Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Phân phối thu nhập ở Malaixia và một số kinh nghiệm đối với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (989.67 KB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ


NGUYỄN VĂN HÀ






PHÂN PHỐI THU NHẬP Ở MALAIXIA VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM
ĐỐI VỚI VIỆT NAM












LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ











HÀ NỘI - 2005

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ


NGUYỄN VĂN HÀ






PHÂN PHỐI THU NHẬP Ở MALAIXIA VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM
ĐỐI VỚI VIỆT NAM


Chuyên ngành: kinh tế chính trị XHCN
Mã số: 5.02.01









LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. ĐỖ ĐỨC ĐỊNH





HÀ NỘI - 2005



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU Trang 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÂN PHỐI THU NHẬP
6
1.1.
Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường
6
1.1.1.
Các khái niệm
6
1.1.2.
Các thƣớc đo bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
9
1.1.3.
Nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng phân phối thu nhập
15

1.2.
Vai trò của chính phủ đối với vấn đề phân phối thu nhập
18
1.2.1.
Lý do can thiệp của chính phủ vào quá trình phân phối thu nhập
18
1.2.2.
Những giải pháp, chính sách của chính phủ
20
1.2.3.
Chính phủ với việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trƣởng,
công bằng và hiệu quả
29
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÂN PHỐI THU NHẬP Ở MALAIXIA
TỪ THẬP KỶ 70 ĐẾN NAY
33
2.1.
Khái quát tình hình kinh tế xã hội và phân phối thu nhập ở
Malaixia
33
2.1.1.
Khái quát tình hình kinh tế xã hội
33
2.1.2.
Thực trạng phân phối thu nhập ở Malaixia
39
2.2.
Các chính sách tác động của chính phủ đối với vấn đề phân
phối thu nhập
50

2.2.1.
Các chiến lƣợc và chính sách phát triển dài hạn
50
2.2.2.
Các chính sách và giải pháp cụ thể đối với việc cải thiện phân
phối thu nhập
65
2.3.
Những thành công và hạn chế
74
2.3.1.
Những thành công chủ yếu
74
2.3.2.
Một vài điểm hạn chế
79
CHƢƠNG 3: VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CỦA MALAIXIA TRONG
VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ PHÂN PHỐI THU NHẬP Ở VIỆT NAM
83
3.1.
Tổng quan tình hình phát triển kinh tế và phân phối thu
nhập ở Việt Nam
83
3.1.1.
Phát triển kinh tế và xã hội kể từ khi thực hiện công cuộc đổi
mới
83
3.1.2.
Tình hình phân phối thu nhập và giảm đói nghèo
85

3.2.
Định hướng vận dụng kinh nghiệm của Malaixia trong việc
giải quyết vấn đề phân phối thu nhập ở Việt Nam
94
3.2.1.
Tạo lập những nền tảng ban đầu cho công bằng
94
3.2.2.
Lựa chọn mô hình tăng trƣởng
98
3.2.3.
Hạn chế sự bất tƣơng xứng giữa các khu vực nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ về năng suất, sản lƣợng, việc làm và thu nhập
101
3.2.4.
Phát triển cân đối giữa các vùng, miền
103
3.2.5.
Đầu tƣ phát triển lực lƣợng lao động lành nghề
105
3.2.6.
Nâng cao hiệu quả của các chính sách công cộng
107
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
109
111











BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BCIC Cộng đồng công thƣơng nghiệp Malaixia
CGC Công ty bảo lãnh tín dụng
FDI Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
FTZ Khu thƣơng mại tự do
GDP Tổng sản phẩm trong nƣớc
GGS Kế hoạch bảo lãnh tổng hợp
GNP Tổng thu nhập quốc dân
GSO Tổng cục thống kê
IADP Chƣơng trình phát triển nông nghiệp tổng hợp
ICA Luật phối hợp công nghiệp
IIA Luật khuyến khích đầu tƣ
MARA Hội đồng bảo hộ dân bản địa
MIDFC Công ty tài chính phát triển công nghiệp Malaixia
NEF Quĩ doanh nghiệp mới
NEP Chính sách kinh tế mới
NDP Chính sách phát triển quốc gia
NVP Chính sách tầm nhìn quốc gia
PIA Luật thúc đẩy đầu tƣ
PGS Kế hoạch bảo lãnh có nguyên tắc
RM Đồng Ringgit Malaixia

SLS Kế hoạch cho vay đặc biệt
SMI Các ngành qui mô vừa và nhỏ
WB Ngân hàng Thế giới

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài:
Phân phối thu nhập trong nền kinh tế đóng vai trò quan trọng đối với
sự phát triển của mỗi một quốc gia, nó góp phần quyết định vào việc giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Phân phối
thu nhập, xét theo tiến trình là phân phối kết quả của hoạt động sản xuất. Vì
vậy, giữa tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau. Tăng trưởng kinh tế là tiền đề và điều kiện quan trọng cho việc cải
thiện phân phối thu nhập. Tuy nhiên, phân phối thu nhập cũng tác động trở
lại đến quá trình tăng trưởng. Nếu phân phối thu nhập của một nước dẫn đến
sự khác biệt và bất bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng, miền,
giữa các tộc người, quá trình đó sẽ dẫn đến những mâu thuẫn và xung đột
chính trị xã hội, gây trở ngại đối với tăng trưởng kinh tế bền vững.
Trong suốt hơn ba thập kỷ qua, Malaixia là một trong những nước có
nền kinh tế phát triển năng động ở khu vực Đông Nam Á. Song song với quá
trình phát triển kinh tế, Malaixia đã thi hành chính sách đảm bảo kết hợp tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội và cải thiện phân phối thu nhập. Dưới tác
động của các chính sách kinh tế xã hội, quá trình tăng trưởng và phát triển ở
Malaixia trở nên hài hoà hơn, phân phối thu nhập trở nên bớt bất bình đẳng
hơn. Thành công quan trọng nhất trong việc cải thiện tình hình phân phối thu
nhập ở nước này là việc giảm bất bình đẳng và khác biệt giữa ba cộng đồng
tộc người: Mã Lai, Hoa, Ấn. Chính thành công này đã giúp Malaixia giải
quyết được tình trạng mâu thuẫn và xung đột, đưa đất nước bước vào một
thời kỳ phát triển mới. Trong khi đó, cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998
đã làm cho tình trạng đói nghèo và bất bình đẳng thu nhập trở thành một vấn

đề kinh tế xã hội nổi bật trong khu vực. Tuy nhiên, Malaixia đã thực thi các
chính sách nhằm giảm thiểu sự tác động của khủng hoảng đối với người

2
nghèo và tầng lớp thu nhập thấp. Xuất phát từ thực tế đó, Malaixia sẽ là một
trường hợp điển hình khi nghiên cứu về phân phối thu nhập ở các nước Đông
Nam Á.
Ở nước ta, kể từ khi Đảng và nhà nước thực hiện công cuộc đổi mới,
chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, sau một thời kỳ đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vấn đề
bất bình đẳng thu nhập và đói nghèo đã xuất hiện và ngày càng rõ nét, ảnh
hưởng đến quá trình phát triển bền vững.
Vì những lý do trên, đề tài nghiên cứu phân phối thu nhập ở Malaixia
có thể sẽ là nguồn cung cấp tài liệu có ích và rút ra những bài học kinh
nghiệm cần thiết trong quá trình hội nhập và phát triển ở nước ta giai đoạn
hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Cho đến nay, đề tài nghiên cứu phân phối thu nhập đã được một số tác
giả trong và ngoài nước nghiên cứu. Tuy nhiên, nghiên cứu về phân phối thu
nhập mang tính chất hệ thống ở Malaixia thì mới chỉ có một số tác giả là
người Malaixia viết. Việc nghiên cứu phân phối thu nhập ở nước này được
các nhà nghiên cứu quan tâm từ những năm cuối thập kỷ 60, đầu thập kỷ 70.
Năm 1975, D.R. Snodgras có công trình "Xu hướng và mô hình phân phối
thu nhập ở Malaixia thời kỳ 1957-1970" xuất bản trong cuốn sách "Xem xét
quá trình phát triển kinh tế Malaixia" do David Lim chủ biên. Sau đó, Pang
Eng Pong có bài viết về phát triển kinh tế và phân phối thu nhập ở Malaixia
giai đoạn 1957-1980, trong đó tác giả đặc biệt quan tâm vấn đề phân phối thu
nhập giữa ba cộng đồng tộc người ở nước này. Năm1990, H. Osman-Rani có
công trình nghiên cứu "Phát triển kinh tế và liên kết tộc người: kinh nghiệm

của Malaixia" đăng trên tạp chí SOJOURN, Volum 5, No1, chủ yếu bàn về

3
những khía cạnh phân phối thu nhập trong thời kỳ thực hiện chính sách kinh
tế mới. Vào những năm cuối thập kỷ 90, Tan Eu Chye và Jomo K.S có bài
viết "Tự do hoá, hoạt động kinh tế và phân phối thu nhập ở Malaixia", trình
bày tác động của quá trình tự do hoá đến phân phối thu nhập ở nước này. Sau
khủng hoảng tài chính Châu Á 1997-1998, trong dự án nghiên cứu mạng
Đông Á, tại các nước ASEAN và khu vực Đông Á, có khá nhiều tác giả
nghiên cứu về phân phối thu nhập. Đây là một dự án nghiên cứu phối hợp tập
trung vào vấn đề bất bình đẳng thu nhập, tìm giải pháp và hướng tương lai
cho tăng trưởng bền vững và xoá đói giảm nghèo tại các nước này. Năm 2003
tác giả Rogayah Haji Mat Zin có công trình "Lý giải xu hướng phân phối thu
nhập ở Malaixia", trình bày xu hướng và nguyên nhân biến đổi của phân phối
thu nhập ở nước này thời gian qua. Bên cạnh đó, tại nước ta đã có một số
công trình của các tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu về những vấn đề
liên quan đến phân phối thu nhập. Năm 1991, tác giả Abdular Mohd Tahir có
công trình: "Phát triển trong sự công bằng, Kinh nghiệm ở Malaixia", trình
bày tại hội nghị quốc tế "Tác động tương hỗ vì sự phát triển: đường lối mới
của Việt Nam và kinh nghiệm của ASEAN" tại Hà Nội. Tác giả đã đi sâu
phân tích quá trình tăng trưởng kinh tế gắn liền với những chính sách nhằm
thu hẹp chênh lệch phát triển giữa các tầng lớp dân cư, giữa ba cộng đồng tộc
người ở Malaixia là Mã Lai, Hoa, Ấn. Ngoài ra, năm 1998 còn có các công
trình như: "Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước Châu Á"
do tập thể tác giả Viện kinh tế và chính trị Thế giới do Phó giáo sư, Tiến sĩ
Lê Bộ Lĩnh chủ biên và "Phân hoá giàu nghèo ở một số quốc gia Châu Á-
Thái Bình Dương" do giáo sư Dương Phú Hiệp chủ biên…
Tình hình trên đây cho thấy, việc nghiên cứu hệ thống đề tài này ở
nước ta là chưa có, trong khi chúng ta cần tìm hiểu kinh nghiệm của nước
bạn, vì thế việc nghiên cứu là cần thiết.


4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
- Trình bày thực trạng và xu hướng biến đổi trong phân phối thu nhập ở
Malaixia từ thập kỷ 70 đến nay. Xem xét nguyên nhân biến đổi và tác động
của các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế xã hội ở Malaixia đối với
quá trình phân phối thu nhập.
- Nghiên cứu và đánh giá những đặc điểm có tính chất đặc thù trong
mô hình phân phối thu nhập ở nước này trong quan hệ so sánh với một số
nước ASEAN khác.
- Rút ra một số bài học kinh nghiệm từ thực tiễn nghiên cứu quá trình
cải thiện phân phối thu nhập và giảm đói nghèo ở Malaixia và đề xuất các
giải pháp nhằm góp phần vào sự nghiệp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã
hội và cải thiện phân phối thu nhập của nước ta.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn sẽ tập trung vào việc đánh giá thực trạng phân phối thu nhập
ở Malaixia. Nghiên cứu và phân tích tác động của các chính sách của chính
phủ đối với phân phối thu nhập bao gồm: chính sách công nghiệp hoá và điều
chỉnh cơ cấu kinh tế; Chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn; Chính
sách phát triển nguồn nhân lực nhằm tăng các cơ hội về việc làm và thu nhập;
Chính sách cơ cấu lại sở hữu vốn cổ phần và tích luỹ tài sản giữa ba cộng
đồng tộc người; Các chính sách phân phối lại thông qua việc cung cấp các
hàng hoá và dịch vụ công cộng; Các chương trình giảm nghèo và hỗ trợ cho
các nhóm dân cư có thu nhập thấp…
Về thời gian, việc nghiên cứu sẽ tập trung vào thời kỳ từ thập kỷ 70
của thế kỷ trước đến nay, liên quan đến hai chính sách phát triển dài hạn của

5

Malaixia là chính sách kinh tế mới (NEP) 1971-1990 và chính sách phát triển
quốc gia (NDP) thời kỳ 1991-2000.


5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biên chứng và duy vật lịch sử
để nghiên cứu đề tài. Do tính chất của đề tài, luận văn sẽ chú trọng đến
phương pháp kết hợp phân tích với tổng hợp và thống kê so sánh, phương
pháp phân tích thực chứng và chuẩn tắc…
6. Những đóng góp khoa học của luận văn:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về phân phối thu nhập, về mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phân phối thu nhập và công bằng xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phân phối thu nhập ở Malaixia. Nghiên
cứu, phân tích những chính sách tác động của chính phủ đối với quá trình
phân phối thu nhập và nêu lên những yếu tố đặc thù trong các chính sách đó.
Đây là lĩnh vực nghiên cứu mới, do đó nó cũng là đóng góp mới của luận
văn.
- Chỉ ra những đặc điểm riêng biệt và rút ra những bài học kinh nghiệm
từ việc nghiên cứu mô hình phân phối thu nhập ở Malaixia nhằm góp phần
vào sự nghiệp tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam

7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn được chia làm ba chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung về phân phối thu nhập.
- Chương 2: Thực trạng phân phối thu nhập ở Malaixia từ thập kỷ 70
đến nay.

6
- Chương 3: Vận dụng kinh nghiệm của Malaixia trong việc giải quyết

vấn đề phân phối thu nhập ở Việt Nam.




CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÂN PHỐI THU NHẬP
1.1. Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trƣờng.
1.1.1. Các khái niệm.
Phân phối thu nhập là quá trình phân chia những thành quả của tăng
trưởng kinh tế đến các tầng lớp dân cư trong xã hội. Phân phối thu nhập được
phân biệt bằng hai cách: phân phối thu nhập theo qui mô hay mức độ (theo
nhóm thu nhập) và phân phối thu nhập theo chức năng.
Phân phối thu nhập theo chức năng hay "phân phối theo tỷ phần nhân
tố" nhằm giải thích tỷ phần trong tổng thu nhập quốc dân mà mỗi nhân tố sản
xuất nhận được. Thay vì việc xem xét các cá nhân như những thực thể riêng
rẽ, lý thuyết đo lường bằng phương pháp chức năng giải thích giá cả mà thu
nhập quốc dân trả cho các chủ sở hữu các nhân tố sản xuất: tiền cho thuê đối
với việc sử dụng đất đai, tiền công cho lao động, lợi tức trả cho người sở hữu
vốn và lợi nhuận trả cho các xí nghiệp. Mặc dù các cá nhân có thể có được
thu nhập từ các nguồn này nhưng điều đó không thuộc diện quan tâm của
phương pháp chức năng. Do vậy, các đường cung và đường cầu được giả
định sẽ quyết định giá cả của mỗi nhân tố sản xuất. Khi đơn giá này được
nhân lên với khối lượng sử dụng (giả định là sử dụng nhân tố có hiệu quả),
người ta có thể đo được tổng các khoản thanh toán cho mỗi nhân tố. Phương

7
pháp chức năng đặc biệt nghiên cứu những ảnh hưởng mà nó quyết định giá
cả các nhân tố trong những điều kiện thị trường khác nhau.
Phân phối thu nhập theo qui mô hay theo nhóm thu nhập được đo

lường bằng thu nhập của các cá nhân hay hộ gia đình nhận được trong tổng
thu nhập. Việc thu nhập đó có được bằng cách nào thì không được xem xét.
Vấn đề được đặt ra ở đây là mỗi cá nhân hay hộ gia đình nhận được bao
nhiêu bất chấp thu nhập đó thuần tuý do lao động mà ra hay từ các nguồn
khác như lợi tức, lợi nhuận, tiền cho thuê, quà tặng, thừa kế…Phân phối thu
nhập theo qui mô cũng không tính đến nguồn gốc địa điểm (thành thị, nông
thôn) hay ngành nghề (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…). Các nhà kinh
tế và thống kê thường sắp xếp các cá nhân theo mức độ thu nhập tăng và chia
tổng dân số thành các nhóm khác nhau. Thông thường dân số một nước được
chia thành 5 nhóm hoặc 10 nhóm kế tiếp nhau theo mức độ thu nhập tăng dần
và xác định xem mỗi nhóm thu nhập sẽ nhận một tỷ lệ như thế nào trong tổng
thu nhập quốc dân.
Giữa phân phối thu nhập theo chức năng và phân phối thu nhập theo
qui mô đều có những điểm giống và khác nhau. Xét theo tiến trình, cả hai
phương pháp phân phối thu nhập này đều là sự phân phối kết quả của hoạt
động sản xuất, do đó phân phối thu nhập do tăng trưởng kinh tế quyết định.
Điểm khác nhau căn bản của hai phương pháp ở chỗ, trong khi phương pháp
chức năng chú trọng đến phân phối dựa trên sự đóng góp của các nhân tố sản
xuất thì phương pháp qui mô lại chú ý đến tỷ lệ thu nhập của các nhóm dân
cư trong tổng thu nhập. Về định lượng, trong các thống kê và chỉ số kinh tế,
người ta không cho biết các nhân tố lao động, đất đai, vốn, doanh nghiệp
nhận được bao nhiêu trong tổng thu nhập. Duy chỉ có một số ít thống kê xác
định được tỷ lệ đóng góp của các nhân tố vốn, lao động và năng suất lao động
đối với tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước. Việc nhận biết tỷ phần các
nhân tố trong tổng thu nhập của phương pháp chức năng có thể được xem xét

8
thông qua mô hình kinh tế lượng hoặc được đánh giá thông qua phương pháp
định tính. Ví dụ, việc đánh giá có thể được thực hiện thông qua mô hình tăng
trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế và các chính sách phát triển khác. Trong nền

kinh tế thị trường, phân phối thu nhập theo chức năng làm cho thu nhập trở
nên hoàn toàn rõ ràng và phù hợp với những đóng góp của các nhân tố vào
quá trình sản xuất. Tuy nhiên, lý thuyết phân phối thu nhập theo chức năng
đã không tính đến vai trò quan trọng và ảnh hưởng của các yếu tố "phi thị
trường" như vấn đề "quyền lực" trong việc xác định giá cả của các nhân tố.
Ví dụ như quyền lực của các nhà tư bản và chủ đất chi phối giá cả của vốn,
đất đai và sản lượng sao cho có lợi cho họ hay vai trò của thương lượng tập
thể giữa giới chủ và công đoàn trong việc xác định mức lương của công
nhân…
Khác với phương pháp chức năng, kết quả của phân phối thu nhập khi
đo lường bằng phương pháp qui mô lại có những thống kê và định lượng rõ
ràng thông qua những cuộc điều tra xã hội học và tính toán của các cơ quan
thống kê các nước. Vì vậy, kết quả đo lường của phân phối thu nhập theo qui
mô thường dược sử dụng nhiều hơn để chỉ ra tính chất, đặc điểm của phân
phối thu nhập: bình đẳng hay bất bình đẳng, công bằng hay bất công. Thông
qua sự biến động của các chỉ số, có thể đánh giá được vai trò và hiệu quả của
các chính sách tác động của nhà nước đối với phân phối thu nhập.
Quan niệm về công bằng:
Liên quan đến vấn đề nêu trên, chúng ta cần đi sâu tìm hiểu khái niệm
công bằng, bình đẳng và các quan niệm khác nhau về vấn đề này.
Công bằng xã hội trong phân phối thu nhập là một khái niệm mang
tính chuẩn tắc nghĩa là tuỳ thuộc vào quan điểm của mỗi người. Chính những
quan niệm khác nhau về bình đẳng cũng dẫn đến những quan niệm khác nhau
về công bằng. Trong kinh tế học, có hai cách hiểu khác nhau về công bằng,
đó là công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc.

9
Công bằng theo chiều ngang là đối xử như nhau đối với những người
có tình trạng kinh tế như nhau. Theo đó, nhà nước sẽ đối xử như nhau đối với
những người có mức độ đóng góp như nhau trong quá trình tham gia vào hoạt

động sản xuất (công bằng theo chức năng). Mặt khác, chính sách của chính
phủ cũng không phân biệt đối xử đối với những người có tình trạng kinh tế
như nhau xét theo một tiêu thức cụ thể nào đó như thu nhập, hoàn cảnh gia
đình, tôn giáo, dân tộc…
Công bằng theo chiều dọc là đối xử khác nhau đối với những người có
những khác biệt bẩm sinh hoặc có tình trạng kinh tế ban đầu, điều kiện xã hội
khác nhau nhằm khắc phục những khác biệt sẵn có. Như vậy, công bằng theo
chiều ngang hoàn toàn được thực hiện bởi cơ chế thị trường, nghĩa là công
bằng được dựa trên phương thức phân phối thu nhập theo chức năng. Trong
khi đó, công bằng theo chiều dọc đòi hỏi phải có sự điều tiết của nhà nước
thông qua chính sách phân phối lại. Chính phủ thực hiện các chính sách công
bằng theo chiều dọc nhằm giảm sự chênh lệch và khác biệt về thu nhập cũng
như phúc lợi giữa các cá nhân trong xã hội. Điều này được thể hiện rõ nhất
trong các chính sách thuế thu nhập, thuế tài sản luỹ tiến và trợ cấp cho những
người yếu thế trong xã hội như người già cô đơn không nơi nương tựa, người
tàn tật…hoặc thông qua các chính sách phúc lợi công cộng.
Về mặt nhận thức, việc phân biệt công bằng theo chiều dọc và theo
chiều ngang là rất rõ ràng. Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc áp dụng tiêu
chuẩn này gặp phải không ít khó khăn. Ví dụ, việc xác định thế nào là tình
trạng kinh tế như nhau giữa các cá nhân và hộ gia đình là việc rất khó do sự
khác biệt về qui mô hộ gia đình, điều kiện địa lý sinh sống… Hơn nữa, công
bằng xã hội là một khái niệm rất rộng và rất hoàn chỉnh bao gồm cả các yếu
tố kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá. Điều này khiến cho việc nghiên cứu
công bằng xã hội trở thành một lĩnh vực gây nhiều tranh cãi. Mặc dù vậy,
điều này không có nghĩa là chúng ta không thể đưa ra một khái niệm công
bằng xã hội trong phân phối thu nhập. Công bằng ở đây không có nghĩa mọi

10
thành quả của quá trình phát triển kinh tế xã hội được chia đều cho mọi
người. Điều này sẽ không khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn, phát triển sản

xuất, làm triệt tiêu động lực phát triển của xã hội. Công bằng ở đây phải được
hiểu là việc tạo điều kiện cho mọi người, mọi nhóm dân cư trong xã hội được
tiếp cận bình đẳng với các cơ hội giáo dục, cơ hội việc làm, cơ hội tham gia
đầu tư kinh doanh.
Cho đến nay, để biểu đạt mức độ công bằng hay bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập, người ta vẫn thường sử dụng các cách đo lường rất khác
nhau.
1.1.2. Các thƣớc đo mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập.
Để xác định xem liệu phân phối thu nhập của một nước có công bằng
hay không, các nhà kinh tế thường sử dụng các phương pháp đo lường bất
bình đẳng. Việc đo lường và tính toán dựa trên thu nhập hay chi tiêu bình
quân của các cá nhân hay hộ gia đình (thông thường trong khoảng thời gian
một năm) và việc phân phối mức thu nhập và chi tiêu đó. Về cơ bản có nhiều
loại thước đo bất bình đẳng khác nhau, dưới đây là một số thước đo chủ yếu.

1.1.2.1. Đường cong Lorenz:
Một trong những công cụ biểu đạt mức độ bất bình đẳng thu nhập được
sử dụng rộng rãi trong kinh tế học là đường cong Lorenz, mang tên nhà bác
học nêu lên học thuyết này (Coral Lorenz).
Đường cong Lorenz được biểu thị trong một hình vuông mà cạnh bên
biểu thị tỷ lệ phần trăm giá trị cộng dồn của thu nhập và cạnh đáy biểu thị
phần trăm dân số cộng dồn của các nhóm dân cư được sắp xếp theo thứ tự
mức thu nhập tăng dần. Việc xây dựng đường Lorenz được tiến hành qua các
bước như sau:
Bước 1: sắp xếp thu nhập dân cư theo thứ tự tăng dần.

11
Bước 2: chia dân số thành các nhóm có số dân bằng nhau. Thông
thường, người ta hay chia dân cư thành 5 nhóm: 20% dân số có thu nhập thấp

nhất, 20% thu nhập thấp, 20% trung lưu, 20% thu nhập khá và 20% thu nhập
cao nhất. Các nhóm thu nhập cũng có thể được phân thành 10 hay 100 nhóm
tuỳ theo thông tin phân tích mà chúng ta có được. Dân số càng được chia nhỏ
thì việc đo lường bất bình đẳng càng chính xác.
Bước 3: sắp xếp các nhóm dân cư dọc theo cạnh đáy và phần trăm thu
nhập tương ứng của các nhóm vào cạnh bên của hình vuông Lorenz theo
phương thức cộng dồn.
Như vậy, đường Lorenz phản ánh tỷ lệ phần trăm của tổng thu nhập
quốc dân cộng dồn được phân phối tương ứng với tỷ lệ phần trăm cộng dồn
của các nhóm dân cư. Đường Lorenz được bắt đầu từ gốc O của hình vuông
và kết thúc ở điểm A, đối diện của hình. Điều này cho biết 0% dân số nhận
được tương ứng 0% thu nhập và 100% dân số nhận được 100% thu nhập.
Đường chéo của hình vuông OA biểu thị mức độ bình đẳng tuyệt đối trong
phân phối thu nhập: có bao nhiêu phần trăm dân số nhận được từng ấy phần
trăm trong tổng thu nhập. Trong trường hợp chỉ có một người nhận được toàn
bộ thu nhập và những người khác không nhận một chút thu nhập nào thì
đường Lorenz chạy theo cạnh đáy và cạnh bên phải của hình vuông. Đây là
trường hợp bất bình đẳng hoàn toàn. Thông thường, đường Lorenz thường
chạy giữa đường chéo (bình đẳng tuyệt đối) và đường hoàn toàn bất bình
đẳng. Đường cong Lorenz càng nằm gần đướng chéo thì mức độ phân phối
thu nhập càng công bằng và càng nằm xa đường chéo thì mức độ bất bình
đẳng thu nhập càng cao (xem hình).





Đường bình đẳng
A


B
A
40
60
80
100
Phần
trăm
thu
nhập
cộng
dồn

12






C



Đường cong Lorenz cho phép hình dung được mức độ bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập thông qua việc quan sát hình dạng của đường cong.
Tuy nhiên, sử dụng phương pháp này chưa lượng hoá được mức độ bất bình
đẳng, do đó khó có thể so sánh một cách chính xác giữa các nước với nhau và
giữa các thời kỳ phát triển của một nước. Chính vì vậy, các nhà kinh tế đã sử
dụng một số thước đo khác để biểu đạt vấn đề phân phối thu nhập.


1.1.2.2. Hệ số Gini:
Hệ số Gini, mang tên nhà thống kê học người Italia (Coefficient Gini)
là thước đo được sử dụng rộng rãi nhất khi đo lường mức độ bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập. Hệ số này được xác định nhờ vào đường cong
Lorenz vừa nêu trên bằng cách lấy diện tích hình A (diện tích giới hạn bởi
đường chéo OA và đường cong Lorenz) chia cho diện tích nửa hình vuông có
chứa đường Lorenz đó (A+B). Về công thức, hệ số Gini (ký hiệu là G) được
tính như sau:

BA
A
G

13
(trong đó B là phần diện tích nằm dưới đường cong Lorenz)
Từ công thức trên, có thể thấy, nếu khoảng cách giữa đường cong
Lorenz và đường chéo càng lớn thì hệ số Gini càng cao và ngược lại. Vì
đường cong Lorenz chỉ nằm giữa đường chéo và đường OCA nên hệ số Gini
luôn nằm trong khoảng từ 0 đến 1. Nếu đường cong Lorenz trùng với đường
chéo OA, diện tích phần A bằng 0, hệ số Gini vì vậy bằng 0 (ta có trường hợp
bình đẳng tuyệt đối). Ngược lại, nếu đường cong Lorenz nằm xa đường chéo
nhất thì diện tích phần B sẽ bằng 0, hệ số Gini bằng 1 (ta có trường hợp bất
bình đẳng tuyệt đối). Trên thực tế, cả hai trường hợp này đều không xảy ra.
Nhìn chung, hệ số Gini càng cao thì bất bình đẳng thu nhập càng lớn. Theo
đánh giá chung của Liên hợp quốc, khi hệ số Gini của một nước ở mức từ 0,5
đến 0,75, phân phối thu nhập của nước đó là bất bình đẳng, trường hợp chỉ số
này từ 0,2 đến 0,5, phân phối thu nhập tuơng đối công bằng. Hệ số Gini khắc
phục được những hạn chế khi đánh giá bằng đường cong Lorenz do đã lượng
hoá được mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Tuy nhiên, việc sử

dụng phương pháp này cũng có điểm hạn chế, bởi diện tích hình A có thể như
nhau (hệ số Gini bằng nhau), nhưng độ phân bổ các nhóm dân cư có mức thu
nhập khác nhau là không giống nhau, do đó hình dạng đường cong Lorenz là
khác nhau. Nhận định này hoàn toàn đúng khi các đường cong Lorenz giao
nhau, làm cho hệ số Gini trở thành một thước đo không nhất quán. Để khắc
phục tình trạng trên, các nhà kinh tế và thống kê đã đưa ra một số thước đo
khác.

1.1.2.3. Chỉ số Theil L:
Một loại thước đo khác để đo lường bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập, đó là chỉ số Theil L, do Henri Theil đưa ra. Đây là đại lượng xác định

14
sự bất bình đẳng dựa trên lý thuyết thông tin/xác suất. Chỉ số Theil L được
xác định theo công thức sau:

Trong đó yi là thu nhập (hay chi tiêu) của cá nhân thứ i trong nhóm, N
là số lượng người có trong nhóm và Y là tổng thu nhập (hay chi tiêu) của cả
nhóm.
Chỉ số Theil L biến thiên từ 0 (bình đẳng tuyệt đối) đến vô cùng (bất
bình đẳng tuyệt đối). Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ số này ít khi lớn hơn 1.
Cũng như hệ số Gini, chỉ số Theil L càng lớn thì bất bình đẳng trong phân
phối thu nhập càng cao. Việc sử dụng loại thước đo này cho phép chúng ta
hiểu chi tiết hơn bất bình đẳng thu nhập mà các thước đo khác không có: (i)
Làm tăng trọng số của những người có thu nhập thấp. (ii) Khác với hệ số
Gini, sử dụng chỉ số Theil L cho phép phân tích bất bình đẳng chung thành
bất bình đẳng trong từng nhóm nhỏ. Nói một cách chính xác, thì chỉ số Theil
L quốc gia là bình quân gia quyền của các chỉ số của các phân nhóm với
quyền số là tỷ trọng số người có trong mỗi phân nhóm trong tổng dân số.
Điều này làm cho chỉ số Theil L rất hữu ích vì nó cho phép phân tích và đánh

giá các yếu tố dẫn đến những thay đổi trong bất bình đẳng ở cấp quốc gia. Ví
dụ, chỉ số Theil L cho biết mức độ đóng góp bất bình đẳng giữa nông thôn và
thành thị, bất bình đẳng bên trong nông thôn và thành thị vào bất bình đẳng
quốc gia.

1.1.2.4. Một số cách đánh giá khác:
Tỷ lệ khác biệt giữa các nhóm thu nhập hay còn gọi là tỷ số Kuznets.
Chỉ số này do nhà kinh tế học Simon Kuznets đưa ra vào những năm 50 của
Nyi
Y
LogL
n
i
.
1

15
thế kỷ trước khi ông nghiên cứu những vấn đề về tăng trưởng và bất bình
đẳng trong phân phối thu nhập ở các nước phát triển và đang phát triển. Chỉ
số này được đo lường bằng tỷ số giữa tỷ trọng thu nhập (hay chi tiêu) của x%
dân số có thu nhập cao nhất cho y% dân số có thu nhập thấp nhất. Trong đó x
và y có thể nhận các giá trị như 10, 20 và 40 tuỳ thuộc vào cách phân chia
tổng dân số thành 5, 10 hay 20 nhóm. Những chỉ số này thực chất là những
"mẩu" nằm trên đường Lorenz. Một cách đo phổ biến nhất về sự bất bình
đẳng trong phân phối thu nhập là tỷ số giữa tỷ trọng thu nhập của 20% dân số
có thu nhập cao nhất so với 40% dân số có thu nhập thấp nhất. Ở các nước
ASEAN, các nhà thống kê và nghiên cứu thường đo lường bằng tỷ số giữa tỷ
trọng thu nhập của 20% dân số thượng lưu so với 20% dân số có thu nhập
thấp nhất. Điều này được thể hiện rõ trong những tài liệu gần đây tại các
nước khi nghiên cứu về bất bình đẳng và những vấn đề an sinh xã hội sau

khủng hoảng tài chính. Rõ ràng đây là những thước đo khá thô. Nó không
quan tâm đến những người nằm giữa các phân vị giàu nhất và nghèo nhất
được xét đến trong các chỉ số này. Ví dụ, một sự chuyển giao thu nhập từ
nhóm trung lưu sang nhóm giàu thứ nhì sẽ không làm thay đổi tỉ số giữa thu
nhập của 10% dân số có thu nhập cao nhất với 40% dân số thu nhập thấp
nhất. Mặc dù vậy, sử dụng chỉ số này nhiều khi cũng rất hữu ích khi chúng ta
thiếu những thông tin về phân phối thu nhập.
Tỉ trọng thu nhập hay chi tiêu của x% dân số có thu nhập thấp nhất.
Một nhược điểm của cả hệ số Gini lẫn chỉ số Theil L là chúng biến thiên khi
quá trình phân phối thay đổi, bất kể sự thay đổi đó diễn ra ở nhóm thu nhập
cao nhất, nhóm thu nhập trung lưu hay nhóm thu nhập thấp nhất. Bởi lẽ bất
kể một sự chuyển giao thu nhập nào giữa hai cá nhân, cho dù nó diễn ra trong
nội bộ nhóm giàu, nhóm nghèo hay giữa người giàu và người nghèo, đều làm
ảnh hưởng đến chỉ số này. Do vậy, việc đo lường trực tiếp bằng tỉ trọng thu

16
nhập của 10, 20 hay 40% dân số nghèo nhất sẽ cho biết chính xác tình trạng
thu nhập của tầng lớp đáy của xã hội. Hiện nay, theo tiêu chuẩn của Ngân
hàng Thế giới (WB), nếu tỉ trọng thu nhập (chi tiêu) của 40% dân số có thu
nhập thấp nhất trong tổng thu nhập của dân cư dưới 15% thì được coi là hết
sức bất bình đẳng, từ 15 đến 17% là tương đối bất bình đẳng và trên 17% là
con số chấp nhận được.

1.1.3. Nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập.
Để có thể đưa ra các chính sách và giải pháp nhằm làm giảm bất bình
đẳng trong phân phối thu nhập, ở phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu những
nguyên nhân và những điều kiện nào đưa đến sự bất bình đẳng đó.
Có thể nói, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập vừa là vấn đề do
lịch sử để lại, vừa là vấn đề của sự phát triển mà bất kể một quốc gia nào khi

theo đuổi nền kinh tế thị trường cũng phải đương đầu với thách thức đó. Vấn
đề đặt ra ở đây là tại sao lại có sự phân cực giữa các tầng lớp thu nhập?
Nguồn gốc của sự bất công, do đó của sự phân chia xã hội thành người giàu,
kẻ nghèo xuất phát từ đâu? Từ những lập luận nêu trên có thể thấy, nguyên
nhân của sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập có sự khác nhau giữa các
nước do đặc điểm lịch sử, kinh tế, văn hoá, xã hội. Đồng thời, ở trong mỗi
nước, những nguyên nhân liên quan đến các giải pháp và chính sách của
chính phủ cũng rất đa dạng, chúng thường đan xen vào nhau và trên thực tế
khó có thể phân định được một cách rõ ràng và chính xác. Tuy nhiên, xét
theo khía cạnh thu nhập, những nguyên nhân gây ra bất bình đẳng có thể
được qui về hai nhóm chính: bất bình đẳng thu nhập từ tài sản và từ lao động.

1.1.3.1. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ tài sản.

17
Trong nền kinh tế thị trường, một bộ phận thu nhập của các cá nhân
được phân phối dựa trên việc sở hữu các nguồn lực. Điều này có nghĩa thu
nhập của các cá nhân dưới dạng tiền cho thuê, tiền lãi, lợi nhuận có được từ
việc sở hữu đất đai, vốn tài chính và vốn vật chất. Tuỳ theo các yếu tố sản
xuất mà mỗi người có được và thông qua việc định giá các yếu tố sản xuất đó
trên thị trường cạnh tranh mà chúng có ảnh hưởng đến mức thu nhập của mỗi
cá nhân. Phương thức phân phối thu nhập như đề cập ở phần trên được gọi là
phân phối thu nhập theo chức năng, dựa trên sự sở hữu các nguồn lực hay
phân phối thu nhập từ tài sản. Như vậy, xét theo khía cạnh này, tài sản của
mỗi cá nhân trong xã hội có được là do sự hình thành từ các nguồn rất khác
nhau do đó quyền sở hữu tài sản cũng khác nhau, đem lại thu nhập hoàn toàn
khác nhau.
Sự khác nhau do việc được thừa kế tài sản. Về mặt này, chúng ta có thể
thấy rất rõ, nhiều người khi sinh ra đã trở thành người giàu có khi họ được
thừa kế một cơ nghiệp lớn. Sự bất công về thu nhập do của cải thừa kế mang

lại là một trong những nguyên nhân làm cho người giàu lại càng giàu thêm.
Đây là vấn đề hoàn toàn do lịch sử để lại.
Do hành vi tiêu dùng và tiết kiệm khác nhau của các cá nhân, điều này
ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tích luỹ của cải. Có những người muốn gia
tăng phần tiết kiệm để tích luỹ của cải khi về hưu hay để lại cho con cháu sau
này nhưng lại có những người sẵn sàng tiêu dùng hết phần thu nhập của
mình. Hành vi tiêu dùng và tiết kiệm diễn ra rất khác nhau giữa các nước,
giữa các vùng và các cộng đồng tộc người khác nhau của một nước do
những đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội qui định. Và như một mối quan hệ
nhân quả, nó tác động đến các quyết định đầu tư và khả năng tích luỹ tài sản
cho các thế hệ tương lai.

18
Do kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy là có
rất nhiều người đã trở nên giàu có nhờ tài năng, sự quyết đoán và cả yếu tố
may mắn. Đây là nhân tố chủ yếu làm tăng thu nhập và tài sản của các cá
nhân khác nhau trong xã hội và là nguyên nhân chính làm gia tăng sự cách
biệt về thu nhập giữa các tầng lớp. Sự khác nhau này xuất phát từ phẩm chất,
năng lực, ý chí của mỗi người.

1.1.3.2. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ lao động.
Lao động là điều kiện cơ bản để tạo ra thu nhập. Tuy nhiên, trong xã
hội, mỗi người lao động lại có kỹ năng, điều kiện lao động và nghề nghiệp
khác nhau dẫn đến mức thu nhập của họ là khác nhau.
Trước hết, chúng ta bắt đầu bằng việc phân tích khả năng và kỹ năng
lao động khác nhau dẫn đến mức thu nhập khác nhau giữa các cá nhân trong
xã hội. Thông thường, những người có sức khoẻ, có trí tuệ, trình độ học vấn
có khả năng nhận được mức thu nhập cao hơn. Trong khi đó, những người
nghèo lại không có những điều kiện thuận lợi như trên nên thường phải làm
các công việc nặng nhọc, thu nhập thấp. Trình độ học vấn thấp của nhóm

người nghèo còn ảnh hưởng đến các quyết định về đầu tư, kinh doanh, đến
giáo dục, nuôi dưỡng con cái. Điều này có thể ảnh hưởng cả đến những thế
hệ tiếp theo trong gia đình họ và mở rộng ra là cả vùng, khu vực mà những
người nghèo thường sinh sống.
Do sự khác nhau về nghề nghiệp và tính chất công việc. Đây là một
nhân tố quan trọng quyết định sự khác biệt về tiền lương, tiền công của các
nhóm người khác nhau trong xã hội. Trong thực tế, những người có kỹ năng
lao động và nghề nghiệp chuyên môn cao thường nhận được mức lương cao
hơn số lao động phổ thông, tay nghề thấp. Mặt khác, lại có những lao động
được làm việc trong các khu vực kinh tế có mức tăng trưởng khác nhau cũng

19
dẫn đến mức thu nhập khác nhau. Về mặt này, chúng ta có thể thấy sự khác
nhau về thu nhập giữa lao động trong các khu vực và giữa các loại lao động
trong từng khu vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ…
Bên cạnh đó, còn có nhiều nguyên nhân khác cũng ảnh hưởng đến sự
khác biệt về thu nhập từ lao động như cường độ lao động, sự phân biệt đối xử
trong xã hội, sự không hoàn hảo của thị trường lao động, thiên tai và những
rủi ro khác.
Ngoài những nguyên nhân bất bình đẳng thu nhập như nêu trên, chúng
ta không thể không bàn đến vai trò của chính phủ đối với vấn đề phân phối
thu nhập và thực hiện công bằng xã hội. Bởi lẽ chính phủ có thể tác động
bằng các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế xã hội và các giải pháp
chính sách khác nhằm hạn chế, tiến tới giảm bớt sự khác biệt về thu nhập từ
tài sản và từ lao động giữa các khu vực, các nhóm dân cư khác nhau.

1.2. Vai trò của chính phủ đối với vấn đề phân phối thu nhập.
1.2.1. Lý do can thiệp của chính phủ đối với vấn đề phân phối thu
nhập.
Có thể thấy, sự can thiệp của chính phủ đối với vấn đề phân phối thu

nhập nhằm đảm bảo công bằng xã hội vì những lý do chính như sau:
Thứ nhất: trong nền kinh tế thị trường khi chưa có chính phủ, phân
phối thu nhập thường được dựa trên phương pháp chức năng, tức là dựa trên
quyền sở hữu và đóng góp của các nhân tố vào quá trình sản xuất. Trong điều
kiện đó, thị trường có thể tác động đến việc phân bổ nguồn lực để nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn lực xã hội nhưng nó lại không tác động được gì
để xã hội có công bằng hơn. Điều này được thể hiện rất rõ qua những hạn chế
của tiêu chuẩn hiệu quả Pareto và định lý cơ bản của kinh tế học phúc lợi.
Hiệu quả Pareto chỉ quan tâm đến lợi ích tuyệt đối của từng cá nhân chứ

20
không quan tâm đến lợi ích tương đối giữa các cá nhân với nhau. Nói cách
khác, nó không quan tâm đến sự bất bình đẳng. Một sự thay đổi làm người
giàu càng giàu thêm nhưng không giúp gì cho người nghèo vẫn được coi là
hoàn thiện Pareto, tuy nó làm cho bất bình đẳng xã hội tăng lên. Như vậy,
nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến tăng trưởng kinh tế cao nhưng lợi
ích của tăng trưởng không được phân bổ đồng đều, bất bình đẳng thu nhập
ngày càng lớn, tỉ lệ nghèo đói gia tăng…Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế
với công bằng xã hội và cải thiện phân phối thu nhập là mục tiêu và ước vọng
cao nhất trong suốt quá trình phát triển của xã hội loài người. Do đó, chính
phủ phải can thiệp thông qua các công cụ và chính sách nhằm hạn chế bất
bình đẳng.
Thứ hai: Phân phối lại thu nhập tuy không làm tăng mức của cải của xã
hội nhưng nó có khả năng làm tăng mức phúc lợi xã hội. Sở dĩ có hiện tượng
như vậy là vì mỗi cá nhân đều tuân theo qui luật độ thoả dụng biên giảm dần.
Khi việc chuyển giao một đồng thu nhập từ người giàu sang người nghèo sẽ
khiến cho người giàu mất đi một độ thoả dụng nhất định và người nghèo sẽ
có thêm một độ thoả dụng từ đồng thu nhập đó. Tuy nhiên, do thu nhập của
người nghèo thấp nên độ thoả dụng mà anh ta có thêm sẽ lớn hơn độ thỏa
dụng mà người giàu mất đi do anh ta đang ở mức thu nhập cao. Vì vậy, tổng

độ thoả dụng của xã hội và tương ứng là tổng phúc lợi xã hội sẽ tăng lên.
Thứ ba: bất bình đẳng trong phân phối thu nhập trong ngắn hạn có thể
là điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao nhưng trong dài hạn sẽ xuất
hiện những nguy cơ xung đột tiềm ẩn ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế bền
vững. Những nguy cơ xung đột dễ thấy xuất hiện từ sự chênh lệch và bất
công dẫn đến mâu thuẫn giữa các giai tầng trong xã hội, giữa người giàu và
người nghèo, giữa các cộng đồng tộc người, giữa các vùng, khu vực…

×