Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Phát triển ngành chè Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (967.08 KB, 91 trang )







DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng
Mục lục
Tên bảng biểu
Trang
1.1
1.1
Giá chè bình quân trên thế giới
8
1.2
1.1
Dự báo sản xuất và xuất khẩu chè đen thế giới
năm2014
11
1.3
1.1
Dự báo sản lượng và xuất khẩu chè xanh thế giới
năm 2014
12
2.1
2.1
Sản xuất chè thời kỳ 1975-1986
20
2.2


2.2.2
Cơ cấu phân bố vốn đầu tư cho phát triển ngành
chè
25
2.3
2.3
Các vùng trồng chè ở Việt Nam
32
2.4
2.3.1
Một số chỉ tiêu phát triển ngành chè Việt Nam
thời kỳ 2002-2006
34
2.5
2.3.2
Thực trạng các cơ sở chế biến chè ở một số tỉnh
năm 2005
43
2.6
2.3.3
Giá chè xanh trong nước
49
2.7
2.3.3
Thị trường xuất khẩu chè năm 2005
50
2.8
2.3.3
Cơ cấu chè xanh năm 2005
51

2.9
2.4
Hiệu quả kinh doanh chế biến chè
57
3.1
3.2
Một số chỉ tiêu phát triển ngành chè Việt Nam
2005-2010
63
3.2
3.3.1
Quy hoạch đất trồng chè cả nước từ 2005-2010
65
3.3
3.3.1
Diện tích chè thâm canh cao sản
66
3.4
3.3.1
Bố trí chè trồng mới trên các loại đất
67
3.5
3.3.5
Tổng nhu cầu vốn đầu tư cho ngành chè
75
3.6
3.3.5
Nguồn vốn đầu tư cho trồng mới
76
3.7

3.3.5
Nguồn vốn đầu tư cho thâm canh
77




MỤC LỤC
Phần mở đầu 78
1. Tính cấp thiết của đề tài 82
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 83
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 84
4. Phương pháp nghiên cứu 84
5. Những đóng góp 84
6. Kết cấu của luận văn 84
chƣơng 1: tổng quan về ngành chè 85
1.1. Khái quát về tình hình sản xuất chè trên thế giới 85
1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển ngành chè 85
1.1.2. Các điều kiện cơ bản để phát triển ngành chè 92
1.1.3. Vai trò của ngành chè trong nền kinh tế 94
1.2. Kinh nghiệm của một số nước trong phát triển ngành chè và bài học đối
với Việt Nam 95
chƣơng 2: thực trạng sản xuất chè ở Việt nam 98
2.1. Sự hình thành và phát triển của ngành chè Việt nam trong thời gian qua98
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển ngành chè ở Việt Nam 102
2.2.1. Điều kiện tự nhiên 102
2.2.2 Vốn đầu tư 103
2.2.3. Công nghệ sản xuất 104
2.2.4. Về chất lượng sản phẩm: 105
2.2.5. Hệ thống chính sách hỗ trợ của nhà nước 106

2.2.6. Về môi trường toàn cầu hóa 108
2.2.7. Các nhân tố khác 108
2.3. Thực trạng phát triển chè ở Việt nam trong những năm qua 109
2.3.1. Sản xuất chè 109
2.3.2. Chế biến chè 116
2.3.3. Thị trường tiêu thụ chè 123
2.4. Đánh giá chung về ngành chè Việt Nam 129



2.4.1. Những thành tựu nổi bật 129
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân 132
chƣơng 3: định hƣớng và các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển ngành chè
Việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế Quốc tế. 134
3.1. Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và phương hướng phát triển của ngành
chè Việt Nam 134
3.2. Định hướng phát triển ngành công nghiệp chè Việt Nam trong thời gian
tới 136
3.3. Các giải pháp thúc đẩy sự phát triển ngành chè Việt Nam trong thời gian
tới 138
3.3.1. Hoàn thiện công tác quy hoạch 138
3.3.2. Đẩy mạnh công tác khoa học công nghệ và chuyển giao kỹ thuật trong
sản xuất và chế biến chè 143
3.3.3. Xúc tiến thương mại, tăng cường công tác hợp tác quốc tế, ổn định thị
trường tiêu thụ chè trong và ngoài nước 145
3.3.4. Đào tạo nhân lực 148
3.3.5. Giải pháp về vốn 149
3.3.6. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý ngành chè 152
3.3.7. Hoàn thiện chính sách phát triển ngành chè 153
Kết luận 155

tài liệu tham khảo 157



PHẦN MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Chè là loại cây công nghiệp dài ngày được trồng nhiều ở các tỉnh miền núi
phía Bắc và Lâm Đồng. Sản xuất chè trong nhiều năm qua đã đáp ứng được nhu
cầu về chè uống cho nhân dân, đồng thời còn xuất khẩu đạt kim ngạch hàng
chục triệu USD mỗi năm. Tuy có những thời điểm giá chè xuống thấp làm cho
đời sống người dân trồng chè gặp nhiều khó khăn, nhưng nhìn tổng thể cây chè
vẫn là cây giữ vị trí quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân và góp phần tạo
việc làm tăng thu nhập cho một bộ phận đáng kể nhân dân trung du miền núi,
vùng cao, vùng xa và góp phần bảo vệ môi sinh. Vì vậy phát triển ngành chè là
vấn đề đang được coi trọng, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp nói
riêng và của nền kinh tế nước ta nói chung.
Trước yêu cầu phát triển của ngành kinh tế, đặc biệt là trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, để tồn tại và phát triển vững chắc đòi hỏi ngành công
nghiệp chè phải có những bước chuẩn bị thích hợp. Việc phân tích đánh giá thực
trạng nhằm làm rõ những thành tựu và hạn chế của ngành công nghiệp chè cũng
như đề xuất một số định hướng và giải pháp phát triển ngành chè Việt Nam
trong thơì kỳ hội nhập kinh tế quốc tế là hết sức cần thiết.
Đã có một số công trình nghiên cứu nhằm phát triển ngành chè Việt Nam,
cùng với sự phát triển của ngành chè. Đó là:
- Đề tài nghiên cứu khoa học:“ Định hướng- giải pháp phát triển sản xuất
chè đến năm 2010” của TS. Nguyễn Kim Phong- Tổng giám đốc Tổng công ty
chè Việt Nam Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NN&PTNT). Trong bài
viết, tác giả đã đưa ra kiến nghị đối với Nhà nước về tổ chức quản lý và chính
sách khuyến khích sản xuất chè ở nước ta. Tuy nhiên, công trình cũng chưa đề

cập sâu những giải pháp để phát triển ngành chè Việt Nam trong điều kiện hội
nhập.



- Đề tài khoa học cấp Bộ: “ Sản xuất và xuất khẩu chè thực trạng và giải
pháp” của tác giả PGS.TS. Nguyễn Sinh Cúc; Tác giả đưa ra việc triển khai
đồng bộ nhằm thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu chè. Tuy nhiên, kể từ năm 2001
đến nay cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nền kinh tế có rất
nhiều chuyển biến do vậy những giải pháp mà tác giả đưa ra cho đến nay phần
nào không còn phù hợp nữa.
- Đề tài: “ Hiện đại hoá thiết bị và công nghệ chế biến chè” của Hiệp hội
chè Việt Nam; Đề tài đã nêu ra được tầm quan trọng của việc nâng cao chất
lượng sản phẩm nhằm cạnh tranh với thị trường chè thế giới.
- “Thực trạng và giải pháp phát triển ngành chè”. Hội thảo do Hiệp hội
chè Việt Nam tổ chức vào ngày 7 tháng 9 năm 2005. Ở công trình này những bất
cập của ngành chè đã được bàn kỹ. Tuy nhiên, giải pháp cụ thể để giải quyết
như thế nào thì chưa được đề cập đến nhiều.
Ngoài các công trình nghiên cứu khoa học trên còn có nhiều bài báo đăng
trên các tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí nông nghiệp và phát triển nông thôn,
tạp chí người làm chè, Hiệp hội chè Việt Nam
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến một số giải pháp
của ngành chè Việt Nam ở những khía cạnh và mức độ khác nhau. Những tài
liệu đó giúp tác giả có thể tham khảo để thực hiện luận văn. Song việc nghiên
cứu phân tích thực trạng phát triển ngành công nghiệp chè trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay là hết sức cần thiết và quan trọng. Từ đó đề xuất
các giải pháp nhằm thúc đẩy ngành chè hoạt động có hiệu quả hơn. Với nhận
thức đó tôi đã chọn đề tài: “ Phát triển ngành chè Việt Nam trong qúa trình hội
nhập kinh tế Quốc tế” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Trên cơ sở từ việc đánh giá phân tích thực trạng hoạt động của ngành chè
Việt Nam trong những năm qua từ đó đề xuất những giải pháp nhằm phát triển
ngành chè tốt hơn trong quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế.



3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Hoạt động của ngành chè Việt Nam thời gian qua và trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay trong quan hệ so sánh với quá trình phát triển
ngành chè ở một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới và khu vực.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; các phương pháp cụ thể: Thống kê, hệ
thống, tổng hợp, phân tích, liệt kê để làm sáng tỏ vấn đề.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP
- Đưa ra sự phân tích toàn diện thực trạng của ngành chè Việt Nam.
- Đưa ra một số kiến nghị, đề xuất các giải pháp chủ yếu để phát triển
ngành chè Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được
chia làm 3 chương

Chương 1: Tổng quan về ngành chè .
Chương 2: Thực trạng sản xuất chè Việt Nam .
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển ngành chè Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.



CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ NGÀNH CHÈ

1.1. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CHÈ TRÊN THẾ GIỚI
1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển ngành chè
Cây chè là cây có nguồn gốc từ Trung Quốc và đã được truyền bá ra khắp
thế giới. Nó có lịch sử từ rất lâu đời, từ khi phát hiện, sử dụng, truyền bá và phát
triển đến nay đã có gần 4000 năm. Do đặc tính sinh trưởng, sự giao lưu văn hoá
giữa các dân tộc nên cây chè đã du nhập vào các nước trên thế giới từ khoảng
3000 năm trước. Các nước trên thế giới đã học được cách trồng và chế biến của
người Trung Quốc để phát triển các vườn chè trồng phân tán rải rác và hái lá để
uống. Đến những năm cuối của thế kỷ XX thì ngành chè thực sự phát triển, đã
có trên một nửa dân số thế giới uống chè. Với thị hiếu tiêu dùng, tập quán sinh
hoạt, văn hoá và kinh tế mà nhu cầu về sở thích tiêu dùng ở các nước và khu vực
khác nhau cả về số lượng và các chủng loại chè. Chẳng hạn ở các nước phát
triển ở Tây Âu và Mỹ có tập quán uống chè với đường và sữa nên rất coi trọng
các loại chè có màu đỏ tươi sáng, vị nồng mạnh, đậm đà, ngọt mát, hàm lượng
chất tan không quá 32%. Do nhịp sống xã hội khẩn trương nên họ ưa thích các
loại chè tan nhanh tiện lợi như chè mảnh CTC, chè bột, chè túi nhúng. Vì vậy
trong những năm gần đây nhu cầu về chè túi nhúng tăng nhanh ở các nước này.
Người Anh có lịch sử uống chè trên 30 năm. Tại đây uống chè đã trở thành
phong cách và tập quán. Còn ở các nước Đông Âu, Nga và Trung Đông có tập
quán uống chè nóng pha với nước đun sôi nên người tiêu dùng khu vực này
quan tâm nhiều hơn đến chè đen được sản xuất theo quy trình OTD chúng có
màu sắc đỏ, hương vị nồng. Ở Nhật Bản là nước sản xuất chè đứng thứ 6 trên
thế giới về sản lượng nhưng cũng là nước nhập khẩu chè tương đối lớn vì sản
xuất trong nước không đủ cho tiêu dùng. Đây là thị trường lớn nhưng đòi hỏi
khắt khe về chất lượng. Vì thế, để đáp ứng được nhu cầu thị hiếu người tiêu




dùng đòi hỏi các nhà sản xuất của các nước trên thế giới luôn phải thay đổi
phương thức sản xuất nhằm phát triển ngành chè.
Sản xuất chè trên thế giới.
Trên thế giới có rất nhiều loại chè khác nhau. Có thể chia sản phẩm chè
thành các loại khác nhau như sau:
Chè xanh: Được chế biến và được phân thành 6 loại. Đặc biệt OP; P; BPS
và F.
Chè xanh đặc biệt: Có màu xanh tự nhiên, cánh dài, xoắn chặt, có tuyết
Chè OP: Cánh dài xanh tự nhiên, xoăn đều
Chè xanh P: Cánh xanh, ngắn hơn OP, tương đối xoăn.
Chè xanh BP: Xanh tự nhiên, có mảnh gẫy, cánh nhỏ hơn P, tương đối xoăn.
Chè xanh F: Có màu vàng xám, nhỏ và tương đối đều
Chè đen: Bao gồm có 2 loại chính sau là chè đen CTC và OTD.
Chè đen CTC gồm có 5 loại: BOP, BP, OF, PF, D.
Chè đen BOP: Đen tương đối nâu, lọt sàng từ 10-14, đồng đều, nước đỏ
nâu có viền vàng
Chè đen BP: Đen tương đối nâu, lọt sàng từ 14-24, đồng đều, nước đỏ nâu
đậm có viền vàng.
Chè đen OF: Đen tương đối nâu, nhỏ, lọt sàng từ 24-40, nước đỏ nâu đậm.
Chè đen PF: Đen tương đối nâu, nhỏ lọt đều, lọt sàng 40-50, nước đỏ nâu
đậm.
Chè đen D: Đen tương đối nâu, nhỏ đều, sạch, lọt sàng 50, nước đỏ nâu tối.
Chè đen OTD gồm có 7 loại: BOP, FBOP, P, PS, BPS, F và D.
BOP: Xoăn, tương đối đồng đều, đen tự nhiên, có ít tuyết, nước màu nâu
đỏ sáng có viền vàng
FBOP: Nhỏ, có mảnh gẫy của OP và P, có ít tuyết.
P: Tương đối xoăn đều, có lẫn mảnh gẫy của PS; nước có màu đỏ nâu
sáng, có viền vàng.




PS: Tương đối đều, màu đen nâu, có lẫn mảnh nâu, nước có màu đỏ nâu.
BPS: tương đối đều, có lẫn mảnh gẫy của PS, màu đen nâu, nước có màu
đỏ nâu nhẹ.
F: Nhỏ đều, đen nâu, nước có màu đỏ nâu đậm.
Chè ướp hương: Đây là loại chè được ướp với các loại hương như hương
nhài, hương sen, hương ngâu.
Chè hoà tan, túi lọc: Được ưa chuộng ở Phương Tây
Chè sâm, chè chữa bệnh
Trên đây là một số loại chè chính được sản xuất và tiêu dùng trên thế giới.
Trong đó có 2 loại chủ yếu là chè CTC và OTD còn các loại khác chiếm tỷ lệ
không đáng kể. Tỷ lệ chè CTC và OTD được sản xuất ra trên thế giới là 60: 40.
Đối với vùng Nam Á thì tỷ lệ này là 70:30 còn với Việt Nam thì tỷ lệ này là 10:
90 vì một số bạn hàng của Việt Nam như Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, I-rắc, Iran lại rất
thích các loại chè đen OTD. Chỉ có một số nước như Nhật Bản, Đài Loan và
một số nước Châu Á khác là ưa thích loại chè xanh.
- Năng suất, sản lượng, diện tích chè của một số nước trên thế giới: Hiện
nay có 39 nước trồng chè với diện tích 2.5 triệu ha và sản xuất lượng hàng năm
biến động trên dưới 2 triệu tấn. Năng suất bình quân chưa vượt tới 4 tấn/ha.
Nước có sản lượng cao nhất hiện nay là Ấn Độ với sản lượng bình quân 1 năm
là 300 nghìn tấn chè khô. Đây là nước có tốc độ tăng cao nhất trong vòng từ
năm 2000-2005, kế tiếp đó là Trung Quốc 220 nghìn tấn, Srilanca 120 nghìn tấn.
Năm nước có diện tích trồng chè lớn nhất là Trung Quốc, Ấn độ, Srilanca, Thổ
Nhĩ Kỳ và Indonesia đã chiếm 75% diện tích trồng chè trên thế giới, nước nhỏ
nhất trong làng chè là Camơrun. Do áp dụng kỹ thuật mới cũng như giống mới
và mật độ trồng dày nên đã có hàng chục nước đưa năng suất bình quân đạt năng
suất 2.5 tấn/ha. Đứng đầu nhóm các nước có năng suất chè cao đó là Kênya, tiếp
theo đó là Ấn Độ, Srilanca.




Diện tích chè trên thế giới biến động bởi chỉ có những nước có điều kiện
thiên nhiên ưu đãi mới có thể trồng và phát triển được cây chè. Về phân bố diện
tích thì 12 nước Châu Á chiếm khoảng 88%, Châu Phi là 8% (12 nước) và Nam
Mỹ chiếm 4% (4 nước). Như vậy chè chủ yếu được trồng ở Châu Á và đây là cái
nôi để phát triển cây chè với mọi điều kiện đất đai khí hậu phù hợp với sinh
trưởng của cây chè.
- Về thị trường chè thế giới:
Diễn biến cung cầu:
- Cung: Năm 2005 sản lượng chè thế giới ước đạt 3,253 triệu tấn, tăng
1.5% (tương đương với 42 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm 2004, trong đó nhóm
nước sản xuất và xuất khẩu chè chủ yếu tăng 30 nghìn tấn và nhóm các nước
khác tăng khoảng 12 nghìn tấn. Thị trường cung chè vẫn tiếp tục tập trung vào
một số nước sản xuất lớn như Ấn Độ, Srilanca, Kênya, Trung Quốc, Inđônêsia.
Riêng 5 nước này đã chiếm trên 85% sản lượng chè thế giới.
- Cầu: Năm 2005, mức tiêu thụ chè thế giới đạt 3,125 triệu tấn. Trong đó
nhóm 5 nước tiêu thụ chủ yếu vẫn là Ấn độ, Anh, Pakistan, CIS và Hoa Kỳ.
- Giá chè trên thế giới: Từ năm 1997 trở lại đây có xu hướng cung vượt
quá cầu. Số lượng xuất khẩu cao hơn nhập khẩu. Các nước nhập khẩu lớn đều
giảm số lượng chè đen nhập khẩu. Do cung có xu hướng vượt cầu nên giá bình
quân tính theo đồng USD ở hầu hết các thị trường đấu gía đều giảm nhưng
không đáng kể. Theo cơ quan nông lương Liên Hiệp Quốc cho hay giá chè thế
giới chỉ giảm 2% trong các năm từ năm 1993-1995 và 2001-2003.

Bảng 1.1: Giá chè bình quân trên thế giới

Năm
2001
2002
2003

2004
2005
Giá (USD/kg)
1.42
1.89
2.02
1.95
1.82

( Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam-năm 2005)




* Tiêu thụ và nhập khẩu:
Tốc độ tiêu thụ chè đen toàn cầu trong giai đoạn 2003-2014 dự báo chỉ sẽ
đạt 1.2%/năm so với mức tăng 2.2%/năm của giai đoạn 1993-2003, đạt 2.67
triệu tấn vào năm 2014.
Mức tăng tiêu thụ giảm mạnh tại các nước sản xuất do mức tăng sản lượng
thấp hơn nhu cầu tạo nguồn hàng xuất khẩu. Lượng tiêu thụ nội địa chè đen tại
các nước sản xuất dự báo sẽ tăng khoảng 1.3%/năm, đạt 1.33 triệu tấn vào năm
2014. Tỷ trọng các nước sản xuất trong tổng mức tiêu thụ chè đen toàn cầu dự
báo sẽ giảm từ 52% năm 2005 xuống còn 49% trong năm 2014. Mức tiêu thụ
tăng lên chủ yếu ở các nước viễn đông trong khi các nước sản xuất chè ở Châu
Phi tăng 1.5%/năm, đạt 805.7% nghìn tấn vào năm 2014, tức là khoảng 80% sản
lượng nội địa. Tiêu thụ của Indonesia dự báo sẽ tăng 1.6%/năm, đạt 57 nghìn tấn
trong khi tiêu thụ nội địa của Băngladet và Xrilanca tăng 3.0%/năm và
2.5%/năm, đạt 48.4% và 17.5 nghìn tấn. Nhập khẩu ròng chè đen toàn cầu dự
báo sẽ tăng 1.2%/năm, đạt 1.34 triệu tấn vào năm 2014, trong đó nhập khẩu của
các nước CIS (chủ yếu là Nga) và Pakistan đạt mức tăng tương ứng 3.0%/năm

và 3.4%/năm, lên tới 342 nghìn tấn và 120.3 nghìn tấn vào năm 2014. Nhập
khẩu vào EU giảm nhẹ do mức tăng nhập khẩu của Đức, Hà lan và Pháp không
đủ bù đắp mức giảm nhập khẩu mạnh của Anh.
Trong những năm gần đây theo Tổ chức nông lương Liên hợp quốc( FAO)
thì có 2 khu vực đó là các nước phát triển và các nước đang phát triển cùng tham
gia nhập khẩu chè, khu vực các nước phát triển nhập khẩu chè hàng năm nhiều
hơn các nước đang phát triển. Năm 2005 tổng lượng chè nhập khẩu của thế giới
là 2.500 nghìn tấn trong đó các nước phát triển 1.500 nghìn tấn và các nước
đang phát triển nhập 1.000 nghìn tấn chè. Các nước phát triển nhập khẩu nhiều
chè là: Các nước thuộc SNG, Mỹ, Nhật và Anh, còn các nước đang phát triển
nhập khẩu nhiều chè là: I-ran, I-rắc, Pakistan, Ai Cập. Năm 2005 nhập khẩu chè
vẫn gia tăng ở Anh, Ai Cập, Mỹ với tốc độ thấp. Trong khi đó ở Nga là nước



nhập khẩu chè lớn nhất cũng bị giảm sút. Điều này làm cho tổng nhu cầu nhập
khẩu trên thế giới giảm giảm khoảng 3% so với năm 2004.
Với mức độ tiêu thụ và nhập khẩu chè trên thế giới do cung lớn hơn cầu,
mặt khác theo dự báo thì mức tăng dân số ở các nước tiêu thụ sản phẩm chè còn
cao nên giá chè trên thế giới cũng sẽ tương đối ổn định. Điều này cho thấy muốn
phát triển thị trường ra thế giới thì ngành chè Việt Nam nghiên cứu nâng cao
năng suất cây chè, đảm bảo chất lượng sản phẩm tốt và ổn định tạo ra nhiều sản
phẩm để cạnh tranh với các nước trên thế giới.
- Sản xuất và xuất khẩu:
Sản lượng chè đen thế giới dự báo sẽ đạt 2.7 triệu tấn trong năm 2014 và
với mức tăng trưởng bình quân 1.7%/ năm trong giai đoạn 2003-2014, chủ yếu
nhờ năng suất tăng. Tại Tây Phi, sản lượng Kenia dự báo sẽ tăng 2.4%/năm, đạt
379 nghìn tấn trong khi sản lượng của Malawi, Uganda, Tanzania dự báo sẽ tăng
tương ứng 49 nghìn tấn, 38 nghìn tấn và 33 nghìn tấn trong năm 2014. Tại Viễn
Đông sản lượng của Ấn Độ dự báo sẽ đạt 1.1 triệu tấn trong năm 2014 với mức

tăng trưởng bình quân 1.6%/năm. Sản lượng chè đen của Trung Quốc sẽ giảm
do nước này có xu hướng tăng sản xuất các loại chè khác phù hợp hơn với xu
hướng tiêu thụ.
Xuất khẩu chè đen toàn cầu dự báo sẽ tăng 1.4%/năm, đạt 1.3 triệu tấn,
chủ yếu nhờ mức tăng xuất khẩu của các nước Tây Phi, trong khi đó xuất khẩu
của Kenia dự báo sẽ tăng 2.7%/năm, đạt 358 nghìn tấn, chiếm 27% tổng lượng
xuất khẩu toàn cầu.
Xuất khẩu chè xanh toàn cầu dự báo sẽ tăng 2.8%/ năm, đạt 275 nghìn tấn
trong đó xuất khẩu của Trung Quốc đạt 242 nghìn tấn chiếm 88% tổng lượng
xuất khẩu chè xanh toàn cầu. Xuất khẩu của Việt Nam và Indonesia dự báo sẽ
đạt mức tương ứng 28 nghìn tấn và 58 nghìn tấn vào năm 2014.



Bảng1.2: Dự báo sản xuất và xuất khẩu chè đen thế giới năm 2014
Đơn vị:1000 tấn

Sản lượng Xuất khẩu

Thực
tế
Dự
báo
Tốc độ tăng %
Thực
tế
Dự
báo
Tốc độ tăng %


2003
2014
1993/03
2003/2014
2003
2014
1993/03
2003/2014
Thế giới
2244
2706
1,6
1,7
1129
1315
1,15
1,4
Kênina
291
379
3,0
2,4
268
358
3,3
2,7
Malauy
42
49
0,5

1,4
42
48
1,6
1,2
Uganđa
36
38
10,4
0,4
34
43
11,6
2,2
Tandania
29
33
2,2
1,1
20
21
0,5
0,2
Xrilanka
302
370
2,5
1,9
289
330

3,0
1,2
Ấn ®é
848
1010
1,1
1,6
170
211
-0,03
2,0
Indônêsia
128
150
1,6
1,5
85
88
-2,6
0,4
Trung Quốc
72
46
-4,4
-4,0
41
16
-6,5
-8,2
Bănglađét

57
68
1,5
1,7
12
12
-7,8
0,2
Các nước Mỹ
La Tinh
69
77
1,8
1,0
63
70
1,3
1,3

(Nguồn: Tea – Current Market Situation and Medium – Term outlook, FAO, 2005)




Bảng 1.3: Dự báo sản lƣợng và xuất khẩu chè xanh thế giới năm 2014
Đơn vị: 1000 tấn

Sản lượng Xuất khẩu

Thực

tế
Dự
báo
Tốc độ tăng %
Thực
tế
Dự
báo
Tốc độ tăng %

2003
2014
1993/03
2003/2014
2003
2014
1993/03
2003/2014
Thế giới
756.1
975.0
2,5
2,3
2,2.6
275
5,6
2,8
Trung
Quốc
585.0

740.1
3,8
2,2
178.6
242
6,5
2,8
Nhật Bản
87.0
92
0,0
0,5
0,8
1,2
9,9
3,2
Việt Nam
30.0
39.6
4,3
2,6
17.0
28
5,0
4,5
Indonêsia
41.0
49.1
1,0
1,7

5.5
5,8
-6,3
0,5

(Nguồn: Tea – Current Market Situation and Medium – Term outlook, FAO, 2005)

Với những số liệu trên, thì thị trường chè thế giới có nhiều biến động, có
sự cạnh tranh giữa các tập đoàn kinh tế, giữa các nước. Mặt khác các tập đoàn,
các nước vẫn phải liên kết với nhau để lập nên mạng lưới sản xuất và kinh
doanh mang tính toàn cầu. Ngoài ra cánh cửa xuất nhập khẩu được mở rộng cho
phép các nước có nhiều sự lựa chọn hơn, hàng hoá và dịch vụ nhiều hơn- một
phạm vi chất lượng rộng hơn. điều này đòi hỏi các nước phải có các biện pháp
nâng cao chất lượng, giảm giá thành, quản lý chặt chẽ dư lượng độc hại trên chè,
maketting, tổ chức quản lý và nâng cao vai trò của hiệp hội ngành hàng.
1.1.2. Các điều kiện cơ bản để phát triển ngành chè
Về mặt tự nhiên- xã hội: Cây chè là cây trồng nhiệt đới rất thích hợp với
điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu nóng ẩm mưa nhiều với hệ số dao động nhiệt độ
giữa ban ngày và ban đêm lớn (8-12
0
C). Ngoài ra độ cao và địa hình cũng có
ảnh hưởng đến chất lượng của chè. Kinh nghiệm sản xuất chè lâu đời của thế
giới cho thấy các loại danh trà chủ yếu là được trồng trên miền núi cao. Những



nơi này có nhiệt độ thấp, độ ẩm cao, ánh sáng tán xạ cao, biên độ ngày đêm cao.
Vì vậy chỉ những nước có điều kiện thiên nhiên ưu đãi mới có thể trồng và phát
triển được cây chè.
Ngoài ra cây chè cũng có nhiều tác dụng đến sức khoẻ của người tiêu dùng,

uống trà không những làm cho tinh thần được sảng khoái, giải toả được nỗi lo
toan thường nhật làm phong phú thêm đời sống tinh thần mà thực tế đang diễn
ra là sự lên ngôi của những sản phẩm chăm sóc sức khoẻ từ cây chè. Do vậy,
uống trà đang là một thứ nước uống phổ biến được hầu hết mọi người trên thế
giới ưa chuộng đã làm cho cầu về chè tăng lên và kích thích được sự phát triển
ngành chè.
Điều kiện về khoa học kỹ thuật: Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu uống
trà ngày càng cao. Vì vậy nhân tố khoa học kỹ thuật là rất quan trọng nó cần đảm
bảo được tính ổn định hoàn toàn của các thành phần cũng như đảm bảo không có
các vi sinh vật, vi khuẩn và nấm mốc để đưa ra những sản phẩm có chất lượng cao
phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng trên thế giới.
Phát triển ngành chè đòi hỏi một lượng vốn lớn để đầu tư cho các lĩnh vực
sản xuất, thiết kế sản phẩm, nghiên cứu triển khai và đổi mới công nghệ, một
lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao. Trên thực tế cho thấy các sản
phẩm có chất lượng cao trên thế giới đều thuộc về các nhà sản xuất có tiềm lực
đặc biệt mạnh về vốn, nhân lực và công nghệ. Chẳng hạn như chè Leros của
Cộng hoà SEC, chè Lipton Các hãng này luôn chiếm một thị phần lớn trên thế
giới và được người tiêu dùng ưa chuộng.
Chính sách của Nhà nước trong việc phát triển sản xuất ngành chè:
Chính sách của Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển
ngành chè. Thực tế cho thấy ở những nước phát triển thấp thì Chính phủ chỉ chú
trọng đến việc trồng và chế biến chè mà không có các chính sách thúc đẩy thị
trường tiêu thụ thì sau một thời gian sẽ không tìm được đầu ra cho sản phẩm, do
vậy ngành chè sẽ gặp nhiều khó khăn. Còn với những nước được Nhà nước quan



tâm để đưa ra những chính sách phù hợp thì nước sẽ có ngành chè phát triển.
Ngoài ra khi các nhà sản xuất chè trong nước phải đối mặt với sự cạnh tranh của
hàng nhập khẩu thì chính phủ sẽ có nguồn thu nhập bổ sung để tái phân phối lợi

nhuận từ những người được lợi nhiều nhất bằng cách tăng năng suất và có cạnh
tranh hơn nhằm hạn chế sự khó khăn đối với ngành chè.
1.1.3. Vai trò của ngành chè trong nền kinh tế
Đối với các nước trên thế giới việc phát triển ngành chè cũng đã mang về
cho các nước những lợi ích đáng kể, ngành chè đã đem lại nguồn lợi cho ngân
sách nhà nước và đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Theo
dự báo của FAO, sản lượng chè thế giới năm 2005 đạt 2.7 triệu tấn, tăng 2.8%.
Trong đó Ấn Độ đạt 1.02 triệu tấn, tăng 2.8%; Srilanka đạt 285 ngàn tấn, tăng
1.6%. Sản lượng chè đen của Trung Quốc và Indonêsia sẽ tăng lần lượt từ
180.000-220.000 tấn, giá trị của các thị trường này đã tăng từ 800 triệu USD lên
1 tỷ USD năm 2005. Do sự phát triển của ngành chè đã tạo cơ sở thu hút thêm
lao động, giải quyết việc làm cho hàng vạn người lao động, thu hút đáng kể lao
động tăng thêm hàng năm không chỉ tạo việc làm mà còn tác động nâng cao
năng suất lao động, thu nhập và cải thiện đời sống của người lao động.
Ngoài ra sự phát triển ngành chè còn đóng vai trò bảo vệ môi sinh, có tác
dụng phủ xanh đất trống đòi trọc, chống sói mòn. Mặt khác về y học thì chè là
thứ nước uống giải khát phổ biến, có tác dụng chống được lạnh, khắc phục sự
mệt mỏi của cơ thể, làm cho tinh thần minh mẫn, sảng khoái trong thời gian làm
việc căng thẳng, chất catesin của chè xanh còn có chức năng phòng ngừa bệng
ung thư bằng cách củng cố hệ thống miễn dịch, phòng ngừa bệnh cao huyết áp,
chống lão hoá.
Như vậy phát triển ngành chè đóng góp vào tích luỹ của nền kinh tế, với
trình độ khoa học công nghệ cao trở thành nhân tố then chốt thúc đẩy năng suất
lao động và làm tăng tích luỹ của ngành kinh tế khác. Thực tế, ngành chè cũng
đang là một ngành quan trọng trong nền kinh tế thế giới.



1.2. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRONG PHÁT TRIỂN
NGÀNH CHÈ VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Trên thế giới chỉ có 30 nước là có điều kiện tự nhiên thích hợp để trồng chè
trong khi đó ở hầu hết các quốc gia đều dùng chè với mức độ khác nhau. Vì thế
các nước có ngành chè phát triển đã tận dụng ưu thế đó để phát triển sản xuất.
Chẳng hạn như ở Trung Quốc, là một nước phát hiện và sử dụng chè sớm nhất
trên thế giới và chè đã được coi là một trong bảy thành phẩm quan trọng của đời
sống nhân dân Trung Quốc. Nhờ có những ưu thế đó mà Chính Phủ Trung Quốc
đã rất quan tâm đến việc xây dựng các cơ sở nghiên cứu chè, xây dựng các nhà
máy chế biến chè có năng suất chất lượng cao, ngoài ra Chính phủ cho xuất bản
các tạp chí, sách tham khảo và phổ biến những tài liệu khoa học kỹ thuật trồng
và chế biến chè đến tận tay người nông dân. Đặc biệt Trung Quốc còn rất chú
trọng phát triển văn hoá trà, tổ chức các lễ hội văn hóa trà. Điều này đã thu hút
được rất nhiều các du khách trong và ngoài nước do đó nâng cao được vị thế của
chè Trung Quốc trên thị trường thế giới. Ngoài ra ở Trung Quốc còn đào tạo
được những đội ngũ tiếp thị, chuyên viên thị trường thành thạo, họ đã mở các
văn phòng đại diện ở các nước và các vùng, họ đã dành một khoản chi phí rất
lớn cho việc quảng cáo và tìm kiếm thị trường.
Ở Nga cũng là một nước sản xuất chè lớn và cũng là một trong những
nước tiêu thụ chè lớn nhất thế giới hiện nay. Chính phủ Nga rất quan tâm và chú
trọng phát triển khoa học kỹ thuật đặc biệt ở khâu trồng chè. Chè ở Nga được
trồng theo từng hàng, khoảng cách giữa các hàng là 1.5-1.75 cm, khoảng cách
giữa các cây là 0.35cm, lượng hạt giống dùng cho 1 ha là 150kg. Khi phân chia
lô chè thì đặc biệt chú ý tới độ thẳng của từng hàng chè và san phẳng mặt đất
giữa các hàng chè. Các nhà sản xuất ở Nga rất chú trọng tới việc nâng cao chất
lượng sản phẩm và tiêu dùng trong nước. Chính phủ Nga còn có các chính sách
đãi ngộ cho nông dân là việc vay vốn để trồng chè, xây dựng các nhà máy chế



biến chè. Do vậy mà ngành chè nước Nga rất phát triển và hàng năm mang về
cho nước Nga một nguồn ngoại tệ đáng kể.

Nhật Bản vốn là nước sản xuất và xuất khẩu chè xanh lâu đời trên thế
giới. Do ở Nhật là nước có nền kinh tế phát triển nên giá nhân công cao, thêm
vào đó là nước có ngành công nghệ hiện đại vì thế họ chủ yếu tiến hành cơ giới
hoá trên đồi chè. Nhà nước Nhật luôn coi trọng đầu tư vào khâu giống tốt và các
biện pháp quản lý chăm bón vườn chè bằng hoá chất. Mặt khác nhà nước luôn
ban hành chế độ khen thưởng và đăng ký giống chè nên đã có được trên 60
giống chè mới. Ngoài việc xuất khẩu chè sang các nước trên thế giới thì thị
trường tiêu thụ nội địa ở Nhật Bản cũng rất nhiều. Đây là một nước sản xuất và
tiêu thụ chè lớn nhưng đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng sản phẩm.
Ấn Độ là nước có truyền thống lâu đời về phát triển ngành chè, sản lượng
chè của Ấn Độ năm 2005 đạt 1.02 triệu tấn. Ở Ấn Độ có hai vùng sản xuất chè
nguyên liệu lớn đó là vùng Assam và vùng chè Kêrala. Chính phủ Ấn Độ rất
quan tâm đến việc phát triển khoa học kỹ thuật do đó đã thành lập rất nhiều viện
nghiên cứu chủ yếu tập trung ở Tocklai, Upasi. Ngoài ra Ấn Độ còn thành lập
các trung tâm đấu giá chè lớn trên toàn quốc như; Calcuta, Siliguri,
Guwahati do đó chất lượng sản phẩm chè của Ấn Độ rất tốt và khẳng định
được vị thế của chè trên thế giới. Chính phủ Ấn Độ cũng rất chú trọng tới việc
phát triển thị trường trên toàn thế giới bằng cách mở các văn phòng, các cửa
hàng phân phối trên khắp thế giới. Năm 2005 lượng tiêu thụ chè đen của Ấn Độ
tăng khá mạnh đạt 832.000 tấn tăng trung bình hàng năm là 3.2%.
Sở dĩ các nước trên được coi là thế giới của chè là vì ngành chè cũng
được coi là nền tảng của khu vực nông thôn và thu hút nhiều lao động. Vì thế
các nước này đã không ngừng cải tiến về mặt sản xuất, chế biến, công nghệ,
thiết bị chế biến mà đặc biệt phải nghiên cứu về mở rộng thị trường chè trên thế
giới. Để phát triển ngành chè thì Nhà nước Việt Nam có thể học hỏi được một số
kinh nghiệm của các nước phát triển ngành chè trên thế giới.



Về khoa học kỹ thuật: Chính Phủ cần coi cây chè là cây có nhiều tiềm

năng, do đó cần có những viện nghiên cứu chè chuyên nghiên cứu về giống chè,
phát triển công nghệ đóng gói và đa dạng hoá sản phẩm, khả năng phát triển thị
trường chè với các thiết bị hiện đại và các phương pháp tiếp cận tiên tiến để đưa
ra một số vấn đề có liên quan đến lợi ích. Đó là:
- Phát triển trồng chè
- Tác động của phân hoá học tới đất và quản lý vườn chè
- Cải thiện các chỉ số về thu hái chè
- Cơ khí hoá sản xuất
- Cải tiến về đóng gói chè
- Tác dụng của uống chè với sức khoẻ
Về phát triển xã hội: Chính phủ cần đưa ra và thực hiện tốt việc cải thiện
chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, chăm lo tốt về đời sống vật chất và tinh thần của
người lao động, cải thiện điều kiện làm việc và điều kiện sống của người lao
động và gia đình họ.
Thiết lập các trung tâm bán đấu giá chè, tạo nên sự năng động trên thị
trường, thu hút các đối tác tham gia mua bán chè, mở các chi nhánh ở các nước
tiêu thụ chè chính nhằm thực hiện chiến lược maketting của mình.



CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT CHÈ Ở VIỆT NAM

2.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH CHÈ VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA
Đối với người dân Việt Nam, cây chè được trồng từ rất lâu đời. Năm 1913,
người Pháp bắt đầu xây dựng ở Việt Nam một số đồn điền trồng chè như đồn điền
Cầu Đất (Lâm Đồng), Biển Hồ, Bàu Cạn (Gia Lai, Kon Tum), Thanh Ba, Đồng
Lương, Phú Hộ (Phú Thọ). Cho đến năm 1918, thành lập trạm nghiên cứu lâm
nghiệp với nhiệm vụ nghiên cứu di thực, thuần hoá những cây công nghiệp dài

ngày và đặc sản, được đặt trung tâm tại Phú Hộ (Phù Ninh-Phú Thọ). Trạm này
do viện nghiên cứu chè (từ năm 1998) sau khi hợp nhất với trung tâm nghiên cứu
chè ở Thanh Ba (Phú Thị). Trong thời gian từ 1913 đến 1940 sản xuất chè phát
triển rất nhanh chóng. Đến năm 1940, diện tích đã là 14.5 nghìn ha, năng suất 6.6
tạ/ha, sản lượng chè khô là 9.570 tấn. Từ năm 1940 đến năm 1973, đất nước ta đã
trải qua biết bao biến cố: Kháng chiến chống Nhật(1940-1945), chống Pháp
(1945-1954), từ năm 1954 đến năm 1973 đất nước vẫn bị chia cắt cho nên chúng
ta không đủ để xây dựng ngành nông nghiệp nói chung và ngành chè nói riêng
phát triển đúng với tiềm năng của nó.Cho đến cuối năm 1971 cả nước đạt 31.3
nghìn ha, năng suất 4.9 tạ/ha, sản lượng chè khô 15.337 tấn được tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu chủ yếu sang Liên Xô, Đông Âu, Bắc Phi. Cho tới năm 1974
Việt Nam mới chính thức có cơ quan quản lý, tổ chức kinh doanh trong ngành
chè. Từ năm 1974 cho đến nay, ngành chè có thể phân ra 3 thời kỳ phát triển như
sau:
- Thời kỳ 1974-1978.
Năm 1974, Bộ lương thực thành lập liên hiệp các xí nghiệp chế biến chè.
Khi mới thành lập liên hiệp chỉ có một cơ sở chế biến gồm 4 phân xưởng ở Phú
Thọ, một trạm giao nhận ngoại thương Kim Anh, một nhà máy chè ở Hà Nội
còn các cơ sở chế biến khác như Trần Phú, Quân Chu, Tân Trào chưa đi vào



hot ng. n nm 1978, liờn hip ó cú nhiu c s ch bin chố xanh, chố
hng Phỳ Th, H Ni, Si Gũn, Lõm ng.
Trong thi gian ny cũn cú s ra i ca cụng ty chố Trung ng thuc B
Nụng nghip, cụng ty ny cũn qun lý cỏc nụng trng quc doanh ca B nh
nụng trng: Mc chõu, Yờn M, Sụng Lụ, Than Uyờn, Quyt Thng, Bc
Sn Thi k ny t vic qun lý n t chc u c sp xp t Trung ng
nh giao k hoch, nh giỏ, vic nh giỏ l lói cú nh nc lo cho nờn ngi
trng chố v cỏc c s ch bin chố, cỏc nụng trng ch yu tp trung vo vic

thc hin k hoch sn xut v giao np sn phm. Trong thi k ny, c nng
sut v sn lng u tng chm.
Bng 2.1: Sn xut chố thi k 1975-1986
Nm
Din tớch (Nghỡn ha)
Nng sut (T/ha)
Sn lng (Tn)
1975
38.8
4.6
17.840
1976
38.7
4.9
18.963
1977
43
4.2
18.060
1978
48
4.0
19.200
1979
48
4.6
22.080
1980
46
4.4

20.240
1981
44
4.7
20.680
1982
48
5.2
24.960
1983
49
4.9
24.010
1984
49
5.5
26.950
1985
50
5.5
27.500
1986
58
5.1
29.580
( Nguồn: Báo cáo của Vinatea)

-
Thời kỳ 1979-1986.
Năm 1979 đánh dấu một b-ớc chuyển biến mới về tổ chức, quản lý của

ngành chè Việt Nam. Trong khu vực kinh tế quốc doanh, nông nghiệp và công
nghiệp (trồng trọt và chế biến chè) đã đ-ợc gắn kết lại với nhau. Liên hiệp các xí
nghiệp chè Việt Nam quản lý ở cấp ngành, liên hiệp các xí nghiệp chè Lâm
Đồng đ-ợc quản lý ở cấp tỉnh theo quyết định 75/CP và 224/CP. Đây là thời kỳ



thử nghiệm kinh tế, thành lập các xí nghiệp nông công nghiệp chè và xí nghiệp
liên hiệp công nông nghiệp chè ở các vùng chè tập trung, đã hợp nhất một vài xí
nghiệp với một vài nông tr-ờng.
Những đổi mới về tổ chức, quản lý trong thời kỳ này đã có tác dụng tích
cực nhất định đến việc điều phối chung, đến kết quả sản xuất và quản lý các đơn
vị thành viên. Liên hiệp các xí nghiệp chè Việt Nam đã tiếp nhận và quản lý 17
nông tr-ờng chè từ Bộ Nông nghiệp, Bộ Quốc phòng và các tỉnh Tuyên Quang,
Bắc Thái, Hà Giang, 13 nhà máy chế biến chè với thiết bị của Liên Xô.
Sau khi khảo sát thực tiễn trong sản xuất nông nghiệp, ngày 13/01/1981
Ban bí th- Trung -ơng Đảng đã ra chỉ thị 100CT/TƯ khẳng định chủ tr-ơng áp
dụng v mở rộng hình thức Khoán sn phẩm đến nhóm v ngời lao động. Chỉ
thị 100 đã đáp ứng đ-ợc nguyện vọng của nông dân, đ-ợc triển khai nhanh
chóng ở khắp nơi tạo nên khí thế lao động mới ở nông thôn. Tuy nhiên trong các
nông tr-ờng quốc doanh, tổ chức sản xuất vẫn chỉ theo kế hoạch của Bộ Nông
nghiệp, đ-ợc Bộ cấp vốn, cơ chế quản lý còn nhiều cấp trung gian nên ng-ời
nông dân hoàn toàn thụ động trong sản xuất, thu nhập của nông dân thấp. Để
kiện toàn và nâng cao chất l-ợng, hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, ban bí
th- đã có chỉ thị số CT 50 ra ngy 20/10/1984 nhấn mạnh Cần sắp xếp lại
một b-ớc cơ cấu sản xuất- kinh doanh, áp dụng rộng rãi các hình thức liên
doanh, liên kết với kinh tế tập thể và gia đình, nhanh chóng đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế, xoá bỏ quan liêu bao cấp chuyển mạnh sang kinh doanh XHCN, gắn
chặt cơ quan nghiên cứu khoa học v dịch vụ kỹ thuật với cơ sở. Ch trơng
trên đã đ-ợc cụ thể hoá cho loại hình nông tr-ờng quốc doanh bằng nghị quyết

51/HĐBT ngy 22/02/1985 l mở rộng các hình thức HTX v kinh tế gia đình,
sn xuất với khoa học theo nguyên tắc ny bình đẳng v cùng có lợi.
Nhờ chủ tr-ơng này, các chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt cho liên hiệp chè giảm
dần, chỉ còn nắm một chỉ tiêu là sản phẩm chủ yếu chè trên cơ sở cân đối với vật
t- đ-a vào kế hoạch, sản phẩm phụ. Nếu sản phẩm v-ợt kế hoạch thì xí nghiệp tự



tiêu thụ, nhờ cơ chế thông thoáng này mà mức xuất khẩu ở thời kỳ này đạt trung
bình 7000 tấn/ ngày.
-
Thời kỳ từ 1987 đến nay.
Đây là thời kỳ chuyển biến mạnh của ng-ời làm chè từ cơ chế bao cấp,
cung ứng và giao nộp sản phẩm sang cơ chế sản xuất kinh doanh tự trang trải, tự
chịu trách nhiệm về lỗ, lãi theo tinh thần đổi mới của Đại hội Đảng VI và các hội
nghị Trung Ương Đảng. Liên hiệp các xí nghiệp chè Việt Nam đã tiến hành tổ
chức lại bộ máy nhằm làm cho quá trình sản xuất của toàn bộ liên hiệp đ-ợc cân
đối, có hiệu quả, sử dụng đ-ợc đầy đủ t- liệu sản xuất và lao động để khai thác
tối đa tiềm năng.
Từ 47 đầu mối trực thuộc, liên hiệp đã sắp xếp lại còn 29 đơn vị sản xuất và
dịch vụ, trong đó có 23 xí nghiệp nông công nghiệp chè với qui mô hợp nhất một
nông tr-ờng với một nhà máy chế biến và 6 đơn vị dịch vụ là: Công ty xuất nhập
khẩu (XNK) và Đầu t- phát triển chè, công ty dịch vụ sản xuất và đời sống, công
ty xây lắp, nhà máy cơ khí chè, trung tâm kiểm tra chất l-ợng chè. Liên hiệp chịu
trách nhiệm phát triển các đơn vị mới, đào tạo cán bộ, cung ứng tiêu thụ chè trong
n-ớc, xuất nhập khẩu và đối ngoại, nghiên cứu và triển khai tiến bộ khoa học kỹ
thuật, hoạch định mục tiêu phát triển chung toàn ngành, điều phối toàn bộ hoạt
động của liên hiệp. Năm 1988, hiệp hội chè Việt Nam ra đời (VITAS ) đã có tác
dụng tốt, tham gia t- vấn cho Bộ Nông nghiệp và các cơ quan nhà n-ớc trong việc
xây dựng chiến l-ợc phát triển ngành chè, các chủ tr-ơng khuyến khích phát triển

sản xuất và tiêu thụ chè.
Cho đến nay ngành chè của Việt Nam đang rất phát triển, cả n-ớc đã có 34
địa ph-ơng trồng chè và trên 600 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè với hơn
2000 th-ơng hiệu khác nhau, hiện tại Việt Nam là một n-ớc xuất khẩu chè lớn
thứ 7 trên thế giới. Sản phẩm chè của Việt Nam đã có mặt tại 57 quốc gia và
vùng lãnh thổ, Việt Nam cũng chế biến đ-ợc 15 loại chè khác nhau, tuy nhiên
thì xuất khẩu phần lớn vẫn là chè đen (gần 60%) còn lại là chè xanh và một số ít
các loại khác.



2.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NGÀNH CHÈ
Ở VIỆT NAM
2.2.1. Điều kiện tự nhiên
Nhân tố điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển sản xuất
chè, các yếu tố như lượng mưa, khí hậu, nhiệt độ, đất đai là các yếu tố quan
trọng có tác động đến chất lượng chè ở Việt Nam. Trên cơ sở phân tích các chỉ
tiêu về khí hậu, đất đai, địa hình, nguồn nước của từng vùng cho thấy khả năng
thích nghi như sau:
Vùng Trung du miền núi bắc bộ:
Đây là vùng có địa hình phức tạp, được chia cắt bởi những cánh đồng hoặc
thung lũng xen giữa những đồi núi. Núi ở đây thường cao và dốc, vùng này có
mùa đông lạnh và khô. Nhiệt độ trung bình từ 18-23 độ C. Đất đai vùng này chủ
yếu là đỏ nâu trên đá vôi, đỏ vàng trên đá đất sét và biến chất. Đất đai phần lớn
có bề dày trên 100cm, hàm lượng dinh dưỡng trung bình. Nhìn chung vùng này
rất thích hợp với phát triển cây chè. Hạn chế chính của vùng này chính là mùa
đông có sương muối, mùa hè chịu ảnh hưởng của gió Lào. Có thể khắc phục
hiện tượng này bằng cách tác động vào các biện pháp kỹ thuật như ủ gốc, trồng
cây che bóng mát.
Vùng Duyên hải miền Trung:

Đây là vùng không có nhiệt độ thấp, bình quân từ 25-27 độ C, không có
mùa đông lạnh. Lượng mưa ảnh hưởng phân bố theo đất đai và vĩ tuyến. Đất đai
có thể trồng chè là nhóm vàng đỏ trên đất bazan, có nhiều tầng mỏng, độ dốc
lớn. Đây là vùng có khí hậu không thuận lợi, đất đai nghèo dinh dưỡng và không
có độ dốc phù hợp với phát triển sản xuất chè nên năng suất và chất lượng thấp.
Chế độ mưa của vùng cũng chịu ảnh hưởng của gió mùa phía Bắc, phân bố
không đều và trái với mùa sinh trưởng của chè. Ngược lại mưa thiếu vào mùa
xuân, thời điểm lá chè và búp chè hình thành lá non.
Vùng Tây nguyên:



Là vùng mang khí hậu nhiệt đới gió mùa. Độ cao từ 700 đến 1.500m so với
mặt nước biển. Nhiệt độ bình quân hàng năm là 23 độ C, lượng mưa trung bình
hàng năm là 2000mm. Đất đai có thể trồng chè là đất bazan, đặc biệt là đất nâu
vàng trên đá bazan ở Bảo Lộc, Di Linh khá tốt, hàm lượng mưa phùn và độ ẩm
cao. Đất ở vùng này có kết cấu và tầng dày tốt rất thích hợp cho việc trồng chè.
2.2.2 Vốn đầu tƣ
Nguồn vốn chính là tài sản, là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho các
doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh. Để phát triển sản xuất chè, ngoài
việc cần vốn để đầu tư cho trồng mới và thâm canh chè, đầu tư cho công nghiệp
chế biến là cực kỳ quan trọng, đó là ngành chè cần được xây dựng những nhà
máy có công suất chất lượng tốt mới có thể đáp ứng được nhu cầu tiêu chè cả về
số lượng và chất lượng. Tổng vốn đầu tư trong giai đoạn từ năm 2001 đến 2005
được chia như sau:
Bảng 2.2: Cơ cấu phân bố vốn đầu tƣ cho phát triển ngành chè
Đơn vị: Tỷ đồng
Hạng mục
Giai đoạn 2001-2005
Tổng vốn đầu tư

3.369
Trong đó:

Cho nông nghiệp
1.509
Trong đó: Cho trồng mới, chăm sóc
859
Cho công nghiệp
1.001

(Nguồn: Tổng công ty chè Việt Nam)

Qua số liệu trong bảng phân bố vốn đầu tư cho phát triển ngành chè năm
2001 đến năm 2005 cho thấy: Tổng lượng vốn đầu tư là rất lớn 3.369 tỷ đồng.
Trong đó đầu tư cho nông nghiệp và công nghiệp là 1.509 tỷ và 1.001 tỷ đồng,
còn đầu tư cho chăm sóc và trồng mới là 859 tỷ đồng

×