở cửa ngõ cực nam của tam giác
châu thổ Sông Hồng và miền Bắc, trên hệ thống giao thông xuyên Việt, sự

2
phát triển du lịch Ninh Bình nằm trong tổng thể phát triển du lịch của Việt

Nam sẽ tạo đà hình thành một tứ giác tăng trưởng du lịch: Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh - Ninh Bình.
Phát triển quan điểm của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XIV đã khẳng định: “Tập trung khai thác tiềm
năng, thế mạnh phong phú về cảnh quan thiên nhiên, về di tích lịch sử, kiến
trúc, về điều kiện giao thông thuận lợi, những cơ sở vật chất đã được đầu tư
xây dựng và những kinh nghiệm trong những năm qua, tạo bước phát triển
mới về du lịch trong 5 năm tới” [8, tr.52]. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XIX tiếp tục quan điểm trên khẳng định: “Coi kinh tế du lịch là ngành kinh tế
mũi nhọn, xây dựng và hoàn thiện chính sách khuyến khích các thành phần
kinh tế đầu tư phát triển du lịch, phấn đấu đến năm 2010, doanh thu du lịch
đạt 350 tỷ đồng (trong tổng số bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội là
6.450 tỷ đồng)” [9, tr.66]. Tiếp tục quan điểm Đại hội XIX, Đại hội
Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XX xác định: “Duy trì tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao và bền vững, đưa kinh tế du lịch vào thời kỳ tăng tốc xây dựng
Ninh Bình trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực Đồng bằng sông Hồng”
[10, tr.18].
Những năm gần đây du lịch Ninh Bình có những bước phát triển đáng
kể; Cơ sở hạ tầng du lịch được đầu tư cải thiện, hệ thống cơ sở dịch vụ, cơ sở
lưu trú, phương tiện và thiết bị phục vụ du lịch được nâng cao; Đội ngũ lao
động trong ngành du lịch ngày càng phát triển. Năm 2010, toàn tỉnh đã đón
được 3.375.261 lượt khách du lịch (tăng 38,66% so với năm 2009, đạt
121,3% so với kế hoạch năm) trong đó khách quốc tế là 700.006 lượt, khách
nội địa là 2.675.255 lượt với tổng doanh thu đạt 549.908 tỷ đồng, tăng
119,8% so với cùng kỳ năm 2009, nộp ngân sách nhà nước 55 tỷ đồng tăng
117% so với cùng kỳ năm 2009. Với kết quả trên ngành du lịch đã đóng góp
quan trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, nâng cao đời

3
sống nhân dân tạo tiền đề quan trọng để đẩy nhanh tốc độ phát triển trong

những năm tiếp theo.
Tuy nhiên du lịch Ninh Bình vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém: Tỷ lệ
khách lưu trú thấp; hoạt động du lịch chủ yếu vẫn là khai thác thiên nhiên, cơ
sở hạ tầng hạn chế; công tác tuyên truyền, quảng bá và quản lý yếu kém
Những tồn tại và yếu kém trên đã và đang là những khó khăn, trở ngại và
thách thức lớn của du lịch Ninh Bình.
Vì vậy, phân tích thực trạng du lịch ở Ninh Bình là quan trọng và cần
thiết để tìm ra mặt tích cực và mặt yếu kém; tiềm năng và khả năng phát triển
du lịch của tỉnh làm căn cứ, để đưa ra những giải pháp có tính khả thi cho sự
phát triển du lịch địa phương trong giai đoạn tới. Vì thế tác giả chọn: “Phát
triển du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua kinh tế du lịch của Việt Nam nói chung và của
Ninh Bình nói riêng ngày càng được chú trọng phát triển. Đã có nhiều công
trình khoa học, nhiều nhà nghiên cứu về du lịch ở những góc độ và khía cạnh
khác nhau, có thể nêu ra một số công trình tiêu biểu:
1. Về du lịch, kinh tế du lịch và dịch vụ du lịch nói chung có các công trình:
- Rober Thanguar (1993), Kinh tế du lịch, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
- Trần Nhạn (1996), Du lịch và kinh doanh du lịch, Nxb. Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
- Luật Du lịch, năm 2005, của nước CHXHCN Việt Nam.
- Nguyễn Văn Đính (2006), Giáo trình kinh tế du lịch, Nxb. Lao động -
Xã hội, Hà Nội.
2. Các công trình nghiên cứu về du lịch, phát triển du lịch ở các địa
phương nước ta:

4
- “Kinh tế du lịch Thừa Thiên Huế tiềm năng và phương hướng phát
triển” luận văn thạc sỹ kinh tế của Nguyễn Thị Hoá, 1997; Bảo vệ tại Học

viện CTQG Hồ Chí Minh.
- “Phát triển du lịch ở An Giang” luận văn thạc sỹ Kinh tế của Bùi Thu
Hằng, 1999; Bảo vệ tại Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận
chính trị, ĐHQG Hà Nội.
- “Kinh tế du lịch ở Thanh Hoá - thực trạng và giải pháp phát triển”
luận văn thạc sỹ Kinh tế của Nguyễn Thị Hồng Lâm, 2005; Bảo vệ tại Học
viện CTQG Hồ Chí Minh.
- “Khai thác tiềm năng du lịch Đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang” luận
văn thạc sỹ Kinh tế của Huỳnh Vĩnh Lạc, 2005; Bảo vệ tại Học viện CTQG
Hồ Chí Minh.
- “Phát triển du lịch trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở Quảng
Ninh” luận văn thạc sỹ Kinh tế chính trị của Nguyễn Huy Cảnh, 2006; Bảo vệ
tại Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, ĐHQG Hà
Nội
Các công trình nghiên cứu trên đã tập trung nghiên cứu về phát triển du
lịch ở các địa phương cụ thể khác nhau dưới góc độ kinh tế chính trị.
3. Ở Ninh Bình cũng có nhiều công trình nghiên cứu về du lịch như:
- “Kinh tế dịch vụ và dịch vụ du lịch tỉnh Ninh Bình” luận văn thạc sỹ
Kinh tế của Phạm Xuân Thu, 1995; Bảo vệ tại Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
- “Đất ngập nước Vân Long”(2004) của GS.TS Vũ Trung Tạng.
- “Tiềm Năng khu du lịch sinh thái Vân Long góp phần phát triển du
lịch Ninh Bình”(2006) của Sở Du lịch Ninh Bình.
- “Mở rộng khu du lịch Tam Cốc - Bích Động để phát triển du lịch khu
vực” (2006) của Võ Quế - Viện Nghiên cứu phát triển du lịch.
Các công trình khoa học nêu trên đã đề cập đến những vấn đề lý luận
chung về du lịch và phát triển du lịch; tiềm năng du lịch của các địa phương

5
cùng những kinh nghiệm về phát triển du lịch ở một số địa phương nước ta.
Song, hiện vẫn còn ít công trình khoa học nghiên cứu về “Phát triển du lịch

trên địa bàn tỉnh Ninh Bình” dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Vì thế
nghiên cứu “Phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình” dưới góc độ khoa
học Kinh tế chính trị vẫn là cần thiết và đó cũng là lý do tác giả chọn làm đề
tài luận văn thạc sỹ kinh tế của mình. Đề tài không trùng lặp với các công
trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích:
Nghiên cứu vai trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế xã hội của
Việt Nam nói chung và đối với Ninh Bình nói riêng. Đánh giá đúng thực
trạng của du lịch ở Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay, từ đó đề ra phương
hướng và giải pháp phát triển du lịch Ninh Bình trong thời gian tới, góp phần
vào sự tăng trưởng kinh tế - xã hội trên địa bàn của tỉnh.
* Nhiệm vụ:
- Phân tích một số lý luận về du lịch và dịch vụ du lịch, phát triển du lịch.
- Đánh giá tiềm năng và thực trạng du lịch của tỉnh Ninh Bình trong
những năm qua.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển du lịch trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển du
lịch dưới góc độ kinh tế chính trị, tức là tập trung nghiên cứu: Lý luận về du
lịch, dịch vụ du lịch, xu thế phát triển du lịch…; Nghiên cứu thực trạng phát
triển du lịch ở tỉnh Ninh Bình trong thời gian từ 2000 đến 2010, sự phát triển
du lịch ở Ninh Bình giai đoạn 2010 - 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
- Địa bàn nghiên cứu là tỉnh Ninh Bình. Cụ thể là Sở du lịch Ninh Bình,
các tổ chức, các đơn vị kinh doanh du lịch và các khu du lịch ở tỉnh Ninh Bình.

6
Khoảng thời gian để sưu tầm thu thập số liệu, phân tích đánh giá thực
trạng phát triển du lịch ở tỉnh Ninh Bình là từ 2000 - 2010. Giai đoạn 2011 -

2015 là mốc thời gian để nghiên cứu và đề xuất các phương hướng và giải
pháp phát triển du lịch ở tỉnh Ninh Bình.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Sử dụng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và
những quan điểm của Đảng, Nhà nước về du lịch và phát triển du lịch. Đồng
thời, kế thừa những vấn đề lý luận về du lịch để ứng dụng vào phát triển du
lịch ở tỉnh Ninh Bình.
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
luận văn sử dụng một số phương pháp cụ thể như: điều tra, thống kê, phân
tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch, so sánh, tổng kết thực tiễn
6. Đóng góp của đề tài
Làm rõ hơn tiềm năng và vai trò của phát triển du lịch đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình. Đánh giá một cách khách quan về
thực trạng phát triển du lịch ở tỉnh Ninh Bình. Đề xuất một số giải pháp góp
phần phát triển du lịch thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở Ninh Bình.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các cơ quan, ban ngành của tỉnh nhằm phục vụ cho công tác hoạch
định chính sách thúc đẩy du lịch phát triển trong những năm tới.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm
có 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về du lịch và phát triển du lịch.
Chương 2: Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch ở tỉnh Ninh Bình
trong thời gian qua.

7
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp phát triển du lịch ở tỉnh
Ninh Bình trong thời gian tới.


8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DU LỊCH
VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH

1.1. Du lịch và vai trò của nó trong phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1. Du lịch và phát triển du lịch
1.1.1.1. Du lịch và dịch vụ du lịch
* Về du lịch:
- Quan niệm về du lịch.
Du lịch là một ngành kinh tế không có khói. Ngày nay, trên phạm vi thế
giới du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hoá
xã hội của các nước, và ngày càng trở thành một trong những hoạt động phổ
biến của con người. Đối với mỗi quốc gia đặc biệt là với các nước phát triển,
du lịch ngày càng phát triển mạnh mẽ và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
chiếm tỷ trọng đáng kể trong nền kinh tế quốc dân.
Do phạm vi và góc độ nghiên cứu đa dạng và phong phú, nên trên thế
giới cũng như ở Việt Nam, khái niệm du lịch được đề cập dưới nhiều góc độ
và phạm vi khác nhau. Cụ thể:
Trên phạm vi thế giới:
Kể từ khi thành lập Hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch IUOTO
(International of Union of ficial Travel organization) tại Hà Lan 1925 cho đến
nay, khái niệm du lịch được quan niệm rất khác nhau:
. Theo Ausher “Du lịch là nghệ thuật đi chơi của các cá nhân” [3, tr.6].
. Theo học giả người Thuỵ Sỹ - Kuns lại cho rằng: “Du lịch là hiện
tượng những người khác đi đến nơi không phải thường xuyên cư trú của họ
bằng phương tiện vận tải và dùng các dịch vụ du lịch” [13, tr.13].

9

. Trong từ điển Bách khoa quốc tế về du lịch do Viện Hàn lâm khoa
học quốc tế về du lịch xuất bản du lịch được định nghĩa như sau: “Du lịch là
tập hợp các hoạt động tích cực của con người nhằm thực hiện một dạng hành
trình, là một ngành công nghiệp liên kết nhằm thoả mãn các nhu cầu của
khách du lịch” [13, tr.14].
. Giáo sư Edmod Pieasa người Bỉ cho rằng: “Du lịch là tập hợp các tổ
chức và các chức năng của nó, không chỉ về phương diện khách vãng lai mà
cái chính là phương diện về giá trị mà khách du lịch mang lại” [3, tr.6].
. Theo nhà nghiên cứu Michael Coltman cho rằng: “Du lịch là sự kết
hợp và tương tác của bốn nhóm nhân tố trong quá trình phục vụ du lịch, bao
gồm: du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, dân cư sở tại và chính quyền
nơi đón khách du lịch” [13, tr.15].
. Trong tuyên ngôn Manina về du lịch năm 1980 nêu rõ: “Du lịch được
hiểu như hoạt động chủ yếu trong đời sống của các quốc gia do hiệu quả trực
tiếp của nó trên các lĩnh vực xã hội, văn hoá, giáo dục và kinh tế của các quốc
gia và trong quan hệ quốc tế trên thế giới. Sự phát triển của du lịch gắn với sự
phát triển của kinh tế - xã hội của các quốc gia và phụ thuộc vào việc con
người tham gia vào nghỉ ngơi (có sáng tạo) và vào kỳ nghỉ, tự do du lịch,
trong khuôn khổ thời gian tự do và thời gian nhàn rỗi mà du lịch nhấn mạnh
tính nhân văn sâu sắc ” [24, tr.4].
. Định nghĩa của hội nghị quốc tế và thống kê du lịch ở Otawa, Canada
diễn ra vào tháng 6 năm 1991: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một
nơi ngoài môi trường thường xuyên, trong một khoảng thời gian ít hơn
khoảng thời gian đã được tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của
chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi
vùng tới thăm” [11, tr.19].

10
Ở Việt Nam:
. Theo từ điển Tiếng Việt: “Du lịch là đi xa cho biết sứ lạ khác với nơi

mình ở” [2, tr.10].
. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Du lịch là một dạng nghỉ dưỡng
sức, tham quan tích cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ
ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hoá,
nghệ thuật ” [2, tr.9].
. Các nhà khoa học của Trường Đại học Kinh tế quốc dân đưa ra định
nghĩa du lịch sau: “Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động
tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ của những
doanh nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, tham
quan, giải trí, tìm hiểu các nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó
phải đem lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch
và cho bản thân doanh nghiệp” [13, tr.16].
. Tại điều 4 trong Luật du lịch Việt nam 2005 du lịch được hiểu như
sau: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người
ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,
tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [23, tr.9].
Từ sự viện dẫn các quan niệm nói trên cho thấy: có quan niệm xuất
phát từ mục đích, đặc điểm di chuyển của khách du lịch; có quan niệm lại cho
du lịch là kết quả tất yếu của sự phát triển kinh tế - xã hội; có quan niệm lại
coi du lịch là nhân tố thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế Tuy vậy,
tất cả các quan niệm trên đều chưa đi sâu vào bản chất của du lịch. Xuất phát
từ bản chất của du lịch có thể đưa ra định nghĩa sau về du lịch: Du lịch là một
hoạt động của con người ở ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm
thoả mãn những nhu cầu về mặt tinh thần như: tham quan, du ngoạn, giải trí,
nghỉ dưỡng và tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ khác trong một khoảng thời
gian nhất định.

11
Như vậy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành
phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch có

đặc điểm của ngành kinh tế, lại có đặc điểm của ngành văn hoá xã hội. Trên
thực tế, hoạt động du lịch ở nhiều nước không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà
cả lợi ích chính trị, văn hoá, xã hội Chính vì vậy, ở rất nhiều quốc gia trên
thế giới ngành du lịch đã được coi như ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh
tế quốc dân.
- Các loại hình du lịch
Du lịch là một hoạt động có tính đa dạng và phong phú về loại hình và
thể loại. Loại hình du lịch phát triển không ngừng cùng với sự phát triển ngày
càng cao của nhu cầu con người mà cụ thể là nhu cầu của khách du lịch.
Theo tác giả Trương Sỹ Quý loại hình du lịch có thể được định nghĩa
như sau: “Loại hình du lịch được hiểu là một tập hợp các sản phẩm du lịch có
những đặc điểm giống nhau, hoặc vì chúng thoả mãn những nhu cầu, động cơ
du lịch tương tự, hoặc được bán cho cùng một nhóm khách hàng, hoặc vì
chúng có cùng một cách phân phối, một cách tổ chức như nhau, hoặc được
xếp chung theo một mức giá bán nào đó” [13, tr.64]. Như vậy, nếu dựa vào
các căn cứ phân chia khác nhau thì sẽ có các loại hình du lịch khác nhau. Ở
đây ta chỉ đề cập đến các loại hình du lịch theo nhu cầu, mục đích của du
khách. Vậy có thể phân loại như sau:
+ Du lịch sinh thái
Tại Điều 4 của Luật Du lịch Việt Nam đã quy định: “Du lịch sinh thái
là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương,
với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững” [23, tr.11].
Như vậy, có thể hiểu du lịch sinh thái là loại hình du lịch để thưởng
thức những cảnh quan thiên nhiên như (sông, núi, biển, rừng) thích hợp cho
mọi đối tượng khách du lịch đặc biệt là đối với du khách nước ngoài. ở Việt
nam có rất nhiều khu du lịch sinh thái như: Du lịch biển Vũng Tàu, Du lịch

12
Vườn quốc gia Bạch Mã (Thừa Thiên Huế), Khu du lịch sinh thái Tràng An
(Ninh Bình)

+ Du lịch Văn hoá lịch sử
Theo Luật Du lịch Việt Nam, tại Điều 4: “Du lịch văn hoá lịch sử là
hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hoá dân tộc với sự tham gia của cộng
đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống” [23, tr.11].
Như vậy, có thể coi du lịch văn hoá, lịch sử là loại hình du lịch tìm hiểu
tài nguyên du lịch nhân văn thích hợp cho mọi đối tượng, vì mục đích chính
của loại hình du lịch này là nhằm nâng cao sự hiểu biết của cá nhân về mọi
lĩnh vực như: lịch sử, kiến trúc, kinh tế, hội hoạ, chế độ xã hội, cuộc sống của
người dân cùng các phong tục, tập quán của địa phương, đất nước du lịch.
Du lịch văn hoá lịch sử được phân thành hai loại:
Du lịch văn hoá lịch sử với mục đích cụ thể: Khách du lịch thuộc thể
loại này thường đi du lịch với mục đích đã định sẵn. Thông thường họ là các
cán bộ khoa học, học sinh, sinh viên và các chuyên gia.
Du lịch văn hoá lịch sử với mục đích tổng hợp: Bao gồm đông đảo
những người ham thích mở mang kiến thức về thế giới và thoả mãn sự tò mò
của cá nhân mình.
+ Du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh
Đây là loại hình du lịch gắn liền với mục đích nghỉ ngơi sau những
ngày làm việc căng thẳng mệt mỏi, hoặc để điều trị những bệnh tật về thể xác
và tinh thần của họ. Du lịch nghỉ dưỡng chữa bệnh có thể được chia thành các
loại sau:
Chữa bệnh bằng khí hậu: Khí hậu núi, khí hậu biển.
Chữa bệnh bằng nước khoáng: tắm nước khoáng, uống nước khoáng.
Chữa bệnh bằng bùn.
Chữa bệnh bằng hoa quả, chữa bệnh bằng sữa (đặc biệt bằng sữa ngựa).

13
+ Du lịch thể thao
Là loại hình du lịch mà khách du lịch có thể kết hợp quá trình du lịch
với các hoạt động thể thao giải trí nhằm nâng cao và phục hồi sức khoẻ. Có

thể chia du lịch thể thao thành các loại sau:
Du lịch thể thao chủ động: Là loại hình du lịch mà khách đi du lịch để
tham gia trực tiếp vào các hoạt động thể thao. Du lịch thể thao chủ động gồm:
du lịch leo núi, du lịch săn bắn, du lịch câu cá, du lịch tham gia các loại thể
thao: đá bóng, bóng chuyền, bóng rổ, trượt tuyết
Du lịch thể thao thụ động: Là những cuộc hành trình đi du lịch để xem
các cuộc thi thể thao quốc tế như Wold Cup, các thế vận hội Ôlimpic
+ Du lịch nghiên cứu
Là loại hình du lịch gắn với mục đích nghiên cứu, học tập, làm việc
nhằm thực hiện nhiệm vụ công tác hoặc nghề nghiệp nào đó. Kết hợp giữa đi
du lịch với tìm hiểu các vấn đề về văn hoá, lịch sử, tài nguyên môi trường, hệ
sinh thái, động thực vật nhằm đáp ứng nhu cầu học tập nghiên cứu của các
cá nhân.
* Về dịch vụ du lịch:
- Du lịch là một bộ phận của kinh tế dịch vụ, sản phẩm của ngành du
lịch chủ yếu là dịch vụ.
. Theo Luật du lịch 2005, của nước CHXHCN Việt Nam: dịch vụ du
lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui
chơi, giải trí, thông tin, hướng dẫn và các dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu
của khách du lịch.
. Có thể hiểu: dịch vụ du lịch là kết quả mang lại nhờ các hoạt động
tương tác giữa những tổ chức cung ứng du lịch và khách du lịch thông qua
các hoạt động tương tác đó để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và mang lại
lợi ích cho các tổ chức cung ứng du lịch.

14
. Dịch vụ du lịch rất phong phú bao gồm các loại dịch vụ sau : Khách
sạn, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống và giải trí; Nhà hàng chế biến và phục vụ
các món ăn, đồ uống; Cơ sở dịch vụ phục vụ vui chơi giải trí; Cơ sở thăm
quan, dịch vụ thăm quan thắng cảnh; Các cơ sở bán hàng hoá - dịch vụ bán

hàng; Dịch vụ bưu chính viễn thông; Dịch vụ vận chuyển hoặc đổi tiền; Dịch
vụ y tế và các dịch vụ khác. Dịch vụ du lịch có những đặc tính của dịch vụ nói
chung:
Theo quan niệm truyền thống, dịch vụ là những hoạt động xã hội tạo ra
các sản phẩm phi vật thể. Vì thế, khác với các sản phẩm hàng hoá hữu hình,
dịch vụ không thể lưu trữ, không thể vận chuyển được mà chỉ có thể sử dụng
tại nơi sản xuất, do đó quá trình sản xuất đồng thời là quá trình tiêu dùng.
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại đã thay
đổi tính chất truyền thống của dịch vụ, biến dịch vụ có tính chất hàng hoá
nhiều hơn, vừa lưu trữ và vận chuyển được đến mọi nơi, vừa có thể sử dụng
trong thời gian dài. Chẳng hạn, các sản phẩm dịch vụ như phần mềm máy tính
được sản xuất, đóng gói và bán hàng loạt trên thị trường như những hàng hoá
thông thường. Các buổi biểu diễn ca nhạc không những có thể được ghi lại
thành những đĩa CD và DVD, mà còn có thể được truyền hình trực tiếp đến
khắp nơi cho mọi người. Một trong những yếu tố khiến các sản phẩm dịch vụ
ngày càng mang tính chất hàng hoá nhiều hơn là quá trình sản xuất và cung
ứng dịch vụ ngày càng giống như quá trình sản xuất hàng hoá.
- Những đặc điểm của dịch vụ du lịch:
Ngoài tính chất truyền thống của dịch vụ nói chung, dịch vụ du lịch có
những đặc điểm riêng:
Thứ nhất, Sự tham gia của khách du lịch trong quá trình tạo ra dịch vụ
du lịch: Đặc điểm này nói lên rằng khách du lịch ở một chừng mực nào đó đã
trở thành nội dung của quá trình sản xuất. Sự gặp gỡ giữa khách hàng và
người sản xuất được định nghĩa như một sự tác động qua lại giữa hai chủ thể

15
với nhau. Sự gắn liền họ với nhau trong sự tác động qua lại này trong du lịch
được khẳng định sự phụ thuộc vào lĩnh vực lành nghề, khả năng cũng như ý
nguyện của người tiêu dùng và người cung cấp dịnh vụ. Ngoài những nội
dung kinh tế, những tính chất của con người trong sự tương tác đóng vai trò

quan trọng hơn như một cảm giác, sự tin tưởng, tình thân thiện giữa cá nhân,
mối liên kết và những mối quan hệ trong dịch vụ được coi trọng hơn như khi
mua những hàng hoá tiêu dùng khác. Dịch vụ gắn liền với những kinh nghiệm
chủ quan, đối với mỗi người là duy nhất đó cũng là quá trình xã hội và tất
nhiên có nhiều nhân tố khác nhau tác động lên quá trình này. Người cung cấp
dịch vụ và người tiêu dùng không thể bí mật thay đổi thời gian, địa điểm và
các tình tiết liên quan đến quá trình cung ứng dịch vụ. Người trao đổi thương
mại, sự tương tác qua lại còn thể hiện nhân tố thứ ba - sự trao đổi tâm lý.
Mức độ hài lòng của khách hàng sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự sẵn sàng
cũng như khả năng của nhân viên làm dịch vụ, khả năng thực hiện ý nguyện
của khách hàng. Trong những trường hợp này, thái độ và sự giao tiếp với
khách hàng còn quan trọng hơn cả các tiêu chí kỹ thuật, sản xuất và tiêu dùng
những loại dịch vụ này đòi hỏi sự tăng cường sự liên hệ của người sản xuất
với khách hàng. Trong thời gian cung cấp dịch vụ, những chức năng truyền
thống đã gắn liền hai người bạn hàng (đối tác) với nhau trên thị trường. Người
tiêu dùng đồng thời là người đồng sáng tạo trong quá trình sản xuất dịch vụ.
Các vấn đề có tính chất biểu trưng đó có thể thấy được tại các quán ăn nhanh,
khách sạn, nhà hàng, bảo hiểm, ngân hàng, dịch vụ giao thông vận tải. Ở đây,
sự tham gia về trí tuệ của khách hàng trong quá trình tạo ra dịch vụ du lịch
được xác định như sự phối hợp cùng sản xuất.
Thứ hai, Tính không chuyển đổi quyền sở hữu du lịch: Khi mua hàng
hoá, người mua có quyền được sở hữu đối với hàng hoá và sau đó có thể sử
dụng hàng hoá đó như thế nào tuỳ thuộc vào nhu cầu của anh ta, nhưng với
sảm phẩm dịch vụ khi được thực hiện thì không có quyền sở hữu nào được

16
chuyển từ người bán sang người mua. Người mua chỉ là đang mua quyền đối
với tiến trình dịch vụ. Chẳng hạn, khi đi du lịch, khách du lịch được chuyên
chở, được ở khách sạn, được sử dụng bãi biển nhưng trên thực tế họ không có
quyền sở hữu đối với chúng.

Thứ ba, Tính không thể di chuyển của dịch vụ du lịch: Vì các cơ sở du
lịch vừa là nơi sản xuất, vừa là nơi cung ứng dịch vụ nên dịch vụ du lịch
thuộc loại không di chuyển được, khách muốn tiêu dùng dịch vụ thì phải đến
các cơ sở du lịch.
Do đó, để nâng cao chất lượng dịch vụ và đem lại hiệu quả kinh doanh,
khi xây dựng các điểm du lịch cần lựa chọn địa điểm thoả mãn các điều kiện
tự nhiên: Địa hình, địa chất, thuỷ văn, khí tượng, tài nguyên, môi trường sinh
thái và các điều kiện xã hội (dân số, dân sinh, phong tục, tập quán, chính sách
kinh tế, khả năng cung ứng lao động, cơ sở hạ tầng). Đặc điểm này của dịch
vụ du lịch đòi hỏi các cơ sở kinh doanh du lịch phải tiến hành các hoạt động
xúc tiến, quảng bá mạnh mẽ để kéo được du khách đến với điểm du lịch của
mình.
Thứ tư, Tính thời vụ của dịch vụ du lịch: Dịch vụ du lịch có đặc trưng
rất rõ nét về tính thời vụ. Ví dụ các khách sạn ở các khu nghỉ mát thường
vắng khách vào mùa động nhưng lại rất đông khách vào mùa hè. các khách
sạn ở gần trung tâm thành phố thường đông khách vào các ngày nghỉ cuối
tuần. Chính đặc tính cầu cao điểm của dịch vụ dẫn đến tình trạng cung cầu về
dịch vụ dễ mất cân đối, vừa gây lãng phí cơ sở vật chất lúc trái vụ và chất
lượng dịch vụ có nguy cơ giảm sút khi gặp cầu cao điểm. Vì vậy các doanh
nghiệp thường có các chương trình khuyến mại đối với khách đi nghỉ trái vụ
khi cầu giảm hoặc tổ chức quản lý tốt chất lượng dịch vụ khi cầu cao điểm.
Thứ năm, Tính trọn gói và không đồng nhất của dịch vụ du lịch: Dịch
vụ du lịch thường là dịch vụ trọn gói bao gồm các dịch vụ cơ bản, dịch vụ bổ
sung. Tính chất trọn gói của dịch vụ du lịch xuất phát từ nhu cầu đa dạng và

17
tổng hợp của du khách. Mặt khác nó đòi hỏi tính chất đồng bộ của chất lượng
dịch vụ.
Do khách hàng rất muốn được chăm sóc như những con người riêng
biệt nên dịch vụ du lịch thường bị cá nhân hoá và không đồng nhất. Doanh

nghiệp du lịch rất khó có thể đưa ra các tiêu chuẩn dịch vụ để thoả mãn tất cả
các khách hàng trong mọi hoàn cảnh vì sự thoả mãn đó phụ thuộc vào sự cảm
nhận và trông đợi của từng khách hàng. Khi khách hàng trông đợi một mức
nhất định về dịch vụ và cảm nhận rằng sự tương đương hay mức cao hơn đã
được tạo ra, họ sẽ thoả mãn, thậm chí khi một dịch vụ tốt được thực hiện, mà
sự trông đợi của khách hàng đối với dịch vụ cao hơn, khách hàng sẽ không
thoả mãn. Điều đó yêu cầu doanh nghiệp du lịch phải quản lý được sự trông
đợi của khách hàng và thực hiện chất lượng dịch vụ. Để thấy rõ được sự khác
nhau giữa sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ, ta có thể minh hoạ bằng sự
so sánh sau: (Theo bảng 1.1, tr.16)
Bảng 1.1. Sự khác nhau giữa sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ
Sản phẩm vật chất
Sản phẩm dịch vụ
- Sản phẩm cụ thể
- Phi vật chất hay vô hình
- Quyền sở hữu được chuyển giao khi mua, bán
- Không có sự thay đổi về sở hữu
- Được trưng bày trước khi mua, bán
- Thông thường không được trưng bày trước khi mua, bán
- Có thể được cất giữ hay lưu trữ
- Không thể cất giữ hay lưu kho
- Sản xuất được tao ra trước khi tiêu dùng
- Sản xuất và tiêu dùng được tiến hành đồng thời cùng một
thời gian
- Có thể được bán tiếp theo
- Không được bán tiếp theo
- Sản xuất và tiêu dùng được tiến hành ở những địa điểm
khác nhau
- Sản xuất và tiêu dùng thường gắn liền về mặt không gian
- Có thể vận chuyển được

- Không thể vận chuyển được ngay cả khi người sản xuất
mong muốn
- Có thể quan hệ gián tiếp với khách hàng
- Trong đại đa số các trường hợp phải quan hệ trực tiếp với
khách hàng
- Có thể xuất khẩu được
- Thông thường dịch vụ khó xuất khẩu được nếu không có
sự trợ giúp của chủ thể vật chất
-Khách hàng là một thành viên chỉ trong quá trình tiêu
dùng
-khách hàng là một thành viên trong quá trình sản xuất và
tiêu dùng

18
Như vậy, để phát triển du lịch cần phải nâng cao chất lượng dịch vụ và
dịch vụ du lịch. Bởi chất lượng dịch vụ là sự thoả mãn nhu cầu của khách
hàng được xác định bởi dịch vụ cảm nhận và dịch vụ trông đợi được mô
phỏng theo sơ đồ (1.1, tr.17)
Sơ đồ 1.1. Mô hình chất lƣợng dịch vụ



Như vậy, chất lượng dịch vụ du lịch chính là mức phù hợp của dịch vụ
mà các nhà cung ứng có thể thoả mãn các yêu cầu, kể cả yêu cầu cao của
khách hàng, khách du lịch thuộc thị trường mục tiêu của mình.
1.1.1.2: Phát triển du lịch
- Phát triển du lịch là tất yếu khách quan
Du lịch là một quan hệ kinh tế ra đời cách đây hàng thế kỷ và trở thành
một hiện tượng phổ biến kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Lịch sử
phát triển của xã hội đã chứng minh du lịch không thể ra đời và phát triển do

sự tác động chủ quan, tuỳ tiện của các cá nhân hay lực lượng xã hội nào. Sự
ra đời và phát triển của du lịch là tất yếu khách quan gắn liền với sự phát triển
kinh tế xã hội.
Dịch vụ
trông đợi
Chỉ tiêu đánh giá chất
lượng dịch vụ
1. Sự tin cậy
2. Tinh thần trách
nhiệm
3. Sự đảm bảo
4. Sự đồng cảm
5. Tính hữu hình
Dịch vụ
cảm nhận
Thông tin
bằng lời
Nhu cầu
cá nhân
Kinh
nghiệm từ
trước
Chất lượng dịch vụ
được cảm nhận
1.Chất lượng dịch vụ
vượt quá sự trông đợi
2. Chất lượng dịch vụ
thoả mãn
3. Chất lượng dịch vụ
dưới mức trông đợi



19
Ngày nay, trước sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại, con người sống dưới sự tác động mạnh mẽ của quá trình đô thị hoá càng
làm nảy sinh nhu cầu dành thời gian quay trở về với thiên nhiên, với cội nguồn.
Đó là một trong những nguyên nhân làm cho du lịch phát triển mạnh mẽ.
Trên thực tế nhu cầu của con người ngày càng phát triển cùng với sự
phát triển kinh tế, nhu cầu du lịch cũng không ngoài khả năng đó. Nhu cầu đi
du lịch chỉ có thể nảy sinh đối với những người mà đời sống vật chất của họ đã
được đáp ứng một cách tương đối đầy đủ. Đồng thời đòi hỏi họ phải có thời
gian nhàn rỗi, có đủ điều kiện để tiến hành các cuộc hành trình dài ngày để
thưởng thức các danh lam thắng cảnh ngoài khu vực sinh sống và làm việc của
mình. Một điều dễ thấy đó là ở các nước kinh tế càng phát triển thì nhu cầu du
lịch càng tăng, đời sống càng khá giả thì nhu cầu đi du lịch càng nhiều. Như
vậy, nhu cầu du lịch và du lịch xuất hiện cùng với sự phát triển của kinh tế.
Ngoài ra các yếu tố về văn hoá, xã hội cũng góp phần quan trọng làm
nảy sinh nhu cầu du lịch. Bởi việc tìm hiểu và thưởng thức vẻ đẹp của các
danh lam thắng cảnh, phong tục tập quán, truyền thống văn hoá của các dân
tộc ở những nơi đến du lịch không thể có đối với những người có trình độ
văn hoá thấp hoặc không có văn hoá. Các nước có trình độ văn hoá cao thì số
người đi du lịch ra nước ngoài ngày càng nhiều và ngược lại. Theo Robert W.
Meintosh thì giữa trình độ văn hoá của người chủ trong gia đình và tỷ lệ du
lịch của họ có mối quan hệ nhất định. Có thể thấy mối quan hệ đó qua bảng số
liệu sau: (bảng 1.2, tr.18)
Bảng 1.2. Trình độ văn hoá của ngƣời chủ gia đình và tỷ lệ đi du lịch
(Theo Robert W.Meintosh 1995)
Trình độ văn hoá của người chủ gia đình
Tỷ lệ đi du lịch (%)
Chưa có trình độ trung học

50
Có trình độ trung học
65
Có trình độ cao đẳng
75
Có trình độ đại học
85
Nguồn: [13, tr.80]

×