Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Phát triển khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 115 trang )


đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học kinh tế




Nguyễn Quốc Anh







phát triển khu kinh tế cửa khẩu ở việt nam

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01




luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị




ng-ời h-ớng dẫn khoa học: PGS.TS Phan Huy Đ-ờng










Hà nội - năm 2009


1
LỜI CẢM ƠN


Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện Luận văn thạc sỹ với đề tài: "Phát
triển khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam", tác giả đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ
tận tình của nhiều thầy giáo, cô giáo, đồng nghiệp và sự ủng hộ, động viên của gia
đình. Qua đây, tác giả xin gửi lời trân trọng cảm ơn tới các thầy giáo, cô giáo, các
đồng nghiệp, gia đình và đặc biệt xin gửi lời cảm ơn thầy giáo, PGS.TS Phan Huy
Đường - giáo viên hướng dẫn, đã giúp đỡ để tác giả hoàn thành Luận văn này.

Người thực hiện
Nguyễn Quốc Anh


2

MC LC

Lời cảm ơn 1

Mục lục 2
Danh mục các từ viết tắt 4
Danh mục các bảng và hình 5
Lời mở đầu 6
Ch-ơng 1 Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về phát triển khu kinh
tế cửa khẩu 11
1.1 Vị trí của khu kinh tế cửa khẩu đối với quốc gia 11
1.1.1 Khái niệm 11
1.1.2 Lợi ích của việc phát triển khu kinh tế cửa khẩu 12
1.1.3 Sự cần thiết phải hình thành và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu 16
1.1.4 Điều kiện phát triển khu kinh tế cửa khẩu 20
1.2 Kinh nghiệm phát triển kinh tế cửa khẩu ở một số n-ớc và bài học cho
Việt Nam 25
1.2.1 Chính sách mở cửa kinh tế gắn với thúc đẩy kinh tế biên mậu của
Trung Quốc 25
1.2.2. Linh hoạt và đơn giản hóa chính sách nhằm thúc đẩy giao th-ơng biên
giới của Thái Lan 29
1.2.3 Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam 33
Ch-ơng 2 Thực trạng phát triển khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam thời
gian qua 37
2.1 Lịch sử hình thành và phát triển khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam 37
2.1.1 Quá trình hình thành 37
2.1.2 Các giai đoạn áp dụng cơ chế chính sách phát triển khu kinh tế cửa
khẩu 38
2.1.3 Tình hình phân bố 39
2.2 Thực trạng phát triển khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam 43
2.2.1 Chính sách về kinh tế cửa khẩu của các n-ớc có chung đ-ờng biên giới
với Việt Nam 43
2.2.2 Chính sách phát triển khu kinh tế cửa khẩu của Việt Nam 50
2.2.3 Tình hình phát triển khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam 61



3

2.3 Đánh giá thực trạng phát triển khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam 71
2.3.1 Thành tựu 71
2.3.2 Hạn chế 79
2.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế 82
Ch-ơng 3 Quan điểm và giải pháp đẩy mạnh phát triển khu kinh tế cửa
khẩu ở Việt Nam trong thời gian tới 85
3.1 Quan điểm và mục tiêu phát triển khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam 85
3.1.1 Bối cảnh 85
3.1.2 Quan điểm và và mục tiêu phát triển khu kinh tế cửa khẩu 90
3.2 Các giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển khu kinh tế cửa khẩu 92
3.2.1 Quy hoạch tổng thể khu kinh tế cửa khẩu 92
3.2.2 Xây dựng kết cấu hạ tầng khu kinh tế cửa khẩu 93
3.2.3 Vận động xúc tiến đầu t- vào khu kinh tế cửa khẩu 95
3.2.4 Chính sách xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ 96
3.2.5 Giữ gìn và bảo vệ an ninh quốc phòng 98
3.2.6 Đào tạo nguồn nhân lực 100
Kết luận 101
Tài liệu tham khảo 103
Phụ lục 108



4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT



AFTA
Khu vực thương mại tự do của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
BOT
Xây dựng, vận hành, chuyển giao
BT
Xây dựng, chuyển giao
BTO
Xây dựng, chuyển giao, vận hành
CAFTA
Khu thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc
CK
Cửa khẩu
GMS
Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng
KTCK
Kinh tế cửa khẩu
ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức
USD
Đô la Mỹ
VAT
Thuế giá trị gia tăng
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
XNC
Xuất nhập cảnh
XNK
Xuất nhập khẩu



5
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH



Số hiệu bảng/hình
Tên bảng/hình
Trang
Bảng 2.1
Số khu KTCK được thành lập tính đến năm 2008
39
Bảng 2.2
Diện tích, dân số các khu KTCK năm 2008
69
Hình 2.1
Tỷ trọng kim ngạch XNK qua khu KTCK theo
tuyến biên giới năm 2008
70
Hình 2.2
Tỷ trọng lượt người xuất nhập cảnh qua khu
KTCK theo tuyến biên giới năm 2008
70
Bảng 2.3
Một số chỉ tiêu chủ yếu của khu KTCK năm 2008
71
Hình 2.3
Tỷ trọng thu ngân sách qua khu KTCK theo tuyến
biên giới năm 2008

72
Bảng 2.4
Thu hút đầu tư vào khu KTCK năm 2008
72



6
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của Đề tài
Mở cửa và hội nhập theo phương châm "đa dạng hoá, đa phương hoá” các
quan hệ giao lưu kinh tế đã được Đảng và Nhà nước ta khẳng định như một trong
những điều kiện quan trọng để đẩy nhanh phát triển kinh tế đất nước. Trong những
điều kiện đặc thù của Việt Nam, với đường biên giới trải dài bao gồm nhiều cửa
khẩu thông với các nước láng giềng, việc phát triển loại hình khu kinh tế cửa khẩu
là việc làm hết sức cần thiết nhằm mục đích mở cửa nền kinh tế theo nhiều hướng,
theo nhiều tầng nấc khác nhau.
Việc phát triển các khu kinh tế cửa khẩu sẽ thúc đẩy giao thương qua cửa
khẩu, trên cơ sở đó tạo tiền đề cho kinh tế của một vùng lớn cũng như kinh tế của cả
quốc gia phát triển. Khu kinh tế cửa khẩu tạo ra một địa bàn để tăng cường giao
thương giữa hai nước, khai thác tiềm năng du lịch, công nghiệp để phát triển du lịch
và công nghiệp, tận dụng được các lợi thế tiềm năng của từng địa phương ở cả hai
bên đường biên, huy động sự tham gia của nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội như ngoại
giao, sản xuất hàng xuất khẩu, nghiên cứu khoa học công nghệ, tài chính, của các
tỉnh, các vùng có biên giới với các nước láng giềng vào hoạt động kinh tế đối ngoại
ở khu vực biên giới. Cùng với việc phát triển khu kinh tế cửa khẩu sẽ kéo theo sự
phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng tổng hợp với mạng lưới giao thông nối liền giữa
khu kinh tế cửa khẩu với nước bạn và nội địa của nước ta, tạo điều kiện lôi kéo và
thúc đẩy hợp tác liên vùng về kinh tế - xã hội giữa các vùng của đất nước.

Hình thành và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam là hình thành
các đầu mối quan hệ liên vùng của hợp tác liên vùng hai Hành lang, một vành đai
kinh tế ở khu vực phía Bắc; hợp tác phát triển Hành lang kinh tế Đông - Tây ở miền
Trung và Hành lang kinh tế đường xuyên Á ở phía Nam.
Các khu kinh tế cửa khẩu sẽ tạo lập quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt
Nam với các nước láng giềng và vươn tới các nước khác. Thông qua việc hình
thành và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu sẽ góp phần tăng cường, mở rộng và
nâng cao hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa nước ta với Trung


7
Quốc, Lào, Campuchia và qua các nước đó tới các nước khác, thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội của các địa phương hai bên biên giới và cùng nhau khai thác các
tiềm năng và lợi thế của khu kinh tế cửa khẩu ở mỗi bên.
Phát triển khu kinh tế cửa khẩu còn góp phần củng cố hoà bình và an ninh
trong khu vực, gìn giữ an ninh, ổn định xã hội ở vùng biên giới giữa Việt Nam và
các nước láng giềng. Hoạt động giao lưu kinh tế tại khu vực các cửa khẩu biên giới
không chỉ làm tăng tiềm lực kinh tế cho khu vực biên giới mà còn làm cho người
dân vùng biên nhận thức được sự cần thiết phải giữ gìn môi trường hoà bình, hợp
tác để làm ăn lâu dài. Điều đó càng khuyến khích người dân gắn bó với vùng biên,
sẵn sàng bảo vệ biên giới khi cần thiết. Bên cạnh đó, giao lưu kinh tế qua các cửa
khẩu còn đòi hỏi phân bố lại dân cư và lao động trong vùng, tạo nên sự phối hợp
chặt chẽ giữa các lực lượng với nhân dân trên địa bàn. Đây là yếu tố quan trọng và
có ý nghĩa to lớn của giao lưu kinh tế cửa khẩu biên giới đối với nhiệm vụ giữ vững
an ninh - quốc phòng và bảo vệ biên cương của Tổ quốc.
Phát triển kinh tế cửa khẩu là một xu hướng phát triển mới trong chính sách
phát triển của nước ta theo xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế nhằm khai thác
các tiềm năng và nguồn lực của yếu tố vị trí địa lý kinh tế và chính trị của dải biên
giới mà tâm điểm là hình thành một khu vực đầu mối giao thông - cửa khẩu biên
giới đất liền thông thoáng và có cơ sở pháp lý cùng hệ thống kết cấu hạ tầng với

những chính sách phát triển phù hợp để tạo động lực mới cho quan hệ hợp tác kinh
tế, thương mại, đầu tư giữa nước ta với các nước láng giềng và qua đó tới các nước
khác trong khu vực.
Với ý nghĩa trên, tác giả lựa chọn đề tài "Phát triển khu kinh tế cửa khẩu ở
Việt Nam" làm Luận văn Thạc sỹ Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu
Khu kinh tế cửa khẩu là một loại hình kinh tế mới mẻ tại Việt Nam và chỉ
được Nhà nước cho áp dụng thí điểm các cơ chế chính sách từ năm 1996. Trải qua
hơn 10 năm, hoạt động của các khu kinh tế cửa khẩu và cả các cơ chế chính sách
của Nhà nước đối với khu kinh tế cửa khẩu đang từng bước phát triển và hoàn thiện.
Đã có một số đề tài nghiên cứu được công bố và một số bài viết trên các tạp chí


8
kinh tế nhưng với số lượng không nhiều, đánh giá chung hoặc về những khía cạnh
riêng lẻ của khu kinh tế cửa khẩu như tình hình hoạt động kinh doanh, một số cơ
chế, chính sách của Nhà nước Trong đó phải kể đến nghiên cứu:
- Thạc sĩ Nguyễn Thị Kim Dung - Viện Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW
năm 1999, chủ nhiệm đề tài "Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng cơ
chế chính sách và các biện pháp quản lý kinh tế đặc thù đối với khu vực cửa khẩu
trên bộ phía Bắc Việt Nam". Nội dung chính của Đề tài bao gồm: cơ sở lý luận về
áp dụng cơ chế chính sách đặc thù phát triển khu vực các cửa khẩu biên giới đất
liền; thực trạng giao lưu kinh tế khu vực các cửa khẩu biên giới đất liền phía Bắc
Việt Nam; một số khuyến nghị về cơ chế chính sách và các phát triển giao lưu kinh
tế tại khu vực các cửa khẩu biên giới đất liền phía Bắc.
- Thạc sĩ Trần Kim Chung - Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW năm 2001
- chủ nhiệm đề tài "Đánh giá việc áp dụng một số cơ chế, chính sách về khu kinh tế
cửa khẩu trong những năm qua và định hướng cho giai đoạn tiếp theo". Nội dung
chính của Đề tài gồm: sự phát triển nhận thức của việc hình thành khu kinh tế cửa
khẩu; đánh giá việc áp dụng thí điểm một số chính sách đối với việc hình thành và

phát triển các khu kinh tế cửa khẩu; kiến nghị một số giải pháp cơ chế chính sách
cho các khu kinh tế cửa khẩu.
- Cử nhân Nguyễn Thị Mẫn - Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2007 - chủ nhiệm
đề tài "Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh các
khu kinh tế cửa khẩu". Nội dung chính của đề tài gồm: đánh giá thực trạng hoạt
động kinh doanh tại một số khu kinh tế cửa khẩu; đánh giá tác động của khu kinh tế
cửa khẩu đến đời sống cư dân biên giới; một số vướng mắc trong hoạt động kinh
doanh tại khác khu kinh tế cửa khẩu; quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các
nước có chung đường biên giới.
Tuy nhiên, những nghiên cứu này đã thực hiện cách đây khá lâu hoặc giới
hạn trong phạm vi hẹp hơn về đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Bên cạnh đó, kinh
tế Việt Nam nói chung và khu kinh tế cửa khẩu cũng như các cơ chế chính sách liên
quan nói riêng từ đó đến nay đã có nhiều thay đổi. Riêng về chủ đề phát triển các
khu kinh tế cửa khẩu, chưa có đề tài thực hiện. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn


9
nghiên cứu về phát triển các khu kinh tế cửa khẩu nhằm đánh giá thực trạng và đề
xuất các giải pháp phát triển phù hợp với vai trò và vị trí của loại hình kinh tế này ở
Việt Nam trong tình hình mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Dựa trên những luận cứ khoa học trong nước, ngoài nước và quan điểm của
Nhà nước về khu kinh tế cửa khẩu để phân tích đánh giá thực trạng và xu hướng
phát triển của khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam, phát hiện những mặt hạn chế, bất
cập trong phát triển khu kinh tế cửa khẩu, từ đó để xuất một số định hướng giải
pháp đẩy mạnh phát triển khu kinh tế cửa khẩu trong thời gian tới.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở khoa học của sự hình thành và phát triển của khu kinh tế cửa
khẩu.

- Phân tích, đánh giá thực trạng để phát hiện những hạn chế, bất cập của khu
kinh tế cửa khẩu.
- Luận chứng những quan điểm và đưa ra giải pháp cơ bản nhằm phát triển
các khu kinh tế cửa khẩu trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
4.2.1 Không gian
Các khu kinh tế cửa khẩu tiếp giáp với Trung Quốc, Lào và Campuchia.
4.2.2 Thời gian
Từ năm 1996 đến thời điểm hiện tại, định hướng phát triển đến năm 2015,
tầm nhìn 2020.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp sau: phương pháp duy vật lịch sử,
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê nin, phương pháp phân tích tổng hợp,
phương pháp thống kê, so sánh


10
6. Những đóng góp mới của Luận văn
Luận văn sẽ đóng góp trên một số mặt sau:
- Hệ thống hóa các lý luận về khu kinh tế cửa khẩu.
- Phân tích thực trạng, nguyên nhân thành công và hạn chế trong việc phát
triển của khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển khu kinh tế cửa khẩu
trong thời gian tới.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu
thành 3 chương, bao gồm:

Chương 1. Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về phát triển khu kinh tế
cửa khẩu
Chương 2. Thực trạng phát triển khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam thời gian
qua
Chương 3. Quan điểm và giải pháp đẩy mạnh phát triển khu kinh tế cửa khẩu
ở Việt Nam trong thời gian tới
Sau đây là nội dung nghiên cứu chi tiết của Luận văn.


11
CHƢƠNG 1 CƠ SỞ
LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PHÁT
TRIỂN KHU KINH TẾ CỬA KHẨU

1.1 Vị trí của khu kinh tế cửa khẩu đối với quốc gia
1.1.1 Khái niệm
1.1.1.1 Giao lưu kinh tế qua biên giới
Từ trước đến nay, "giao lưu kinh tế qua biên giới" thường được hiểu theo
nghĩa hẹp là các hoạt động trao đổi thương mại qua biên giới giữa hai nước, chủ yếu
là những trao đổi về hàng hóa tiêu dùng của cư dân hai biên giới hoặc giữa các xí
nghiệp nhỏ đóng tại các địa bàn biên giới, thuộc tỉnh có cửa khẩu biên giới. Tuy
nhiên, cùng với sự tăng cường xu hướng mở cửa và hợp tác kinh tế ở nhiều nước,
khái niệm này đã ngày càng được mở rộng, bao trùm lên nhiều dạng hoạt động mới,
trước kia chưa từng được thực hiện ở khu vực biên giới. Vì vậy, theo nghĩa rộng,
"giao lưu kinh tế qua biên giới" là các hoạt động trao đổi kinh tế, kỹ thuật qua các
cửa khẩu biên giới, trong đó các hoạt động trao đổi thương mại có vai trò chủ yếu.
Hoạt động giao lưu kinh tế không chỉ đơn thuần là việc buôn bán, trao đổi hàng hóa
thông thường mà còn bao gồm cả hoạt động hợp tác kỹ thuật, xuất nhập khẩu dịch
vụ, thực hiện các liên doanh, buôn bán trang thiết bị kỹ thuật, phát triển cơ sở hạ
tầng, du lịch Có thể nói rằng giao lưu kinh tế qua biên giới đã phát triển từ hình

thức trao đổi hàng hóa đơn giản thành các hoạt động hợp tác sản xuất kinh doanh.
Trong nội dung của Luận văn được trình bày ở các phần tiếp theo dưới đây,
giao lưu kinh tế qua cửa khẩu biên giới được sử dụng theo nghĩa rộng của khái niệm
này.
1.1.1.2 Cửa khẩu
Cửa khẩu là nơi người, phương tiện giao thông vận tải, hàng hóa ra - vào qua
biên giới đất liền.
Cửa khẩu biên giới đất liền (cửa khẩu biên giới) bao gồm: cửa khẩu quốc tế,
cửa khẩu chính (còn gọi là cửa khẩu quốc gia) và cửa khẩu phụ, được mở trên các
tuyến đường bộ, đường sắt trong khu vực biên giới theo Hiệp định về Quy chế biên
giới đã được ký kết giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với


12
Chính phủ nước láng giềng để thực hiện việc xuất, nhập và qua lại biên giới quốc
gia [10].
Cửa khẩu quốc tế được mở cho người, phương tiện, hàng hóa của Việt Nam,
nước láng giềng và nước thứ ba xuất, nhập qua biên giới quốc gia.
Cửa khẩu chính (cửa khẩu quốc gia) được mở cho người, phương tiện, hàng
hóa của Việt Nam, nước láng giềng xuất, nhập qua biên giới quốc gia.
Cửa khẩu phụ được mở cho người, phương tiện, hàng hóa của Việt Nam và
nước láng giềng ở khu vực biên giới, vùng biên giới qua lại biên giới quốc gia.
1.1.1.3 Khu kinh tế cửa khẩu
Khu kinh tế cửa khẩu (sau đây viết tắt là khu KTCK) được hiểu là một địa
bàn bao gồm một cửa khẩu biên giới (cửa khẩu quốc tế hoặc cửa khẩu chính) và
một khu vực quan hệ mật thiết đối với toàn bộ hoạt động giao lưu kinh tế biên giới
qua cửa khẩu này. Địa bàn này có thể là một xã hoặc một số xã của một huyện, có
thể là một số xã liền kề của hai huyện. Trên địa bàn đó được áp dụng một số chính
sách ưu đãi về xây dựng cơ sở hạ tầng, về đầu tư sản xuất, thương mại, thuế, đất đai,
xuất nhập cảnh và du lịch

Thông qua các khu KTCK đó, các hoạt động giao lưu kinh tế qua biên giới
được khuyến khích phát triển, nhằm góp phần vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế
của các địa phương vùng biên giới theo hướng hướng về xuất khẩu, nâng cao đời
sống kinh tế - xã hội của đồng bào các dân tộc vùng có cửa khẩu Tóm lại, khu
KTCK là một địa bàn lấy cửa khẩu làm hạt nhân, trên đó áp dụng một số chính sách
ưu đãi nhằm tăng cường giao lưu kinh tế biên giới qua cửa khẩu đó.
1.1.2 Lợi ích của việc phát triển khu kinh tế cửa khẩu
Việc phát triển khu KTCK có ý nghĩa gì và đem lại những lợi ích như thế
nào. Sau đây là những lợi ích chính:
(1) Việc phát triển các khu KTCK sẽ thúc đẩy giao thương qua cửa khẩu,
trên cơ sở đó tạo tiền đề cho kinh tế của một vùng lớn cũng như kinh tế của cả quốc
gia phát triển.
Hình thành và phát triển khu KTCK sẽ tạo ra một địa bàn để tăng cường giao
thương giữa hai nước, khai thác tiềm năng du lịch, công nghiệp để phát triển du lịch


13
và công nghiệp, tận dụng được các lợi thế tiềm năng của từng địa phương ở cả hai
bên đường biên, huy động sự tham gia của nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội như ngoại
giao, sản xuất hàng xuất khẩu, nghiên cứu khoa học công nghệ, tài chính, của các
tỉnh, các vùng có biên giới với các nước láng giềng vào họat động kinh tế đối ngoại
ở khu vực biên giới. Cùng với việc hình thành khu KTCK sẽ hình thành hệ thống
kết cấu hạ tầng tổng hợp với mạng lưới giao thông nối liền giữa khu KTCK với
nước bạn và nội địa của nước ta, tạo điều kiện lôi kéo và thúc đẩy hợp tác liên vùng
về kinh tế - xã hội giữa các vùng của đất nước.
Hình thành và phát triển các khu KTCK cũng chính là hình thành các đầu
mối quan hệ liên vùng của hợp tác liên vùng hai Hành lang, một vành đai kinh tế ở
khu vực phía Bắc; hợp tác phát triển Hành lang kinh tế Đông - Tây ở miền Trung và
Hành lang kinh tế đường xuyên Á ở phía Nam.
(2) Việc phát triển các khu KTCK sẽ tạo lập quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa

Việt Nam với các nước láng giềng và vươn tới các nước khác.
Thông qua việc hình thành và phát triển các khu KTCK sẽ góp phần tăng
cường, mở rộng và nâng cao hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa
nước ta với Trung Quốc, Lào, Campuchia và qua các nước đó tới các nước khác,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương hai bên biên giới và cùng
nhau khai thác các tiềm năng và lợi thế của khu KTCK ở mỗi bên.
Việc phát triển các khu KTCK ở mỗi khu vực biên giới sẽ tạo lập quan hệ
hữu nghị, hợp tác giữa các nước mà nước ta có chung đường biên giới; góp phần
tăng cường hơn tình hữu nghị thân thiện, hiểu biết lẫn nhau giữa 2 nước Việt Nam
và Trung Quốc theo phương châm 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”; tạo điều kiện cho Việt Nam, Lào và
Campuchia cùng hợp tác phát triển và gìn giữ biên giới hữu nghị, hợp tác và phát
triển kinh tế vùng biên trong quy hoạch hợp tác phát triển 3 nước Việt Nam - Lào
và Campuchia và phát triển hợp tác theo Hành lang kinh tế Đông - Tây, tạo điều
kiện cho Việt Nam, Lào và Campuchia hợp tác với nhau khai thác kinh tế vùng biên
giới, xây dựng vùng biên giới hữu nghị và cùng hợp tác phát triển theo Hành lang
kinh tế đường xuyên Á.


14
Đây cũng là cách giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các tỉnh có khu
KTCK; gia tăng buôn bán và du lịch biên giới sẽ thúc đẩy quá trình đô thị hóa, cải
thiện cơ sở hạ tầng khu vực. Cùng với phát triển du lịch, thương mại cửa khẩu sôi
động sẽ là quá trình đô thị hóa để thu hút du khách, thương nhân, trong vùng,
khắp mọi miền đất nước, từ các nước láng giềng tham gia đi lại, vận chuyển hàng
hóa, tạo ra nhiều việc làm phi nông nghiệp cho dân cư các nơi có khu KTCK. Gắn
liền với đó sẽ là các dự án hợp tác thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và các nước
láng giềng, qua đó với nhiều nước khác.
Thực tế trong những năm qua, hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá qua
biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc, Lào và Campuchia đã góp phần đẩy mạnh

sản xuất trong nước phát triển, đồng thời tạo điều kiện mở rộng hợp tác kinh tế, phát
huy các tiềm năng lợi thế của vùng giáp biên. Giao lưu kinh tế qua cửa khẩu là nhân
tố quan trọng trong việc nâng cao đời sống cho dân cư vùng biên giới Việt Nam
giáp Trung Quốc - Lào - Campuchia, góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo nền
móng cho việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật tới vùng biên giới xa xôi hẻo lánh.
Góp phần củng cố tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước
láng giềng.
(3) Góp phần củng cố hoà bình và an ninh trong khu vực, gìn giữ an ninh, ổn
định xã hội ở vùng biên giới hai nước.
Hoạt động giao lưu kinh tế tại khu vực các cửa khẩu biên giới không chỉ
những làm tăng tiềm lực kinh tế cho khu vực biên giới mà còn làm cho người dân
vùng biên nhận thức được sự cần thiết phải giữ gìn môi trường hoà bình, hợp tác để
làm ăn lâu dài. Điều đó càng khuyến khích người dân gắn bó máu thịt với vùng
biên, sẵn sàng bảo vệ biên giới khi cần thiết. Bên cạnh đó, giao lưu kinh tế qua các
cửa khẩu còn đòi hỏi phân bố lại dân cư và lao động trong vùng, tạo nên sự phối
hợp chặt chẽ giữa các lực lượng với nhân dân trên địa bàn. Đây là yếu tố quan trọng
và có ý nghĩa to lớn của giao lưu kinh tế cửa khẩu biên giới đối với nhiệm vụ giữ
vững an ninh - quốc phòng và bảo vệ biên cương của Tổ quốc.
Phát triển giao lưu kinh tế nhờ các hoạt động thương mại qua biên giới sẽ
làm tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau về văn hoá, từ đó cải thiện an ninh biên giới.


15
Trên cơ sở mở rộng hoạt động kinh tế, phát huy sức mạnh tổng hợp nhằm tạo ra thế
vững mạnh về quốc phòng an ninh.
Thực hiện phát triển kinh tế tại các khu vực cửa khẩu chính là tạo nền tảng
cơ sở vật chất, thu hút nhân tài, vật lực từ trong nhân dân, góp phần giữ vững chủ
quyền biên giới. Đây cũng chính là chủ trương của Đảng và Chính phủ về phát triển
kinh tế vùng biên giới; đẩy nhanh qua trình hội nhập của các tỉnh biên giới, thực
hiện Chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế vùng biên giới gắn với giữ gìn tình

hữu nghị hợp tác vốn có truyền thống lâu đời giữa nước ta và các nước láng giềng.
(4) Nâng cấp hoạt động buôn bán tiểu ngạch qua biên giới
Trong hoạt động kinh doanh khu vực hành lang kinh tế, buôn bán tiểu ngạch
qua biên giới tuy có mang lại lợi ích kinh tế trước mắt nhưng đây là hình thức trao
đổi thương mại quốc tế cấp thấp, thiếu tính ổn định, chứa đựng nhiều yếu tố kinh tế
ngầm, bất hợp pháp, gây ảnh hưởng bất lợi đối với an sinh xã hội. Buôn bán tiểu
ngạch vùng biên giới thường mang tính tự phát; không được Nhà nước, tổ chức hay
công ty lớn nào bảo đảm và không có bảo hiểm nên gặp nhiều rủi ro, làm nản lòng
các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh ở khu vực biên giới.
Khi chính sách của nước láng giềng đột ngột thay đổi, các doanh nhân của ta
chưa kịp thời nắm bắt thông tin nên dẫn đến tình trạng hàng đã đến biên giới sau khi
trải qua hàng trăm, hàng nghìn cây số và rất nhiều khó khăn trong bảo quản, kiểm
dịch, lại bị cấm hoặc đánh thuế quá cao so với chi phí kinh doanh và vận chuyển.
Việc hình thành các khu KTCK là nhằm đưa các hoạt động trao đổi thương
mại vào tổ chức hoạt động đúng hướng, đúng tầm về quy mô và cấp độ, giám sát
chặt chẽ (thuế quan, chất lượng, xuất xứ, ), cung cấp kịp thời thông tin (giá cả,
chính sách, sự thay đổi chính sách của chính quyền sở tại hai bên đối với thị trường
khu vực), tạo điều kiện xây dựng hệ thống dịch vụ bảo đảm về tài chính, tín dụng để
khắc phục những tiêu cực trong buôn bán qua biên giới và giúp cho các hoạt động
này đạt hiệu quả, đem lại niềm tin cho các doanh nghiệp.
(5) Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ hoạt động thương mại, du lịch biên
giới.


16
Trong thời gian tới, khi các nước ASEAN đều phải thực hiện nghĩa vụ của
AFTA, WTO, theo các cam kết quốc tế và khu vực. Theo đó, việc xây dựng các
hành lang hợp tác kinh tế là để tạo ra các cơ hội nâng cao năng lực cán bộ hoạt động
thương mại biên giới, hiện đại hóa cơ sở vật chất, từ đó từng bước xóa bỏ những trở
ngại trên trong quá trình hợp tác song phương và đa phương trên khu vực biên giới

giữa các nước.
Các cán bộ hoạt động thương mại và du lịch biên giới phải biết khai thác
những lợi ích mà các nước lân cận dành cho nước ta trong quá trình hội nhập để
phát triển nền kinh tế của mình. Trong quá trình đó, có thể họ sẽ gặp những vấp váp
ban đầu, nhưng sau khi rút kinh nghiệm sẽ thu được nhiều lợi ích hơn là mất mát,
nền kinh tế thương mại của nước ta sẽ trở nên thông thoáng hơn, gần với các chuẩn
mực quốc tế hơn và do đó khả năng cạnh tranh cũng cao hơn.
Phát triển kinh tế cửa khẩu và khu KTCK để tham gia hội nhập đòi hỏi các
bên đối tác tham gia phải đẩy mạnh tự do hóa thương mại, việc mở cửa thị trường
cho nhau đòi hỏi các bên phải luôn có tính chủ động, tính toán thiệt hơn và khẩn
trương trong hành động để khỏi tuột mất cơ hội, đồng thời phải bảo đảm giữ vững
độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia. Điều này buộc các cán bộ hoạt động thương
mại biên giới luôn phải tự nâng cao năng lực để đáp ứng cơ chế quản lý mới này,
đồng thời Nhà nước và chính quyền địa phương cũng phải tích cực hỗ trợ để họ có
thể thực thi tốt nhiệm vụ của mình thông qua các khoá đào tạo bổ trợ kiến thức và
quá trình nghiên cứu thực tế ở địa phương.
1.1.3 Sự cần thiết phải hình thành và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu
Việc hình thành phát triển khu KTCK tại các tuyến biên giới đem lại lợi ích
như trình bày ở trên. Vì vậy, phát triển khu KTCK là hết sức cần thiết, phù hợp quy
luật kinh tế khách quan và phù hợp xu hướng phát triển thời đại - toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Điều này được thể hiện ở những mặt sau:
1.1.3.1 Giao lưu kinh tế qua biên giới là thể hiện xu thế hội nhập kinh tế giữa
các nước gần nhau về địa lý
Hợp tác kinh tế và hội nhập hiện đang là xu thế không thể đảo ngược của
phát triển kinh tế thế giới hiện nay. Xu thế này đã được thúc đẩy mạnh mẽ từ giữa


17
thập kỷ 80 của thế kỷ trước cùng với các quá trình cải cách kinh tế theo hướng tự do
hóa và mở cửa kinh tế tại nhiều nước. Hội nhập kinh tế, nói theo nghĩa rộng là sự

liên kết quốc tế ngày càng sâu sắc các quá trình sản xuất, kinh doanh và các loại
hình thị trường giữa các nước. Quá trình này đẩy nhanh không chỉ thương mại hàng
hóa, dịch vụ truyền thống, mà còn cả những giao dịch mới khác qua biên giới.
Các lý thuyết kinh tế học phát triển đã chỉ rõ rằng quá trình hội nhập kinh tế
sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia phát huy lợi thế so sánh, giảm chi phí nhờ mở
rộng quy mô, chuyển giao vốn, công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, phát triển nguồn
nhân lực, loại bỏ những hạn chế và lệch lạc của thị trường bị cát cứ, bó hẹp trong
từng quốc gia. Về mặt dài hạn, hợp tác kinh tế cho phép các nước có thể tận dụng
lợi thế so sánh của mình, thúc đẩy và duy trì tăng trưởng bền vững, nâng cao phúc
lợi dân cư thông qua việc phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả hơn. Về mặt
ngắn hạn, hợp tác kinh tế đòi hỏi các nước phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế, xem xét
lại để có quyết sách thích hợp đối với những ngành kém hiệu quả, thiếu tính cạnh
tranh [45].
Giao lưu kinh tế qua biên giới với tư cách là một hình thức mở cửa kinh tế
giữa các nước láng giềng có thể mang lại nhiều lợi thế: tận dụng được ưu thế liền
núi, liền sông, liền đường giữa các nước láng giềng; bổ sung cho nhau giữa dân cư,
doanh nghiệp hai nước láng giềng, do đó, mức cạnh tranh chưa gay gắt như các giao
lưu kinh tế qua hàng không, đường biển; sản phẩm giao lưu kinh tế qua biên giới
không quá chênh lệch về cơ cấu ngành nghề, sản phẩm, nguyên liệu, nhu cầu thị
trường; có những hình thức đa dạng hơn so với buôn bán qua các cửa khẩu hàng
không, hàng hải qua đó thúc đẩy phát triển đa dạng quan hệ, trao đổi chính thức ở
cấp Nhà nước.
Chính nhờ có những lợi thế đó mà giao lưu kinh tế qua khu vực cửa khẩu
biên giới được coi là một trong những hình thức xúc tiến hội nhập kinh tế quốc tế
đáng được quan tâm.


18
1.1.3.2 Giao lưu kinh tế tại khu vực các cửa khẩu biên giới là hình thức tiếp
cận mới để thực hiện mục tiêu mở rộng hợp tác kinh tế giữa các nước láng giềng

Ngày nay, những đổi thay trong đời sống kinh tế thế giới cho thấy có nhiều
nguyên nhân dẫn đến nhu cầu về mở cửa và hợp tác giữa các nước láng giềng, trong
đó quan trọng nhất phải kể đến các yếu tố như xu hướng hợp tác và hội nhập chung
trên thế giới và khu vực và yếu tố địa lý, lịch sử, văn hóa. Những nước láng giềng là
những nước gần gũi nhau về mặt địa lý, lại là những nước có nhiều đặc điểm chung
về truyền thống, văn hóa, tập quán, nên thường có những điểm tương đồng về trình
độ phát triển, cách tư duy kinh tế, thị hiếu tiêu dùng vv. Những đặc điểm này chính
là điều kiện tiên quyết để đi đến quyết định hợp tác trong kinh tế thương mại.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng thương mại thường giữ vai trò chính yếu
nhất trong các hoạt động giao lưu kinh tế qua biên giới các nước. Đẩy nhanh hoạt
động thương mại tại khu vực các cửa khẩu biên giới sẽ là động cơ thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế thông qua việc tăng xuất khẩu; đến lượt mình, xuất khẩu tăng sẽ làm
tăng tổng năng suất các yếu tố. Đương nhiên, việc tăng cường các hoạt động giao
lưu thương mại qua biên giới cũng sẽ đưa lại những ảnh hưởng không mong muốn
nhất định. Song, các ảnh hưởng tiêu cực, nếu có, đều có thể kiểm soát và giảm thiểu
được.
1.1.3.3 Các khu kinh tế cửa khẩu biên giới cần được thực hiện những cơ chế
chính sách riêng biệt
Việc tạo ra những khu KTCK với những cơ chế chính sách đặc biệt nhằm tạo
ra sức bật, nâng cao đời sống các đồng bào dân tộc, tạo cơ sở để ổn định sự đoàn kết
dân tộc và ổn định vùng biên giới. Việc áp dụng những cơ chế chính sách hạn chế
trên một địa bàn nhỏ, trước khi nhân rộng ra địa bàn cả nước là biểu hiện của các
tiếp cận tiệm tiến về không gian, chẳng hạn như khu vực cửa khẩu. Những khu vực
biên giới trên bộ, trừ một vài cửa khẩu quốc tế quan trọng của các nước, phần lớn là
những khu vực chậm phát triển so với trình độ kinh tế và mặt bằng xã hội của quốc
gia. Do vậy, việc áp dụng những cơ chế chính sách đặc biệt cho khu KTCK ngoài
việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn này còn trực tiếp bù đắp lợi
ích, thu nhập, giảm bớt những khó khăn của những người sinh sống làm việc tại các



19
khu vực này. Hơn nữa, những người dân sống trên địa bàn biên giới thường là đồng
bào dân tộc không chiếm đa số trong cộng đồng dân cư của quốc gia. Do đó, việc
thực hiện các chính sách ưu đãi với các khu vực biên giới để kinh tế phát triển và
cũng để nâng cao đời sống các dân tộc, hòa đồng các quan hệ dân tộc trong quốc
gia. Việc thực hành những chính sách ưu đãi để phát triển kinh tế ven biên giới còn
là một giải pháp quan trọng bảo đảm an ninh quốc phòng chủ quyền biên giới trên
bộ.
1.1.3.4 Việc chuyển đổi nền kinh tế sang vận hành theo cơ chế thị trường đòi
hỏi phải có những thử nghiệm về cơ chế chính sách trên một địa bàn cụ thể
Việc chuyển nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường tựu trung lại
có hai cách tiếp cận: cách tiếp cận sốc và cách tiếp cận tiệm tiến. Lý luận của các
nhà cải cách theo cách tiếp cận sốc chủ yếu dựa vào luận điểm cho rằng nền kinh tế
thị trường chỉ có thể phát huy các ưu điểm của nó khi các cơ chế chính sách thị
trường đồng loạt được thực hiện. Cách tiếp cận tiệm tiến hay từng bước, hay "dò đá
qua sông" dựa trên cơ sở lý luận cho rằng mọi hoạt động của con người cũng như
của các quá trình phát triển kinh tế, không thể một lúc có thể làm được. Do đó, cải
cách kinh tế theo hướng thị trường rất cần có bước thử nghiệm.
Cải cách của Việt Nam đã đi theo con đường tiệm tiến với những cú sốc nhỏ,
đã có những thành công đáng kể về ổn định kinh tế vĩ mô và thiết lập cơ chế thị
trường hàng hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc thử nghiệm đồng bộ nhiều
chính sách trên một địa bàn hạn chế trước khi nhân rộng ra cả vùng, cả nước lại là
điều có thể và cần tiến hành với một sự lựa chọn thận trọng.
Thực tế phát triển của một số nước trong thời gian qua cho thấy việc áp dụng
này đem lại nhiều lợi ích. Thứ nhất, đối với những vùng có lợi thế tương đối, việc
áp dụng mội số cơ chế chính sách có thể giúp tăng cường tối đa các lợi thế này để
đưa nhanh các khu vực đó trở thành "đầu tầu" so với những vùng còn lại của quốc
gia. Thứ hai, đối với những vùng có những bất lợi tương đối so với những vùng
khác trong quốc gia, việc áp dụng các cơ chế chính sách ưu đãi lại có tác dụng xóa
đi những bất lợi tương đối đó.



20
Các khu KTCK trên bộ, với những ưu thế nhất định đã trình bày ở trên là
những vùng có điều kiện có thể đáp ứng được đòi hỏi thử nghiệm này.
1.1.3.5 Những nền kinh tế đang trong tiến trình hội nhập đòi hỏi những bước
thử nghiệm trong việc áp dụng những cơ chế chính sách thông thoáng, phù hợp với
thông lệ quốc tế
Đặc trưng thứ hai của nền kinh tế nước ta là đang trong tiến trình hội nhập
khu vực và quốc tế. Để chủ động hội nhập với nền kinh tế khu vực và quốc tế, dù
nhanh hay chậm nhưng trong giai đoạn đầu, thường là giai đoạn tìm hiểu, thử
nghiệm một vài chính sách, một vài thỏa thuận, hoặc thực hiện đồng bộ các chính
sách trên một địa bàn cụ thể. Do là cửa ngõ qua lại giữa hai nước có cùng biên giới,
có điều kiện để trực tiếp tham gia tiến trình hội nhập về thương mại, du lịch, đầu tư,
khu vực cửa khẩu cũng là một địa bàn cụ thể có thể thử nghiệm các chính sách cho
tiến trình hội nhập.
1.1.3.6 Là một nền kinh tế đang phát triển, việc thử nghiệm các chính sách
huy động tạo nguồn vốn, cũng cần phải được thử nghiệm trên một địa bàn trước khi
mở rộng ra cả nước
Đặc trưng thứ ba của nền kinh tế nước ta cũng như một số các nước xung
quanh đó là đặc trưng của một nền kinh tế đang phát triển. Đặc trưng cơ bản nhất
của một nền kinh tế đang phát triển đặt trong nền kinh tế thế giới trong thời đại hiện
nay là một nền kinh tế nhập khẩu vốn và công nghệ. Để chọn cho mình một chiến
lược thích hợp trong quá trình thu hút nguồn vốn từ bên ngoài, một trong những liệu
pháp thích hợp là thực hiện các thử nghiệm trong phạm vi hẹp trước khi đưa vào
thực hiện trên bình diện cả nước. Khu KTCK là một trong những địa bàn thích hợp
cho sự lựa chọn thử nghiệm này.
1.1.4 Điều kiện phát triển khu kinh tế cửa khẩu
1.1.4.1 Về phía Nhà nước
* Cải cách kinh tế, điều kiện quan trọng cho hình thành, phát triển các khu

KTCK và mở rộng giao lưu kinh tế qua các khu vực cửa khẩu biên giới
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986) đã mở ra một trang mới
cho lịch sử phát triển kinh tế đất nước bằng quyết định thực hiện một cuộc cải cách


21
kiên quyết theo hướng chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục ý tưởng này, để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho xuất
khẩu, thay vì dựa vào các tổ chức xuất nhập khẩu độc quyền của Nhà nước trước
đây, Nghị quyết Trung ương IV Khóa 8 đã chỉ rõ: "Các doanh nghiệp, chủ yếu là
các đơn vị sản xuất, được trực tiếp xuất khẩu và tham gia hiệp hội xuất khẩu"; và cụ
thể hơn nữa, còn đưa ra yêu cầu: "Nghiên cứu xây dựng thí điểm một vài đặc khu
kinh tế, khu mậu dịch tự do ở những địa bàn có điều kiện". Đối với vấn đề thu hút
đầu tư nước ngoài, Nghị quyết cũng đưa ra quan điểm: "Mở rộng nhiều hình thức
thu hút các nguồn lực từ nước ngoài Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút đầu tư
trực tiếp của nước ngoài vào các ngành chế biến xuất khẩu" [13].
* Đổi mới trong hệ thống pháp lý, điều kiện của việc hình thành phát triển
các khu KTCK và các hoạt động kinh tế đối ngoại
Xét về mặt pháp lý, Hiến pháp năm 1992 đánh dấu một chuyển biến lớn
trong đường lối mở cửa và hợp tác kinh tế quốc tế, làm cơ sở quan trọng khuyến
khích việc đẩy mạnh kinh doanh và đầu tư của các thành phần kinh tế vào hoạt động
giao lưu kinh tế, kể cả các hoạt động ở các vùng biên giới. Thứ nhất, Điều 16 chỉ rõ
mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, trên cơ sở giải phóng
mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, dưới
nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh
tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới. Thứ hai, Điều 24 chỉ rõ,
Nhà nước thống nhất quản lý và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển các
hình thức quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên tắc

tông trọng độc lập, chủ quyền và cùng có lợi, bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong
nước [22].
Ngoài ra, các luật và văn bản pháp quy khác được Nhà nước ban hành kể từ
sau thời kỳ đổi mới cũng tạo nhiều điều kiện cho giao lưu kinh tế quốc tế. Trên thực
tế, kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay, đã có hàng nghìn văn bản pháp lý
được ban hành mang những nội dung đổi mới về kinh tế và quản lý kinh tế liên


22
quan đến các hoạt động giao lưu kinh tế qua biên giới như Luật Thuế xuất khẩu thuế
nhập khẩu, Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Ngân sách Ngoài ra, bên cạnh
khung khổ pháp lý cho các hoạt động giao lưu kinh tế đối với mọi đối tượng nói
chung, hoạt động giao lưu kinh tế qua biên giới với Trung Quốc, Lào và Campuchia
còn được hỗ trợ bởi nhiều hiệp định và các văn bản thỏa thuận giữa Việt Nam với
các nước này.
Các Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội các vùng ở
nước ta [2 - 5] và các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về các vùng có liên
quan đến khu KTCK đều xác định các định hướng phát triển dải miền núi biên giới
nước ta, trong đó nhấn mạnh tới hình thành vành đai kinh tế - xã hội dọc tuyến biên
giới, bao gồm: hình thành các khu KTCK, khu thương mại, khu dân cư biên giới;
Chính sách thương mại và xuất nhập khẩu; Hợp tác kinh tế và đầu tư với các nước
láng giềng. Những đổi mới nói trên về kinh tế, về hoàn thiện các văn bản của hệ
thống pháp luật và nhất là Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia và quy
hoạch phát triển vùng kinh tế - xã hội là điều kiện cực kỳ quan trọng cho việc hình
thành phát triển các khu KTCK ở các địa phương có đường biên giới.
1.1.4.2 Về phía các địa phương có chung đường biên giới với các nước láng
giềng
(1) Có cửa khẩu quốc tế hoặc cửa khẩu chính và có phạm vi lãnh thổ đủ đất
xây dựng khu KTCK; lãnh thổ này bao gồm các đơn vị hành chính liền kề, không
tách biệt về không gian.

Điều kiện này muốn nhấn mạnh tới yếu tố đầu tiên là có cửa khẩu và vùng
đất xung quanh bao gồm các xã quanh khu vực cửa khẩu và đủ đất để xây dựng các
công trình như Quốc môn, các hạ tầng công sở của khu KTCK, các trung tâm
thương mại, kho ngoại quan và các công trình sản xuất khác đáp ứng đúng chức
năng của khu KTCK.
Có đủ đất để xây dựng các công trình đáp ứng yêu cầu phát triển các hoạt
động thương mại, xuất nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, vận chuyển hàng hoá quá
cảnh, sản xuất công nghiệp, du lịch, dịch vụ; có điều kiện phát huy tiềm năng tại
chỗ và các vùng xung quanh; có khả năng phát triển thương mại và thu hút đầu tư.


23
Việc xác định phạm vi khu kinh tế cửa khẩu tùy thuộc vào vị trí của cửa
khẩu và địa thế cụ thể của khu vực đó. Thông thường phạm vi khu kinh tế cửa khẩu
gồm các đơn vị hành chính liền kề không tách biệt về không gian (có thể một vài xã
trong một huyện hoặc là một vài xã của các huyện).
(2) Có trục giao thông, nhất là trục giao thông lớn gắn kết khu vực dự kiến
hình thành khu KTCK với nội địa của đất nước; giao lưu thuận tiện với các nước
láng giềng qua cửa khẩu biên giới đất liền của nước bạn; nối kết với hậu phương
vững chắc và rộng lớn.
Các trục giao thông lớn này sẽ tạo điều kiện giao thương kinh tế giữa nước ta
với các nước láng giềng, tạo điều kiện gắn kết giữa khu KTCK với hậu phương là
khu vực các đồng bằng và tạo điều kiện xuất, nhập hàng hoá và dịch vụ của nước ta
tới các nước qua khu KTCK.
Khu vực biên giới nước ta nơi có các cửa khẩu để hình thành các khu kinh tế
cửa khẩu điều kiện hạ tầng kinh tế xã hội còn đặc biệt khó khăn, thậm chí có nơi
điều kiện giao thông rất khó khăn, đường hẹp, cấp đường thấp. Chính nhờ ưu thế
của việc hình thành khu KTCK đòi hỏi phải phát triển hệ thống giao thông để phục
vụ cho việc phát triển bên trong khu KTCK, thông qua đó sẽ lôi kéo phát triển các
vùng xung quanh.

(3) Có lịch sử giao thương và có yêu cầu phát triển giao thương cả trong các
giai đoạn ngắn hạn và dài hạn.
Điều kiện này đòi hỏi nơi dự kiến hình thành khu KTCK phải được xem xét
về quá trình giao thương qua cửa khẩu cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Mặt
khác, nơi dự kiến hình thành khu KTCK phải được xem xét vị trí của nơi đó trong
yêu cầu đòi hỏi phát triển hợp tác và hữu nghị giữa nước ta và các nước láng giềng
cũng như của các tỉnh giáp biên trong các văn kiện hợp tác hoặc trong các Quy
hoạch và chương trình phát triển và hợp tác giữa nước ta với các nước láng giềng
như hợp tác Hai hành lang, một vành đai với Trung Quốc, hợp tác trong Tiểu vùng
sông Mê Kông mở rộng theo các Hành lang kinh tế Đông - Tây.
(4) Được các nhà đầu tư quan tâm, có ý định đầu tư sản xuất kinh doanh.


24
(5) Có điều kiện gắn kết giữa phát triển kinh tế với việc giữ vững an ninh,
chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia tại khu vực biên giới;
phát triển kinh tế gắn kết với bảo vệ môi trường.
Việc khai thác các lợi thế của cửa khẩu sẽ có tác động mạnh đến tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Trong điều kiện đó, nếu quản lý tốt sẽ có điều kiện giải quyết
các vấn đề xã hội và theo đó, tạo ra cơ sở và sức mạnh đối với việc bảo vệ chủ
quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn.
Bên cạnh việc giải quyết các vấn đề xã hội, việc phát triển các khu kinh tế
cửa khẩu sẽ có điều kiện để xử lý tốt vấn đề bảo vệ môi trường. Và theo đó, sự phát
triển của khu vực sẽ đáp ứng yêu cầu của phát triển bền vững.
Việc phát triển các khu kinh tế cửa khẩu trước hết không gây tác động xấu
đến các điều kiện về môi trường sinh thái và đặc biệt là đến các khu bảo tồn thiên
nhiên (nếu có). Đây vừa là yêu cầu bắt buộc đối với sự phát triển nói chung cũng
như đối với khu vực biên giới nói riêng vì nếu không giải quyết tốt sẽ ảnh hưởng
xấu ngay đến quan hệ giữa các quốc gia.
1.1.4.3 Điều kiện về phía các quốc gia có chung đường biên giới với Việt

Nam
* Chính sách đối ngoại và quan hệ kinh tế - chính trị của các nước láng giềng
với nhu cầu đẩy mạnh hợp tác giao thương, đầu tư với nước ta qua khu KTCK
Đây là điều kiện cần được nghiên cứu và xem xét để xác định những ảnh
hưởng tích cực/tiêu cực; mạnh/yếu và theo chiều hướng nào đối với nơi dự kiến
hình thành khu KTCK; dự báo được khả năng đầu tư, khả năng tiêu thụ sản phẩm
và sức ép cạnh tranh, khả năng tiếp thu công nghệ và kinh nghiệm quản trị tiên tiến
cũng như khả năng rủi ro của nơi dự kiến hình thành khu KTCK. Từ đó, xác định
các phương hướng phát triển và đầu tư vào khu KTCK đúng hướng và để hình
thành khu KTCK đó hoạt động có hiệu quả.
Chính sách đối ngoại và quan hệ kinh tế - chính trị của các nước láng giềng
có tác động khác nhau đối với từng khu vực biên giới của nước ta; chẳng hạn như
những chính sách, nhu cầu đẩy mạnh hợp tác giao thương, đầu tư với nước ta của
Trung Quốc có tác động tới việc hình thành các khu KTCK ở khu vực biên giới

×