Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 98 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


Nguyễn Thị Thanh Hải




LAO ĐỘNG TRÍ THỨC NỮ TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM









Luận văn ThS. Kinh tế: 60.31.01

Nghd. : PGS.TS. Nguyễn Đình Kháng














MỤC LỤC
Mở đầu 1
Chƣơng 1. Trí thức nữ- Khái niệm, đặc điểm và vai trò của lao động trí
thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam 9
1.1. Lao động trí thức nữ khái niệm và đặc điểm của họ .9
1.1.1. Khái niệm trí thức- Lao động trí thức nữ 9
1.1.2. Đặc điểm của lao động trí thức nữ 13
1.2. Vai trò của lao động trí thức nữ và những nhân tố tác động đến họ 19
1.2.1. Vai trò của lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở Việt Nam 19
1.2.2. Những nhân tố tác động đến đội ngũ trí thức nữ 24
Chƣơng 2. Thực trạng lao động trí thức nữ Việt Nam và những vấn đề
đặt ra 33
2.1. Thực trạng lao động trí thức nữ Việt Nam 33
2.1.1. Vài nét về sự phát triển đội ngũ trí thức nữ nước ta trong lịch sử 33
2.1.2. Thực trạng lao động trí thức nữ nước ta hiện nay 38
2.2. Những đóng góp và hạn chế của lao động trí thức nữ Việt Nam 46
2.2.1. Những đóng góp 46
2.2.2. Những hạn chế của đội ngũ lao động trí thức nữ 51
2.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển lao động trí thức nữ 54
2.3.1. Nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế 55
2.3.2. Về nhận thức xã hội với vai trò của phụ nữ và lao động trí thức nữ 56
2.3.3. Về hệ thống chính sách 61

Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và giải pháp chính sách cơ bản phát triển lao
động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nƣớc 67
3.1.Phương hướng phát triển lao động trí thức nữ ở nước ta 67
3.1.1. Bối cảnh phát triển của kinh tế- xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới 67
3.1.2. Quan điểm, phương hướng xây dựng đội ngũ trí thức nữ 69
3.2. Một số giải pháp cơ bản phát triển lao động trí thức nữ trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 71
3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền trong xã hội về bình đẳng nam - nữ 71
3.2.2. Phát triển giáo dục- đào tạo, nâng cao dân trí cho phụ nữ 72

2
3.2.3. Chính sách hợp lý trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ
trí thức nữ 74
3.2.4. Có chính sách phù hợp trong sử dụng nữ trí thức 78
3.2.5. Cần cải tiến chính sách lương đối với trí thức 80
3.2.6. Cần có chính sách tôn vinh phù hợp 82
3.2.7. Tuổi về hưu của trí thức nữ 83
3.2.8. Tăng cường các chính sách xã hội đối với gia đình 84
3.2.9. Nâng cao ý chí phấn đấu vươn lên của bản thân nữ trí thức 88
Kết luận 91
Danh mục tài liệu tham khảo 94


3


BẢNG QUY ƢỚC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN



Công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
Cao đẳng:
Đại học:
Khoa học và công nghệ:
Giáo dục:
Giáo dục và đào tạo:
Giáo sư:
Phó giáo sư:
Tiến sĩ:
Thạc sĩ:
Xã hội chủ nghĩa:
Nhà xuất bản:
CNH, HĐH

ĐH
KH&CN
GD
GD&ĐT
GS
PGS
TS
ThS
XHCN
Nxb

4
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam, trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng là nguồn nhân
lực có đóng góp quan trọng vào công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất

nước. Kinh nghiệm và thực tiễn các nước có nền kinh tế phát triển cao cho
thấy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước đòi hỏi
phải có một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, sức sáng
tạo lớn, trong đó đội ngũ lao động trí thức nữ đóng vai trò không nhỏ.
Có thể nói, đội ngũ trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng có vai
trò quan trọng, là lực lượng xung kích, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH. ở
nước ta, để mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp và xã hội ta là một xã hội công bằng, văn minh, có sự phát triển bền
vững. Do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng và phát huy năng lực sáng tạo mọi lực
lượng lao động trong xã hội, trong đó có trí thức nữ là một nhiệm vụ có ý
nghĩa quyết định.
Trí thức nữ có vị trí quan trọng trong đội ngũ trí thức nói chung không
chỉ vì về mặt số lượng, mà còn do những đặc điểm về sinh lý, tâm lý. Chính
những đặc điểm tâm - sinh lý này là những lợi thế hoặc yếu thế của nữ giới
so với nam giới trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoạt động.
Đảm bảo tính công bằng về giới là một quan điểm, một yêu cầu quan
trọng của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Vì vậy, bên cạnh những chính sách chung, cần thiết phải đi sâu nghiên
cứu đối tượng trí thức nữ để đề xuất những giải pháp, chính sách riêng hoặc
trong chính sách chung có chú ý đến đặc điểm và điều kiện của trí thức nữ.
Có vậy, đội ngũ trí thức nói chung, trí thức nữ nói riêng mới có thể phát triển
mạnh về số lượng, nâng cao về chất lượng và phát huy được tiềm năng của
mình trong sự nghiệp đổi mới.
Từ những lí do trên, đề tài “Lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam” được chọn làm luận văn thạc sỹ này.

5
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề phụ nữ và trí
thức nữ. Có thể kể ra một số công trình, bài báo tiêu biểu sau:

- Phụ nữ Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước, vấn đề lao động,
việc làm và hạnh phúc gia đình, gia đình và địa vị người phụ nữ trong xã hội,
cách nhìn từ Việt Nam và Hoa Kỳ. Bùi Thị Kim Quỳ, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1995.
- Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đỗ Thị Thạch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2005.
- Chính sách đối với nữ trí thức khoa học và công nghệ - đánh giá
thực trạng và đề xuất chính sách, giải pháp mới. Đề tài nhánh, do ThS.
Nguyễn Đông Hanh chủ nhiêm, thuộc đề tài cấp nhà nước “Đổi mới chính
sách đối với trí thức khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước”. Mã số ĐTĐL - 2003/27 (2006).
- Thực trạng tham gia của cán bộ giảng dạy nữ vào các hoạt động
giảng dạy, nghiên cứu, quản lý trong nhà trường đại học và các giải pháp
quản lý nhằm nâng cao vai trò của họ. Đề tài cấp bộ, do ThS. Trần Thị Bạch
Mai làm chủ nhiệm, (2001).
- Nghiên cứu thực trạng và những giải pháp phát huy tiềm năng đội
ngũ nữ trí thức khoa học - công nghệ TP Hồ Chí Minh, do TS. Bùi Thị Minh
Hằng làm chủ nhiệm (11/2000);
- Cán bộ khoa học nữ với thời kì đổi mới. Thực trạng và một số kiến
nghị. Phạm Thị Ngọc Anh. Tạp chí Cộng sản, tháng 10/1995.
- Phụ nữ, giới và phát triển. Trần Thị Vân Anh - Lê Ngọc Hùng, Nxb
Phụ nữ, Hà Nội, 1996.
- Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế xã hội và tham gia quản
lý đất nước và định hướng đến năm 2000, Trương Mỹ Hoa, Tạp chí Cộng
sản, tháng 10/1995.
- Một vài điểm về bước tiến của các nhà khoa học nữ trong thời kỳ qua
- Mười năm bước tiến bộ của phụ nữ Việt Nam 1985 - 1995, Hoàng Thị Lịch.
Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1995.


6
- Từ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghĩ về một số vấn đề của
phong trào giải phóng phụ nữ ngày nay. Phan Văn Các, Nxb. Phụ nữ, Hà
Nội, 1990.
- Phụ nữ và khoa học. Dương Thị Duyên. Tạp chí Khoa học và Phụ
nữ, tháng 2/1997
Như vậy đã có khá nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về phụ nữ
nói chung và trí thức nữ nói riêng. Song rõ ràng trong thực tiễn, nhất là trong
điều kiện nước ta, bên cạnh những truyền thống tốt đẹp cần được phát huy,
vẫn còn có những cách nhìn, cách ứng xử phong kiến nặng nề đối với phụ
nữ. Đặc biệt là từ ngày đổi mới đến nay, khi nền kinh tế nước ta chuyển sang
kinh tế thị trường, thực hiện CNH, HĐH, đã mang lại nhiều điều kiện mới,
thuận lợi hơn đối với trí thức nữ, nhưng cũng lại xuất hiện những bất cập
mới. Vì vậy, để các chính sách, giải pháp của Đảng và Nhà nước đối với phụ
nữ và trí thức nữ đạt được hiệu quả, việc nghiên cứu thực trạng đội ngũ trí
thức nữ, phân tích các điều kiện hiện nay và đề xuất các giải pháp mới phù
hợp nhằm phát huy tiềm năng của đội ngũ này, thực hiện tốt hơn công bằng
về giới, là công việc cần được tiếp tục.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đánh giá thực trạng lao động trí thức
nữ ở Việt Nam.
- Đánh giá các chính sách cơ bản thời gian qua đối với lao động nữ
nói chung, trí thức nữ nói riêng, từ đó đề xuất các phương hướng và giải pháp
cơ bản về chính sách đối với trí thức nữ trong điều kiện mới.
* Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tích những vấn đề lý luận về trí thức nữ, làm rõ đặc điểm, vai
trò của trí thức nữ trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về đội ngũ, về hoạt động
của trí thức nữ trong thời gian qua; những ưu điểm và nhược điểm của hệ

thống chính sách đối với sự phát triển trí thức nữ trong giai đoạn hiện nay.

7
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp chính sách phát triển đội
ngũ trí thức nữ trong thời kì CNH, HĐH.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy hoạt động lao động của trí thức nữ và các chính sách của
Đảng, Nhà nước đã ban hành làm đối tượng nghiên cứu.
* Phạm vi nghiên cứu
Do tình hình số liệu bị hạn chế, nên luận văn chỉ đi sâu phân tích vào
hai lĩnh vực là Khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo. Tuy nhiên, theo
Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 1999, số lượng trí thức có trình
độ cao ở 2 ngành trên có tỷ lệ lớn nhất trong tổng số các ngành kinh tế (Giáo
dục - Đào tạo: TSKH - 42,6%, tiến sĩ - 37,9%, thạc sĩ - 42,9%, cử nhân/kỹ sư
- 18,9%; Khoa học - công nghệ: TSKH - 21,1%, tiến sĩ - 17,7%,). Đồng thời,
do hai lĩnh vực trên, nhất là giáo dục - đào tạo, số lượng và tỷ lệ lao động nói
chung, trong đó trí thức nữ nói riêng khá đông, nên các kết luận rút ra có thể
khái quát chung cho trí thức nữ Việt Nam (Theo niên giám thống kê năm
2005, tỷ lệ lao động nữ trong ngành GD&ĐT là 69,5%). Các giải pháp chính
sách đưa ra đối với trí thức nữ nói chung là dưới góc độ kinh tế chính trị.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn lấy lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam làm cơ sở nghiên cứu. Đồng thời, luận văn sử
dụng một cách có lựa chọn những lý luận về giới, về tâm lý, về tổ chức lao
động,… của thế giới làm luận cứ trong các phân tích, lý giải của mình.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở các phương pháp chung như: Phương pháp biện chứng duy
vật, phương pháp trìu tượng hoá, phương pháp phân tích tổng hợp, hệ thống

hoá, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp
thống kê; phương pháp phỏng vấn sâu một số trí thức nữ.

8
6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn
* Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thêm những cơ sở lý luận và thực tiễn
phát triển đội ngũ trí thức nữ ở Việt Nam.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp chính sách cơ bản thúc
đẩy việc phát huy tiềm năng của đội ngũ trí thức nữ, thực hiện tốt hơn công
bằng về giới trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam.
* Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả luận văn góp thêm cơ sở khoa học cho việc định hướng và
đưa ra những kế hoạch phát triển lao động trí thức nữ ở Việt Nam giai đoạn
hiện nay.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
các vấn đề về phụ nữ, trí thức nữ, giảng dạy các môn khoa học về nguồn
nhân lực trong các trường Đại học và Cao đẳng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Trí thức nữ: Khái niệm, đặc điểm và vai trò của họ trong
sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng đội ngũ trí thức nữ ở Việt Nam hiện nay và
những vấn đề về chính sách đối với đội ngũ này.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chính sách nhằm phát triển trí
thức nữ trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.




9
Chƣơng 1
TRÍ THỨC NỮ - KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ
CỦA LAO ĐỘNG TRÍ THỨC NỮ TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM
1.1. Lao động trí thức nữ: Khái niệm và đặc điểm của họ
1.1.1. Khái niệm trí thức, lao động trí thức nữ
1.1.1.1. Khái niệm trí thức
Có nhiều quan niệm, định nghĩa về trí thức ở nhiều cấp độ khác nhau.
Theo từ điển tiếng Việt: “Trí thức: người chuyên làm việc lao động trí
óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình”.
Trong từ điển tiếng Nga (1991), viết “Trí thức - đó là những người có
học vấn và có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn
hoá và đang làm nghề lao động trí óc”.
Theo đại từ điển bách khoa Xô Viết: “Trí thức là tầng lớp xã hội của
những người làm nghề nghiệp, bằng trí óc, chủ yếu là lao động phức tạp,
sáng tạo, là phát hiện và phổ biến văn hoá”.
Qua các định nghĩa trên có thể thấy định nghĩa thứ ba cho ta cách hiểu
rõ hơn trên bình diện xã hội, đó là: Trí thức là một nhóm, một tầng lớp xã hội
với những đặc điểm chung như làm nghề nghiệp, bằng trí óc, chủ yếu là lao
động phức tạp, họ có chức năng xã hội là sáng tạo, phát hiện, truyền bá, phổ
biến văn hoá. Tuy nhiên, ở định nghĩa thứ nhất và thứ hai cũng cho ta cách
nhận biết người trí thức, đó là người có học vấn và tri thức chuyên môn cần
thiết thuộc lĩnh vực nghề nghiệp của mình.
Xét trong cơ cấu xã hội, V.I.Lênin cho rằng trí thức “không hợp thành
một giai cấp độc lập về kinh tế, mà là một tầng lớp bao hàm không chỉ các
nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả những người có học thức, các
đại biểu của các nghề tự do nói chung, câc đại biểu của lao động trí óc phức
tạp”; và theo ông, trí thức là một “tầng lớp này trong hệ thống phân công lao
động xã hội, từ tính chất và nội dung lao động của họ do trình độ học vấn và


10
trình độ chuyên môn quy định. Vị trí ấy và tính chất nội dung ấy làm nên nét
nổi bật của người trí thức - người lao động sáng tạo” [22, tr.372].
Ở nước ta, khái niệm trí thức cũng được nhiều người, nhất là các nhà
khoa học, các nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có nhiều cách tiếp cận và lý giải
khác nhau, song tất cả đều thống nhất ở một số đặc trưng: Người trí thức là
khái niệm dùng để chỉ tất cả những người lao động trí óc, có trình độ học
vấn, có khả năng sáng tạo và phẩm chất đạo đức cá nhân.
Theo Hồ Chí Minh, người tốt nghiệp ĐH, nhưng nếu chỉ thuộc kiến
thức sách vở, không biết vận dụng vào thực tế, thì đó chỉ là “trí thức học
sách”, “trí thức một nửa”, “chưa phải là trí thức hoàn toàn” [24, tr.235].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, ở người trí thức không chỉ cần có kiến
thức chuyên môn, mà một dấu hiệu cơ bản khác phải có là biết vận dụng
sáng tạo những kiến thức đó vào thực tế cuộc sống
Trên cơ sở quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê
nin cũng như quan niệm của một số nhà nghiên cứu ở nước ta về trí thức, có
thể đi tới một quan niệm chung về trí thức như sau:
Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt, có trình độ học vấn cao; trình
độ chuyên môn sâu, có phẩm chất; lương tri; lao động trí óc phức tạp; sáng
tạo, phổ biến và nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học trong hoạt động thực
tiễn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Với khái niệm trí thức này chúng ta có thể nhận biết trí thức trên một
số đặc điểm cơ bản sau:
Một là, trí thức không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội.
Theo V.I.Lênin, khi xã hội phân chia thành giai cấp, cái quyết định cho tính
chất giai cấp của các lực lượng xã hội là quan hệ sở hữu. Trong xã hội đó, trí
thức không có quan hệ riêng và trực tiếp với sở hữu về tư liệu sản xuất, trí
thức “không hợp thành một giai cấp độc lập về kinh tế” mà là tầng lớp xã hội
trung gian. Căn cứ vào quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có thể khẳng định

rằng, trí thức là một tầng lớp xã hội.

11
Hai là, trí thức là người có trình độ học vấn cao, trình độ chuyên môn
sâu. Trình độ học vấn của người trí thức phải được hiểu ở trình độ khoa học
cơ bản và trình độ khoa học chuyên ngành. Trình độ học vấn và chuyên môn
cao ở mức độ nào để được gọi là trí thức thì tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế -
xã hội và văn hoá của mỗi quốc gia tại mỗi thời điểm lịch sử. Ngày nay, trình
độ chuẩn mực về học vấn ở nước ta là bậc CĐ, ĐH trở lên. Tuy nhiên, bằng
cấp mới chỉ là tiêu chí ban đầu; bởi vì trong thực tế, không ít người có bằng
cấp đó nhưng lại không tham dự vào lao động trí óc phức tạp, không thể hiện
được họ có trình độ đó. Cùng với trình độ học vấn cơ bản cao, người trí thức
còn phải được trang bị kiến thức sâu về chuyên ngành. Đó là cơ sở, điều kiện
cho lao động sáng tạo khoa học của trí thức. Để tham gia vào quá trình lao
động sáng tạo khoa học, người trí thức phải đi sâu nghiên cứu chuyên ngành
được đào tạo hoặc tham gia nghiên cứu khoa học. Có kiến thức sâu về
chuyên ngành thì họ mới có thể sáng tạo ra những sản phẩm đích thực, được
xã hội thừa nhận.
Ba là, người trí thức chân chính phải là người có đạo đức, lương tâm.
Người trí thức chân chính phải là người có đạo đức, phục vụ lợi ích cho toàn
dân tộc, luôn đặt lợi ích dân tộc, lợi ích của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân
của mình. Người trí thức trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước đương nhiên
phải là những người sáng tạo ra những thành tựu khoa học - công nghệ (KH -
CN), những sản phẩm văn hoá có giá trị đích thực, đóng góp cho sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bốn là, người trí thức là người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo. Đây
là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất phân biệt trí thức với bộ phận lao động
khác. Lao động trí óc có nhiều dạng khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp. Tiêu
chí để phân biệt hai dạng thức lao động này là sự hao phí trí lực, hàm lượng chất
xám ít hay nhiều trong quá trình lao động. Lao động trí óc giản đơn như những

người làm công việc hành chính, sự vụ, nhiệm vụ chủ yếu của họ là làm thông
suốt các qui trình hành chính qua công văn, giấy tờ thì sự hao phí năng lượng trí
lực không phải là cơ bản. Lao động của người trí thức là sự tìm tòi, khám phá,

12
sáng tạo cái mới, cái tiến bộ đòi hỏi phải tư duy ở mức độ cao, và ở đây, sự hao
phí năng lượng thần kinh trung ương là chủ yếu.
Lao đông trí óc phức tạp của trí thức là lao động sáng tạo. Sự sáng tạo
thường có mầm mống và tích luỹ dần qua giáo dục, đào tạo và nảy sinh trong
quá trình nghiên cứu, tìm tòi.
Với bốn đặc trưng cơ bản trên guíp chúng ta nhận thức rõ hơn về khái
niệm trí thức. Quan niệm đúng và đầy đủ về trí thức sẽ là cơ sở quan trọng
cho việc xây dựng, phát triển và phát huy tiềm năng đội ngũ trí thức, nhờ đó,
khai thác có hiệu quả tiềm năng này trong sự phát triển kinh tế - xã hội.
Xét theo quan điểm hệ thống, lao động trí thức nữ là một bộ phận hợp
thành của trí thức Việt Nam. Với vị thế to lớn của mình, cùng với các bộ
phận lao động khác, nếu được hiểu đúng, từ đó có chính sách đào tạo và phát
huy tiềm năng, họ sẽ là lực lượng quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.1.1.2. Khái niệm về lao động trí thức nữ
Trí thức nữ, trước hết họ là trí thức và là bộ phận nằm trong cơ cấu
hợp thành của tầng lớp trí thức nước ta. Họ có những đặc trưng cơ bản của
người trí thức đã nói ở trên, nhưng đồng thời lao động trí thức nữ có những
nét đặc thù riêng phân biệt với những người trí thức, bộ phận trí thức khác.
Những nét đặc thù mang tính tự nhiên mà ngày nay khoa học diễn đạt
bằng thuật ngữ giới tính (Sexual - Giới tính chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ
về mặt y - sinh học, liên quan đến chức năng tái sản xuất giống nòi) và những
đặc thù mang tính xã hội được diễn đạt bằng thuật ngữ giới (Gender - Giới
chỉ mối quan hệ và tương quan giữa địa vị xã hội của phụ nữ và nam giới
trong một bối cảnh xã hội).

Trong mỗi lao động trí thức nữ có sự gắn bó hữu cơ giữa tư cách trí
thức và tư cách nữ. Do đó, để tiếp cận lao động trí thức nữ buộc chúng ta
phải tiếp cận đồng thời từ hai phía: Họ là người trí thức đồng thời họ là người
phụ nữ. Nếu hiều trí thức nữ chỉ với những đặc trưng người trí thức tuy là
đúng nhưng chưa đủ, mà còn phải hiểu họ ở cả tư cách nữ, tức là từ góc độ
giới tính. Họ có những đặc thù, những thiên chức giới tính khác với lao động

13
trí thức nam. Xét cả mặt tự nhiên và xã hội, họ có những ưu thế và cũng có
những yếu thế so với lao động trí thức nam trong quá trình hoạt động trí tuệ,
sáng tạo của mình.
Từ những cơ sở phân tích trên, chúng ta có thể hiểu lao động trí thức
nữ, trước hết là người lao động trí thức, họ có đằy đủ đăc trưng của người trí
thức, là một bộ phận của đội ngũ trí thức tham gia hoạt động lao động trên tất
cả các lĩnh vực; đồng thời họ là một bộ phận tiêu biểu của phụ nữ với những
phẩm chất của người phụ nữ như tinh thần cần cù, chịu khó, nhân hậu, đảm
đang… và thiên chức làm vợ, làm mẹ.
Như vậy, có thể quan niệm lao động trí thức nữ là những người phụ
nữ có học vấn, có trình độ chuyên môn từ CĐ, ĐH trở lên, làm việc trong các
lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, thực hiện các chức năng của người trí
thức nhằm phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của lao động trí thức nữ
1.1.2.1. Đặc điểm của lao động trí thức
Như đã phân tích trong phần khái niệm trí thức nữ, là một bộ phận của
tầng lớp trí thức nên lao động trí thức nữ cũng có những đặc điểm cơ bản của
lao động của trí thức nói chung. Vì vậy để hiểu được lao động trí thức nữ, ta
cần hiểu đặc điểm của lao động của trí thức là như thế nào.
Từ định nghĩa về người trí thức và thông qua tổng kết thực tiễn lao
động của các nhà khoa học, người ta đưa ra những đặc điểm lao động khoa
học nỏi riêng hay lao động của người trí thức nói chung so với những người

lao động khác là ở các điểm: Tính sáng tạo, tính cá nhân, rủi ro cao, đòi hỏi
sự tích luỹ lớn về kiến thức và môi trường thực sự dân chủ, tự do sáng tạo
[36, tr.141-142].
Sau đây sẽ nói rõ hơn một số đặc điểm lao động của người trí thức.
a) Tính sáng tạo
Khác với người lao động trong lĩnh vực sản xuất, dựa vào thiết kế có
sẵn và nắm bắt quy trình để thực hiện, người làm công tác nghiên cứu cũng

14
như nhà văn, nhạc sĩ, tác phẩm là công trình của lao động, nhưng không chỉ
là lao động cần mẫn mà là lao động đầy trí tuệ.
Riêng với lao động sáng tạo khoa học không phải là một quá trình tùy
tiện, mà được tiến hành theo một hệ thống các nguyên tắc và phương pháp
nhất định. Các nguyên tắc và phương pháp đó đóng vai trò là phương tiện và
công cụ để xử lý và lý giải các hiện tượng, các quy luật vận động của đối
tượng nghiên cứu. Sáng tạo khoa học là một quá trình lao động gian khổ, đòi
hỏi phải có kiến thức hệ thống và thế giới quan biện chứng để sử lý dữ liệu, sự
kiện. Như vậy đối với người làm nghiên cứu khoa học phải có kiến thức hệ
thống về một lĩnh vực đang nghiên cứu, đồng thời phải nắm vững hệ thống các
phương pháp nghiên cứu với một thế giới quan biện chứng.
Sự sáng tạo không phải ai cũng có và không phải xuất hiện bất kỳ lúc
nào. Sự sáng tạo khoa học thường có mầm mống và tích luỹ dần qua giáo
dục, đào tạo và nảy sinh trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi. Mức độ trang bị
kiến thức, môi trường hoạt động, điều kiện sống cũng như các quan hệ xã
hội, tuổi tác, là những yếu tố tác động mạnh đến lao động sáng tạo của
những người làm nghiên cứu khoa học.
b) Tính cá nhân
Cũng chính từ tính sáng tạo, vai trò cá nhân, phẩm chất cá nhân của
mỗi nhà khoa học, nhà văn, nổi lên rõ rệt. Trong hoạt động nghiên cứu,
không thể lấy số lượng để bù đắp cho sự yếu kém về chất lượng cán bộ. Để

có hiệu suất cao trong hoạt động nghiên cứu, cần có sự chọn lọc kỹ để có
được những người thực sự có khả năng nghiên cứu khoa học. Một tổ chức
nghiên cứu, dù có đông đảo đến mấy nhưng thiếu những người có những suy
nghĩ độc đáo, thông minh và sáng tạo, những người thực sự có tài năng, sáng
tạo mạnh mẽ thì cũng không thể thành công trong hoạt động của mình. Do
đó, dù là một công trình nghiên cứu khoa học do một tập thể tiến hành thì vai
trò cá nhân trong hoạt động nghiên cứu cũng mang yếu tố quyết định. Tính
cá nhân là sự thể hiện trong tư duy cá nhân và chủ kiến riêng của cá nhân.Tư
duy và chủ kiến cá nhân thường gắn chặt với tính cách sáng tạo đơn nhất thể
hiện ở các mặt: (1). Suy nghĩ độc lập. Đây là cơ sở của những nghi vấn khoa

15
học và là nguồn gốc của những phát minh sáng chế; (2). Sự tìm tòi, ham hiểu
biết và đam mê nghề nghiệp; (3). Tính cách thực nghiệm và phê phán nhằm
để khẳng định những sáng tạo của cá nhân; (4). Dũng cảm, không sợ uy
quyền, dù là uy quyền chính trị hay khoa học để phát hiện và bảo vệ chân lý.
Tính cá nhân trong lao động sáng tạo không có nghĩa là vị kỷ cá nhân,
mà là khả năng độc lập và tự chủ trong khám phá, sáng tạo mang đậm nét cá
tính và năng lực của cá nhân nhà khoa học. Tuỳ theo trình độ học vấn, tư chất
di truyền, thể lực và môi trường xã hội mà cá tính và năng lực cá nhân hình
thành và phát huy khác nhau. Chính nhờ “Tính cá nhân” mà các trường phái
khoa học hình thành và phát triển.
c) Tính rủi ro
Sản phẩm của lao động nghiên cứu của những nhà khoa học là cái mới,
cái chưa biết, do đó mà cũng có thể thành công và cũng có thể thất bại. Sự thất
bại thường gặp nhiều trong nghiên cứu khoa học. Sự thất bại này do rất nhiều
nguyên nhân như do thiếu thông tin cần thiết và đủ tin cậy cho việc nghiên cứu;
do trình độ kỹ thuật của thiết bị phục vụ nghiên cứu chưa đạt tới trình độ để
kiếm chứng lý thuyết, giả thuyết đặt ra; do khả năng thực hịên của người nghiên
cứu chưa đủ tầm để xử lý vấn đề; do môi trường xã hội không thuận lợi (thiếu

dân chủ để khích lệ người nghiên cứu sáng tạo, do yếu tố văn hoá cản trở, ).
Tuy nhiên, trong lao động khoa học, thất bại ở một khía cạnh khác cũng được
xem là một kết quả. Nó là một bài học và kinh nghiệm cho người nghiên cứu
tiếp tục về sau.
Tính rủi ro cao đặt ra cho các nhà quản lý, nhất là các cơ quan nhà
nước phải có chính sách đầu tư và hỗ trợ đối với những nghiên cứu có tính
rủi ro cao nhưng cần thiết đối với sự phát triển, đặc biệt đối với các nghiên
cứu cơ bản. Vai trò của nhà nước, trước hết là Chính phủ có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong trường hợp này - nơi mà “thị trường bị thất bại”.
d) Tính kế thừa và tích luỹ
Nói chung, lao động sáng tạo thường xuất phát từ sự kế thừa những kết
quả của những người đi trước. Mặt khác, để lao động sáng tạo, người nghiên
cứu phải trải qua thời kỳ thu thập và tích luỹ một lượng thông tin liên quan

16
nhất định. Trên cơ sở đó, bằng hệ thống các phương pháp khoa học, những ý
tưởng, giả thuyết, mới được khẳng định hoặc phủ định. Vì vậy, kế thừa và
tích luỹ là một giai đoạn mang tính tất yếu. Trong giai đoạn này, người
nghiên cứu phải lao động cần cù, gian khổ. Đồng thời, qua kinh nghiệm thực
tế, người ta thấy rằng hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học phụ thuộc vào
một cách đáng kể vào thông tin, vào các công cụ thí nghiệm và các công cụ
nghiên cứu khác.
Trong điều kiện khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện
nay, đồng thời do việc tăng nhanh các nhu cầu của kinh tế - xã hội, một phần
kiến thức của con người sẽ thường xuyên mất giá trị. Các chuyên gia cho
rằng nhịp độ tiến bộ trung bình hằng năm của kiến thức nhân loại là trong
khoảng từ 4% đến 6%. Do vậy, trên 50% kiến thức chuyên môn của con
người sẽ phải được bổ sung thông qua con đường học tập thường xuyên,
Thời gian dành cho việc này ở cán bộ trung cấp chuyên nghiệp là 24%; ở cán
bộ ĐH là 28% toàn bộ thời gian có khả năng lao động [42]. Như vậy, việc

tạo các điều kiện học tập, thu thập và trao đổi thông tin trong các tập thể khoa
học là vô cùng quan trọng đối với nhà nghiên cứu, không những chỉ ở những
thời gian nhất định mà phải liên tục, không ngừng.
1.1.2.2. Những đặc điểm giới tính và giới của lao động trí thức nữ
Các kết quả nghiên cứu y - sinh học [40, tr.15] cho thấy:
* Đặc điểm về cơ thể: Chân và tay của nữ tương đối ngắn hơn nam,
xương và khớp chi nhỏ hơn nam, tổ chức cơ bắp ở chân tay của nữ kém hơn
nam, phổi của nam lớn gấp rưỡi phổi nữ, mỗi phút tim của nữ đập trung bình
80 lần/phút, tim của nam đập 72 lần/phút; nữ trung bình có 3,6 lít máu, nam
4,5 lít máu; 40% cơ thể nam do cơ bắp tạo nên, trong khi nữ là 35%, sức
mạnh cơ bắp của nam gấp 3 lần nữ…
Qua một vài đặc điểm trên cho thấy, nữ không thể làm những công
việc đòi hỏi thể lực ngang bằng như nam giới. Cần tránh cho nữ những lao
động nặng nhọc, căng thẳng, kéo dài, nguy hiểm, trong môi trường độc hại…
* Đặc điểm não bộ và giác quan: Bộ não của nam giới nặng hơn nữ
14%. Những sự liên kết giữa 2 bán cầu não của nữ tốt hơn nam và tình trạng

17
cung cấp máu cho não của nữ tốt hơn nam. Thính giác, khứu giác của nữ tốt
hơn nam. Gần đây các nhà khoa học Mỹ còn phát hiện thêm: Chất xám trong
não của nam gấp 6 lần não của nữ, ngược lại chất trắng trong não nữ lại gấp
10 lần nam, mà chất xám là cơ sở chủ yếu cho các trung tâm phân tích, còn
chất trắng có chức năng trội về liên kết các hoạt động thần kinh… Những đặc
điểm nêu trên cùng với những trắc nghiệm, cho thấy: nam có khả năng làm
việc tập trung chú ý cao độ vào đối tượng lâu bền hơn nữ; nhưng nữ có khả
năng phân phối chú ý cùng lúc đến nhiều đối tượng tốt hơn; nam hoạt động
phân tích trội hơn nữ, nhưng nữ có khả năng phối hợp các hoạt động linh
hoạt hơn; nữ nhạy cảm hơn nam, nhất là về thính giác, khứu giác; còn thị
giác thì nam nhìn vật ở xa tốt hơn, trong khi nữ nhìn các vật ở gần và nhỏ tốt
hơn… Từ đó gợi ra rất nhiều điều có thể vận dụng vào bố trí công việc cho

lao động trí thức nữ phù hợp với đặc điểm giới tính, phát huy được thế mạnh
của mỗi giới trong các ngành nghề khác nhau.
* Đặc điểm về hoạt động tâm lý: Ở trên đã đề cập một vài khía cạnh
liên quan giữa đặc điểm thần kinh và tâm lý. Ở đây muốn nêu thêm vài điểm:
Tư duy logic ở nam có phần nổi trội hơn nữ, vì nữ tư duy gắn liền với
linh cảm và cảm xúc. Richard Hier, giáo sư Trường Đại học tổng hợp
California đã tiến hành chụp ảnh cộng hưởng từ và phân tích cho thấy: nam
suy nghĩ bằng tế bào xám nhiều hơn nữ, trong khi ở nữ các vùng não đảm
trách sự lo sợ và tức giận phát triển hơn nam. Có lẽ vì thế trong quá trình tư
duy, nữ thường “trộn lẫn” cảm xúc, tâm trạng và những linh cảm trực giác
vào những suy nghĩ, ý kiến của mình… chứ không quá lý lẽ sách vở, khô
khan, lạnh lùng như nam giới. Cũng vì thế nữ dễ cảm thông, xử lí các mối
quan hệ có lí, có tình, dễ tạo mối quan hệ tình cảm với những người chung
quanh…
Đặc điểm trội về phát triển ngôn ngữ và hormone giao tiếp ở nữ so với
nam cũng khiến cho nữ thường thích giao tiếp, linh hoạt trong giao tiếp, sử
dụng ngôn ngữ phong phú, đa dạng trong giao tiếp và hay nói nhanh, nói
nhiều, nói dài (Trong nghiên cứu đã dẫn của các nhà khoa học Mỹ cho thấy:
nữ thường mất trung bình 20 phút cho một cuộc điện thoại, trong khi đó nam

18
mất 6 phút). Cũng do đó việc học ngoại ngữ, phát triển kỹ năng giao tiếp ở
nữ có phần thuận lợi hơn nam…
Những đặc điểm giới tính nữ nói trên và nhiều đặc điểm khác nữa, nếu
được nghiên cứu khai thác đúng người, đúng việc, đúng chỗ, đúng lúc, chắc
chắn sẽ phát huy được những tiềm năng, lợi thế nữ tính một cách hiệu quả.
* Những đặc điểm về giới do điều kiện xã hội - lịch sử chế ước cũng
cần được quan tâm. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương,
chính sách thúc đẩy sự bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, nhưng vẫn
còn nhiều sức ì, nhiều sự cản trở từ phía gia đình, xã hội và bản thân người

phụ nữ trong quá trình thực thi bình đẳng giới nói chung và trong việc tạo
điều kiện thuận lợi cho lao động trí thức nữ nói riêng. Dưới dây đề cập đến
một vài khía cạnh cụ thể:
Gia đình có thể là hậu phương thuận lợi, nhưng cũng có thể là những
khó khăn cản trở đối với lao động của trí thức nữ. Nữ trí thức cũng như mọi
phụ nữ khác, đều có hạnh phúc làm vợ, làm mẹ. Và cái hạnh phúc đó ràng
buộc, níu kéo, tiêu tốn của người phụ nữ rất nhiều thời gian và sức lực. Ở
Việt Nam càng đòi hỏi người phụ nữ phải hy sinh nhiều hơn cho cuộc sống
gia đình, do điều kiện sống còn nhiều khó khăn và do áp lực của các giá trị
văn hoá về người “con thảo”, người “mẹ hiền”, “vợ đảm”, “phụ nữ ba đảm
đang”… Dư luận xã hội là một áp lực lớn đối với người phụ nữ vốn nhạy
cảm. Trong khi đó một số lĩnh vực như lao động KH&CN là loại lao động trí
óc, phức tạp, có chuyên môn sâu, đòi hỏi phải tập trung cao độ vào đối
tượng, phải say mê theo đuổi công việc đến cùng… Người phụ nữ phải thực
hiện chức năng kép, phải giăng co đấu tranh, sắp xếp sao cho vẹn cả đôi
đường: gia đình và sự nghiệp. Theo nghiên cứu của Trần Thị Bạch Mai thì
nữ giảng viên ĐH, trung bình dành cho công việc gia đình 4,5 giờ, dành cho
công việc của trường 9,2 giờ và cho nghỉ ngơi, giải trí 6,4 giờ/ngày; 54% số
nữ giảng viên cảm thấy sức ép căng thẳng về thời gian, 55% cảm thấy sức ép
căng thẳng do phải cân bằng các vai trò và trách nhiệm… [ 25, tr.43]
Một nhận xét khác cho thấy: “Ở những giai đoạn bắt đầu vào sự
nghiệp khoa học người phụ nữ trẻ phải học tập và chịu nhiều thử thách, thì

19
cũng lại là lúc có con nhỏ và cuộc sống gia đình mới bắt đầu. Đây là giai
đoạn mà nhiều chị em nổi lên mâu thuẫn giữa sự nghiệp và gia đình, điều mà
ở nam giới ít gặp phải”.
Những định kiến xã hội về giới đã dẫn đến những hệ quả sau: Một là,
xã hội chưa thấy hết và dánh giá đúng những khó khăn của nữ trí thức; hai là,
đánh giá chưa đúng mức vai trò và khả năng của nữ trí thức; ba là, về tổ

chức, mạng lưới quan hệ xã hội cũng như những điều kiện hỗ trợ khác chưa
tạo thuận lợi cho nữ trí thức phát triển và cống hiến…
Những thành kiến xã hội nói trên một khi đã trở thành nếp nghĩ, thói
quen ứng xử của xã hội, nhất là khi các cấp quản lí, các nhà hoạch định chính
sách, những người đưa ra các quyết định, phần lớn là nam giới, thì sự cảm
thông, tạo điều kiện cho nữ trí thức phát triển, không tránh khỏi có những
khó khăn hữu hình và vô hình.
Về phía bản thân người nữ trí thức. Do quá trình xã hội hoá đã có
những hạn chế và do những ràng buộc về vai trò, trách nhiệm nghĩa vụ với
gia đình và do những định kiến xã hội bị chế ước bởi những điều kiện xã hội
- lịch sử cụ thể, người phụ nữ thường gặp phải những rào cản tâm lí nhất
định. Đó là mặc cảm tự ti, thiếu tự tin vào bản thân; là sự lo ngại bị thất bại,
thậm chí sợ hãi trước dư luận xã hội; đó còn là sự an phận, bằng lòng với vai
trò, vị trí “nhân vật phụ” trong các hoạt động phức tạp như KH&CN…
1.2.Vai trò của lao động trí thức nữ và những nhân tố tác động đến họ
1.2.1.Vai trò của lao động trí thức nữ trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Chiến lược phát triển của nước ta đã được xác định trong các văn bản
của Đảng và Nhà nước là đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, để từ nay đến năm
2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Với khoảng thời
gian 20 năm để thực hiện một công cuộc mà các nước tư bản phải mất hàng
trăm năm, các nước công nghiệp mới (NIC) cũng phải mất 40 - 50 năm, đòi
hỏi một sự nỗ lực phi thường của toàn dân tộc, trong đó đội ngũ trí thức có sứ
mạng đặc biệt quan trọng.

20
“Khi trí thức trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp thì quan hệ
giữa nó với giái cấp công nhân và nông dân cũng trở thành mối quan hệ trực
tiếp gần gũi như chính giai cấp công nhân và nông dân. Nó không còn là
ranh giới giữa người ở thượng tầng kiến trúc, kẻ ở hạ tầng cơ sở như cách

nghĩ trước đây. Do đó trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta, đọi ngũ trí
thức không chỉ có vị trí quan trọng trong lĩnh vực sáng tạo văn hoá hay hoạt
động trí tuệ mà còn có vị trí rất quan trọng trong lĩnh vực sản xuất trực tiếp
ra của cải vật chất” [8, tr.152]
Hiện nay, đất nước ta tiến hành CNH, HĐH trong một bối cảnh đặc
biệt. Chúng ta thực hiện CNH, HĐH trong bối cảnh xu hướng thế giới hiện
nay là cuộc cách mạng KH - CN hiện đại đang phát triển rất mạnh mẽ. Với
sự phát triển cực nhanh của KH - CN, nhân loại đang tiến tới xã hội thông
tin, tới nền kinh tế tri thức.
Mặt khác, trong điều kiện cách mạng KH - CN phát triển như vũ bão
trên phạm vi toàn cầu và với xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay, ở các
nước đang phát triển, việc hiện đại hoá công nghệ chủ yếu thông qua con
đường chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển. Bởi lẽ, quá trình tự
nghiên cứu triển khai công nghệ tất yếu phải xây dựng trên nền tảng khoa
học kỹ thuật hiện đại, đòi hỏi vốn đầu tư lớn mà chưa đưa lại ngay hiệu quả.
Kinh nghiệm của Nhật Bản và các nước công nghiệp mới (NIC), ở thời kỳ
CNH, HĐH đã chỉ ra rằng chuyển giao công nghệ là cách làm rẻ nhất, nhanh
nhất, có hiệu quả nhất để có được công nghệ hiện đại. Với những nước này,
sau khi tiếp nhận công nghệ mới, họ thường nghiên cứu, cải tiến để chế tạo ra
những sản phẩm phù hợp với thị hiếu tiêu dùng và tiện lợi hơn. Họ còn kết
hợp công nghệ tiên tiến của phương Tây với ưu thế giá nhân công rẻ, quy mô
sản xuất vừa và nhỏ có khả năng đổi mới công nghệ nhanh để tăng thêm khả
năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, dù chỉ tự nghiên cứu,
triển khai hay chuyển giao công nghệ thì sự thành công của họ đều tất yếu
phải thông qua kinh nghiêm, năng lực sáng tạo, kỹ năng, kỹ xảo, trình độ tổ
chức quản lý của người lao động nước mình.

21
Ở nước ta, vấn đề trung tâm của CNH, HĐH là chuyển giao công
nghệ. CNH, HĐH là quá trình trang bị công nghệ mới cho các ngành sản xuất

trong nước, đặc biệt là với các ngành then chốt. Yêu cầu làm chủ công nghệ
mới, nhất là công nghệ cao là hết sức bức thiết. Việc nhập công nghệ mới,
làm chủ nó, biến công nghệ mới thành của mình, đòi hỏi cần đến trình độ trí
tuệ cao của người lao động. Lực lượng đi đầu trong việc tiếp cận với công
nghệ mới, nắm chắc nó, làm chủ nó, không thể ai khác, mà phải là những nhà
KH&CN - những trí thức.
Để có thể tiếp thu công nghệ mới từ những nước công nghiệp phát
triển, thực hiện “đi tắt đón đầu”, chúng ta phải có những điều kiện cơ bản:
Một là phải có những điều kiện vật chất - kỹ thuật để nhập công nghệ mới;
hai là phải có đội ngũ cán bộ KH &CN đủ năng lực làm chủ công nghệ nhập;
ba là phải có điều kiện chuyển giao kiến thức về quản lý quá trình sử dụng
công nghệ. Trong các điều kiện cơ bản trên, đội ngũ cán bộ KH &CN là nhân
tố cơ bản nhất, quyết định nhất.
Định hướng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta là theo hướng toàn
diện, bền vững. Lực lượng chủ yếu để thúc đẩy quá trình này là lực lượng trí
thức. Với mục tiêu xây dựng một xã hội phát triển bền vững, sự tăng trưởng
không chỉ về mặt kinh tế - kỹ thuật, mà còn đảm bảo sự phát triển hài hoà
giữa kinh tế với xã hội nói chung, giữa kinh tế - kỹ thuật với việc đảm bảo sự
cân bằng về sinh thái, môi trường. Trên quan điểm này, sự phát triển kinh tế -
xã hội ở đây chủ yếu là qúa trình đẩy mạnh các hoạt động nhằm nâng cao
chất lượng dân số và cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng quy mô và chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài trên cơ sở không ngừng
nâng cao dân trí, mức hưởng thụ văn hoá cho mọi người. Lực lượng lao động
chủ yếu thực hiện việc thúc đẩy các quá trình này chính là đội ngũ trí thức,
trong đó có các giảng viên ở các trường đại học, cao đẳng, các thầy thuốc, kỹ
sư…
Lao động trí thức nữ nước ta ngày càng khẳng định vai trò trong nhiều
lĩnh vực khác nhau.

22

Hiện nay, đội ngũ trí thức nữ hoạt động trong rất nhiều các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, bao gồm chính trị, quản lý, GD&ĐT, KH &CN, y
tế… Họ tham gia hoạt động kể cả những lĩnh vực mà trước đây hầu như chỉ có
nam giới tham gia, như luật pháp, kiểm soát, thông tin, bưu chính, khoa học…
Mặc dù, tỷ lệ tham gia của lao động trí thức nữ ở các lĩnh vực còn thấp, chưa
tương xứng với tỷ lệ phụ nữ trong dân cư nói chung và khả năng to lớn của chị
em phụ nữ nói riêng, nhưng chúng ta có thể thấy họ đã và đang thể hiện vai trò,
khả năng trí tuệ của mình trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.
- Trong lĩnh vực khoa học: Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công
nghệ, với gần 38% trong tổng số cán bộ có trình độ ĐH và CĐ trở lên của cả
nước, đội ngũ lao động trí thức nữ được đào tạo ở nhiều ngành khoa học khác
nhau và đang công tác ở hầu hết trong các ngành kinh tế quốc dân. Phụ nữ
đang tham gia ngày càng nhiều hơn trong các lĩnh vực khoa học đòi hỏi tư
duy cao như công nghệ, kỹ thuật, tự nhiên. Trong đội ngũ lao động trí thức
nữ đã hình thành một bộ phận chuyên gia có trình độ ngày càng cao. Tính
đến cuối năm 2000, lao động trí thức nữ có học hàm giáo sư (GS) chiếm
4,3%, học hàm phó GS chiếm 70%, có trình độ tiến sĩ (TS) chiếm 14,9%,
trình độ thạc sĩ (ThS) chiếm 29,1%, hơn 20 trí thức nữ là nhà giáo nhân dân
và hơn 300 trí thức nữ là nhà giáo ưu tú… trong tổng số những người có học
hàm, học vị và chức danh trong cả nước. Theo Bộ GD&ĐT, năm 2005, tỷ lệ
nữ GS là 3,3%, nữ PGS là 13,3%, nữ TS là 17,55%, nữ thạc sĩ 39,1%. Trong
số các lao động trí thức nữ này rất nhiều người đã có những cống hiến xuất
sắc trên các lĩnh vực khoa học tự nhiên được nhận giải thưởng Côvalepxcaia,
nhiều người có những đống góp nhất định trong lĩnh vực khoa học và nhân
văn… Tất cả những lao động trí thức nữ đó đã góp phần to lớn vào phát triển
kinh tế và tiến bộ xã hội.
- Trong lĩnh vực quản lý, lãnh đạo: Ngoài lĩnh vực khoa học, vai trò
to lớn của lao động trí thức nữ còn tập trung thể hiện ở một bộ phận quan
trọng cán bộ nữ đang tham gia công tác lãnh đạo và quản lý đất nước, giữ các
cương vị cao trong cơ quan của Đảng và nhà nước. Bộ phận trí thức này đang

góp phần to lớn và trực tiếp vào việc hoạch định, hướng dẫn thực hiện đường

23
lối, chính sách của Đảng và nhà nước trong phất triển kinh tế - xã hội. Trong
những năm gần đây, thực tế cho thấy một hiện tượng là lực lượng lao động
trí thức nữ, các nhà khoa học nữ tham gia vào công tác quản lý và lãnh đạo
các xí nghiệp kinh doanh có hiệu quả tăng lên rõ rệt. Trong nền kinh tế thị
trường với sự cạnh tranh khốc liệt, nhiều doanh nghiệp, đơn vị kinh tế làm ăn
thua lỗ và phá sản, nhưng đã có không ít các doanh nghiệp do trí thức nữ
lãnh đạo chẳng những đứng vững mà có nơi, có mặt còn phát triển nhanh, ổn
định sản xuất và kinh doanh có hiệu quả, nâng cao đời sống người lao động,
góp phần đáng kể vào ngân sách quốc gia (Ví dụ như Công ty Liên doanh
Đông Nam Á, Dệt 8 - 3, Bánh kẹo Hải Hà, Dệt 10 - 10…). Hiện tượng trên
đã khẳng định không chỉ các ngành như giáo dục, y tế mới phù hợp với nữ
như chúng ta đã quan niệm, mà cả trong các lĩnh vực sản xuất mang tính chất
công nghiệp và hiện đại, trong môi trường cạnh tranh quyết liệt, chị em vẫn
hoàn thành tốt chức năng điều hành quản lý. Điều đó chứng tỏ trong lĩnh vực
rất mới, phụ nữ đã tỏ rõ khả năng, sự thông minh, nhạy bén của mình góp
phần to lớn vào sự nghiệp phát triển đất nước.
- Trong lĩnh vực GD&ĐT: Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần
thứ hai (khoá VIII), Đảng ta đã khẳng định GD&ĐT và KH&CN là quốc
sách hàng đầu và lấy phát triển GD&ĐT và KH&CN làm yếu tố cơ bản, coi
đó là khâu đột phá trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Sở dĩ như vậy là bởi
vì GD& ĐT, KH&CN có vai trò hết sức quan trọng. Trong sự nghiệp GD -
ĐT, KHCN, đội ngũ trí thức Việt Nam có trách nhiệm lớn trong việc nâng
cao dân trí, tạo ra mặt bằng trí tuệ cho dân tộc ngang tầm với yêu cầu CNH,
HĐH. Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta tiến hành nhanh hay chậm, có theo
kịp với thế giới hay không…, một phần rất quan trọng là trách nhiệm của đội
ngũ trí thức Việt Nam, trước hết trong lĩnh vực GD&ĐT.
Cùng với một số lĩnh vực quan trọng nói trên, đội ngũ trí thức nói

chung cũng như lao động trí thức nữ nói riêng còn có vai trò lớn trong các
lĩnh vực khác như sáng tạo văn học, nghệ thuật, làm phong phú thêm đời
sống vật chất, tinh thần, góp phần vào sự nghiệp giáo dục, định hướng cho

24
thế hệ trẻ và nhân cách con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực Việt Nam.
- Lao động trí thức nữ có vai trò đặc biệt quan trọng trong tái sản
xuất sức lao động có chất lượng cao cho xã hội.
Phụ nữ chiếm 50% dân số, có tiềm năng trí tuệ to lớn, thực sự trở
thành động lực mạnh mẽ đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Hơn thế nữa,
trước khi trở thành một nhà khoa học, một nhà quản lý hay doanh nhân, họ là
một phụ nữ, một người vợ, người mẹ. Ở cương vị này, họ giữ vai trò đặc biệt
trên lĩnh vực tái sản xuất và giáo dục những con người hữu ích cho xã hội,
trong việc chăm sóc và bồi dưỡng từ ban đầu những đứa con - nguồn lực
tương lai quý báu nhất của dân tộc. Nếu những người mẹ có sự hiểu biết đầy
đủ về chăm sóc, giáo dục con cái, về văn hoá, xã hội,… sẽ là cái nôi của lớp
người tài năng trong tương lai.
1.2.2. Những nhân tố tác động đến đội ngũ trí thức nữ
1.2.2.1. Nhân tố xã hội lịch sử: Những định kiến xã hội đối với nữ giới
vẫn nặng nề
Tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” hay định kiến về “sự hơn hẳn của
nam giới” đã và đang tồn tại không chỉ ở nước ta mà ở nhiều nơi trên thế
giới. Chính định kiến này kìm hãm sự tiến bộ của phụ nữ, hạn chế sự đóng
góp to lớn của một nửa nhân loại vào quá trình phát triển chung. Tư tưởng đề
cao vai trò của nam giới, coi phụ nữ là sản phẩm “hạng hai” trong xã hội đã
kéo dài nhiều thế kỷ nay, ăn sâu vào đầu óc của mọi người, cả nam giới và
nữ giới. Vì vậy, trên phương diện này, chúng ta có thể nhận thấy từ trước tới
nay, cuộc sống xã hội dường như chịu ảnh hưởng chủ yếu của các quan điểm,
tư tưởng, thói quen cũng như định kiến của nam giới. Trong xã hội, mọi

người luôn cho rằng người phụ nữ luôn có những phẩm chất kém hơn nam
giới. Cụ thể như: phụ nữ mềm yếu, tình cảm và dễ thụ động, sự yếu ớt và bất
ổn về tinh thần sẽ hạn chế các hiệu quả trong công việc…
Chính những định kiến xã hội trên làm cho người phụ nữ ít được tham
gia, hoặc ngại tham gia vào các hoạt động xã hội, đặc biệt là các hoạt động
khoa học, kinh tế. Bản thân phụ nữ cũng thường thoả mãn với những sự lụa

×