Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản (thời kỳ 1990 - 2007)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 128 trang )





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
***





Tống Thùy Linh





Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật
Bản (thời kỳ 1990 - 2007)


Chuyên ngành : Kinh tế
Mã số : 60 31 07



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ







Người hướng dẫn: TS. Trần Quang Minh









HÀ NỘI - 2008


MỤC LỤC

Trang
Danh mục chữ viết tắt Danh
mục bảng biểu, đồ thị
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. Cơ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUAN HỆ
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN 6
• • • •
LI. Một số vấn đề lý luận chung về thƣơng mại quốc tế 6
7.7.7. Các lý thuyêt vê thương mại quác tê 6
L2. Các công cụ chủ yêu của chính sách thương mại quác tê
1.2. Những đặc diêm chủ yêu vê điêu kiện tự nhiên và kỉnh tê - 17


xã hội của Việt Nam và Nhật Bản
• • •
1.2.1. Điêu kiện tự nhiên và kinh tê - xã hội của Việt Nam 17
1.2.2. Điêu kiện tự nhiên và kinh tê - xã hội của Nhật Bản 20
1.2.3. Nhận xét chung về lợi thế so sánh phát triển quan hệ 27 thương mại Việt
Nam - Nhật Bản
1.3. Các nhân tố chủ yếu thúc đẩy quan hệ thƣơng mại Việt 30
Nam - Nhật Bản
L3.L Xu thê toàn câu hoa và hội nhập kinh tê quác tê 30
7.5.2. Chính sách đối ngoại mở cửa và hội nhập kinh tể quốc tế 32
của Việt Nam

1.3.3. Sự điêu chỉnh chính sách kinh tê đôi ngoại hướng về châu 34


Á của Nhật Bản •
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƢƠNG MẠI 43
VIỆT NAM - NHẬT BẢN TỪ NĂM 1990 ĐÈN NĂM 2007
2.1. Những thành tựu chủ yếu của quan hệ thƣơng mại Việt 43
Nam - Nhật Bản


2.LL Sự tăng trưởng của thương mại hai chiều 43
2.L2. Sự cải thiện của cán cân mậu dịch 55
2.1.3. Sự phát triển của một số mặt hàng xuất nhập khẩu chủ lực 59
2.2. Một số hạn chế bất cập của quan hệ thƣơng mại Việt Nam 79
- Nhật Bản
2.2.1. Sự phát triển của quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật 79
Bản chưa thực sự tương xứng với tiêm năng của môi nước
2.2.2. Cơ cấu hàng hoa xuất nhập khẩu còn nghèo nàn, chậm 84

được cải thiện
2.2.3. Chất lượng hàng hóa xuất khẩu chưa cao 85
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐẨY 92
MẠNH QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN
3.1. Các giải pháp chính sách ở tầm vĩ mô 92
3.1.1. Đối với Chính phủ 92
3.1.2. Đôi với các doanh nghiệp 95
3.2. Các giảỉ pháp chính sách ở tầm vi mô 99
3.2.1. Đổi với Chính phủ 99
3.2.2. Đối với các doanh nghiệp 99
KẾT LUẬN 119
TÀI LIỆU THAM KHẢO 122

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngược dòng lịch sử chúng ta có thể thấy rằng Việt Nam và Nhật Bản
vốn có quan hệ thương mại từ hàng trăm năm nay. Ngay từ thế kỷ thứ XVI đã
có những thương gia Nhật Bản đến kinh doanh ở Việt Nam. Trải qua nhiều
biến cố lịch sử, quan hệ giữa hai nước cũng có nhiều thăng trầm nhưng vẫn
được duy trì và ngày càng phát triển. Và kể từ khi quan hệ ngoại giao chính
thức giữa Việt Nam và Nhật Bản được thiết lập vào tháng 9 năm 1973 thì
quan hệ thương mại giữa hai nước có điều kiện phát triển mạnh. Năm 1986,
Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa thị trường trong nước, phát
triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo động lực cho
quan hệ thương mại song phương phát triển mạnh hơn nữa. Đặc biệt, từ đầu
thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay, quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản
đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ. Nhật Bản luôn là một trong
những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam trong những năm gần đây
với tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu chiếm khoảng 1/5 tổng kim ngạch

ngoại thương của Việt Nam. Tuy nhiên, quan hệ ngoại thương giữa hai nước
vẫn còn khá nhiều hạn chế bất cập đòi hỏi sự cố gắng chung của cả hai nước
để khắc phục nhằm đáp ứng những đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế khu
vực đã và đang diễn ra mạnh mẽ. Vậy thì quan hệ thương mại Việt Nam -
Nhật Bản thời gian qua đã phát triển như thế nào? Sự phát triển đó diễn ra nhờ
những nhân tố gì? Liệu có thể phát triển mối quan hệ thương mại giữa hai
nước trong tương lai hơn nữa hay không? Việt Nam cần phải làm gì để tăng
kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản? Để tìm lời giải đáp cho
những câu hỏi này, việc nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc quan hệ
thương mại Việt Nam – Nhật Bản là hết sức cần thiết và có ý nghĩa về lý luận

2
và thực tiễn. Chính vì vậy, tác giả đã chọn chủ đề “Quan hệ thương mại Việt
Nam - Nhật Bản (Thời kỳ 1990 – 2007)” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, đã có nhiều tài liệu đề cập đến quan hệ thương mại Việt
Nam - Nhật Bản. Tuy nhiên, các tài liệu này chỉ tập trung về từng mặt hàng
cụ thể như: nông sản, thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ hoặc khái
quát quan hệ kinh tế, thương mại.
a. Thương mại một số mặt hàng
- Nguyễn Thế Vinh, Thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản,
Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà nội 2006. Nội dung luận văn tập trung vào các
giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản từ Việt nam sang Nhật
Bản.
- Phạm Thị Phương Nga, Xuất khẩu đồ gỗ nội thất Việt Nam sang Nhật
Bản, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà nội 2006. Nội dung luận văn tập trung
vào thực trạng xuất khẩu đồ gỗ nội thất Việt Nam sang Nhật Bản và các giải
pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng đồ gỗ nội thất sang thị trường này.
- Nguyễn Thị Nhiễu (chủ nhiệm), Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
xuất khẩu nông, thuỷ sản và hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản,

Viện Nghiên cứu Thương mại, Hà nội 2004. Nội dung đề tài tập trung vào
tình hình xuất khẩu nông, thuỷ sản và hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vào
thị trường Nhật Bản và các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường xuất khẩu
những mặt hàng này vào thị trường Nhật Bản.
- Nguyễn Thanh Đức, Nhật Bản - Thị trường mở cho xuất khẩu hàng
may mặc của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, số 5,
tháng 10/2004. Bài viết tìm hiểu về tình hình xuất khẩu hàng may mặc Việt
Nam sang Nhật Bản và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng
này sang Nhật Bản.

3
- Đoàn Tất Thắng, Xuất khẩu hoa tươi sang Nhật Bản - Một thị trường
có nhiều triển vọng, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 2, tháng 4/2006. Bài
viết khái quát nhu cầu nhập khẩu hoa của Nhật Bản và những quy định về
việc nhập khẩu hoa vào Nhật Bản.
- Trần Thu Cúc, Thực trạng thị trường nhập khẩu tôm của Nhật Bản và
giải pháp đối với Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, số
3, tháng 6/2003. Nội dung đề cập tới thị trường nhập khẩu tôm của Nhật Bản,
các giải pháp nhằm tăng cường khả năng xuất khẩu mặt hàng này của Việt
Nam sang thị trường Nhật Bản.
- Dương Hồng Nhung - Trần Thu Cúc, Xuất khẩu rau quả của Việt Nam
vào thị trường Nhật Bản, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, số 1,
tháng 2/2005. Nội dung bài viết đề cập tới thị trường nhập khẩu rau quả của
Nhật Bản và thực trạng xuất khẩu rau quả của Việt Nam vào Nhật Bản, cũng
như một số giải pháp nhằm tăng xuất khẩu mặt hàng này sang Nhật Bản.
b. Khái quát quan hệ hệ kinh tế, thương mại
- Trần Anh Phương, 25 năm quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản:
Tiến trình phát triển và vấn đề đặt ra, 25 năm quan hệ Việt Nam - Nhật Bản
1973 - 1998, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà nội 1999. Nội dung bài viết
khái quát quan hệ thương mại, đầu tư giữa Việt Nam - Nhật Bản từ năm 1973

-1998 và tổng kết những hạn chế còn tồn tại trong trao đổi mậu dịch song
phương như: quy mô buôn bán còn nhỏ hẹp, cơ cấu hàng hoá trao đổi còn
nhiều bất cập…
- Trần Quang Minh, Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản: Thành
tựu, vấn đề và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, số 5,
tháng 10/2005. Nội dung bài viết đánh giá thực trạng quan hệ thương mại
Việt Nam - Nhật Bản, nêu ra một số giải pháp thúc đẩy mối quan hệ thương
mại giữa hai nước.

4
- Nguyễn Duy Dũng, Thực trạng và triển vọng quan hệ kinh tế Việt
Nam – Nhật Bản, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản, số 1, tháng 6/1995. Phùng
Thị Vân Kiều: Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản những năm gần đây,
Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản, số 3, tháng 6/1999. Vũ Văn Hà, Quan hệ kinh
tế Việt Nam - Nhật Bản những năm gần đây, Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản, số
1, tháng 2/2000. Nội dung các bài viết tập trung về quan hệ kinh tế Việt Nam
thông qua thương mại, đầu tư, ODA và đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy
mạnh quan hệ kinh tế giữa hai nước.
Do vậy, tác giả luận văn muốn tổng hợp và cập nhật các tài liệu có liên
quan để nghiên cứu đầy đủ hơn về quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản
(thời kỳ 1990 – 2007), tập trung vào một số mặt hàng xuất và nhập khẩu chủ
yếu. Từ đó, góp phần tạo nên cơ sở tham khảo cho việc hoạch định chính sách
thương mại của Việt Nam đối với Nhật Bản thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là phân tích thực trạng, chỉ rõ những thành tựu, hạn
chế của mối quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản (thời kỳ 1990 – 2007).
Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa quan hệ
thương mại giữa hai nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu chính của luận văn là tổng hợp, thống kê số liệu,
so sánh và phân tích nhằm làm rõ thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam –

Nhật Bản trong thời kỳ nói trên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan hệ thương mại giữa Việt
Nam và Nhật Bản (thời kỳ 1990 – 2007).
Trong phạm vi nghiên cứu quan hệ xuất nhập khẩu, luận văn chọn một
số mặt hàng chủ yếu để phân tích. Cụ thể là 6 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của

5
Việt Nam sang Nhật Bản và 6 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ
Nhật Bản. Các mặt hàng chủ yếu này thay đổi theo từng năm.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng hệ phương pháp kết hợp logic và lịch sử, khái quát
hoá và cụ thể hoá, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh trên cơ sở
phân tích và tổng hợp số liệu. Ngoài ra còn dựa trên các lý thuyết về thương
mại quốc tế và chính sách thương mại.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá các vấn đề về lý luận và thực tiễn của quan hệ thương
mại Việt Nam – Nhật Bản.
- Phân tích quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản từ năm 1990 đến
năm 2007, chỉ ra được những thành tựu, những tồn tại và nguyên nhân của
chúng.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại song
phương hơn nữa trong tương lai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt, danh mục bảng
biểu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của quan hệ thương mại Việt
Nam - Nhật Bản.
Chương 2. Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản từ
năm 1990 đến năm 2007.

Chương 3. Một số giải pháp chính sách đẩy mạnh quan hệ thương
mại Việt Nam - Nhật Bản.




6
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUAN HỆ
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM – NHẬT BẢN
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về thƣơng mại quốc tế
1.1.1. Các lý thuyết về thương mại quốc tế
1.1.1.1. Chủ nghĩa trọng thương
Các nhà kinh tế của chủ nghĩa trọng thương đã coi tiền là tiêu chuẩn căn
bản của của cải. Theo họ, một quốc gia giàu là phải có nhiều tiền, mỗi nước
muốn đạt được sự thịnh vượng trong phát triển kinh tế thì phải gia tăng khối
lượng tiền tệ. Những người theo chủ nghĩa trọng thương cho rằng của cải của
một nước chỉ có thể tăng lên nhờ phát triển thương nghiệp, đặc biệt là ngoại
thương, tức là phát triển buôn bán với nước ngoài. Bởi họ quan niệm lợi
nhuận thương nghiệp là kết quả của sự trao đổi không ngang giá và lừa gạt
giữa các quốc gia nên trong ngoại thương phải thực hiện xuất siêu, vì chỉ xuất
siêu mới đạt được mục đích của các hoạt động kinh tế, mới làm tăng khối
lượng tiền tệ của một nước. Do đó, họ đã đề nghị chính phủ can thiệp mạnh
vào lĩnh vực này nhằm thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu thông qua việc
áp dụng các chính sách và công cụ kinh tế vĩ mô.
Các lý luận của chủ nghĩa trọng thương còn đơn giản, chưa giải thích
được sự ra đời của thương mại quốc tế song nó đã sớm đánh giá tầm quan
trọng của thương mại quốc tế cũng như vai trò của nhà nước trong việc điều
tiết hoạt động kinh tế xã hội thông qua các công cụ thuế quan, lãi suất đầu tư
vốn, .v.v…
1.1.1.2. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối

Theo lý thuyết về lợi thế tuyệt đối do Adam Smith phát hiện: “Mỗi quốc
gia chỉ nên sản xuất các mặt hàng mà họ có lợi thế tuyệt đối, tức là sử dụng
những lợi thế tuyệt đối đó họ có thể sản xuất ra sản phẩm với chi phí thấp hơn
các nước khác”. Theo đó, quốc gia nào có đất đai phì nhiêu thì nên tập trung

7
sản xuất trong ngành trồng trọt, nhập khẩu các mặt hàng công nghiệp tại các
nước khác. Mỗi nước nên sản xuất chuyên môn hóa, dựa vào lợi thế tuyệt đối
sẵn có của quốc gia thì sẽ có lợi nhất. Khi các nguồn lực của từng nước được
sử dụng hiệu quả nhất thì tổng sản phẩm của hai quốc gia sẽ tăng lên. Số sản
phẩm tăng thêm này có được là do sự chuyên muôn hóa sản xuất và sẽ được
phân bổ giữa hai nước theo tỷ lệ ngoại thương.
Ta cùng xét ví dụ về nước Pháp và nước Nhật cùng sản xuất ra gạo và
vải.
Bảng 1.1. Lợi thế tuyệt đối
Sản phẩm
Pháp
Nhật
Gạo (kg/1 giờ công)
6
1
Vải (m/1 giờ công)
4
5

Pháp có lợi thế tuyệt đối về sản xuất gạo, vì năng suất lao động sản xuất
gạo của Pháp gấp 6 lần nước Nhật nên chi phí để sản xuất 1 kg gạo chỉ bằng
1/6. Nước Pháp sẽ chuyên môn hóa sản xuất gạo. Nước Nhật có lợi thế tuyệt
đối về sản xuất vải, vì năng suất lao động sản xuất vải của nước Nhật gấp 5/4
lần nước Pháp nên chi phí sản xuất 1 m vải chỉ bằng 4/5. Nước Nhật sẽ

chuyên môn hóa về sản xuất vải.
Pháp và Nhật cùng tiến hành trao đổi sản phẩm cho nhau, cả hai sẽ đạt
được lợi ích thương mại như sau:
+ Nước Pháp bỏ ra 1 giờ công sản xuất được 6 kg gạo. Nếu trao đổi
trong nước thì đem 6 kg gạo đổi lấy 4 m vải. Khi Pháp chuyên môn hóa sản
xuất gạo trao đổi với Nhật thì phải 6 kg gạo phải đổi được số mét vải lớn hơn
so với 4 m vải. Giả sử tỷ lệ trao đổi giữa hai nước là 1 kg gạo lấy 1 m vải thì 6
kg gạo của Pháp sẽ đổi được 6 m vải của Nhật. So với trao đổi trong nước,
Pháp sẽ có lợi 2 m vải, hay tiết kiệm được 1/2 giờ công lao động.

8
+ Đối với nước Nhật, nếu muốn có 6 kg gạo như nước Pháp thì nước
Nhật phải bỏ ra 6 giờ công lao động. Với thời gian đó, Nhật chỉ chuyên môn
hóa sản xuất vải thì được 30 m vải (6 giờ công x 5 m vải = 30 m vải). Nhật
dùng 6 m vải để đổi lấy 6 kg gạo thì sẽ còn dư 24 m vải, hay tiết kiệm được
gần 5 giờ công lao động.
Vậy là cả hai quốc gia, Pháp và Nhật đều có lợi khi trao đổi thương mại
với nhau khi chuyên môn hóa sản xuất. Lý thuyết của Adam Smith đã giải
thích được nguyên nhân của trao đổi thương mại giữa các quốc gia mà mỗi
quốc gia đều có một lợi thế tuyệt đối nào đó. Tuy nhiên, lý thuyết trên không
giải thích được hiện tượng: trao đổi thương mại vẫn diễn ra giữa một nước có
lợi thế tuyệt đối hơn hẳn với một nước kém lợi thế.
1.1.1.3. Lý thuyết về lợi thế so sánh (lợi thế tương đối)
Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo, đã khắc phục được hạn
chế của lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith. Theo lý thuyết về lợi thế
so sánh nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các nước khác trong
việc sản xuất tất cả sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tạo ra lợi ích khi tham
gia vào phân công lao động và thương mại quốc tế. Khi tham gia vào thương
mại quốc tế, nước đó sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu sản phẩm mà
việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất, tức là chúng có lợi thế tương đối và nhập

khẩu các sản phẩm mà việc sản xuất chúng bất lợi nhất, tức là sản phẩm
không có lợi thế tương đối. Lý thuyết của ông dựa trên 5 giả thiết:
+ Thế giới chỉ có 2 nước và 2 loại sản phẩm.
+ Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất có thể di chuyển trong mỗi quốc
gia, nhưng không di chuyển giữa các nước.
+ Thương mại hoàn toàn tự do giữa hai nước.
+ Chi phí sản xuất là cố định, không có chi phí vận chuyển.
+ Công nghệ sản xuất tại hai quốc gia là cố định.

9
Ta cùng xét ví dụ minh họa lợi thế so sánh của Hàn Quốc và Việt Nam.
Bảng 1.2. Lợi thế so sánh
Sản phẩm
Hàn Quốc
Việt Nam
Gạo (kg/giờ công)
6
1
Vải (m/giờ công)
4
2

Hàn Quốc có lợi thế tuyệt đối về sản xuất 2 sản phẩm so với Việt Nam.
Nhưng năng suất lao động sản xuất gạo của Hàn Quốc gấp 6 lần so vớiViệt
Nam còn năng suất lao động sản xuất vải chỉ gấp 2 lần. Vì vậy, giữa hai loại
sản phẩm gạo và vải, Việt Nam có lợi thế so sánh trong sản xuất vải. Hàn
Quốc có lợi thế so sánh trong sản xuất gạo. Hai quốc gia sẽ chuyên môn hóa
sản xuất mặt hàng có lợi thế tương đối rồi tiến hành trao đổi thương mại với
nhau.
Nếu tỷ lệ trao đổi quốc tế bằng tỷ lệ trao đổi nội địa của mỗi nước thì

một trong hai nước sẽ từ chối trao đổi thương mại. Bởi vậy, tỷ lệ trao đổi
quốc tế phải nằm trong khoảng sau:
1/2 < Tỷ lệ trao đổi quốc tế (gạo/vải) < 6/4
1/2 : Tỷ lệ trao đổi nội địa của Việt Nam
6/4 : Tỷ lệ trao đổi nội địa của Hàn Quốc
Hàn Quốc sẽ chuyên môn hóa sản xuất gạo, rồi dùng gạo để đổi lấy vải
của Việt Nam. Giả sử tỷ lệ trao đổi là 6 kg gạo đổi lấy 6 m vải, thì Hàn Quốc
sẽ được lợi 2 m vải, tức là tiết kiệm được 1/2 giờ công.
Nếu muốn có 6 kg gạo như Hàn Quốc thì Việt Nam phải bỏ ra 6 giờ
công lao động. Việt Nam sẽ chuyên môn hóa sản xuất vải, rồi dùng vải để đổi
lấy gạo từ Hàn Quốc, tức là 6 giờ công x 2 m vải = 12 m vải. Việt Nam lấy 6
m vải để đổi lấy 6 kg gạo, dư ra 6 m vải, tiết kiệm được 3 giờ công lao động.

10
Nếu tỷ lệ trao đổi càng gần với tỷ lệ trao đổi của Hàn Quốc thì Việt Nam càng
có lợi và ngược lại.
Như vậy, nếu tiến hành trao đổi theo tỷ lệ ở khoảng giữa thì cả Việt Nam
và Hàn Quốc đều có lợi. Khoảng dao động của tỷ lệ trao đổi quốc tế là:
4 m vải < 6 kg gạo < 12 m vải
Khi tỷ lệ trao đổi là 6 kg gạo đổi lấy 6 m vải thì Việt Nam được lợi 6 m
vải còn Hàn Quốc được lợi 2 m vải. Song khi tỷ lệ trao đổi là 6 kg gạo lấy 8
m vải thì Hàn Quốc được lợi 4 m vải và Việt Nam được lợi 4 m vải. Việc thay
đổi tỷ lệ trao đổi quốc tế sẽ ảnh hưởng tới nguồn lợi thương mại của mỗi nước
tham gia.
Lý thuyết lợi thế so sánh của Ricado, một lý thuyết cơ bản của thương
mại quốc tế, khắc phục được hạn chế của lý thuyết lợi thế tuyệt đối. Tuy
nhiên, ông xem xét giá trị hoặc giá cả của một sản phẩm chỉ dựa trên số lượng
lao động tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm đó nên ông chưa giải
thích được nguồn gốc phát sinh lợi thế của một nước đối với một sản phẩm,
không giải thích triệt để nguyên nhân sâu xa của quá trình thương mại quốc tế.

Các nhà kinh tế học sau Adam Smith và Ricado như Paul Samuelson…
đã phát triển và hoàn thiện lý thuyết về thương mại quốc tế với cá giả định
ngày càng sát với đời sống hiện thực hơn. Những phát triền này không được
đề cập đến ở đây (do khuôn khổ của luận văn không cho phép). Song, có thể
khẳng định rằng những phát triển đó đều dựa trên cơ sở lý luận về lợi thế
tuyệt đối và lợi thế tương đối trong thương mại quốc tế của Adam Smith và
Ricado.
Tóm lại, lý thuyết thương mại quốc tế đã chỉ rõ: “Bất kỳ hai quốc gia nào
tận dụng những lợi thế của mỗi nước đều đem lại lợi ích cho cả hai quốc gia
và cho xã hội nói chung. Và sự phát triển thương mại “hoàn toàn tự do” (theo
cơ chế thị trường, không có sự can thiệp của nhà nước) sẽ đem lại lợi ích tối

11
đa cho xã hội”. Tuy nhiên, mỗi quốc gia tùy theo mục tiêu kinh tế, chính trị ở
mỗi giai đoạn phát triển nhất định đều có những chính sách khuyến khích
hoặc hạn chế trao đổi mậu dịch đối với một số mặt hàng nào đó. Các công cụ
chính sách để thực hiện các mục tiêu này là “trợ cấp xuất hoặc nhập khẩu”;
“hạn ngạch – quota”; “thuế quan – tariff”; “hạn chế xuất khẩu tự nguyện –
VER”;… Tất cả những biện pháp chính sách này đều bóp méo thương mại tự
do. Chính vì vậy mà trong suốt nhiều thập kỷ qua, giữa các quốc gia cũng như
các tổ chức quốc tế đã liên tục diễn ra các cuộc đàm phán nhằm dỡ bỏ những
rào cản này. Sự ra đời của GATT/WTO và hàng loạt các Hiệp định thương
mại tự do (FTA) giữa các nước và các khu vực là những nỗ lực để giải quyết
vấn đề này.
Vì vậy, để có thể hiểu rõ hơn bản chất của các cuộc đàm phán cũng như
các hiệp định thương mại giữa các nước, cần thiết phải làm rõ một số khái
niệm liên quan đến các vấn đề nêu trên. Phần tiếp theo sẽ đề cập đến các khái
niệm này.
1.1.2. Các công cụ chủ yếu của chính sách thương mại quốc tế
1.1.2.1. Thuế quan

Thuế quan được hiểu là loại thuế chính phủ đánh vào mỗi đơn vị hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu hoặc quá cảnh. Trong đó, thuế nhập khẩu là loại
thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng nhập khẩu, nên người mua trong nước phải trả
cho những hàng hóa nhập khẩu một khoản lớn hơn mức mà người xuất khẩu
ngoại quốc thu được. Thuế xuất khẩu là thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa
xuất khẩu.
Thuế quan, bao gồm thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu đều tác động đến
giá cả của hàng hóa. Các nước đang phát triển thường sử dụng thuế xuất khẩu
như một công cụ để tăng lợi ích quốc gia. Nhưng tại nhiều nước phát triển, họ

12
không sử dụng thuế xuất khẩu để tăng nguồn thu ngân sách nên khi nhắc tới
thuế quan là đồng nghĩa nói đến thuế nhập khẩu.
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization – WTO)
thuế quan (thuế nhập khẩu) là công cụ bảo hộ hợp pháp duy nhất để bảo hộ
các ngành sản xuất trong nước. Vì thuế quan được thể hiện rõ ràng qua các
con số, nên người ta có thể biết được mức độ bảo hộ dành cho một mặt hàng,
một ngành hàng cụ thể nào đó. Thuế quan vừa là biện pháp bảo hộ ít bóp méo
thương mại nhất vừa là biện pháp mang tính minh bạch hơn cả, phù hợp với
nguyên tắc của WTO. Thông qua việc đàm phán và lịch trình giảm thuế quan
của từng quốc gia, các đối tác thương mại có thể dự đoán được tốc độ, lịch
trình cắt giảm thuế quan của quốc gia đó, mức độ bảo hộ và mức độ mở cửa
thị trường. Do vậy, chính sách ngoại thương của một nước trở nên dễ dự đoán
hơn.
Đối với quốc gia đánh thuế, thuế quan sẽ tăng thu nhập thuế cho quốc
gia sở tại. Nhưng mặt khác, thuế quan lại làm giảm hiệu quả khai thác nguồn
lực của nền kinh tế thế giới nên làm giảm phúc lợi chung. Bởi thuế quan tác
động đến hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia, làm thay đổi
cán cân thương mại nên thuế quan cũng có ảnh hưởng tiêu cực. Nếu thuế
quan của một hàng hóa cao sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng

hóa đó, do đó làm giảm lượng hàng hóa được tiêu thụ. Mức thuế quan cao
cũng sẽ kích thích nạn buôn lậu.
Khi chính phủ đánh thuế xuất khẩu, giá hàng hóa ở thị trường nội địa sẽ
thấp hơn trên thị trường quốc tế. Điều đó có thể ảnh hưởng tới khả năng cạnh
tranh của hàng hóa xuất khẩu tại nước ngoài vì người tiêu dùng tìm kiếm các
sản phẩm thay thế, khiến sản lượng trong nước của hàng hóa xuất khẩu giảm.
Thuế quan xuất khẩu cao cũng không khuyến khích các nhà sản xuất trong
nước ứng dụng những phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ để tăng

13
năng suất, nâng cao chất lượng và giảm chi phí. Trong trường hợp khả năng
thay thế hàng hóa thấp, thuế quan xuất khẩu sẽ không ảnh hưởng nhiều tới
khối lượng hàng hóa xuất khẩu mà vẫn mang lại thu nhập cho quốc gia xuất
khẩu.
Thuế nhập khẩu, ngoài mục đích để tăng thu nhập cho chính phủ còn
được sử dụng để thực hiện các mục đích khác nhau. Thuế quan nhằm chống
lại thủ đoạn bán phá giá thị trường bằng cách tăng giá nhập khẩu hàng hóa bị
bán phá giá lên đúng mức giá thực của chúng. Thuế quan giúp bảo hộ thị
trường nội địa, đặc biệt là các ngành công nghiệp non trẻ chưa đủ sức cạnh
tranh. Thuế quan còn giúp cải thiện cán cân thương mại của mỗi nước, giảm
tổng mức nhập khẩu bằng cách làm cho chúng đắt hơn so với sản phẩm có thể
thay thế ở trong nước… Vì thuế quan nhập khẩu sẽ làm tăng giá hàng hóa nên
một mặt sẽ khuyến khích các doanh nghiệp nội địa, tăng khả năng sản xuất
cho sản phẩm được bảo hộ, mặt khác làm suy giảm khả năng cạnh tranh của
họ. Đồng thời, khả năng sản xuất những sản phẩm khác lại bị suy giảm và
những doanh nghiệp sản xuất sản phẩm này bị thiệt thòi. Thuế quan đối với
một sản phẩm cao sẽ làm hạn chế tiêu dùng sản phẩm đó, và làm tăng hoặc
giảm nhu cầu tiêu dùng sản phẩm khác. Cũng do chính sách bảo hộ mà giá cả
nội địa tăng lên khiến người tiêu dùng bị thiệt thòi. Thuế quan nhập khẩu
được sử dụng để trả đũa các nước khác vì có biện pháp hạn chế áp đặt với

hàng hóa xuất khẩu của nước mình cũng tác động xấu tới quan hệ thương mại
giữa các nước, ảnh hưởng tới quyền lợi của người tiêu dùng của nước sở tại.
Trước đây, thuế quan là biện pháp hạn chế thương mại quan trọng nhất
trong chính sách thương mại của mỗi quốc gia và được sử dụng như một công
cụ chủ yếu để bảo hộ thị trường nội địa. Nhưng từ sau chiến tranh thế giới thứ
hai, mức thuế quan đánh vào hàng hóa có xu hướng giảm xuống cùng với quá

14
trình tự do hóa gia tăng. Tuy vậy, nhiều quốc gia hiện nay vẫn sử dụng thuế
quan như một công cụ trong chính sách thương mại.
1.1.2.2. Hạn ngạch
Hạn ngạch là một trong những hình thức của hàng phi thuế quan. Hạn
ngạch là qui định số lượng hoặc giá trị xuất nhập khẩu đối với từng hàng hóa,
từng thị trường. Đây là một công cụ kinh tế nhằm bảo hộ sản xuất nội địa, cải
thiện cán cân thanh toán.
Hạn ngạch xuất khẩu là hạn chế số lượng xuất khẩu theo từng mặt hàng,
theo từng quốc gia, thị trường và theo thời gian.
Hạn ngạch nhập khẩu là hạn chế số lượng nhập khẩu nên cũng ảnh
hưởng tới giá cả hàng hóa và lợi ích xã hội. Khi hạn ngạch nhập khẩu được áp
dụng sẽ gây ảnh hưởng tới mức cung nên giá cân bằng của hàng hóa sẽ cao
hơn trong điều kiện thương mại tự do. Điều này khuyến khích các nhà sản
xuất nội địa sản xuất ra một lượng sản phẩm cao hơn, gây lãng phí của cải xã
hội. Bởi vậy, hạn ngạch nhập khẩu tương đối giống với thuế nhập khẩu. Để
bảo vệ lợi ích quốc gia, hạn ngạch nhập khẩu cũng nhằm mục đích thay thế
hàng nhập khẩu, bảo vệ sản xuất nội địa. Tuy nhiên, hạn ngạch có một số
điểm khác biệt so với thuế quan. Thứ nhất, hạn ngạch cho biết trước số lượng
hàng nhập khẩu, còn thuế quan lượng hàng nhập khẩu lại phụ thuộc vào mức
độ linh hoạt của cung cầu nên khó có thể dự đoán được. Do vậy, những tác
động của hạn ngạch đến lợi ích xã hội, thương mại cũng rõ ràng hơn. Hạn
ngạch có thể biến một doanh nghiệp nội địa duy nhất trở thành một nhà độc

quyền, ảnh hưởng tới quyền lợi của người tiêu dùng. Thứ hai, hạn ngạch có
liên quan chặt chẽ tới việc phân phối giấy phép hạn ngạch nên dễ làm nẩy
sinh các tiêu cực xã hội như hối lộ các quan chức để có được giấy phép nhập
khẩu. Do vậy, chính phủ nên bán đấu giá những giấy phép đó để khắc phục
những tồn tại trên và tăng nguồn thu cho ngân sách quốc gia.

15
1.1.2.3. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restraint – VER) được
hiểu là một loại hạn ngạch được thực hiện một cách “tự nguyện” bởi nước
xuất khẩu đối với hàng xuất khẩu của mình sang các nước khác nhằm tránh
các biện pháp trả đũa do nước nhập khẩu đưa ra.
Khi VER được thực hiện thì những ảnh hưởng của nó đối với nước nhập
khẩu cũng tương tự như ảnh hưởng của hạn ngạch nhập khẩu xảy ra với quốc
gia sở tại vì chúng đều hạn chế về số lượng hoặc giá trị hàng nhập khẩu. Tuy
nhiên, vẫn có một số điểm khác biệt cơ bản. Thứ nhất, VER không mang lại
thu nhập từ thuế nhập khẩu cho nước nhập khẩu mà mang lại thu nhập cho
nước xuất khẩu từ giá xuất khẩu gia tăng. VER mang lại lợi cho nước xuất
khẩu hơn so với thuế quan hoặc hạn ngạch. Thứ hai, những sự ảnh hưởng về
sự tăng giá xuất khẩu do thực hiện VER đối với nước xuất khẩu chỉ mang tính
chất tạm thời. Vì khi một quốc gia thực hiện VER với đối tác nhập khẩu của
mình thì các nước xuất khẩu khác cũng có lợi do giá xuất khẩu tăng. Kết quả
là họ cũng có cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu sang đối tác này. Các doanh nghiệp
xuất khẩu thực hiện VER cũng có xu hướng di chuyển các cơ sở sản xuất sang
các nước nhập khẩu hoặc các nước khác để tránh những hạn chế về VER. Giá
cả hàng hóa có xu hướng giảm dần đến mức cân bằng như khi không có VER.
Thực hiện hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng có tác động kinh tế như
một hạn ngạch xuất khẩu tương đương. Tuy nhiên, về bản chất hạn chế xuất
khẩu tự nguyện và hạn ngạch xuất khẩu có sự khác nhau. Trong khi hạn
ngạch xuất khẩu mang tính chủ động thì hạn chế xuất khẩu tự nguyện mang

tính miễn cưỡng.
1.1.2.4. Những quy định về điều kiện kỹ thuật
Một quốc gia có thể hạn chế số lượng hoặc giá trị hàng hóa nhập khẩu
bằng cách đưa ra những quy định về điều kiện kỹ thuật. Đây là những quy

16
định về tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng hóa nhằm bảo vệ sức khỏe, sự an
toàn của con người, các loài động thực vật và môi trường, về bao bì của hàng
hóa nhập khẩu, các yêu cầu về nhãn mác hàng hóa… Trong thực tế, các tiêu
chuẩn và quy định về kỹ thuật là một trong những khó khăn lớn nhất đối với
các nước đang và kém phát triển khi tiếp cận thị trường nước ngoài. Bởi trình
độ, kỹ năng về công nghệ sản xuất, chế biến, bảo quản của họ còn thấp, chưa
đáp ứng được yêu cầu của nước nhập khẩu. Điều này có thể gây ra các tác
động hạn chế thương mại giữa các quốc gia, cản trở sự phát triển thương mại
quốc tế.
1.1.2.5. Trợ cấp xuất khẩu
Trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp tiền trực tiếp hay cho vay với lãi suất thấp
đối với doanh nghiệp xuất khẩu trong nước hoặc cho các bạn hàng nước ngoài
vay ưu đãi để họ có thể mua hàng hóa do nước mình xuất khẩu nhằm khuyến
khích xuất khẩu quốc gia. Việc trợ cấp có thể được thực hiện dưới các hình
thức như cung cấp vốn với lãi suất thấp, miễn thuế thu nhập xuất khẩu, trợ giá
xuất khẩu…
Để khuyến khích xuất khẩu một sản phẩm nào, chính phủ chỉ cần thực
hiện trợ cấp xuất khẩu đối với sản phẩm đó. Điều này rất có lợi cho nhà xuất
khẩu vì họ tăng được thu nhập do hạ thấp chi phí hoặc tăng giá xuất khẩu. Kết
quả là sản xuất các mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu tăng lên nhưng
tiêu dùng các mặt hàng này lại giảm. Khả năng sản xuất các mặt hàng khác
cũng bị suy giảm do việc di chuyển các nguồn lực sản xuất sang sản xuất các
mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Do vậy, ảnh hưởng của trợ cấp xuất
khẩu đến giá sản phẩm và lợi ích xã hội cũng tương tự như ảnh hưởng của

thuế quan đối với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, lịch sử đã cho thấy bất kỳ một
quốc gia nào có chính sách khuyến khích xuất khẩu thích hợp, tận dụng các

17
lợi thế của đất nước vào sản xuất và xuất khẩu hiệu quả nhất đều đạt được
những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế.
1.2. Những đặc điểm chủ yếu về điều kiện tự nhiên và kinh tế – xã
hội của Việt Nam và Nhật Bản
1.2.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của Việt Nam
1.2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Việt Nam là một quốc gia nằm ở vị trí trung tâm của khu vực Đông Nam
Á, phía Bắc giáp với Trung Quốc, phía Tây giáp với Lào, Campuchia, phía
Đông và Nam trông ra biển Đông và Thái Bình Dương. Với diện tích 331.698
km
2
, dải đất liền hình chữ S, lãnh thổ Việt Nam phần lớn là đồi núi thấp của
bốn vùng núi chính (Đông Bắc, Tây Bắc, Trường Sơn Bắc, Trường Sơn Nam),
hai đồng bằng lớn (Bắc Bộ và Nam Bộ). Việt Nam có đường biên giới đất liền
dài 4.510 km, đường bờ biển dài 3.260 km, và có ba mặt Đông, Nam, Tây
Nam trông ra biển. Đây là điều kiện địa lý thuận lợi giúp Việt Nam trở thành
đầu mối giao thông quan trọng từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương.
Mặc dù thuộc vùng nhiệt đới nhưng Việt Nam lại có hai vùng khí hậu
gắn với hai vùng địa hình khác nhau. Với một nền nhiệt độ cao, lượng mưa
nhiều đã tạo ra một hệ thực vật phong phú với trên 800 loài cây gỗ (đinh, lim,
sến, táu…), quần thể động vật đa dạng lên tới 200 loài thú, 100 loài lưỡng cư,
trên 150 loài bò sát, 1.000 loài lưỡng biển và 200 loài nước ngọt.
Việt Nam là một trong những quốc gia có biển và nguồn nước mặn
phong phú nên nguồn lợi thủy sản dồi dào, gồm thủy sản nước mặn, nước lợ
và nước ngọt. Việt Nam có tới 6.845 loại động vật biển, với nhiều loại đặc sản
và quý hiếm như: tôm, mực, cá voi, cá heo. Biển Việt Nam còn có tiềm năng

khai thác muối phục vụ sinh hoạt, công nghiệp và xuất khẩu. Với khoảng 1,2
triệu ha mặt nước, trên 600 ngàn ha sông suối, trên 300 ngàn ha hồ chứa…

18
phân bố đều ở các vùng, Việt Nam còn có tiềm năng phát triển và khai thác
thủy sản nước lợ, nước ngọt.
Ngoài những tài nguyên rừng, tài nguyên thủy hải sản, Việt Nam còn có
nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng như: than (trữ lượng khoảng trên 6 tỉ
tấn), dầu khí (trữ lượng dầu mỏ khoảng 3 – 4 tỷ thùng và khí đốt khoảng 50 –
70 mét khối), kim loại màu (nhôm, đồng, vàng, thiếc…), kim loại đen (sắt,
măng gan, titan)… Hiện nay, Việt Nam chỉ mới khai thác và chế biến khoáng
sản ở mức độ thấp, các khoáng sản xuất khẩu chỉ ở dạng sơ chế, dầu chỉ là
dầu thô. Đây là điều kiện thuận lợi trước mắt giúp phát huy hiệu quả kinh tế
cao mà cần ít vốn đầu tư. Bên cạnh đó, Việt Nam còn có các mỏ nhỏ rải rác
trên cả nước, rất thuận tiện cho việc khai thác và phát triển kinh tế giữa các
vùng.
Hàng nghìn con sông lớn, nhỏ trải dài theo lãnh thổ, cứ khoảng 20 km lại
có một cửa sông nên hệ thống giao thông đường thủy của Việt Nam khá thuận
lợi. Ngoài ra, cùng với nhiều hải cảng lớn: Hải Phòng, Nghi Sơn, Đà Nẵng,
Cam Ranh, Vũng Tàu… Việt Nam dễ dàng phát triển kinh tế, giao thương
trong nước và ngoài nước.
1.2.1.2. Dân cư và nguồn nhân lực
Tính đến năm 2007, dân số của Việt Nam là trên 85 triệu người, đứng
thứ 2 tại Đông Nam Á và đứng thứ 13 trên thế giới. Dân số Việt Nam được
đánh giá là có quy mô lớn và phát triển nhanh với tốc độ tăng dân số ở mức 1
triệu người/năm.
Nguồn nhân lực của Việt Nam đông đảo, có trình độ văn hóa tương đối
đồng đều. Lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh, cần cù, sáng tạo
và ham học hỏi. Giá nhân công Việt Nam thấp hơn so với một số nước trong
khu vực. Hơn nữa, nguồn nhân lực Việt Nam ngày càng được hoàn thiện hơn


19
về trình độ chuyên môn, tinh thần chấp hành kỷ luật và văn hóa ứng xử trong
công việc.
1.2.1.3. Thị trường tiềm năng
Để giữ vững vị trí cường quốc kinh tế hiện nay, Nhật Bản luôn cần một
thị trường tiềm năng có thể đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của mình về nguyên
vật liệu, lương thực phẩm phục vụ cho cuộc sống và cho sự phát triển. Việt
Nam là quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên trên mặt đất cũng như dưới nước,
đất đai màu mỡ rất phù hợp để phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp để xuất
khẩu nông sản và thủy sản. Những mỏ kim loại quý, dầu và khí đốt… cũng
được phát hiện và khai thác ngày càng tăng. Việt Nam lại án ngữ các con
đường giao thông trong khu vực Tây Thái Bình Dương nên rất thuận lợi mở
rộng kinh tế đối ngoại, thương mại mậu dịch…
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên các
tiềm năng đó chỉ mới khai thác bước đầu, nên có thể cung ứng phần nào cho
Nhật Bản. Mặt khác, Việt Nam cũng cần nhập khẩu từ Nhật Bản nhiều thiết bị
máy móc hiện đại, nguyên vật liệu cần thiết để phát triển kinh tế trong nước.
Theo Tổng cục Thống kê dự tính: Năm 2024, dân số Việt Nam sẽ vượt qua
con số 100 triệu người, đạt 100,5 triệu người. Mật độ dân số lúc đó đạt 335
người/km
2
, tăng hơn nhiều so với 258 người/km
2
hiện tại. Dân số đông, trẻ thì
nhu cầu tiêu dùng cao, là một điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ hàng hóa
và phát triển kinh tế của Nhật Bản. Bởi vậy, có tới 338 công ty Nhật Bản trên
tổng số 652 công ty xếp Việt Nam đứng vào hàng thứ 4 trong các đối tác quan
trọng nhất mà họ sẽ đầu tư trong 10 năm đầu thế kỷ XXI. Điều này thể hiện
sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam – một đất nước đóng vai trò quan trọng

về kinh tế và chính trị ở khu vực Đông Nam Á trong chính sách đối ngoại của
Nhật Bản.


20
1.2.2. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của Nhật Bản
1.2.2.1. Quốc đảo đồng nhất
Nhật Bản là quần đảo hình cánh cung, ôm lấy lục địa châu Á với diện
tích khoảng 380.000 km
2
, chiều dài đất nước khoảng 3.500 km. Do được hình
thành từ hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ trong đó gồm 4 hòn đảo chính là
Hokkaido, Honshu, Kyushyu, và Shikoku, nên quốc đảo này không có đường
biên giới chung với quốc gia nào. Vì vậy, trong lịch sử, trước năm 1945, quốc
gia này chưa từng bao giờ bị một quốc gia khác chiếm đóng. Điều này giúp
hình thành nên một quốc đảo có sự đồng nhất về dân tộc, về ngôn ngữ, về tôn
giáo, về kinh tế, và cả sự đồng bộ về giáo dục.
Với hơn 90% dân số thuộc dân tộc Yamato (người Nhật) nên hầu hết
mọi người đều có thể giao tiếp với nhau bằng tiếng Nhật chuẩn được dạy
trong trường học. Sự đồng bộ giáo dục trong chương trình và chất lượng
giảng dạy cũng được thực hiện trên khắp mọi miền đất nước. Bởi thế, Nhật
Bản có một nguồn lao động có trình độ giáo dục tương đối cao và được đào
tạo tốt về kỹ năng lao động, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế, xã hội,
tránh được các mâu thuẫn về sắc tộc. Tất cả những sự đồng nhất kể trên tạo
nên ý thức đoàn kết trong công việc, tinh thần tập thể, có tính kỷ luật cao và
ham học hỏi của người Nhật.
Do quần đảo Nhật Bản nằm trên vành đai núi lửa Thái Bình Dương nên
3/4 lãnh thổ Nhật Bản là đồi núi, chỉ có những đồng bằng nhỏ nằm ở giữa
những dãy núi. Vì vậy, diện tích đất canh tác của Nhật Bản chỉ chiếm 1/6 diện
tích, không thuận tiện cho việc thâm canh tăng năng suất. Mặt khác, Nhật Bản

là một quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên và cũng thường xuyên xảy ra
những thiên tai như: động đất, núi lửa, mưa bão lớn… Điều này thúc đẩy
người dân Nhật Bản ra sức tìm kiếm, phát triển kỹ thuật, công nghệ mới, đạt
tới đỉnh cao trong một số lĩnh vực: sản xuất sắt và thép, hóa chất cho nông

21
nghiệp, vật liệu mới, chế biến năng lượng hạt nhân, chất bán dẫn, … Những
tiến bộ vượt bậc trong ngành công nghiệp (điển hình là trong chế tạo ô tô) đã
giúp Nhật Bản nhiều năm thặng dư thương mại với các quốc gia khác chủ yếu
do xuất khẩu ô tô. Các thành tựu của công nghệ sinh học cũng giúp nâng cao
năng suất nông nghiệp, phát triển và nâng cao chất lượng lĩnh vực y tế và bảo
vệ sức khỏe người dân. Đây cũng chính là lợi thế quan trọng trong phát triển
kinh tế của đất nước vốn không được thiên nhiên ưu đãi này.
Tuy nhiên, Nhật Bản lại có biển bao bọc xung quanh và là nguồn cung
cấp thực phẩm dồi dào. Nhật Bản hiện là một trong những quốc gia tiêu thụ
lượng hải sản nhiều nhất thế giới. Nhật Bản cũng là một trong những nước có
sản lượng đánh bắt cá cao trên thế giới, chiếm khoảng 15% tổng sản lượng
toàn thế giới. Biển cũng là đường giao thông thuận tiện giúp vận chuyển hàng
hóa nhanh, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành ngư nghiệp nói riêng
và phát triển kinh tế nói chung.
1.2.2.2. Siêu cường kinh tế
GDP bình quân đầu người của Nhật Bản luôn trong danh sách hàng đầu
trên thế giới. Năm 1999, GDP bình quân đầu người của Nhật Bản đạt 35.567
USD, cao hơn gần 4,5% so với Mỹ. Năm 2003, GDP bình quân đầu người của
Nhật Bản đạt 33.640 USD, tăng 0,8% so với năm 2004. Đến năm 2005, Nhật
Bản là quốc gia có tốc độ tăng GDP bình quân đầu người cao nhất trong
nhóm G7, tăng gần 3%. Năm 2003, GDP của Nhật Bản là 3.582,5 tỷ USD thì
năm 2005 tăng lên đạt 4.675 tỷ USD.
Năm 1996, xuất khẩu của Nhật chiếm 8% thị trường thế giới và nhập
khẩu chiếm 6,6%, đứng thứ 3 sau Mỹ và Đức. Năm 1997, xuất khẩu của Nhật

Bản sang Mỹ chiếm 27,8% và nhập khẩu chiếm 22,3%. Bởi vậy, thặng dư
thương mại của Nhật với Mỹ là 5.020 tỷ yên, khoảng 41,5 tỷ USD, chiếm
50% tổng thặng dư thương mại của Nhật đối với các bạn hàng. Nhật Bản là

22
nước xuất siêu hàng đầu thế giới. Năm 2004, Nhật Bản xuất siêu với kim
ngạch 12 ngàn tỷ yên (khoảng 112,3 tỷ USD).
Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản đạt 61,1 ngàn tỷ yên
(khoảng 582,6 tỷ USD), tăng 12,2% so với năm 2003. Đến năm 2005, kim
ngạch xuất khẩu của Nhật Bản đạt 598,2 tỷ USD, tăng 5,9% so với năm 2004.
Vốn đầu tư trực tiếp năm 2005 Nhật thu hút được vào trong nước đạt 30,1 tỷ
USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước. Đồng thời vốn đầu tư trực tiếp của
Nhật ra nước ngoài đạt 45,5 tỷ USD, tăng 46,8%, cao nhất kể từ năm 1990.
Năm 2003, Nhật Bản có 88 doanh nghiệp trong số 500 doanh nghiệp hàng
đầu thế giới.
1.2.2.3. Khoa học công nghệ, kỹ thuật chế tạo phát triển
Từ một nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá nặng nề, lạc hậu về khoa học
kỹ thuật, Nhật Bản đã tiến thẳng vào kỷ nguyên công nghệ cao vào năm 1980.
Tính trung bình mỗi năm (1951 đến 1983), Nhật Bản đã tiến hành 1.312 số
lần nhập công nghệ nước ngoài với tổng chi phí lên tới 3.821 triệu USD. Các
công nghệ nhập ngoại đã được người Nhật cải tiến vượt bậc bằng cách kết
hợp giữa bắt chước và sáng tạo công nghệ. Từ năm 1950, Nhật Bản đã nhập
khẩu công nghệ bóng bán dẫn, máy công cụ điều khiển bằng số và kỹ thuật
“kiểm tra chất lượng” từ Mỹ. Nhưng sau đó, ngành điện tử sử dụng bóng bán
dẫn của Nhật đã có sức cạnh tranh hàng đầu trên thế giới. Vào cuối những
năm 1960 trở đi, máy công cụ điều khiển bằng số giá thấp đã thâm nhập và
cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Và đến những năm 1970, người Mỹ đã phải
quay lại tiếp thu một số tư tưởng của kỹ thuật “kiểm tra chất lượng” của chính
người Nhật.
Năm 1955, tại Nhật chỉ có 1.455 phòng thí nghiệm nhưng 15 năm sau

năm 1970, số phòng thí nghiệm trên cả nước đã tăng lên gấp khoảng 9 lần. Số
lượng các nhà khoa học và chuyên gia nghiên cứu trong cùng thời kỳ cũng

×