Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Ngoại thương Việt Nam thực trạng và định hướng chiến lược phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 120 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ


NGUYỄN BÁ DƯ


NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN




LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ









Hà nội, 2004




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ


NGUYỄN BÁ DƯ

NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN

Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Mã số: 5.02.01


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ




Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Trần Quế






Hà nội, 2004


MỤC LỤC

Lời mở đầu
1
Chương 1: Một số vấn đề chung về thương mại quốc tế
4
1.1. Cơ sở phát triển của thương mại quốc tế
4
1.1.1. Cơ sở hình thành thương mại quốc tế
4
1.1.2. Xu hướng phát triển của thương mại quốc tế
6
1.2 Các chiến lược phát triển ngoại thương
12
1.2.1. Chiến lược thay thế nhập khẩu
12
1.2.2. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế
15
1.2.3. Chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu
16
1.2.4. Chiến lược phát triển hỗn hợp
17
1.3. Vai trò của thương mại quốc tế đối với quá trình phát triển kinh tế quốc dân
19
1.3.1 Vai trò đối với việc phát triển kinh tế
19
1.3.2. Vai trò đối với việc giải quyết việc làm và các vấn đề chính trị - xã hội
của mỗi quốc gia.
22
1.4. Một số kinh nghiệm phát triển ngoại thương trên thế giới
24
1.4.1 Hàn Quốc

24
1.4.2 Đài Loan
26
1.4.3 Malaysia
27
1.4.4 Trung Quốc
29
Chương 2: Ngoại thương Việt Nam trong những năm qua
32
2.1. Ngoại thương Việt Nam thời kỳ 1975 - 1986
32
2.1.1. Chiến lược phát triển ngoại thương thời kỳ 1975 - 1986
32
2.1.2. Thực trạng ngoại thương Việt Nam thời kỳ 1975 - 1986
35
2.1.3. Đánh giá ngoại thương Việt Nam thời kỳ 1975 - 1986
39
2.2. Ngoại thương Việt Nam từ 1986 đến nay
42
2.2.1. Chiến lược phát triển ngoại thương từ 1986 đến nay
42
2.2.2. Thực trạng ngoại thương Việt Nam từ 1986 đến nay
45
2.2.3. Đánh giá ngoại thương Việt Nam từ 1986 đến nay
56
Chương 3: Định hướng chiến lược và các giải pháp chủ yếu nhằm phát
triển ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới
65
3.1. Bối cảnh mới chi phối chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam
trong thời gian tới

65
3.1.1. Thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay
65
3.1.2. Bối cảnh quốc tế, xu hướng phát triển kinh tế và thương mại thế giới hiện nay
76
3.1.3. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến quá trình phát triển ngoại
thương Việt Nam trong những năm tới
78
3.2. Quan điểm và định hướng chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam
trong giai đoạn tới
84
3.2.1. Những quan điểm cơ bản về định hướng chiến lược phát triển ngoại
thương Việt Nam
84
3.2.2. Những mục tiêu chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam
87
3.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện chiến lược phát triển ngoại
thương Việt Nam trong giai đoạn tới
93
3.3.1. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý ngoại thương
93
3.3.2. Tiếp tục đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, đa phương hoá thị
trường và năng động tìm kiếm khách hàng
96
3.3.3. Chủ động hội nhập quốc tế
98
3.3.4. Lựa chọn ưu tiên các ngành mũi nhọn có tác động hỗ trợ tích cực cho
việc hoàn thiện và đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
99
3.3.5. Huy động các nguồn vốn đầu tư để phát triển ngoại thương theo hướng

mở cửa và hội nhập
100
3.3.6. Phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường kinh doanh
101
3.3.7. Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động ngoại thương
101
3.3.8 Xúc tiến thương mại
103
3.3.9. Tăng cường và đổi mới công tác giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ và
phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu tình hình mới.
104
Kết luận
106
Tài liệu tham khảo
108


CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

ADB
Ngân hàng phát triển châu Á
AFTA
Hiệp định thương mại tự do ASEAN
APEC
Diễn đàn hợp tác Châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CARICOM
Cộng đồng hợp tác kinh tế và thị trường chung Caribê
GATT

Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
EU
Liên minh châu Âu
WB
Ngân hàng thế giới
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
IMF
Quỹ tiền tệ thế giới
MERCOSUR
Khối thị trường chung Nam mỹ
NAFTA
Hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ
ODA
Viện trợ phát triển chính thức
OPEC
Tổ chức các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Họat động của ngành ngoại thương Việt nam ngày càng phát triển vượt bậc, nhất là
từ sau khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới. Ngoại thương Việt nam thời gian qua đã
đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước và phần nào tác động mạnh
mẽ vào thực hiện quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung bao
cấp sang cơ chế thị trường.
Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi và phát triển trong điều kiện kinh tế thị

trường, ngoại thương Việt nam đã gặp phải không ít những bất cập so với yêu cầu phát
triển của thực tiễn.
Nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp bách của giới nghiên cứu và quản lý nhà
nước đối với việc phát triển ngoại thương là phải tập trung nghiên cứu các vấn đề lý
luận, thực tiễn và kinh nghiệm của các nước, đồng thời cần tổng kết ngay những vấn
đề thực tiễn nảy sinh trong quá trình hoạt động của ngoại thương Việt nam, lấy đó làm
luận cứ khoa học cho việc định ra một chiến lược phát triển ngoại thương đúng đắn và
năng động phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, để nó trở thành động lực trực
tiếp cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước đang trong quá trình hội nhập
vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ và mục
tiêu quan trọng đã được Đảng Cộng Sản Việt Nam đề ra tại Đại hội lần thứ IX (tháng
4/2001) cho các hoạt động kinh tế đối ngoại và ngoại thương cần đạt được.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề hoạt động và định hướng chiến lược phát triển thương mại nói chung,
của ngoại thương Việt nam nói riêng, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các góc độ,
các mức độ và cấp độ khác nhau, nhưng ở mỗi công trình nghiên cứu ở các thời kỳ
khác nhau đòi hỏi mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu khác nhau, nên kết quả
nghiên cứu khác nhau. Đó là công trình nghiên cứu đã được công bố, như: công
nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của một số nước châu á công nghiệp mới (tác giả
2
Hoàng Thanh Nhàn, 1992), Vai trò của Chính phủ trong quá trình công nghiệp hóa về
xuất khẩu của một số nước ASEAN (tác giả Đinh Thị Thơm,1996), Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa ngoại thương với tăng trưởng và phát triển kinh
tế của Việt nam trong điều kiện kinh tế mở (tác giả Trần Anh Phương,1996), Chiến
lược phát triển thương mại trên địa bàn thành phố Hà nội trong giai đoạn hiện nay (tác
giả Nguyễn Văn Tuấn, 2002), Đổi mới và hoàn thiện quản lý Nhà nước về thương mại
trên thị trường nội địa nước ta thời kỳ đến 2010 (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà
nước của Bộ Thương mại, 2002) và một số tác phẩm khác.
Trong phạm vi đề tài được nghiên cứu này, tác giả hy vọng có thể hệ thống hoá,
khái quát hoá cả về lý luận và thực tiễn chiến lược phát triển ngoại thương Việt nam

trong điều kiện kinh tế thị trường góp phần phát triển ngoại thương Việt nam nhằm
thực hiện các mục tiêu chiến lược tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
 Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản và kinh nghiệm thực tiễn của một số
nước trên thế giới về chiến lược phát triển ngoại thương.
 Phân tích, đánh giá thực trạng quá trình phát triển ngoại thương Việt nam trong
thời kỳ vừa qua, nhất là từ năm 1986 đến nay.
 Đề xuất một số kiến nghị chủ yếu và luận giải các vấn đề cơ bản về chiến lược
phát triển ngoại thương Việt nam trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Dưới góc độ kinh tế chính trị học, đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn
đề cơ bản ở tầm vĩ mô của hoạt động ngoại thương, cho nên các vấn đề được đưa ra
xem xét, phân tích chủ yếu là về quan điểm lý luận, đường lối chính sách và chiến
lược phát triển ngoại thương.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là quá trình phát triển của ngoại thương Việt nam
trong thời kỳ mở của và hội nhập cửa nền kinh tế Việt nam vào nền kinh tế thế giới,
mà chủ yếu từ sau năm 1986 đến nay.
3
Luận văn cũng có đề cập đến chiến lược phát triển ngoại thương của một số
nước có những điều kiện giống Việt nam, tác giả chọn lọc những kinh nghiệm này giới
thiệu cho quá trình hoạch định chiến lược phát triển, vận dụng nó vào thực tế phát triển
ngoại thương Việt nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu bằng việc sử dụng phép duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, đồng thời kết hợp chặt chẽ với phương pháp: khái quát hoá, trừu tượng hoá và
cụ thể hoá trong quá trình phân tích, đánh giá, xây dựng và tổ chức thực hiện chiến
lược phát triển ngoại thương Việt nam trong những năm tới.
Phương pháp phân tích được sử dụng trong luận văn là phương pháp diễn dịch
và quy nạp, phân tích kinh tế- thống kê, phương pháp phân tích thông tin và đồ thị…
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn

Luận văn sẽ hệ thống hoá những lý luận cơ bản về chiến lược phát triển ngoại
thương trong nền kinh tế thị trường.
Trên cơ sở tổng hợp, phân tích và đánh giá thực trạng vận động của ngoại thương
Việt nam trong những năm qua, căn cứ vào xu thế phát triển của kinh tế Việt nam trong bối
cảnh hiện nay, luận văn sẽ đề xuất định hướng và một số giải pháp cơ bản trong chiến lược
phát triển ngoại thương Việt nam trong những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thƣơng mại quốc tế
Chương 2: Ngoại thƣơng Việt nam trong những năm qua
Chương 3: Định hƣớng chiến lƣợc và các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
ngoại thƣơng Việt nam trong thời gian tới

4
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1. CƠ SỞ PHÁT TRIỂN CỦA THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1.1. Cơ sở hình thành thƣơng mại quốc tế
Từ những năm cuối thế kỷ 19 nền kinh tế thế giới đã có những bước tiến vượt
bậc. Kinh tế tư bản phát triển tới đỉnh cao, cơ khí hoá dần thay thế thủ công, năng suất
lao động không ngừng tăng lên, của cải vật chất của xã hội ngày càng được sản xuất ra
nhiều hơn.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất trên thế giới đã làm cho nền kinh tế ngày
càng đa dạng và phong phú, ngày càng chịu ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ của sự
phân công lao động quốc tế. Các quan hệ kinh tế thế giới phát sinh và phát triển không
ngừng. Các mối quan hệ này được biểu hiện qua:
- Các mối quan hệ di chuyển quốc tế của hàng hoá và dịch vụ.
- Các mối quan hệ di chuyển quốc tế của vốn.
- Các mối quan hệ di chuyển quốc tế của sức lao động.
- Các mối quan hệ di chuyển quốc tế của các phương tiện tiền tệ.

Từ các mối quan hệ quốc tế này xuất hiện một hình thái hoạt động kinh tế quốc
tế mới: thương mại quốc tế.
Thực tế phát triển kinh tế thế giới cho thấy, sự thành công trong phát triển kinh
tế của mỗi quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của thương mại quốc tế. Nhất là
trong tình hình hiện nay, để phát triển, các quốc gia cần phải áp dụng cơ chế kinh tế
mở, tức là nền kinh tế của một quốc gia có các hoạt động giao dịch kinh tế quốc tế với
các nền kinh tế mở của các quốc gia khác và với các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế.
Trong phạm vi một quốc gia có nền kinh tế mở, các hoạt động kinh tế đối ngoại
có tầm quan trọng đặc biệt, vì các hoạt động của nó, như: ngoại thương, hợp tác quốc
tế về đầu tư và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, hợp tác quốc tế về khoa học công
nghệ, các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ… là cầu nối giữa kinh tế trong nước và kinh
5
tế quốc tế. Quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng được phát triển và mở rộng do yêu cầu
phát triển khách quan của xã hội hoá lực lượng sản xuất thế giới mà cơ sở của nó là
phân công lao động quốc tế và sự trao đổi các lợi thế so sánh giữa các quốc gia.
Từ đó, cơ sở lý luận khoa học của việc hình thành kinh tế mở cũng chính là cơ
sở lý luận khoa học của mối quan hệ giữa thương mại quốc tế với phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia, thực chất là phát triển mạnh các quan hệ kinh tế đối ngoại, trong đó
ngoại thương giữ vị trí trọng tâm.
Ngoại thương - hiểu theo khái niệm phổ thông nhất: là phạm trù kinh tế phản
ánh sự trao đổi hàng hoá giữa nước này với nước khác thông qua các hoạt động bán và
mua (gọi là xuất khẩu - nhập khẩu). Toàn bộ hoạt động xuất - nhập khẩu giữa các nước
được gọi là thương mại quốc tế.
Hai điều kiện tiền đề ra đời của ngoại thương là:
1. Sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ, kèm theo đó là sự xuất
hiện của tư bản thương nghiệp.
2. Sự hình thành và phát triển của phân công lao động quốc tế giữa các nước.
Qua nghiên cứu lịch sử phát triển kinh tế thế giới, ngoại thương là hoạt động
kinh tế đã xuất hiện từ lâu trong các thời đại từ chế độ chiếm hữu nô lệ, và tiếp đó là
chế độ Nhà nước phong kiến. Tuy nhiên thời kỳ này ngoại thương chỉ phát triển với

quy mô nhỏ, hẹp, vì nền kinh tế mang tính tự nhiên còn thống trị. Việc trao đổi hàng
hoá quốc tế chỉ bao gồm một phần rất nhỏ sản phẩm được sản xuất ra, còn chủ yếu là
dùng để phục vụ nhu cầu cá nhân trong nước.
Đến tư bản chủ nghĩa, ngoại thương mới phát triển rộng rãi và trở thành động
lực phát triển quan trọng của phương thức tư bản chủ nghĩa. Vì, lúc này sản xuất hàng
hoá tư bản chủ nghĩa phát triển với quy mô ngày càng lớn và mục đích của nó là
không ngừng tăng lợi nhuận.
6
Ngày nay thương mại quốc tế đã trở thành hoạt động kinh tế đối ngoại cơ bản
không thể thiếu được, nó phản ánh tính chất, trình độ và quy mô mở cửa phát triển nền
kinh tế hướng ngoại của mỗi quốc gia trên thế giới.

1.1.2. Xu hƣớng phát triển của thƣơng mại quốc tế.
Ngày nay hội nhập và toàn cầu hoá là xu thế tất yếu không thể đảo ngược. Việc
hoạch định chiến lược phát triển ngoại thương của mỗi quốc gia phải tính đến đặc
điểm và xu hướng phát triển là: thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ với quy mô
ngày càng lớn, tốc độ ngày càng nhanh theo hướng phân công lao động quốc tế ngày
càng sâu, rộng, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế
quốc tế hoá lực lượng sản xuất.
Ở thế kỷ 21 này, sự phát triển đó chắc chắn sẽ ngày càng sôi động, phức tạp và
rất khó có thể tiên đoán một cách chính xác tất cả các xu hướng phát triển của nó. Có
thể đưa ra một số nhận định về xu hướng phát triển chính như sau:
Thứ nhất: Việc các quốc gia cấu trúc lại nền kinh tế của mình sẽ tác động sâu
sắc đến quá trình chuyển dịch cơ cấu của thương mại quốc tế. Điều đó được biểu hiện
qua một số đặc điểm:
- Các hoạt động ngoại thương hữu hình vẫn sẽ tăng mạnh. Bên cạnh đó, hoạt
động ngoại thương vô hình (như: chuyển giao công nghệ, bảo vệ – cho thuê
hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ) cũng sẽ không ngừng tăng về tốc độ
phát triển, quy mô giá trị và tỷ trọng trong thương mại quốc tế.
- Giá trị của những sản phẩm hàng hoá có hàm lượng chất xám cao (kỹ thuật,

công nghệ cao) sẽ ngày một tăng nhanh, ngược lại, những sản phẩm thô và sơ
chế của các ngành sản xuất sẽ tiếp tục giảm cả về giá trị, quy mô và tỷ trọng
trong tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của thương mại thế giới.
- Xu hướng không ngừng mở rộng cánh kéo giá cả giữa các sản phẩm sơ cấp
(bao gồm nông sản, khoáng sản, các nguyên liệu thô khác) và giá cả các sản
7
phẩm đã qua công nghiệp chế biến, đặc biệt là các sản phẩm có hàm lượng chất
xám cao, sẽ gây bất lợi ngày càng lớn cho các nước xuất khẩu sản phẩm sơ cấp,
mà chủ yếu là đối với các nước chậm và đang phát triển, bị thua thiệt.
Thứ hai: “Tự do hoá thương mại” ngày càng gia tăng và là xu thế tất yếu của
yêu cầu phát triển khách quan của thương mại quốc tế.
"Tự do hoá thương mại" là việc tự do di chuyển hàng hoá, dịch vụ, nguồn nhân
lực và vốn giữa các quốc gia. Điều này có nghĩa là các rào cản trong lĩnh vực thương
mại của một nước sẽ cần phải được xoá bỏ nhằm tạo cơ hội cho hàng hoá, dịch vụ từ
thị trường khác có thể xâm nhập vào thị trường nội địa, qua đó tăng cường khả năng
cạnh tranh của hàng hoá nội địa, đồng thời đẩy mạnh hoạt động thương mại và hợp tác
kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực và toàn cầu.
Vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ, các quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế đã phát triển mạnh mẽ. Mở cửa
để phát triển đã trở thành một nhu cầu cấp thiết đối với mọi nước trên thế giới. Việc buôn
bán không thể chỉ giới hạn trong một nước. Tự lực để phát triển kinh tế không còn là quốc
sách trong giai đoạn hiện nay, mà phải hội nhập để phát triển. Hội nhập quốc tế tạo cơ hội
cho các nước tăng cường và tranh thủ thu hút vốn đầu tư nước ngoài, công nghệ mới và các
kinh nghiệm quản lý tốt nhất của các nước phát triển. Để hội nhập, cần phải tự do hoá
thương mại.
Thứ ba: Tự do hoá thương mại đưa lại lợi ích cho tất cả các nước nhưng không
đều nhau.
Tự do hoá thương mại là điều kiện để các nước đang phát triển tranh thủ những
ưu đãi về thương mại, đầu tư và mở rộng cửa cho hàng hoá của họ thâm nhập vào thị
trường các nước, nhất là các nước phát triển. Từ những sự ưu đãi này, các nước đang

phát triển có thể tăng cường thu hút đầu tư vốn trong và ngoài nước, thúc đẩy nhanh
quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh
của hàng hoá và dịch vụ. Đặc biệt là trong WTO cũng như đại đa số các tổ chức kinh
tế khu vực khác đều có các chính sách ưu đãi đối với các nước đang phát triển và các
8
nước trong thời kỳ chuyển đổi, cho phép các nước này được hưởng các miễn trừ, ân
hạn trong việc thực hiện các nghĩa vụ giảm thuế và phi thuế quan, và các nghĩa vụ
khác.
Tham gia tiến trình tự do hoá thương mại, thực hiện giảm thuế và mở cửa thị
trường sẽ tạo ra sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ trên thị trường nội địa, đòi hỏi các
ngành sản xuất phải được cơ cấu và tổ chức lại cho phù hợp và có hiệu quả kinh tế cao
hơn, yêu cầu phải mở rộng hơn nữa hợp tác khoa học - kỹ thuật, đẩy mạnh chuyển
giao công nghệ và vốn.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện tự do hoá thương mại chắc chắn sẽ dẫn đến
sự bất bình đẳng giữa các nước và lợi ích của những nước tham gia trong các khối
không thể đồng đều nhau được. Đó là sự thiệt thòi của những nước có nền kinh tế yếu
kém, lậc hậu hơn và các nước phát triển hơn sẽ được lợi nhiều hơn, vì trong quan hệ lệ
thuộc nhau và những lợi thế so sánh, nhất là lợi thế so sánh tương đối, thuộc về các
nước phát triển hơn. Một điều hiển nhiên sẽ là: khi phá bỏ các rào cản trong quan hệ
thương mại quốc tế, nguồn lực và hàng hoá của các nước giàu và có trình độ sản xuất
phát triển cao sẽ có tác động chi phối các nước kém phát triển và các nước nghèo, và
các nước nghèo dễ bị lâm vào tình trạng nghiêm trọng do hàng hoá từ ngoài tràn ngập
vào, cạnh tranh và làm cho sản xuất có nguy cơ bị đình trệ.
Có thể thấy rằng: tự do hoá thương mại sẽ là cơ hội để các nước chậm và kém
phát triển phát triển, song được nhiều hơn lại thuộc về các nước phát triển hơn.
Thứ tư: Bảo hộ mậu dịch tuy có giảm dần nhưng vẫn tồn tại song song với tự do
hoá thương mại.
Tham gia tiến hành tự do hoá thương mại, các nước đều tăng cường mở cửa thị
trường. Song các nước vẫn còn duy trì bảo hộ mậu dịch, tuy mỗi nước và mỗi thời kỳ
mức độ bảo hộ khác nhau.

Mỗi quốc gia đều có chính sách thương mại riêng. Chính sách thương mại là
chính sách quốc gia dùng để phân biệt đối xử với các nhà sản xuất và kinh doanh nước
9
ngoài, cũng chính là nhằm bảo hộ các nhà sản xuất và thị trường trong nước khỏi sự
xâm nhập ồ ạt của nước ngoài hoặc bảo hộ một nhóm người nào đó.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, các nước đang tiến dần đến việc xoá bỏ các
chính sách bảo hộ mậu dịch, song trên thực tế việc xoá bỏ hoàn toàn vẫn chưa thể trở
thành hiện thực được. Các nước vẫn cần phải duy trì bảo hộ mậu dịch đồng thời cùng
với việc phát triển của tự do thương mại. Bảo hộ mậu dịch giúp cho các nước có thể
phát triển dần nền sản xuất và hoạt động thương mại trong nước khi chưa có trình độ
ngang tầm với các nước khác, đồng thời tránh những tổn thất về thu ngân sách và các
vấn đề khác do giảm hoặc xoá bỏ hàng rào thuế quan do tự do hoá thương mại đòi hỏi.
Nhìn chung, các nước đang dần xoá bỏ các rào cản trong hoạt động thương mại
quốc tế, nhưng xoá hẳn và xoá hết các rào cản này chưa thể thực hiện được, vì trong
chừng mực nào đó bảo hộ mậu dịch vẫn còn là điều cần thiết đối với mỗi quốc gia
trong tiến trình thúc đẩy tự do hoá thương mại.
Thứ năm: toàn cầu hoá và khu vực hoá cùng tồn tại song song trong thương mại
quốc tế:
Hiện nay toàn cầu hoá không còn là một xu thế mà đã trở thành thực tiễn trong
nền kinh tế thế giới. Trong những năm gần đây, quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá
được tăng cường rất mạnh, cùng tồn tại song song trong lĩnh vực thương mại quốc tế.
Các thành viên trong WTO đang cố gắng thực hiện các cam kết về tự do hoá thương
mại, song vì nhiều lý do triển vọng của việc xây dựng hệ thống thương mại đa phương
còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, thông qua việc ký kết các hiệp định thương mại đa
bên, nhiều khối thương mại tự do đã được thành lập. Đến nay, trên thế giới đã có trên
1000 liên minh thương mại được ra đời, chủ yếu tập trung ở Châu Âu và Châu Mỹ. Ở
Châu Á tuy không nhiều hiệp định thương mại tự do, theo WTO thì có 10 liên minh đã
được ký kết, song chúng được đánh giá là thực hiện rất tích cực và đạt kết quả ban đầu
đáng khích lệ. Các liên minh thương mại trên thế giới đang tồn tạị gồm có APEC- tổ
chức hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương gồm 22 nước và vùng lãnh thổ tham

10
gia, ASEAN - hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, CARICOM- cộng đồng hợp tác
kinh tế và thị trường chung Caribe, EU,.v.v
Việc thành lập và cùng song song tồn tại các khối thương mại đa phương trước
hết là các nước trong khối có sự gần gũi về địa lý, do nhu cầu chính trị của các nước
thành viên muốn có sự ổn định và có khả năng liên kết để chống lại mối đe doạ từ bên
ngoài, đáp ứng nhu cầu của các nước về một thể chế thương mại đa phương trong khi
các vòng đàm phán của GATT/WTO chưa đạt được kết quả như các nước mong đợi,
và đây chính là bước thử nghiệm để tham gia tự do hoá thương mại toàn cầu.
Thứ sáu: Xu hướng tăng cường hiệp định tự do thương mại song phương:
Trong nửa cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, tự do hoá đơn phương đã trở
thành trào lưu phổ biến trong tiến trình thúc đẩy tự do hoá thương mại và là bước
chuyển căn bản của các nước đang phát triển, các nước mới công nhiệp hoá và các nền
kinh tế chuyển đổi ra khỏi các chính sách hướng nội thay thế nhập khẩu.
Ngày nay, tự do hoá thương mại đơn phương được thay thế bằng các hiệp định
thương mại chung của thế giới. Thực tế cho thấy rằng, tự do hoá thương mại đơn
phương đã gây thiệt hại nhiều cho các nước thực hiện chính sách này. Việc tự do
thương mại đơn phương đã mở cửa thị trường cho nước ngoài thâm nhập, trong khi
không có chính sách bảo hộ mậu dịch hoặc không có điều kiện thâm nhập thị trường
nước ngoài đã làm cho tình hình sản xuất và thương mại của các nước này không thể
phát triển được. Để bảo vệ quyền lợi của mình và để có điều kiện bình đẳng trong
quan hệ kinh tế quốc tế, các nước nhất là các nước đang phát triển, buộc phải tiến hành
hoạt động thương mại quốc tế theo hướng ký các Hiệp định thương mại song phương.
Việc ký các Hiệp định thương mại song phương đã giúp cho các nước có thể bình
đẳng hơn trong quan hệ thương mại và có cơ hội hỗ trợ, giúp đỡ nhau nhiều hơn.
Việt Nam đã ký Hiệp định song phương với một số nước và khu vực, nhờ vậy
trong quan hệ thương mại với các nước trên thế giới đang có nhiều tiến triển tốt đẹp.
Như đã ký Hiệp định thương mại EU, làm cho kim ngạch xuất nhập khẩu của chúng ta
sang thị trường EU ngày một tăng, trong đó nhiều mặt hàng xuất sang EU có trị giá rất
11

lớn, như dệt may, giày dép, thuỷ sản. Năm 2001 ký Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ,
đã mở ra cho chúng ta triển vọng lớn cũng như những điều kiện thuận lợi trong phát
triển ngoại thương với Hoa Kỳ và khu vực Bắc Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ
năm 2003 đã đạt 4 tỷ USD - Nhiều mặt hàng chủ lực sang Mỹ đạt kim ngạch lớn, năm
2001 xuất sang Mỹ hàng dệt may mới đạt 47 triệu USD, đến 1/5/2003 đã tăng lên 2,5
tỷ USD. Năm 2003 xuất khẩu hàng giầy dép : 325 triệu USD, hàng thuỷ sản đạt hơn
800 triệu USD
Các Hiệp định thương mại song phương đã và đang là yếu tố hết sức quan trọng
để tạo sự bình đẳng và là điều kiện vô cùng thuận lợi giúp các nước đang phát triển có
cơ hội mở rộng quan hệ thương mại quốc tế. Đây là xu hướng đang được tăng cường
và phát triển trên thế giới hiện nay.
Tóm lại: “Tự do hoá thương mại” đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để cho
nền kinh tế thế giới phát triển không ngừng và đã làm c ho kinh tế thế giới đạt được
những kết quả to lớn, song nó cũng làm nảy sinh những hậu quả rất nghiêm trọng. Đó
là, “tự do hoá thương mại” làm tăng khoảng cách trình độ phát triển và tình trạng kinh
tế giữa các nước, nhất là giữa các nước phát triển và các nước chậm phát triển. Đó là,
làm cho sự lệ thuộc về kinh tế, dẫn đến lệ thuộc về chính trị giữa một số nước ngày
càng nhiều hơn; và tất yếu dẫn đến mâu thuẫn giữa các sắc tộc và từng khu vực nẩy
sinh ngày một sâu sắc hơn.
“Tự do hoá thương mại” là động lực thúc đẩy các quốc gia cấu trúc lại nền kinh
tế, đẩy nhanh quá trình cấu trúc lại nền kinh tế thế giới theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, song mặt trái của nó là: làm ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sinh thái,
làm cho việc khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức, dẫn đến huỷ hoại môi trường
sinh thái, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, nhất là đối với các quốc gia kém phát triển,
công nghệ chế biến không đủ sức cạnh tranh, phải xuất khẩu nguyên liệu thô ra nước
ngoài. Không chỉ riêng đối với các nước kém phát triển, các nước “siêu” phát triển
như: Mỹ, Nhật…cũng không thể tránh khỏi được những hậu quả tiêu cực do sự tác
động của “tự do hoá thương mại”. Nhất là, khi các quốc gia phải thực hiện theo quy
12
định mới về thuế quan xuất nhập khẩu do WTO quy định, phải hạ thấp thuế xuất nhập

khẩu xuống còn từ 1/4 đến 1/3 mức hiện hành, sự thua thiệt lớn chắc chắn sẽ rơi vào
các nước nghèo, vì họ đang phải nhập siêu quá lớn.
Đối với các nước chậm và kém phát triển, con đường duy nhất để đi lên là tăng
cường xuất khẩu để nhập khẩu và tăng tích luỹ cho phát triển kinh tế, tất nhiên cũng sẽ
gặp nhiều bất lợi. Vậy làm thế nào để không bị thua thiệt trong cuộc đua tranh xuất
khẩu đối với các nước kém và chậm phát triển? Vấn đề đặt ra đối với các nước này là:
cần phải đề ra và thực thi một cách hết sức khôn khéo các chính sách về tài chính, tiền
tệ, cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý…để kết hợp đồng bộ một cách đúng đắn giữa
khuyến khích “tự do hoá thương mại” với “bảo hộ mậu dịch”.
1.2. CÁC CHIẾN LƢỢC PHÁT TRIỂN NGOẠI THƢƠNG
Hiện nay toàn cầu hoá và quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới vì sự phát triển
chung đang là xu thế khách quan, cho nên trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia nhận thức sự cần thiết phát triển nền kinh tế mở là điều tất yếu, nhất là đối
với các nước có nền kinh tế chưa phát triển. Tuy nhiên đối với các quốc gia có nền
kinh tế chưa phát triển thường có sự băn khoăn tranh luận về chiến lược phát triển kinh
tế theo hướng nào: hướng nội hay hướng ngoại? Thực tế trong hoạt động kinh tế đối
ngoại đã xuất hiện những chiến lược phát triển khác nhau: thay thế nhập khẩu, xuất
khẩu sản phẩm thô và sơ chế, công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, chiến lược phát
triển hỗn hợp. Nên chọn chiến lược phát triển nào cho phù hợp với đặc điểm, tình
hình, điều kiện thực tế của quốc gia mình?
1.2.1 Chiến lƣợc thay thế nhập khẩu
Chiến lược thay thế nhập khẩu đã được thực hiện trong quá trình hiện đại hoá
đất nước ở hầu hết các nước đang phát triển ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La tinh
trong những năm 1950 - 1960. Thực chất của chiến lược thay thế nhập khẩu là chiến
lược phát triển kinh tế hướng nội, mà nội dung chủ yếu của nó là đề cao việc sản xuất
hàng hoá thay thế nhập khẩu.
13
Ở các nước áp dụng chiến lược thay thế nhập khẩu, phương pháp tiếp cận thực
tiễn chung và phổ biến là các nhà sản xuất trong nước cần phải xác định rõ nhu cầu thị
trường trong nước qua số lượng nhập khẩu thực tế hàng năm để lập kế hoạch phát triển

sản xuất - kinh doanh. Để hỗ trợ sản xuất trong nước phát triển và có lãi, nhà nước có
trách nhiệm bảo hộ cho sản xuất và mậu dịch trong nước bằng các biện pháp thuế quan
và phi thuế quan. Nhà nước cũng cho phép những nhà sản xuất được phép quan hệ với
nước ngoài để tranh thủ vốn đầu tư, cung cấp kỹ thuật, nhất là công nghệ mới và có thể
phối hợp thực hiện sản xuất - kinh doanh.
Áp dụng chiến lược này ban đầu các nước đã đạt được tăng trưởng và phát triển
kinh tế nhờ khai thác, phát huy tốt nhất các khả năng tiềm tàng và thế mạnh về lao
động, tài nguyên của đất nước mình để sản xuất các sản phẩm thay thế nhập khẩu
với chi phí giá thành hợp lý nhất. Nhờ vậy hàng hoá sản xuất trong nước của các nước
này đã đáp ứng phần nào nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, làm ổn định kinh
tế- chính trị - xã hội, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao.
Trong quá trình thực hiện chiến lược này, đến một thời điểm nào đó bằng việc
chuyên môn hoá thay thế nhập khẩu, mỗi nước đều có thể đạt được lợi thế so sánh ở
một vài sản phẩm công nghiệp nào đó và do đó vẫn có thể xuất khẩu được một phần
sản phẩm sau khi đã được thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước. Qua đó thấy rằng,
nếu thực hiện đúng đắn chiến lược thay thế nhập khẩu thì nó cũng có những tác dụng
và vai trò nhất định trong giai đoạn mở đầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở các nước đang phát triển, nó như là giai đoạn mở đầu để nền công nghiệp khởi
động và là khúc dạo đầu cho việc tăng trưởng theo hướng xuất khẩu.
Từ cuối những năm 1960, chiến lược thay thế nhập khẩu đã bị hạn chế dần tác
dụng ở một loạt nước, trước hết ở các nước Châu Mỹ La tinh rồi lan sang các nước
Châu Á và Châu Phi. Nguyên nhân thất bại của chiến lược này là nó tỏ ra ngày càng
lạc hậu với thời đại ngày nay trước xu thế mở cửa phát triển mạnh các quan hệ hợp tác
và phân công lao động quốc tế. Do đề cao phát triển hướng nội nên chiến lược thay
thế nhập khẩu đã làm giảm dần tốc độ tăng trưởng kinh tế, vì chiến lược này hạn chế
14
tự do hoá ngoại thương, vi phạm quy luật lợi thế so sánh bởi chính sách "đóng cửa"
"bế quan toả cảng" của nền kinh tế. Ở một số nước, do đề cao quan điểm tự lực cánh
sinh theo kiểu khép kín, với việc gia tăng các điều kiện bảo hộ sản xuất và mậu dịch
trong nước nên nhiều sản phẩm sản xuất ra để thay thế hàng nhập khẩu với chất lượng

không cao, giá cả không khống chế, gây lãng phí các nguồn lực sản xuất và không có
tính cạnh tranh trên thị trường thế giới. Hậu quả là: làm ảnh hưởng đến đời sống dân
cư ở các nước này và hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế. Và một hậu quả tồi tệ xảy ra
trong quan hệ kinh tế đối ngoại của hầu hết các nước áp dụng chiến lược thay thế nhập
khẩu là: tỷ trọng nhập khẩu luôn tăng lên khiến cán cân thanh toán quốc tế thường
xuyên bị thiếu hụt, nợ nước ngoài vì thế vẫn không thể giảm được.
Thực tiễn phát triển kinh tế của các nước đang phát triển cho thấy mâu thuẫn
giữa chính sách tự lực tự cường trong phát triển kinh tế và thiếu hụt ngoại tệ, vốn và
phải phụ thuộc vào nước ngoài ngày càng trở thành nguyên nhân quan trọng khiến cho
chiến lược thay thế nhập khẩu không thể kéo dài. Ngay cả trong những thời kỳ có sự
thực thi nghiêm ngặt chiến lược thay thế nhập khẩu, các công ty tư bản nước ngoài đã
bằng mọi cách luồn vào bên trong các hàng rào thuế quan để sản xuất tại chỗ những
sản phẩm mà trước đây các nước sở tại phải nhập khẩu. Có một xu hướng khá phổ
biến chung là: càng về sau, chính các nước sở tại càng khuyến khích sự gia tăng đầu tư
tư bản vào nước mình. Năm 1954 và năm 1962, Thái Lan có luật khuyến khích đầu tư
công nghiệp đã cho phép tư bản nước ngoài tham gia. Năm 1958, Malaysia ban hành
luật khuyến khích nguồn vốn nước ngoài vào những ngành công nghiệp thay thế nhập
khẩu. Năm 1959, Singapo có luật công nghiệp mũi nhọn. Năm 1967 Inđônêxia có luật
đầu tư tư bản nước ngoài nhằm thu hút vốn nước ngoài để phát triển các ngành phân
bón, xi măng, dệt, hàng công nghiệp tiêu dùng dành cho thị trường nội địa. Năm 1965
bằng hiệp ước bình thường hoá quan hệ với Nhật Bản, Hàn Quốc đã thừa nhận quyền
kiểm soát của tư bản Nhật Bản ở Hàn Quốc, đã khiến cho ngay từ năm 1974 cổ phần
của Nhật ở Hàn Quốc đã chiếm tới 65,4% tổng số vốn đầu tư của tư bản nước ngoài
vào Hàn Quốc [28, tr. 90-92].
15
Trong số các nước đang phát triển ở Châu Á áp dụng không thành công chiến
lược thay thế nhập khẩu phải kể đến Myanma, là một trong những nước bảo thủ nhất
thực hiện chính sách hạn chế các quan hệ kinh tế đối ngoại, mà chính sách này đã
được chính phủ Myanma áp dụng đến tận năm 1992. Do ảnh hưởng của chính sách
hạn chế các quan hệ kinh tế đối ngoại mà Myanma đã trở thành nước có nền kinh tế

kém phát triển nhất, một nước có nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng và kéo dài và là
nước nghèo nhất thế giới.
Nhìn chung, thay thế nhập khẩu là chiến lược phát triển ngoại thương được các
nước đang phát triển áp dụng thời kỳ 1950 - 1960. Với chiến lược này, ban đầu các
nước đang phát triển đã đạt được một số kết quả nhất định về tăng trưởng kinh tế. Nhờ
áp dụng chiến lược này các nước đang phát triển đã phần nào đạt được mục tiêu cơ
bản của mình là: tự lực, tự cường về kinh tế và độc lập về chính trị. Tuy rằng sau này,
khi nền kinh tế thế giới chuyển sang xu thế hội nhập và quốc tế hoá đời sống kinh tế,
chiến lược thay thế nhập khẩu không còn phát huy hiệu lực, song nó có thể coi là bước
khởi động ban đầu cho công cuộc phát triển công nghiệp hoá sau này. Và tất yếu khi
nó không còn tác dụng nữa, nó sẽ phải được thay thế bằng chiến lược khác, có hiệu
quả hơn.
1.2.2 Chiến lƣợc xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế
Thực chất đây là chiến lược công nghiệp hoá hướng ngoại, nhưng ở trình độ
thấp. Chiến lược này đã được thực hiện từ trước những năm 1950 và nó đã mang lại sự
tăng trưởng đáng kể cho nhiều nước, trong đó có cả những quốc gia phát triển như Mỹ,
Canada, Cộng hòa liên bang Đức Do có các lợi thế về xuất khẩu lương thực, thực
phẩm và một số khoáng sản thô khác, một số nước nghèo như Côlômbia, Mêhicô,
Malaixia, Philipin cũng đã áp dụng chiến lược này trong thời kỳ đầu tiến hành công
nghiệp hoá (1950 - 1960). Bằng con đường đó, họ đã tạo ra được những động lực đầu
tiên cho sự phát triển nhờ có lợi thế so sánh về một số sản phẩm xuất khẩu như cao su,
cà phê, dầu dừa, dầu cọ, quặng kim loại Cho nên đến cuối những năm 1960 tổng kim
16
ngạch xuất khẩu của các nước đang phát triển chiếm 80% là xuất khẩu sản phẩm sơ chế
và hàng thô [49, tr. 89].
Tuy nhiên khi phân tích hiệu quả kinh tế của việc xuất khẩu sản phẩm sơ chế
và hàng thô, các nước đều khẳng định đây là loại chiến lược bán rẻ tài nguyên và thiên
nhiên. Song không còn con đường nào khác để có vốn ban đầu cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, các nước nghèo và đang phát triển phải bán sản phẩm ra nước ngoài dưới
dạng sản phẩm thô và sơ chế. Việc xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế tạo ra xu hướng

là: tranh thủ khai thác nguồn tài nguyên sẵn có, vắt kiệt nó, gây hậu quả nghiêm trọng
về môi trường và sinh thái, bóc lột bừa bãi và quá mức đối với thiên nhiên, đồng thời
còn gây cả tâm lý ỷ lại dựa vào thiên nhiên, không cần đầu tư vào phát triển công
nghệ chế biến, làm cho tình hình sản xuất công nghiệp không phát triển và ngày càng
lạc hậu. Thực trạng này diễn ra tập trung chủ yếu vào các nước có nguồn tài nguyên
phong phú, như Irắc, Côoet, ở Trung Đông hoặc Brunây ở Châu Á. Sau khi thấy
được hậu quả bất lợi nghiêm trọng xảy ra, các nước đang phát triển dần chuyển hướng,
hạn chế việc thực hiện chiến lược loại này, do vậy tỷ trọng hàng sơ chế và sản phẩm
thô trong tổng kim ngạch xuất khẩu của họ ngày một giảm.
Đối với Việt Nam thời kỳ đầu của công nghiệp hoá, xét các điều kiện thực tế
của mình, đã áp dụng chiến lược này đồng thời kết hợp đồng bộ với chiến lược khác
trên tinh thần tận dụng hết những lợi thế so sánh về nguồn lao động và tài nguyên để
chuẩn bị tiền đề vật chất cần thiết cho "cất cánh".
1.2.3 Chiến lƣợc công nghiệp hoá hƣớng vào xuất khẩu
Nội dung cơ bản của chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu là các
nước khác nhau đều có những lợi thế so sánh khác nhau về nguồn lực sản xuất vốn có
của mỗi nước (vốn lao động, tài nguyên, vị trí địa lý ). Vì thế các nước cần "phụ
thuộc" lẫn nhau trong quá trình phát triển để có thể trao đổi với nhau các lợi thế so
sánh thông qua các hoạt động kinh tế đối ngoại như ngoại thương, liên doanh, liên kết
cùng nhau đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh về một hay một số loại sản phẩm
nào đó
17
Rõ ràng, chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu hoàn toàn ngược lại
với chiến lược thay thế nhập khẩu. Chiến lược này thể hiện sự vận dụng các quy luật
lợi thế so sánh ở mức độ cao nhất, do đó nó đặc biệt chú trọng đến việc mở cửa hướng
ngoại của mỗi quốc gia.
Thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu là cơ hội để các
quốc gia đang phát triển thành lập và phát triển các khu, các vùng kinh tế mới với tốc
độ nhanh, với công nghệ mới hiện đại và thu hút số đông lực lượng lao động của xã
hội đến làm việc. Từ đó hình thành các vùng đô thị mới với bộ mặt hoàn toàn khác các

khu vực kinh tế truyền thống. Ở đây nhờ sự phát triển của công nghiệp, người lao động
có việc làm ổn định và thu nhập cao. Đồng thời với phát triển sản xuất, đời sống được
nâng cao, các hoạt động thương mại - dịch vụ cũng phát triển mạnh, tạo lên một bộ
mặt đô thị hoàn toàn mới.
Tuy nhiên, lại nảy sinh những mặt hạn chế, tác động tiêu cực đến tình hình
chính trị - xã hội, đó là những chính sách về phát triển khu kinh tế mới và giải quyết
vấn đề phát triển những khu vực sản xuất truyền thống chủ yếu để phục vụ nhu cầu nội
địa mà các khu vực này vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu xã hội và địa lý của
mỗi quốc gia. Việc tập trung quá mức vào một số ngành được chuyên môn hoá cao để
xuất khẩu dễ dẫn đến tình trạng toàn bộ nền kinh tế bị phụ thuộc vào sự biến động của
các ngành đó, và có thể làm cho nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng. Nếu coi nhẹ
các vùng, các ngành sản xuất truyền thống, ít đầu tư vốn và kỹ thuật, vốn dĩ nó đã bị
lạc hầu, sẽ dẫn đến tình trạng: các ngành sản xuất bị mai một đi, các vùng sản xuất sẽ
không còn được tồn tại như trước nũa, dân cư sẽ di chuyển dần đến những khu kinh tế
mới, và có thể sẽ phá vỡ thế cân bằng đã được thiết lập từ bao đời nay, làm cho nền kinh
tế bị mất cân đối. Và điều đó đặc biệt tác động đến những vùng núi cao, hẻo lánh, vùng
sâu, vùng nông thôn xa xôi.
Đến nay chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu đã được thực tiễn
phát triển công nghiệp hoá khẳng định là mang lại hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với
18
xu thế phát triển của thời đại ngày nay là quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới và hợp
tác vì sự phát triển chung của nhân loại.
Chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu đã được nhiều nước và vùng
lãnh thổ ở Châu Á áp dụng trong hơn 30 năm qua và nhiều nước đã thu được những
kết quả vượt bậc, tạo lên "nền kinh tế thần kỳ", như Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Công,
Hàn Quốc, Singapore và sau này có Malaixia, Ấn Độ.
1.2.4 Chiến lƣợc phát triển hỗn hợp
Thực tiễn cho thấy sự phân định thành 3 loại chiến lược phát triển như trên ở
nhiều nước chỉ mang tính ước lệ tương đối. Hầu hết các nước đều không theo đuổi hẳn
một chiến lược nào mà đã kết hợp đồng bộ cùng lúc hay gắn kết hai hay cả 3 loại chiến

lược thành một chiến lược hỗn hợp.
Tuy nhiên, do mức độ nhận thức, biện pháp thực hiện, điều kiện lịch sử với sự
tác động của môi trường quốc tế ở mỗi nước có mức độ khác nhau, sự thành công của
mỗi nước cũng khác nhau.
Quay trở lại với những nước đạt được những thành công to lớn trong chiến lược
phát triển hướng ngoại là Nhật Bản, “4 con rồng” Châu Á (Đài Loan, Hồng Công,
Singapore, Hàn Quốc), rồi Ấn Độ, Malaixia sau này, có thể coi đó là những tấm gương
sáng về thành công thực hiện chiến lược hướng ngoại, mà nội dung cơ bản nhất của
nó là xúc tiến mạnh mẽ quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Điều kỳ diệu là
các nước và vùng lãnh thổ này đã vận dụng thành công đồng thời cả chiến lược phát
triển hướng nội: sản xuất thay thế nhập khẩu. Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan một
mặt thực hiện chiến lược phát triển xuất khẩu, mặt khác vẫn luôn coi trọng việc sản
xuất thay thế nhập khẩu ở mức độ cần thiết và vai trò quản lý của Nhà nước với sản
xuất thay thế nhập khẩu có phần chặt chẽ hơn. Nhưng với Hồng Công và Singapể, do
đặc điểm thị trường nội địa quá nhỏ bé, nên ngay từ đầu khi tiến hành công nghiệp
hoá, họ đã chủ trương tự do hoá thị trường và mở cửa hướng ngoại ở mức độ rất cao,
vì thế trong suốt cả quá trình công nghiệp hoá họ đã không nhấn mạnh quá đặc biệt về
vai trò chiến lược thay thế nhập khẩu. Việc tổ chức sản xuất để thay thế nhập khẩu ở
19
Hồng Công và Singapore có đặc điểm chủ yếu là dựa vào quan hệ cung cầu do thị
trường điều tiết. Nhà nước tuy có khuyến khích các nhà sản xuất trong nước sản xuất
hàng thay thế nhập khẩu khi thấy có lợi cho sự phát triển chung của nền kinh tế, song
họ tự chịu trách nhiệm do những rủi ro hay thua thiệt trong sản xuất - kinh doanh xảy
ra, nhà nước không có bất kỳ sự hỗ trợ nào.
Rõ ràng là, mặc dù chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu là chiến
lược then chốt, đã mang lại cho các nước sự tăng trưởng đột biến về kinh tế và là động
lực cơ bản để làm nên những điều thần kỳ, song họ vẫn luôn coi trọng việc phát triển
những ngành sản xuất thay thế nhập khẩu, vì họ thấy được rằng mỗi loại chiến lược có
vị trí, vai trò nhất định và chúng liên quan chặt chẽ với nhau, tạo nên sự hỗ trợ và động
lực thúc đẩy lẫn nhau trong một nền kinh tế ở một quốc gia nhất định. Và tất nhiên

mỗi chiến lược có thể áp dụng cho một hay một số khu vực và ở những thời điểm
khác nhau, chúng được thực hiện theo những phương thức khác nhau.
Trong số 5 nước và vùng lãnh thổ kể trên, Hàn Quốc là điển hình thành công
nhất trong việc áp dụng cả hai loại chiến lược hướng nội, hướng ngoại, trong đó Hàn
Quốc luôn ưu tiên phát triển mạnh hướng ngoại. Do vậy, trong các thập niên gần đây,
chỉ trong vòng 25 năm (từ 1961 đến 1985) Hàn Quốc đã vươn lên và "hoá rồng".
Trung Quốc cũng là nước áp dụng mô hình chiến lược phát triển hỗn hợp.
Nhưng Trung Quốc đạt được tốc độ tăng trưởng cao chỉ từ khi thực hiện chính sách
mở cửa từ cuối những năm 70 thế kỷ 20. Cả một thời gian dài hàng chục năm đến
năm 1995, GDP hàng năm có tốc độ tăng trưởng bình quân 11%, cao nhất thế giới [42,
tr. 96]. Cán cân thương mại quốc tế của Trung Quốc từ năm 1985 đến năm 2001 năm
nào cũng xuất siêu: năm 1995 xuất siêu: 8,746 tỷ USD, năm 1995: 19,684 tỷ USD,
năm 2001: 23,1 tỷ USD [50, tr. 591, tr. 617].
Sở dĩ ngoại thương Trung Quốc đạt được tốc độ tăng trưởng cao, là do Trung
Quốc đã nỗ lực cải cách nền ngoại thương theo hướng mở cửa, tích cực tham gia vào
sự phân công và hợp tác quốc tế.

×