Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Giải quyết việc làm trong quá trình phát triền kinh tế - xã hội ở Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1008.47 KB, 115 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ






ĐẶNG THÀNH CHUNG






GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NGHỆ AN








LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ












Hà Nội, 2005






ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ





ĐẶNG THÀNH CHUNG




GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NGHỆ AN



CHUYÊN NGÀNH : KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ : 5.02.01





LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN ANH TÀI









Hà Nội, 2005

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CƠ SỞ LÍ LUẬN

VÀ THỰC TIỄN 5
1.1. Khái quát về việc làm và vai trò của giải quyết việc làm 5
1.2. Những nhân tố tác động đến việc làm và giải quyết việc làm trong
nền kinh tế thị trường 11
1.3. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động ở một số địa
phương trong và ngoài nước 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở NGHỆ AN
TRONG NHỮNG NĂM QUA 32
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội của tỉnh Nghệ An 32
2.2. Thực trạng lao động và việc làm của Nghệ An 39
2.3. Đánh giá tổng quát về thực trạng lao động – việc làm ở Nghệ An 63
2.4. Những vấn đề đặt ra cần giả i quyết 67
CHƯƠNG 3: NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM Ở NGHỆ AN TỪ NAY ĐẾN NĂM 2010 71
3.1. Quan điểm, dự báo và phương hướng giải quyết việc làm ở Nghệ
An đến năm 2010 71
3.2. Những giải pháp chủ yếu để giải quyết có hiệu quả việc làm ở
Nghệ An đến năm 2010 77
KẾT LUẬN 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99



NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

1. BCHTW : Ban Chấp hành Trung ương
2. CHXHCNVN : Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3. CMKT : Chuyên môn kỹ thuật
4. CNH : Công nghiệp hoá
5. DNNN : Doanh nghiệp nhà nước

6. CNKT : Công nhân kỹ thuật
7. HĐH : Hiện đại hoá
8. HĐKTTX : Hoạt động kinh tế thường xuyên
9. HĐND : Hội đồng nhân dân
10. LĐTB & XH : Lao động thương binh và xã hội
11. LLLĐ : Lực lượng lao động
12. THCN : Trung học chuyên nghiệp
13. THPT : Trung học phổ thông
14. PTCS : Phổ thông cơ sở
15. TW : Trung ương
16. UBND : Ủy ban nhân dân
17. VLTX : Việc làm thường xuyên
18. XKLĐ : Xuất khẩu lao động





1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội có tính
chất toàn cầu, là mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại nói chung, của
mỗi quốc gia, dân tộc nói riêng. Thúc đẩy mục tiêu tạo việc làm đầy đủ cho
người lao động để tạo thu nhập chính đáng qua đó không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, đời sống tinh thần của nhân dân là một trong những chủ trương,
chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng ta khẳng định "giải quyết việc làm là một chính sách xã hội cơ
bản" [24, tr.104].

Trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn lấy
con làm trung tâm, coi phát triển con người vừa là mục tiêu vừa là động lực
của sự phát triển. Tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội làm việc, một mặt là
để phát huy tiềm năng lao động - nguồn nội lực quan trọng nhất cho sự phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta, mặt khác giải quyết việc làm cho người lao
động là hướng cơ bản để xoá đói giảm nghèo đạt hiệu quả phát triển bền
vững. Đặc biệt, trong điều kiện đất nước ta: tài nguyên, đất đai không nhiều,
nguồn lực tài chính hạn hẹp, cơ sở vật chất còn thiếu thốn lại đang trong quá
trình tiếp cận với nền kinh tế tri thức và tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế
trong xu thế toàn cầu hoá. Vì vậy, giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để
phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã
hội, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Nghệ An là một tỉnh ở Bắc Trung bộ với diện tích tự nhiên 16.487 km
2
,
tính đến 31 – 12 - 2004 dân số trên địa bàn tỉnh Nghệ An ước đạt 3.003.170
người, mật độ dân số 182 người/ km
2
. Thu nhập bình quân đầu người thấp,
kết cấu hạ tầng kém, kinh tế phát triển không đồng đều giữa các vùng. Chất

2
lượng lao động thấp, hầu hết là lao động phổ thông phần lớn chưa qua đào tạo
nghề, vấn đề đảm bảo việc làm đã và đang là một thách thức lớn trong quá
trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở tỉnh Nghệ An. Bên cạnh đó, tỷ lệ tăng dân
số của tỉnh còn khá cao, mức đầu tư thấp trong khi ngành, nghề, dịch vụ kém
phát triển đã và đang là nguồn gốc làm nảy sinh những mâu thuẫn gay gắt
giữa cung và cầu về lao động của tỉnh, tạo nên những bức xúc ngày càng lớn
về việc làm ở Nghệ An hiện nay.
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Nghệ An hiện nay

nhằm đánh giá đúng thực trạng, tìm ra phương hướng và những giải pháp hữu
hiệu để sử dụng hợp lý nguồn lao động trên địa bàn của tỉnh đang là một đòi
hỏi cấp bách, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận lẫn thực tiễn. Do đó, tôi chọn
đề tài: "Giải quyết việc làm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở
Nghệ An" làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên
ngành kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Giải quyết việc làm cho người lao động luôn là vấn đề mang tính thời
sự, cấp bách. Do đó, đã có nhiều công trình của các tác giả trong nước và
ngoài nước nghiên cứu và công bố tiêu biểu như: Sử dụng nguồn lao động và
việc làm của Trần Đình Hoan và Lê Mạnh Khoa, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991;
Chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của TS. Nguyễn Hữu Dũng và TS
Trần Hữu Trung (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Một số
giải pháp giải quyết việc làm trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay của Trần Tuấn Anh, Luận văn thạc sỹ, khoa Kinh tế
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Lao động việc làm nguồn nhân lực ở
Việt Nam 15 năm đổi mới của Biên tập khoa học: Nolwen Henaff Jean - Yves
Martin, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2001; các công trình khoa học khác như: Điều
tra về lao động và việc làm ở Việt Nam do Bộ Lao động - Thương binh và Xã

3
hội phối hợp với Tổng cục Thống kê triển khai hàng năm (từ 1996 đến nay);
Hội thảo về lao động việc làm do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương tổ chức. Cùng với các công trình khoa học trên còn có nhiều bài viết
được đăng tải trên các sách báo, tạp chí khoa học như bài: Ảnh hưởng của nền
kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam của GS. TS. Đỗ
Thế Tùng, Tạp chí Lao động và Công đoàn (6), 2002; Vấn đề lao động và
việc làm ở Việt Nam từ đổi mới đến nay của các tác giả GS. TS. Phạm Đức
Thành, PGS. TS. Phạm Quý Thọ, ThS. Thang Mạnh Hợp, Tạp chí Nghiên
cứu kinh tế (76), 2003; Lao động việc làm những bước tiến quan trọng của

Nguyễn Thị Hằng, Tạp chí Cộng sản (23), 2003 v.v Tỉnh Nghệ An hàng
năm có báo cáo về tình hình giải quyết việc làm, điều tra lao động việc làm
hàng năm của Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh, cho đến nay chưa
có một công trình nghiên cứu nào về chuyên đề này dưới dạng một luận văn
khoa học, để đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng hợp lý nguồn lao
động dôi thừa ở Nghệ An hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích của đề tài:
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề giải quyết việc
làm ở tỉnh Nghệ An.
Phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh Nghệ An
đến năm 2010.
- Nhiệm vụ của đề tài:
+ Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về lao động, việc làm và
thất nghiệp.
+ Tìm hiểu, phân tích những nhân tố tác động đến giải quyết việc làm.

4
+ Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Nghệ An từ
năm 2000 - 2004.
+ Đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm giải quyết có
hiệu quả vấn đề việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung chủ yếu vào vấn đề có tính chất trọng điểm, nổi cộm
trong giải quyết việc làm ở Nghệ An từ năm 2000 - 2004, thông qua một số
giải pháp giải quyết việc làm chủ yếu trong thời gian từ nay đến 2010.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
các Văn kiện Đại hội Đảng và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương các khoá
xung quanh vấn đề này. Bên cạnh đó, đề tài kế thừa và sử dụng có chọn lọc
một số đề xuất và số liệu thống kê của một số công trình có liên quan của các
tác giả trong và ngoài nước.
* Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử để nghiên cứu. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương
pháp: khảo sát, điều tra, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu và phân tích để
làm sáng tỏ vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp chủ yếu của luận văn
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động
ở Nghệ An từ 2000 đến nay.
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm từng bước thúc đẩy
hiệu quả công tác giải quyết việc làm cho người lao động ở Nghệ An.
7. Kết cấu của luận văn

5
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương 9 tiết.




Chƣơng 1
VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ VIỆC LÀM VÀ VAI TRÒ CỦA GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
1.1.1. Khái quát về lao động, việc làm và thất nghiệp
Lao động là một phạm trù kinh tế, một mặt lao động là quá trình tác

động giữa con người với tự nhiên, trong quá trình đó con người cải biến
những vật thể tự nhiên làm cho nó thích ứng với nhu cầu của mình, mặt khác
lao động luôn luôn được tiến hành trong xã hội, vì vậy nó đòi hỏi những quan
hệ nhất định giữa con người với con người trong quá trình tác động vào tự
nhiên.
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người tác động
vào giới tự nhiên nhằm cải biến những vật phẩm tự nhiên thành các sản phẩm
phục vụ các nhu cầu của đời sống con người. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin đã đề cập nhiều đến phạm trù này trong các nghiên cứu của
mình, theo C. Mác, lao động là một điều kiện tồn tại của con người không phụ
thuộc vào bất kì hình thái kinh tế xã hội nào, là một sự tất yếu tự nhiên, vĩnh
cửu làm môi giới cho sự trao đổi chất giữa con người với giới tự nhiên, tức là
cho bản thân sự sống của con người.
Ph. Ăngghen viết: " các nhà kinh tế chính trị khẳng định rằng lao
động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi với

6
giới tự nhiên là giới cung cấp những vật liệu cho lao động đem biến thành của
cải. Nhưng lao động còn là một cái gì vô cùng lớn lao hơn thế nữa. Lao động
là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người và như thế đến
một mức và trên một ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo
ra bản thân con người” [30, tr. 641].
Hoạt động lao động của con người không những làm biến đổi giới tự
nhiên tạo ra của cải, mà còn hoàn thiện, phát triển cả bản thân con người.
Trong quá trình ấy con người tích luỹ kinh nghiệm sản xuất, làm giàu tri thức
của mình, hoàn thiện bản thân cả về thể lực và trí lực.
Lao động là hoạt động bản chất nhất và là phẩm chất đặc biệt của con
người, khác với hoạt động bản năng của loài vật. C. Mác viết: "Con nhện làm
những động tác giống như động tác người thợ dệt và bằng việc xây dựng
những ngăn tổ sáp của mình, con ong còn phải làm cho một số nhà kiến trúc

phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà nhà kiến trúc tồi nhất với
con ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến
trúc đã xây dựng chúng ở trong đầu óc của mình rồi" [32, tr. 266].
Đặc trưng chủ yếu của lao động là sáng tạo ra giá trị và của cải cho
phép đáp ứng nhu cầu của con người và những nhu cầu này phát triển vô hạn.
Song, những nhu cầu này không chỉ thuộc lĩnh vực kinh tế, vật chất như: nhu
cầu sinh tồn, phát triển, hưởng thụ về vật chất mà còn có các nhu cầu về tinh
thần, nhu cầu hoạt động lao động sản xuất vật chất càng phát triển thì càng
đòi hỏi phải nâng cao nhân tố con người trong quá trình sản xuất, càng đòi hỏi
ở con người chức năng sáng tạo và luôn đề ra cho lao động những yêu cầu
mới cao hơn nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Vậy nên,
lao động bao giờ cũng là nhân tố đầu tiên, cơ bản, là điều kiện không thể thiếu
của sự tồn tại và phát triển đời sống xã hội loài người. Trong quá trình lao
động sản xuất, người lao động luôn nắm giữ vị trí quan trọng hàng đầu. Họ

7
không những là chủ thể sáng tạo ra của cải vật chất mà còn sáng tạo ra những
yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất xã hội. Trong một quốc gia, một vùng hay
một địa phương cụ thể thì người lao động được thể hiện ở nguồn lao động hay
còn gọi là nguồn nhân lực. Đó là tổng thể toàn bộ thể lực và trí lực của bộ
phận dân cư của đất nước có khả năng về thể chất và tinh thần có thể sử dụng
trong quá trình lao động. Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng hợp thành
tiềm lực của đất nước. Những tiêu chuẩn cơ bản để xếp dân cư vào nguồn
nhân lực là độ tuổi và tình trạng sức khoẻ. Ở Việt Nam, nguồn nhân lực bao
gồm số người trong độ tuổi lao động theo Bộ Luật lao động quy định: Nam từ
15-60 tuổi, Nữ từ 15-55 tuổi có khả năng lao động. Tuy nhiên, không phải
toàn bộ những người thuộc nguồn nhân lực đều tham gia sản xuất xã hội cả
mà cần trừ đi (theo quy ước): những người không có khả năng lao động
(chẳng hạn do tàn tật); những người nội trợ trong gia đình; học sinh sinh viên
đang học; quân đội (do tính chất đặc thù của hoạt động quân sự). Sau khi trừ

đi khỏi nguồn nhân lực bốn bộ phận này số còn lại trong kinh tế gọi là lực
lượng lao động. Lực lượng lao động được thống kê theo hai bộ phận, đó là:
những người có việc làm và những người thất nghiệp, muốn làm việc, đang
tìm việc làm trên thị trường lao động. Đặc trưng của nguồn nhân lực là các
chỉ tiêu về số lượng và chất lượng, cụ thể: chỉ tiêu về số lượng, độ tuổi, trình
độ học vấn, giới tính, số người đang đi học, số người đang làm việc trong nền
kinh tế quốc dân và sự phân bố theo ngành, theo lĩnh vực, lãnh thổ. Mức tăng
nguồn nhân lực là sự chênh lệch giữa số dân cư đến độ tuổi lao động (15 tuổi)
và số dân cư đến độ tuổi nghỉ hưu (nam 60, nữ 55 tuổi). Để đánh giá nguồn
nhân lực người ta thường dùng các chỉ tiêu về trình độ văn hoá, chuyên môn
kỹ thuật, mức độ lành nghề, kinh nghiệm thực tiễn, trình độ quản lý, phong
cách làm việc và sức khoẻ. Trong những điều kiện lịch sử nhất định và cho

8
đến nay lao động là phương tiện để sinh sống, là nguồn gốc chân chính của
thu nhập, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Trong thực tiễn, không phải thiếu lao động mà là thiếu việc làm. Việc
làm chỉ là cái vỏ xã hội, cái khung pháp lý mà trong đó lao động được diễn ra.
Trong xã hội có giai cấp thì xã hội chịu sự chi phối bởi lợi ích của giai cấp
thống trị và hệ thống pháp luật dựa trên cơ sở lợi ích của giai cấp đó hoạch
định. Do đó, lao động thuộc về nhu cầu vô hạn của con người như là một cơ
sở đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển xã hội, còn việc làm lại là phạm trù
giới hạn và bị lợi ích giai cấp chi phối. Trong thực tiễn, vì lợi ích kinh tế
những giai cấp nắm trong tay các vật chất của lao động (đối tượng lao động,
tư liệu lao động) có thể thu hút nhanh chóng những khối lượng lớn sức lao
động vào các quá trình sản xuất nhưng cũng vì lợi ích kinh tế của giai cấp họ
sẵn sàng sa thải hàng loạt người lao động, nên việc làm của xã hội bị thu hẹp.
Bởi lao động là quá trình tiêu dùng sức lao động, quá trình đó chỉ có thể diễn ra
khi đã được giả định những tiền đề vật chất cho quá trình đó đã đầy đủ. Trên
bình diện một quốc gia cụ thể thì quá trình lao động sản xuất (việc làm) của bộ

phận dân cư có sức lao động lại được giả định trên cơ sở số lượng việc làm. Do
đó, việc làm không chỉ diễn ra trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
mà cả mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất,
trong đó liên quan đến các lợi ích kinh tế và pháp luật khi tạo lập đầy đủ các
yếu tố vật chất để quá trình làm việc diễn ra. Việc làm là một trong những vấn
đề có ý nghĩa kinh tế, xã hội, chính trị rất quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc
biệt là đối với những nước đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế như
Việt Nam.
Ở Việt Nam trước đây (trước 1980), nền kinh tế vận động theo cơ chế
kế hoạch hoá tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Trong cơ
chế này chúng ta thường quan niệm người lao động được coi là có việc làm

9
và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong các cơ quan nhà
nước, trong khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Từ khi chuyển sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước đến nay, quan niệm về
việc làm đã có sự thay đổi một cách căn bản. Theo điều 13 chương II của Bộ
Luật lao động của nước Cộng hoà cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy
định: " Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật
cấm đều được thừa nhận là việc làm" [9, tr. 15].
Theo quy định này việc làm bao gồm hai yếu tố: lao động tạo ra thu
nhập và không bị pháp luật cấm. Như vậy, quan niệm mới về việc làm được
quy định trong Bộ Luật lao động đã xoá bỏ quan niệm cũ về việc làm khi cho
rằng việc làm chỉ có trong khu vực nhà nước, xoá bỏ sự phân biệt đối xử lao
động giữa các thành phần kinh tế, động viên mọi tổ chức, cá nhân tạo nhiều
việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, quan niệm mới về việc làm còn
thể hiện rõ đặc trưng của Nhà nước pháp quyền Việt Nam ở chỗ: cho phép
công dân Việt Nam được làm những việc mà pháp luật không cấm. Ví dụ:
nghề giúp việc gia đình, nghề thu gom rác thải phế liệu là những nghề mà
trước đây chưa được xã hội tôn trọng và thừa nhận, thì nay đã trở thành việc

làm đáng được khuyến khích và được pháp luật bảo vệ. Ngược lại, Bộ Luật
lao động cũng quy định rõ mọi công dân không được làm những việc mà pháp
luật cấm như: buôn lậu, mãi dâm, buôn bán ma tuý, vũ khí Với quan niệm
việc làm như vậy sẽ làm cho nội dung của việc làm được mở rộng tạo tiền đề
để giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người thuộc
các thành phần kinh tế khác nhau, đồng thời ngăn chặn những việc làm phi
pháp nảy sinh trong điều kiện kinh tế mở.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tạo môi trường và các điều kiện
thuận lợi để các ngành kinh tế, các hình thức kinh tế, các vùng kinh tế phát
triển, trên cơ sở đó đã góp phần tạo thêm nhiều việc làm mới đáp ứng yêu cầu

10
về việc làm, từng bước ổn định và nâng cao đời sống của người lao động,
song trong điều kiện phát triển nền kinh tế xã hội hiện nay, ở nước ta hiện
tượng thiếu việc làm, thất nghiệp dưới những hình thức khác nhau đã và đang
còn tồn tại. Hiện tượng này đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình kinh tế
- xã hội của cả nước nói chung và của từng địa phương nói riêng, điều đó đòi
hỏi Nhà nước, các cơ quan chức năng và người lao động cần phải quan tâm
giải quyết. Cần thiết phải thống nhất các khái niệm thiếu việc làm, thất
nghiệp.
Thiếu việc làm có những hình thức và nguyên nhân khác so với thất
nghiệp. Thiếu việc làm hay còn gọi là bán thất nghiệp hay thất nghiệp trá hình
là hiện tượng người lao động có việc làm ít hơn mức mà mình mong muốn.
Như vậy, người thiếu việc làm là người không có đủ việc làm theo thời gian
quy định trong tuần, trong tháng hoặc là làm những công việc có thu nhập
quá thấp, không đảm bảo cuộc sống nên có nhu cầu làm việc thêm để có
thêm thu nhập.
Thất nghiệp là hiện tượng, phạm trù kinh tế gắn với trạng thái tâm lý
xã hội căng thẳng của những người lao động, trong đó, khả năng vận dụng
thần kinh và bắp thịt của họ bị kìm giữ bởi thiếu các điều kiện vật chất, điều

kiện pháp lí cho lao động diễn ra bất chấp nguyện vọng mong muốn làm
việc của họ.
Có nhiều loại thất nghiệp: thất nghiệp tạm thời là thất nghiệp phát sinh
do người lao động muốn có thời gian để tìm việc làm thích hợp với chuyên
môn và sở thích của mình; thất nghiệp cơ cấu là thất nghiệp xuất hiện khi
không có sự đồng bộ giữa kỹ năng, trình độ của người lao động với cơ hội
việc làm do cầu lao động và sản xuất thay đổi; thất nghiệp do thiếu cầu là thất
nghiệp khi tổng cầu của nền kinh tế giảm, kéo theo giảm cầu về lao động mà
tiền lương và giá cả chưa kịp điều chỉnh; thất nghiệp theo mùa vụ là thất

11
nghiệp do cầu lao động dao động, giảm thường vào những thời kì nhất định
trong năm; thất nghiệp chu kỳ là thất nghiệp gắn liền với sự suy giảm theo
thời kỳ của nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp được xem là một trong những
thước đo thành tựu nền kinh tế ở tầm vĩ mô, là vấn đề trung tâm trong nền
kinh tế được toàn xã hội quan tâm. Khi thất nghiệp cao, về mặt kinh tế tài
nguyên bị lãng phí, thu nhập bị giảm sút, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực
tế thấp hơn mức tiềm năng của nó, mức thất nghiệp cao làm giảm sản lượng
của nền kinh tế, về mặt xã hội thất nghiệp tác động mạnh đến xã hội và tâm lý
người lao động làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội gia tăng.
1.1.2. Ý nghĩa của vấn đề giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa kinh tế, chính trị -
xã hội rất quan trọng trong từng đơn vị kinh tế ở cơ sở cũng như trên phạm vi
toàn quốc. Giải quyết việc làm được thực hiện thông qua các biện pháp về
kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động có nhu
cầu làm việc đều có được việc làm. Giải quyết việc làm là một vấn đề có tính
chất liên ngành, mang tính chất tổng hợp trong chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước. Làm tốt công tác giải quyết việc làm sẽ góp phần phát
triển sản xuất, tăng thu nhập cho người lao động, xoá đói, giảm nghèo, tăng

tích luỹ nội bộ nền kinh tế, hạn chế tệ nạn xã hội, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu
vực thành thị, nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn,
đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế. Giải
quyết việc làm cho người có nhu cầu làm việc sẽ góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân, ổn định chính trị xã hội, đảm bảo công bằng,
dân chủ, văn minh.
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG

12
Nếu trừu tượng hoá các mối quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình lao động sản xuất và chỉ xét việc làm như một tổng thể các
điều kiện vật chất, các điều kiện pháp lý để trong đó quá trình lao động có thể
được diễn ra thì việc làm chịu sự chi phối bởi các nhân tố sau:
1.2.1. Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình sản
xuất, kinh doanh. Việt Nam là đất nước có nguồn tài nguyên phong phú và đa
dạng, là điều kiện thuận lợi để chúng ta mở mang, phát triển các ngành nghề,
tạo việc làm cho người lao động.
Ở Việt Nam, tài nguyên thiên nhiên được phân bố ở hầu khắp các tỉnh,
tính đa dạng thể hiện ở chủng loại, số lượng, chất lượng tài nguyên như: tài
nguyên khoáng sản: vàng, đá quý, than đá, dầu khí, thiếc, mănggan, titan ;
tài nguyên biển phong phú với trữ lượng lớn về cá, tôm và hải sản có giá trị
kinh tế cao; tài nguyên rừng với các loại cây, gỗ quý, nơi lưu giữ các nguồn
ghen quý về động, thực vật; tài nguyên đất đai; khí hậu thuận lợi và dễ khai
thác để có thể phát triển các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,
công nghiệp, thương mại và dịch vụ phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện đời
sống của nhân dân. Tài nguyên thiên nhiên là lợi thế so sánh để Việt Nam
phát triển kinh tế.

Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang ở giai đoạn chuyển đổi và phát
triển, trong giai đoạn này vai trò của tài nguyên thiên nhiên đối với phát triển
kinh tế càng thể hiện rõ. Do điểm xuất phát thấp, công nghệ mà chúng ta sử
dụng chủ yếu là công nghệ khai thác và chế biến tài nguyên. Vậy nên, để đảm
bảo phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động vấn đề đặt ra là cần
phải khai thác, sử dụng tài nguyên như thế nào?.

13
Thực tế cho thấy, Ở Việt Nam hiện nay tình trạng khai thác tài nguyên
đang diễn ra hết sức phức tạp, khó quản lý gây thất thoát, lãng phí tài nguyên
nghiêm trọng: nạn chặt phá rừng, đốt rừng làm rẫy, nạn đánh bắt thuỷ, hải sản
bằng thuốc nổ, nạn khai thác khoáng sản (than đá, vàng, đá quý, thiếc ) bừa
bãi làm suy giảm, cạn kiệt tài nguyên.
Đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững mà trong đó vấn đề khai thác, sử
dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Cần tiết kiệm và tiết chế sử dụng những tài nguyên không tái tạo được, khai
thác sử dụng hợp lý các tài nguyên có thể tái tạo (tài nguyên biển, tài nguyên
đất đai, tài nguyên rừng) từ những dạng tài nguyên này nếu sử dụng hợp lý
chúng ta có thể mở rộng sản xuất, phát triển đa dạng các ngành nghề liên
quan, thu hút lao động, tạo thêm nhiều việc làm, chống thất nghiệp. Muốn
vậy, cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Tăng cường công tác quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc khai thác tài
nguyên thiên nhiên đặc biệt là tài nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng, xử
lý nghiêm minh những hành vi khai thác bất hợp lý, gây thất thoát, lãng phí
tài nguyên.
- Tăng cường công tác giáo dục người dân có ý thức bảo vệ và tái tạo
tài nguyên đặc biệt là tài nguyên rừng.
- Khuyến khích nhân dân mở mang các ngành nghề để khai thác tận
dụng tài nguyên như: tận dụng mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản, khai thác hợp
lý tài nguyên biển, khoáng sản, mở rộng diện tích đất trồng trọt, đặc biệt là

phủ xanh đất trống đồi núi trọc, tận dụng các danh lam thắng cảnh để phát
triển ngành du lịch, dịch vụ.
1.2.2. Máy móc thiết bị
Máy móc thiết bị là tư liệu sản xuất, là yếu tố cơ bản của quá trình sản
xuất. Theo C. Mác, vấn đề chủ yếu ở đây là vấn đề giới hạn kinh tế hay điều

14
kiện kinh tế của việc áp dụng máy móc. Máy móc nâng cao năng suất lao
động (bởi nó làm giảm số lượng lao động xã hội cần thiết hao phí vào việc
sản xuất một đơn vị sản phẩm). Tuy nhiên, máy móc lại đòi hỏi phải hao phí
lao động để tạo ra nó. Do đó, nếu lao động do máy móc tiết kiệm được bằng
số lao động cần thiết để sản xuất máy móc đó thì như Mác nói: trong trường
hợp này, lao động chỉ đổi chỗ thôi, nghĩa là tổng số lao động cần thiết để sản
xuất một hàng hoá không giảm bớt, hay năng suất lao động không tăng lên.
Trong điều kiện như vậy việc áp dụng máy móc có sự khác nhau về mặt kinh
tế: lao động được giảm bớt trong phạm vi này nhưng lại bị chuyển sang phạm
vi khác.
Dưới chủ nghĩa tư bản, máy móc tạo ra khả năng sử dụng rộng rãi lao
động trẻ em và lao động phụ nữ làm cho giá trị của sức lao động giảm xuống
" bằng cách ném tất cả mọi thành viên gia đình người công nhân vào thị
trường lao động, máy móc cũng phân phối giá trị sức lao động của đàn ông
cho toàn thể gia đình người đó” [32, tr. 569]. Nói cách khác, việc thu hút lao
động phụ nữ và lao động trẻ em là một nguồn mới để sản xuất giá trị thặng dư
tương đối. Ở đây, việc thu hút được giá trị thặng dư tương đối không phải do
nâng cao năng suất lao động mà là do nâng cao trình độ bóc lột. Nếu gạt bỏ
bản chất tư bản chủ nghĩa của nó mà chỉ xét máy móc thiết bị như là một điều
kiện vật chất tiên quyết cho việc tạo lập ra những khối lượng lớn việc làm cho
người lao động, thì việc sử dụng máy móc là cơ sở để thiết lập ra các xí
nghiệp vừa và nhỏ đồng thời là cơ sở để nâng cao năng suất lao động tạo ra
thu nhập và việc làm cho người lao động Việt Nam trong khi, điền kiện ứng

dụng những công nghệ tiên tiến nhất còn thiếu.
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ
sở vật chất, kỹ thuật yếu kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển,
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chưa được hoàn thiện. Vì vậy, quá trình

15
công nghiệp hoá chính là quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền
kinh tế quốc dân. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay được coi
là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình đổi mới trang thiết bị máy
móc theo hướng hiện đại để phục vụ cho quá trình sản xuất nhắm đạt năng
suất, chất lượng và hiệu quả cao trên phương pháp sản xuất công nghiệp.
Đồng thời phát triển các ngành công nghệ cao dựa trên các thành tựu mới nhất
của khoa học hiện đại như: công nghệ sinh học, công nghệ tin học, công nghệ
gia công chính xác trong chế tạo máy, tự động hoá với năng lượng mới, vật
liệu mới. Với lĩnh vực lao động việc làm, sự phát triển của khoa học công
nghệ mang lại nhiều cơ hội để con người phát huy khả năng của mình, nhưng
đồng thời cũng tạo ra không ít thách thức. Kinh nghiệm của các nước phát
triển cho thấy, sức lao động rẻ và dư thừa (như Việt Nam) bị mất dần ưu thế.
Xu hướng hiện nay là tăng lao động khoa học kỹ thuật, tri thức, phi sản xuất
trực tiếp, giảm lao động giản đơn, kỷ năng thấp. Như vậy, trong xã hội hiện
đại chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong quá trình tìm
kiếm việc làm. Các quốc gia không lường trước được hiện tượng này của sự
phát triển khoa học và công nghệ sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối trong
nguồn nhân lực và xu hướng chắc chắn sẽ xẩy ra khi phát triển khoa học công
nghệ là sự gia tăng thất nghiệp của đội ngũ công nhân không lành nghề. Do
đó, để phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào các lĩnh vực của đời
sống cần phải quan tâm giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực để họ chủ động nắm
bắt khoa học công nghệ, vận hành tốt các trang thiết bị tiên tiến, có như vậy
việc ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ mới thực sự đạt hiệu quả.

Để thực hiện mục tiêu này, trước hết cần có những biện pháp nhằm tăng
cường năng lực thể chế của các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực lao động -
việc làm. Thực hiện có hiệu quả chương trình việc làm quốc gia thông qua

16
nhiều hoạt động: đào tạo nghề cho người lao động, khuyến khích phát triển
kinh tế tư nhân, khuyến khích ứng dụng các công nghệ mới vào sản xuất, tăng
đầu tư cơ sở hạ tầng, hiện đại hoá một số trường dạy nghề, khuyến khích phát
triển hệ thống trường lớp dạy nghề dân lập và tư thục.
1.2.3. Dân số và tỷ lệ tăng dân số
Dân số, lao động và việc làm là những vấn đề có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Mức gia tăng dân số càng nhanh thì nguồn lao động trong tương lai
cũng tăng nhanh, đồng thời nó sẽ tạo ra áp lực lớn đến giải quyết việc làm
dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Gia tăng dân số nhanh sẽ buộc xã hội phải
chi trả nhiều hơn cho mục đích tiêu dùng, đầu tư ít cho sản xuất và phát triển
nhất là cho phát triển nguồn nhân lực. Quy mô nguồn nhân lực lớn mà cơ hội
việc làm ở nông thôn thấp sẽ dẫn đến tình trạng di dân từ nông thôn ra thành
thị vì mục đích kiếm sống mà lực lượng chủ yếu là lao động trẻ, khoẻ, có vốn
kiến thức khá nhất ở nông thôn, dẫn đến hậu quả là ở nông thôn bị mất đi
nguồn nhân lực có sức khoẻ, có khả năng tiếp thu những tri thức mới cần thiết
cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Nhưng
tại thành thị, lực lượng lao động này cũng khó có thể cạnh tranh để tìm kiếm
cơ hội việc làm trong khu vực kinh tế hiện đại, bởi họ hầu hết chỉ là lao động
phổ thông, phần lớn chưa qua đào tạo nghề nên chủ yếu gia nhập khu vực phi
kết cấu gây nên sự lãng phí trong sử dụng sức lao động của bộ phận lao động
này. Mặt khác, lao động ở nông thôn di cư lên thành thị sẽ gặp rất nhiều khó
khăn trong sinh hoạt như vệ sinh, nhà ở, y tế Đó là chưa kể đến số dân di cư
theo mùa vụ, hình thành nên các chợ lao động làm phức tạp cho công tác quản
lý đô thị, làm gia tăng các tệ nạn xã hội như: trộm cắp, cờ bạc, ma tuý, lây
nhiễm HIV, AIDS

Dân số tăng nhanh sẽ làm cho đất nước khó khăn trong việc nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Đầu tư vào lớp trẻ thấp, chất lượng tương lai của

17
nguồn nhân lực thấp, khó có khả năng đầu tư nâng cao năng lực và chất lượng
của những người trong độ tuổi lao động. Kinh nghiệm và tri thức của người
lao động cao tuổi cũng khó được phát huy bởi phải nhường chỗ cho lớp trẻ.
Đất nước luôn ở tình trạng vận dụng các giải pháp tình thế để giải quyết lao
động dôi dư mà giải pháp cho về nghỉ trước tuổi luôn là giải pháp đầu tiên
được nghĩ đến.
Bên cạnh đó, gia tăng dân số nhanh cùng với việc phân bố dân cư
bất hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng chung là không gắn lao động với đất đai,
tài nguyên, không gắn lao động với cơ sở vật chất kỹ thuật khiến cho
việc tạo việc làm khó khăn, thất nghiệp và thiếu việc làm tiếp tục có xu
hướng tăng nhanh khiến cho nghèo đói sinh sôi và tồn tại dai dẳng.
Nước ta từ khi thực hiện đường lối đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu
kinh tế - xã hội đáng kể. Tuy nhiên, do tốc độ gia tăng dân số trong quá khứ
nhanh nên số người bước vào độ tuổi lao động ngày càng nhiều, tốc độ gia
tăng của nguồn nhân lực không tương thích với tốc độ tạo việc làm trong nền
kinh tế. Thời kỳ 1979 - 1989 tỷ lệ tăng nguồn lao động bình quân hàng năm là
3,03% nhưng tỷ lệ tăng việc làm chỉ là 2,6%, còn của thời kỳ 1989 - 1999 là
2,71% và 2,34%, thời kỳ 1999-2004 chúng ta giải quyết được hơn 6,5 triệu
việc làm. Trên thực tế, số người bước vào tuổi lao động hàng năm vẫn lớn
hơn nhiều so với chỗ làm việc mà chúng ta có thể tạo ra. Đó là một sức ép
lớn, ngoài ra còn phải kể đến sức ép của số lao động bị mất việc làm do tác
động của khủng hoảng kinh tế, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, của
sức cạnh tranh yếu kém của nền kinh tế nước ta. Theo điều tra của Bộ lao
động thương binh và xã hội cho thấy tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị
năm 2000 là 6,34% năm 2004 là 6,68%, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở
khu vực nông thôn thấp (dưới 80%). Số liệu thống kê và dự báo dân số còn

cho thấy năm 1990 số người trong độ tuổi lao động mới là 35,7 triệu người,

18
năm 2000 đã là 46,5 triệu người và dự đoán đến năm 2015 con số này sẽ lên
tới 62 triệu người. So với năm 1990 năm 2015 sẽ có thêm 26 triệu người
trong độ tuổi lao động. Đây chính là bài toán khó mà chúng ta phải giải quyết
để tạo ra sự phát triển bền vững của đất nước.
1.2.4 Thị trƣờng hàng hoá sức lao động
Thị trường hàng hoá sức lao động là toàn bộ các quan hệ kinh tế hình
thành trong lĩnh vực thuê mướn lao động. Trên thị trường lao động mức cung,
cầu về lao động ảnh hưởng đến tiền công lao động và sự thay đổi mức tiền
công cũng ảnh hưởng tới cung, cầu về lao động. Đối tượng tham gia thị
trường lao động bao gồm: những người cần thuê và đang sử dụng sức lao
động của người khác; những người có nhu cầu đi làm thuê hoặc đang làm việc
cho người khác bằng sức lao động của mình để nhận được một khoản tiền
công.
Cung về lao động là khối lượng lao động sẵn sàng được sử dụng, đó là
toàn bộ khối lượng thời gian mà những người lao động có khả năng và sẵn
sàng làm việc với những mức tiền công khác nhau trong một thời gian nhất
định. Cung về lao động phụ thuộc các yếu tố sau:
 Số người tham gia lực lượng lao động xã hội.
 Mức tiền công thực tế nhận được.
 Mối quan hệ lợi ích giữa thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi.
 Mức sống của dân cư.
 Trình độ phát triển, phong tục tập quán.
Cầu về lao động là số lượng sức lao động mà các chủ doanh nghiệp có khả
năng thuê với các mức tiền công khác nhau trong một thời gian nhất định.
Cầu về lao động bị chi phối bởi các yếu tố:
 Cầu về hàng hoá và dịch vụ trên thị trường.
 Tiền công lao động.


19
 Các yếu tố về kỹ thuật công nghệ (trình độ nghề nghiệp của người lao động).
 Mức độ của ưu tiên đầu tư theo các ngành, vùng.
Quan hệ cung - cầu về lao động chịu sự tác động của nhiều yếu tố trong đó
quan trọng nhất là các yếu tố sau:
+ Khả năng phát triển thị trường để thu hút lao động (mở rộng cầu về lao
động), yếu tố này phụ thuộc vào mô hình và cơ cấu kinh tế: phát triển các
ngành, đặc biệt là các ngành sử dụng nhiều lao động; phát triển các vùng mà
trước hết là các vùng nông thôn có tiềm năng tạo việc làm thu hút được nhiều
lao động; phát triển các thành phần kinh tế và sự đan xen giữa các thành phần
kinh tế; phát triển đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh và mối
liên kết giữa chúng; mở rộng không gian kinh tế (trong nước và ngoài nước).
+ Sự phù hợp giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế (việc làm) về không gian
và thời gian, vấn đề chất lượng lao động đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
+ Sự phát triển của nguồn nhân lực: sự cung ứng sức lao động vào thị trường
lao động hàng năm, sự tồn đọng của lao động chưa có việc làm (thất nghiệp)
trong một thời điểm nhất định, mức độ căng thẳng hay sức ép về việc làm
+ Khả năng tổ chức thị trường lao động đặc biệt là sự phát triển các tổ
chức xúc tiến việc làm, dịch vụ việc làm.
Ở nước ta hiện nay, quan hệ cung - cầu về lao động trên thị trường lao
động được biểu hiện như sau:
Thứ nhất, trên phạm vi cả nước cung về lao động luôn lớn hơn cầu về
lao động và tình trạng này còn tiếp tục kéo dài trong nhiều năm tới dẫn đến
sức ép rất lớn về việc làm. Ở đây, chủ yếu xét đến khả năng phát triển việc
làm còn rất hạn chế trong khi khả năng tạo việc làm trong nền kinh tế còn rất
lớn. Sở dĩ chúng ta rơi vào tình trạng này là do xuất phát điểm thấp, nền kinh
tế thiếu vốn đầu tư nghiêm trọng, cơ cấu kinh tế đang trong quá trình chuyển
dịch nhưng quá trình chuyển dịch diễn ra chậm chạp và khó khăn.


20
Thứ hai, cung lao động lớn hơn cầu lao động còn được xem xét về mặt
tăng cung lao động hàng năm với tỷ lệ còn cao, tỷ lệ tăng bình quân năm của
nguồn nhân lực qua nhiều năm, đều lớn hơn tỷ lệ tăng dân số.
Bảng 1.1: Tỷ lệ tăng bình quân năm của dân số và nguồn nhân lực
ở Việt Nam [39, tr. 18].
Đơn vị tính: %
Thời kỳ
Tỷ lệ tăng hàng năm của dân
số
Tỷ lệ tăng hàng năm của
nguồn nhân lực
1975-1980
1980-1990
1991-1994
1995-2000
2000-2005
2,45
2,25
2,30
1,80
1,50
3,47
3,20
2,80
2,05
2,05

Do đó, cả về quy mô và tỷ lệ tăng của nguồn nhân lực đang tạo ra
sức ép mạnh đối với nền kinh tế, đặc biệt là công tác tạo việc làm cho

người lao động.
Thứ ba, lao động nông thôn chiếm hơn 80% lao động của cả nước, nếu
chỉ làm thuần nông, lao động thiếu hoặc không có việc làm lên đến 30%. Số
lao động này sẽ tự do di chuyển ra thành phố hoặc khu công nghiệp tập trung
để tìm kiếm việc làm và sẽ làm cho cung về lao động trên thị trường lao động
ở thành thị càng lớn. Mặt khác, số lao động này hầu hết chỉ là lao động phổ
thông lại chưa qua đào tạo nghề nên gặp nhiều khó khăn trong tìm kiếm việc
làm. Thị trường lao động luôn thiếu đội ngũ lao động có trình độ cao, công
nhân lành nghề để làm việc trong một số ngành, lĩnh vực áp dụng công nghệ
mới hoặc trong các khu chế xuất, các đơn vị kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

21
Thứ tư, quan hệ về cung - cầu lao động trên thị trường lao động còn
căng thẳng về mặt cơ cấu. Điều này thể hiện ở chỗ: một số ngành, một số lĩnh
vực tiềm năng còn lớn, có khả năng tạo nhiều cơ hội việc làm, thu hút nhiều
lao động, nhưng chưa tạo ra được những điều kiện về vốn, hạ tầng cơ sở, kỹ
thuật - công nghệ, kinh nghiệm quản lý để biến những khả năng thành hiện
thực như các ngành công nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, dịch vụ.
Bên cạnh những biểu hiện nêu trên, hiện nay trên thị trường lao động
tồn tại xu hướng thừa lao động ở một số lĩnh vực đặt biệt là khu vực kinh tế
nhà nước (lao động trong khu vực kinh tế nhà nước do cải cách hành chính và
sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước đã giảm từ 14,7% năm 1991 giảm xuống
còn 9% năm 2000). Song, lại xuất hiện thêm một số lĩnh vực và hình thức
kinh doanh mới đang có nhiều khả năng thu hút nhiều lao động như kinh tế hộ
gia đình, kinh tế trang trại, khu vực phi kết cấu, doanh nghiệp nhỏ. Đó là
những tín hiệu đáng mừng, tuy nhiên Nhà nước cần có chính sách thoả đáng
để khuyến khích các tổ chức, cá nhân tạo điều kiện để họ mở rộng sản xuất,
tạo việc làm cho người lao động.
1.2.5. Cơ chế chính sách của Nhà nƣớc về vấn đề lao động việc làm
Cơ chế chính sách của Nhà nước, của chính quyền địa phương và các

quy định của doanh nghiệp là những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến
quá trình tạo việc làm cho người lao động. Những chính sách của Chính
phủ là hành trang pháp lý cho quá trình phát triển sản xuất, kinh doanh mở
rộng hoặc thu hẹp việc làm ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ngành này
hay ngành khác, tạo môi trường để người chủ sử dụng lao động và người
lao động cùng thực hiện.
Trong những năm đầu của thời kì đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội
nước ta gặp nhiều khó khăn, đất nước chưa thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh
tế, tình hình lao động - việc làm trở thành vấn đề xã hội gay gắt, quan hệ đến

×