Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Đề tài “Quan Hệ Thương Mại Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn từ 1986 đến nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.28 KB, 71 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
------------------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN
GIAI ĐOẠN 1986 ĐẾN NAY:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
Giáo viên hướng dẫn: THẠC SĨ ĐẶNG THỊ LAN
Sinh viên thực hiện: BÙI QUANG SẮC
Lớp: A1-CN9
Hà Nội - 2003
QUAN H TH NG M I VI T NAM - NH T B NỆ ƯƠ Ạ Ệ Ậ Ả ................................................................................1
H N i - 2003à ộ ....................................................................................................................................... 1
L I NÓI UỜ ĐẦ .............................................................................................................................................. 3
CH NG IƯƠ ................................................................................................................................................ 5
I. KHÁI QUÁT V NH T B NỀ Ậ Ả .................................................................................................................... 5
II. L CH S PHÁT TRI N VÀ T M QUAN TR NG C A VI C M R NG QUAN H TH NG M I Ị Ử Ể Ầ Ọ Ủ Ệ Ở Ộ Ệ ƯƠ Ạ
VI T NAM - NH T B NỆ Ậ Ả .......................................................................................................................... 14
CH NG IIƯƠ ............................................................................................................................................. 20
I. NH NG NHÂN T KHÁCH QUAN VÀ CH QUAN THÚC Y QUAN H TH NG M I VI T NAMỮ Ố Ủ ĐẨ Ệ ƯƠ Ạ Ệ
– NH T B N Ậ Ả .......................................................................................................................................... 20
Nh p kh uậ ẩ ................................................................................................................................................ 24
T l so v i n m tr c (%)ỷ ệ ớ ă ướ ...................................................................................................................... 24
Cán cân m u d chậ ị ..................................................................................................................................... 24
STT........................................................................................................................................................... 44
Lo i khácạ .................................................................................................................................................. 44
STT........................................................................................................................................................... 45
Tên h ngà ................................................................................................................................................... 45
III. ÁNH GIÁ TH C TR NG C A M I QUAN H TH NG M I Đ Ự Ạ Ủ Ố Ệ ƯƠ Ạ ......................................................47
CH NG IIIƯƠ ............................................................................................................................................ 53


I. TRI N V NG C A TRAO I M U D CHỂ Ọ Ủ ĐỔ Ậ Ị .........................................................................................53
II. CÁC GI I PHÁP CH Y U THÚC Y M I QUAN H VI T NAM - NH T B NẢ Ủ Ế ĐẨ Ố Ệ Ệ Ậ Ả ...............................60
K T LU NẾ Ậ ................................................................................................................................................ 68
DANH M C TÀI LI U THAM KH OỤ Ệ Ả ...................................................................................................... 70
LỜI NÓI ĐẦU
Nhật Bản là một quốc gia nằm trong khu vực Châu á Thái Bình
Dương, hai nước có những điểm tương đồng, đều là những nước nông
nghiệp trồng lúa, nhân sinh quan và thế giới quan có nhiều ảnh hưởng của
đạo phật và nho giáo. Đều có dân số khá đông sống trên một diện tích hẹp.
Giữa Việt Nam và Nhật Bản đã có lịch sử buôn bán lâu đời. Tuy hai nước đi
theo hai chế độ khác nhau (Nhật Bản dựa trên chế độ quân chủ lập hiến –
Việt Nam đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa), mặc dù có những ảnh hưởng của
vấn đề chính trị mà quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản đã có
lúc phải tiến hành một cách không chính thức nhưng vẫn duy trì và có xu
hướng phát triển. Đặc biệt, ngày nay khi những cản trở về chính trị không
còn nữa thì quan hệ thương mại giữa hai nước càng có cơ hội phát triển hơn
bao giờ hết.
Với truyền thống dân tộc cùng với sự nhạy cảm trước xu thế của thời
đại trong những thập kỷ qua, là một quốc gia nghèo về tài nguyên thiên
nhiên này đã khẳng định vị trí của mình trước thế giới. Nhật Bản đã trở
thành một quốc gia với nền công nghiệp và kinh tế phát triển, có những giai
đoạn sự tăng trưởng kinh tế vượt mức tương đối. Từ năm 1999 đến nay Nhật
Bản tiếp tục giữ vị trí là nước có tiềm năng lớn thứ 2 trên thế giới về kinh tế
và tài chính.
Quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu và có nhiều hứa hẹn phát triển trội đối với cả hai phía. Đẩy mạnh
quan hệ với Nhật Bản, Việt Nam có cơ hội tăng thêm vốn công nghệ và kinh
nghiệm quản lý, đồng thời Nhật Bản có thể tăng khối lượng hàng nông, lâm ,
thủy sản và hàng nguyên liệu mua từ Việt Nam. Tiềm năng phát triển kinh tế
của cả hai nước là rất lớn. Vì vậy mà việc nghiên cứu quan hệ thương mại

Việt - Nhật để đề ra những biện pháp thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai
nước là vấn đề rất quan trọng và cần thiết trong xây dựng cũng như thực
hiện các chính sách phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam.
Nhật Bản là nhà tài trợ lớn nhất của Việt Nam. Trước một đối tác có
vị trí và tiềm lực kinh và có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế
không những nước ta mà cả các nước trên thế giới, các hoạt động đối ngoại
Việt Nam - Nhật Bản hết sức có ý nghĩa. Quan hệ giữa Nhật Bản và Việt
Nam đã - đang và sẽ tiếp tục được củng cố với quan tâm ở mức cao nhất để
phục vụ cho công cuộc xây dựng và đổi mới của đất nước ta.
Là một sinh viên khoa “Kinh Tế Ngoại Thương” của trường Đại Học
Ngoại Thương nhận thức được tầm quan trọng của Nhật Bản đối với nền
ngoại thương của các nước Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Sau một thời gian tìm hiểu em quyết định chọn đề tài “Quan Hệ Thương
Mại Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn từ 1986 đến nay” cho khoá luận tốt
nghiệp của mình. Là một sinh viên chưa có kinh nghiệm thực tế, trình độ lý
luận chưa sâu nên khoá luận không tránh khỏi những sai sót. Vì vậy em rất
mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và bạn bè để em hoàn thành
tốt khóa luận này.
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo Thạc sĩ Đặng
Thị Lan cùng với các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế Ngoại thương trường
Đại Học Ngoại Thưong.
Hà nội, tháng 5 năm 2003
Bùi Quang Sắc
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ NHẬT BẢN
VÀ QUAN HỆ VIỆT NAM- NHẬT BẢN
I. KHÁI QUÁT VỀ NHẬT BẢN
1.Vị trí địa lý
a. Diện tích
Quần đảo Nhật Bản nằm cách bờ đông của lục địa Châu á, trải dài

theo một hình vòng cung hẹp dài 3800km từ vĩ độ bắc 20
0
25
'
,
đến 45
0
33

.
Tổng diện tích của Nhật Bản là 337.815km
2
, lớn hơn Anh một chút nhưng
chỉ bằng 1/9 Ấn Độ và 1/25 Mỹ.
Nhật Bản bao gồm 4 đảo lớn: Honshu, Hokkaido, Kyushu và Shikoku
(xếp theo thứ tự đảo lớn nhất đến đảo bé nhất - nhiều dãy đảo và khoảng
3900 đảo nhỏ.
b. Khí hậu
Các đảo Nhật Bản nằm trong vùng khí hậu ôn hoà và ở cực Đông Bắc
của khí hậu gió mùa chạy từ Nhật Bản qua bán đảo Triều Tiên, Trung Quốc,
Đông Nam á đến tận Ân Độ. Khí hậu nói chung ôn hoà mặc dù rất khác
nhau giữa các miền chủ yếu do dòng khí hậu lục địa thổi từ phía tây bắc chi
phối khí hậu mùa đông và các dòng khí lưu đại dương thổi từ phía đông
nam chi phối khí hậu mùa hè.
Ở hầu hết các miền Nhật Bản đều có 4 mùa rõ rệt. Mùa hè ấm và ẩm
bắt đầu từ khoảng giữa tháng 7. Trước đó là mùa mưa kéo dài khoảng một
tháng, trừ đảo Hokkaido đảo lớn phía cực bắc hầu như không có mưa.
c. Địa hình
Địa hình phức tạp của Nhật Bản khác hẳn với khí hậu ôn hoà của nó.
Các đảo Nhật Bản là một phần các dãy núi dài chạy từ Đông Nam á đến tận

Alaska. Điều này tạo cho nước Nhật một bờ biển dài nhiều núi đá với nhiều
hải cảng nhỏ nhưng tuyệt vời. Nó cũng tạo ra rất nhiều vùng núi có thung
lũng, các con sông chảy xiết và các hồ nước trong. Theo điều tra của viện
địa lý thuộc bộ xây dựng của Nhật Bản năm 1972, núi chiếm khoảng 71%
tổng diện tích Nhật Bản. Hơn 532 ngọn núi trong số này cao hơn 200 m so
với mực nước biển trong đó Phú Sĩ là cao nhất tới 3776 m.
2. Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị Nhật Bản dựa trên quân chủ lập hiến, đứng đầu là
Nhật Hoàng. Thế nhưng thực tế Nhật Hoàng không có quyền lực gì với
chính phủ, người chỉ tham gia những hoạt động của nhà nước trong khuôn
khổ luật pháp quy định.
a. Lập pháp
Nền chính trị Nhật Bản dựa theo chế độ các Nghị viện. Nghị viện là
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là tổ chưc lập pháp duy nhất ở Nhật
Bản.
Nghị viện bao gồm: Hạ nghị viện (512 ghế ), Thượng nghị viện (252
ghế). Hạ nghị viện có quyền đưa ra quyết định tín nhiệm hay không tín
nhiệm nội các, đây là quyền lực quan trọng nhất của Hạ nghị viện. Trong khi
đó Thượng nghị viện không có quền như vậy.
b. Hành pháp
Quyền hành pháp được giao cho nội các Chính phủ. Nội các Chính
phủ bao gồm Thủ tướng Chính phủ và không quá 20 Bộ trưởng chịu trách
nhiệm tập thể trước nghị viện. Thủ tướng là người được Nghị viện bổ nhiệm
và phải là thành viên nghị viện. Thủ tướng có quyền bổ nhiệm hay bãi miễn
quyền của các Bộ trưởng. Tất cả các Bộ trưởng phải là dân sự và phần lớn
trong số bộ phải là nghị viện. Nếu Hạ nghị viện thông qua quyết định bất tín
nhiệm chính phủ thì Nội các phải từ chức trong vòng 10 ngày trừ khi Hạ
nghị viện giải tán.
c. Toà án
Ngành toà án hoàn toàn độc lập với các cơ quan hành pháp và lập

pháp, bao gồm toà án tối cao, 8 toà án cấp cao, 1 toà án khu vực ở mỗi tỉnh
(trừ Hokaido có 4 toà án khu vực) và nhiều toà án cơ sở. Ngoài ra còn rất
nhiều toà án gia đình để xét xử các vụ tranh chấp trong gia đình.
3. Chính sách đối ngoại
Lập trường trong chính sách đối ngoại cơ bản của Nhật Bản là đóng
góp cho hoà bình và thịnh vượng của thế giới, đồng thời bảo đảm nền an
ninh và hạnh phúc của mình với phương châm kiên định là một thành viên
của thế giới tự do và là một nước trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương,
Nhật Bản có mối quan hệ gắn bó về địa lý, kinh tế, lịch sử, văn hoá. Những
năm qua, quan hệ của Nhật Bản với các nước xung quanh trở nên gần gũi và
mở rộng hơn, ngày càng có nhiều công ty của Nhật Bản đặt văn phòng và cơ
sở tại các nươc trong khu vực, tăng cường các nước trong khu vực.
4. Những thành tựu của nền kinh tế Nhật Bản hiện nay.
Trước năm 1990, Nhật là nước đông dân với tỷ lệ tăng dân số là 3-
4%/năm.Tuổi thọ trung bình của người Nhật ngày càng tăng và do vậy tỷ lệ
người già ngày càng cao.
Dân cư tập trung 90% tại các thành phố lớn và đồng bằng ven biển, có
hơn 10 thành phố dân số hơn 1 triệu. Quá trình đô thị hoá tạo ra các đô thị
khổng lồ như dải đô thị kéo dài từ Tokyo đến Fukuoka gồm 30 triệu dân.
Từ những năm 50 trở đi, mức sống của người dân Nhật Bản tăng lên
nhanh chóng. Với dân số 125 triệu người, khoảng 75% trong số hơn 40 triệu
gia đình ở Nhật thì 30,5 triệu gia đình có xe hơi riêng (1999). GDP của Nhật
năm 2001 là 2972,5 tỷ USD, du lịch ra nước ngoài của người dân Nhật Bản
trở thành biểu tượng của mức sống cao.
a. Những chính sách dẫn đến sự tăng trưởng kỳ diệu của nền kinh tế
Nhật Bản.
Phục hồi nền kinh tế thông qua việc đầu tư vào các ngành then chốt.
Người ta cho rằng nguyên nhân thành công trong việc phục hồi kinh tế của
Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai là việc Chính phủ Nhật Bản ưu
tiên đầu tư cho ngành năng lượng, đặc biệt là ngành than. Nhật Bản không

có dầu mỏ lại bị chiến tranh tàn phá nên các ngành công nghiệp thiếu ngoại
tệ để nhập vật tư nguyên liệu. Vì thế việc bảo đảm cho các ngành khôi phục
sản xuất dựa vào khai thác than trong nước là điều không thể thiếu được.
Công việc này được tiến hành một cách thuận lợi nhờ có sự trợ giúp của
Chính phủ về tiền vốn. Có thể đây chính là động lực cho sự khôi phục các
ngành công nghiệp chế tạo khác.
b. Nhập công nghệ từ nước ngoài.
Sau chiến tranh, điều không thể thiếu đối với sự phát triển của ngành
công nghiệp ở Nhật Bản chính là việc tích cực nhập khẩu kỹ thuật, công
nghệ đặc biệt trong lĩnh vực luyện kim ô tô, máy tính, các nước tiên tiến
cũng tích cực cung cấp kỹ thuật cho Nhật. Giới công nghiệp Nhật Bản bằng
kỹ thuật công nghiệp nhập từ các công ty Âu Mỹ đã sản xuất và bán hàng
loạt sản phẩm công nghiệp ra thị trường Nhật Bản, rồi phát triển đến giai
đoạn xuất khẩu những sản phẩm dư thừa ra thị trường nước ngoài.
c. Chính sách phát triển các ngành công nghiệp .
Chính phủ Nhật Bản tiến hành bảo hộ các ngành công nghiệp thông
qua thuế nhập khẩu cao, hạn chế số lượng nhập khẩu, quy về đầu tư, đồng
thời cũng chọn những ngành cần phải ưu tiên đầu tư phát triển mạnh mang
tính chiến lược trợ giúp một số vốn, hỗ trợ các ngành công nghiệp phát triển.
Mặt khác, khi thấy một số ngành công nghiệp nào đó đã qua thời kỳ cực
thịnh thì Chính phủ sẽ trợ cấp tiền thúc đẩy việc loại bỏ thiết bị cũ và tiến tới
chuyển đổi ngành nghề. Tiêu biểu cho cách làm thứ nhất là công nghiệp máy
tính, còn cách thứ hai là ngành công nghiệp dệt. Cả hai ngành này đều là
những thực tế thành công đáng tham khảo trong việc nuôi dưỡng, phát triển
cơ cấu ngành dưới sự chỉ đạo sát sao của chính phủ.
d. Nét đặc trưng của kinh tế Nhật Bản từ những năm 80 đến những năm
90 sự tăng trưởng cao khác thường của nền kinh tế và tiếp đó là sự suy thoái
kéo dài do sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng.
Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra các biện pháp kích thích tăng trưởng
bằng cách hạ lãi suất, coi đó là phương pháp để thoát ra khỏi cuộc khủng

khoảng kinh tế kéo dài. Ngoài ra còn thông qua các dự án đầu tư cho các
ngành công nghiệp khổng lồ để kích thích nhu cầu vào việc thu lợi nhuận
cho toàn bộ nền công nghiệp. Nhưng điều người ta trông đợi không phải là
những biện pháp thời đó mà là làm cho nền kinh tế Nhật Bản trở nên sống
động bằng việc nới lỏng các quy chế. Mục đích của việc nới lỏng quy chế
này là thông qua việc thay đổi các luật lệ của nền kinh tế Nhật Bản để thực
sự tạo ra một cơ cấu mới của nền kinh tế đó.
Việc diễn ra cạnh tranh gay gắt ở trong nước có sự nới lỏng quy chế
có vẻ là một diễn tập cho một cuộc cạnh tranh với nước ngoài, thúc đẩy các
hãng phát triển năng lực của chính mình.
Hướng đi của nền công nghiệp Nhật Bản từ sau năm 1990 kinh tế
Nhật Bản có sự thay đổi về cơ cấu. Đến năm 1980 kinh tế Nhật Bản đã hoàn
toàn đạt tới sự lý tưởng của một xã hội công nghiệp, kết quả là đồng yên đã
lên giá, các ngành công nghiệp không có khả năng cạnh tranh tương đối đã
quyết định ngừng hoạt động và chuyển sang khu vực đang phát triển ở Châu
á. Họ nhận rằng trung tâm công nghiệp không còn ở Nhật nữa mà là khu vực
Châu á.
e. Những thành tựu của nền kinh tế Nhật Bản.
Công nghiệp đứng thứ hai trên thế giới. Trong các ngành công nghiệp
hiện đại, Nhật hầu như có mặt ở tất cả các lĩnh vực mà điều kiện thiên nhiên
không ưu đãi, Nhật có sản lượng công nghiệp đứng thứ ba trên thế giới sau
Mỹ và Liên xô cũ. Trong ngành luyện kim Nhật đứng đầu về sản xuất thép,
thứ nhì về sản lượng nhôm, đồng kẽm. Nhật cũng đứng thứ nhì thế giới về
các ngành hoá dầu và cao su tổng hợp, thứ ba về xi măng. Công nghiệp cơ
khí là ngành quan trọng nhất trong nền kinh tế Nhật Bản. Sản phẩm của
ngành này rất đa dạng, quan trọng hơn là cả mặt hàng tàu biển, ô tô và thiết
bị điện tử. Một lĩnh vực mũi nhọn khác của nền công nghiệp Nhật Bản là
công nghiệp xây dựng các công trình công cộng (chiếm 20% tổng sản phẩm
quốc dân).
Bên cạnh các ngành công nghiệp hiện đại, các ngành truyền thống vẫn

được duy trì và phát triển như công nghiệp dệt, sợi bông tơ tằm. Nhật Bản có
ngành nông nghiệp thâm canh, có hiệu quả cao tuy chưa đáp ứng được nhu
cầu trong nước.
Trong một thời gian dài, Nhật đã duy trì được vị trí của mình như nền
kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Theo báo cáo các tài khoản quốc gia năm
1992 của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) và những thống kê
của Cục kế hoạch kinh tế, tổng sản phẩm quốc dân của Nhật năm 2001 là
2972,5 tỷ USD, đứng thứ hai sau Mỹ (5400tỷ USD). Tổng sản phẩm quốc
dân tính theo đầu người của Nhật Bản đứng thứ ba trong số 24 nước thành
viên OECD năm 1988 và1989, nhưng năm 1990 tụt xuống vị trí thứ 7. Tuy
nhiên Nhật Bản vẫn tiếp tục có tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người
cao nhất trong số các nước thuộc nhóm bảy nước công nghiệp phát triển
(G7) từ năm 1986. Về tài sản thuần ở nước ngoài, Nhật Bản đứng thứ nhất
vào năm 1985. Nhật Bản đã bị Đức vượt qua vào cuối năm 1990, song đã
giành được vị trí của mình vào cuối năm 1991 với 383 tỷ USD.
5. Văn hoá - giáo dục
a. Văn hóa
Tôn giáo: nói đến tôn giáo phải nói đến quyền tự do tín ngưỡng của
mọi người được hiến pháp bảo đảm. Ở Nhật Bản ngày nay, đạo Phật chiếm
ưu thế với khoảng 92 triệu tín đồ. Trong số các tôn giáo còn lại, đạo hồi có
khoảng 155.000 tín đồ bao gồm cả những người cư trú tạm thời trên đất
nước.
Đạo gốc của Nhật Bản là Thần đạo, có nguồn gốc từ thuyết vật linh
thiêng của người Nhật cổ. Thần đạo phát triển thành tôn giáo của cộng đồng
với những miếu thờ gia thần và các vị thần hộ mệnh của địa phương. Người
ta cũng thờ các vị anh hùng và thủ lĩnh xuất chúng của cộng đồng qua nhiều
thế hệ và thờ cúng hương hồn tổ tiên.
b. Giáo dục
Hệ thống giáo dục được phân thành 5 giai đoạn: vườn trẻ (từ 1 đến 3
năm), tiểu học (6 năm), trung học bậc thấp (3 năm) và trung học bậc cao (3

năm), đại học (thông thường là 4 năm). Còn có các trường cao đẳng với các
khoá học 2 hoặc 3 năm. Ngoài ra còn nhiều trường học mở các khoá nâng
cao sau đại học.
Giáo dục phổ cập miễn phí cho các em từ 6-15 tuổi. Tuy vậy tuyệt đại
đa số học sinh học hết trường trung học bậc thấp đều tiếp tục học lên và
trong thực tế các trường trung học bậc cao hiện đã trở thành bộ phận cơ bản
của hệ thống giáo dục trẻ em.
1. Nhật Bản trong tương lai
50 năm sau chiến tranh thế giới thứ II xã hội Nhật Bản đã hoàn toàn
tăng trưởng cao về kinh tế, trong nước có mạng lưới vận chuyển hiện đại,
nhiều phụ nữ tham gia công tác xã hội, số gia đình ít con ngày càng tăng,
xây dựng nhiều khu nhà ở nông thôn, tiến hành đô thị hoá và đời sống ăn
uống cũng đã được quốc tế hoá. Thu nhập tăng, tạo điều kiện cho hoạt động
giải trí thêm đa dạng, đặc biệt trào lưu du lịch ra nước ngoài đã thâm nhập
vào cuộc sống của người Nhật Bản. Nói một cách ngắn gọn, kinh tế phong
phú kéo theo nhiều sự thay đổi trong lối sống và đời sống văn hóa.
Bước vào thế kỷ 21, Nhật Bản sẽ xây dựng một xã hội và một quốc
gia như thế nào? Cơ quan chính phủ cũng như Hội đồng kinh tế Nhật Bản đã
phác thảo ra hai hướng phát triển: xây dựng một xã hội mới phát triển về
kinh tế và áp dụng kỹ thuật thông tin đã phát triển ở mức cao để xây dựng
một xã hội hoàn toàn mới, khác khẳn với xã hội hiện đại, chưa từng có trong
lịch sử nhân loại. Xây dựng được xã hội mới phát triển kinh tế bằng công
nghiệp hiện đại, trong đó chủ yếu các công ty lớn góp phần đưa Nhật Bản
tiến lên. Ngược lại, ngày càng có nhiều công ty nhỏ nắm giữ kỹ thuật tiên
tiến, có khả năng đổi mới trên nhiều phương diện ra đời, những công ty này
làm chuyển hướng cơ cấu công nghiệp của Nhật Bản. Loại công ty nhỏ nắm
kỹ thuật tiên tiến và tập thể các công ty có sức mạnh phá vỡ khuôn khổ cũ,
mở cửa ra ngành nghề mới nhờ kỹ thuật phát triển hàng hoá, khai thác thị
trường, tạo dựng một phương thức kinh doanh mới sử dụng mạng máy tính.
Sau thời kỳ kinh tế ổn định thập kỷ 80, Nhật Bản đã khôi phục và lại

tiếp tục phát triển vào những năm 90. Nguồn động lực cho sự đi lên đó chính
là hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực mới có sử dụng kỹ thuật thông tin.
Nhóm công ty nhỏ nắm kỹ thuật tiên tiến sáng tạo ra công ty mới, hàng hoá
dịch vụ mới, cơ cấu theo kiểu mạng giúp cho mọi ý kiến có thể truyền đạt
nhanh chóng chứ không có cơ cấu kim tự tháp khổng lồ. Kết quả ngành công
nghiệp Nhật Bản có thể sản xuất các loại hàng hoá, dịch vụ có chất lượng
cao, chi phí thấp, phục hồi khả năng cạnh tranh quốc tế.
Hiện nay, “chế độ phát triển các công ty nhỏ nắm kỹ thuật tiên tiến”
đã được thiết lập để thực hiện tốt việc huy động vốn giúp các công ty vừa và
nhỏ có thể triển khai công việc, đồng thời đang nghiên cứu theo hướng nới
lỏng hàng loạt qui chế đang kìm hãm hoạt động tự do trên mọi mặt của xã
hội Nhật Bản. Nới lỏng qui chế, hình thành nên một xã hội mới trong thời kỳ
tiếp theo của Nhật Bản.
Sự vận động của xã hội Nhật Bản đến nay đã tạo điều kiện thuận lợi
để chuyển hướng cơ cấu công nghiệp trong thế kỷ 21. Một trong số những
ngành nghề mới là sản xuất hàng hoá mới, dịch vụ mới đem lại cuộc sống
thảnh thơi, mạng lưới vận tải hiện đại, đời sống ăn uống chuyển hướng quốc
tế hoá, xu hướng giải trí, tất cả những nhân tố này đã thúc đẩy phương pháp
ngành nghề mới, tạo ta nhu cầu mới. Có nhu cầu, sẽ có cơ hội sản sinh ra và
phát triển đa dạng hoá ngành nghề mới.
Việc xây dựng một Nhật Bản mới dựa vào hệ thống thông tin sẽ thực
sự xảy ra vào thế kỷ 21. Sự thay đổi trong 50 năm sau chiến tranh thế giới
thứ II sau khúc dạo đầu hướng tới một xã hội mới tiếp theo của Nhật Bản.
Nền kinh tế công nghiệp và xã hội Nhật Bản đang thay đổi.
II. L CH S PH T TRI N V T M QUAN TR NG C A VI CỊ Ử Á Ể À Ầ Ọ Ủ Ệ
M R NG QUAN H TH NG M I VI T NAM - NH T B NỞ Ộ Ệ ƯƠ Ạ Ệ Ậ Ả
1. Lịch sử phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản
Lịch sử quan hệ thương mại Việt – Nhật bắt đầu từ khá sớm. Vào thế
kỷ 16 và nửa đầu thế kỷ 17 trong số 543 giấp phép mà chính quyền
Tokugawa cấp cho thuyền Nhật Bản đi buôn bán với các nước có 331 giấy

phép đến Đông Nam Á trong đó riêng đến Việt Nam có 130 giấy phép. Kết
quả là ở Việt Nam đã hình thành địa điểm buôn bán lớn của người Nhật như
Hội An ở đàng trong và Phố Hiến ở đàng ngoài. Ở Hội An vào đầu thế kỷ
XV đến thế kỷ XVII, thời đó cũng có khu phố của người Nhật với khoảng
1000 người sống ở đó. Hiện nay ở Hội An vẫn còn dấu tích bằng chứng cho
thấy sự có mặt của người Nhật ở Việt Nam là chiếc cầu “Nihon Bashi” và
khu phố cổ mang kiến trúc của người Nhật . Thời gian này Nhật xuất sang
Việt Nam vàng, bạc, tiền đồng, gươm đao, mành xếp, quạt xếp… Còn Nhật
lại lấy tơ tằm, san hô, da hươu, ngà voi từ Việt Nam về. Tuy nhiên hoạt động
buôn bán trong thời kỳ này còn hết sức nhỏ bé, chủ yếu là do các thương
nhân Nhật Bản chủ động tiến hành. Quá trình này chấm dứt vào năm 1636 vì
chính quyền Nhật không cấp cho xuất dương và những người Nhật đi khỏi
nước không được hồi hương.
Từ cuối thế kỷ XVII, do chế độ phong kiến Việt Nam bắt đầu suy
vong, chiến tranh và nội chiến liên miên nên quan hệ giao lưu giữa hai nước
bị ngừng trệ. Sau khi thực dân pháp xâm lược và đô hộ Việt Nam, quan hệ
Việt - Nhật không còn là mối quan hệ giữa hai quốc gia độc lập mà thực chất
là quan hệ giữa Nhật Bản với Pháp cai trị ở Việt Nam. Dĩ nhiên quan hệ
giữa hai nước vẫn được duy trì nhưng nội dung và tính chất đã biến đổi.
Đầu thế kỷ XX, khi Nhật Bản trở thành cường quốc và chiến thắng
Nga trong chiến tranh Nga - Nhật (1904-1905) ảnh hưởng của Nhật gia tăng
mạnh mẽ đối với các quốc gia nhược tiểu ở Châu á. Phong trào Đông du do
Phan Bội Châu đề xướng bắt đầu. Số học sinh du học sinh viên Việt Nam
lên đến 200 người (1908) trong đó 4 người được chính phủ Nhật đài thọ
hoàn toàn, nhưng về sau do muốn duy trì quan hệ tốt với Pháp. Chính phủ
Nhật đã trục xuất các du học sinh yêu nước Việt Nam. Quan hệ buôn bán
giữa Nhật Bản và Đông Dương thuộc pháp tăng lên trong những năm 1930
-1942. Nếu năm 1930 tỷ lệ buôn bán của Nhật với Đông Dương chỉ chiếm
khoảng 1,3% thì đến năm 1942 đã tăng vượt lên 13,5%.
Từ năm 1943 trở đi hoạt động thương mại Việt Nam - Nhật Bản giảm

hẳn. Nguyên nhân do tình hình chính trị thế giới lúc đó đang có biến động
mạnh mẽ, thế lực phát xít đang yếu dần và tan rã. Thêm vào đó tháng 8 năm
1945 cuộc cách mạng đánh đuổi thực dân Pháp và phát xít Nhật thành công,
chính quyền thuộc về tay nhân dân Việt Nam, Phát xít Nhật đã đầu hàng và
rời khỏi Việt Nam. Sự ra đi này đồng nghĩa với sự chấm dứt thời kỳ hoàng
kim của quan hệ thương mại Việt - Nhật kiểu thuộc địa. Mặc dù phát xít
Nhật bị bại trận, nhưng các nhà tư bản lớn không dễ gì rời bỏ một thị trường
rất tiềm năng cho sự phát triển của nền kinh tế Nhật và có lợi cho họ. Vì vậy
quan hệ thương mại Việt – Nhật giai đoạn này đã có lúc không bình đẳng,
nhưng vẫn thể hiện nhu cầu buôn bán của hai nước.
Trong giai đoạn 1945 -1975: quan hệ Việt Nam và Nhật Bản rất phức
tạp và tế nhị do hoàn cảnh lịch sử, Việt Nam bị chia làm hai miền theo hai
chế độ chính trị khác nhau. Miền bắc hoàn toàn giải phóng, miền nam đang
chịu sự thống trị của Mỹ kéo dài tới 30-4-1975. Thời kỳ này quan Việt -
Nhật luôn tuân thủ một cách nghiêm ngặt với chính sách của Mỹ, thiết lập
quan hệ với chính quyền Sài Gòn ở Miền Nam, không quan hệ với chính
phủ cộng hoà ở miền Bắc. Nhưng trên thực tế Nhật Bản vẫn duy trì mối
quan hệ không chính thức về mặt kinh tế với miền Bắc Việt Nam . Năm
1955 “Hội mậu dịch Nhật - Việt” tổ chức thương mại phi chính phủ của
Nhật ra đời nhằm xúc tiến mậu dịch với Việt Nam dân chủ cộng hoà. Điều
này thể hiện sự chủ động của Nhật trong quan hệ buôn bán với Việt Nam.
Đây là một bước tiến quan trọng của phía Nhật trong việc thúc đẩy quan hệ
thương mại Việt – Nhật phát triển theo chiều hướng tích cực. Do hoàn cảnh
lịch sử trong những năm này quan hệ buôn bán của Nhật với hai nửa riêng
biệt của Việt Nam nhưng vẫn diễn ra đều đặn cho dù rất nhiều khó khăn nảy
sinh. Tuy kim ngạch buôn bán giữa hai chiều còn nhỏ bé nhưng thể hiện sự
cố gắng của các tổ chức kinh tế trong giai đoạn này. Trong vòng 20 năm
tổng giá trị xuất nhập khẩu Việt – Nhật đạt 112,1 tỷ Yên trong đó nhập khẩu
đạt 52 tỷ, xuất khẩu đạt 60,1 tỷ. Việt Nam xuất siêu sang Nhật là 8,1 tỷ Yên,
tốc độ tăng trưởng nói chung là chậm và thất thường. Ngày 21 tháng 9 năm

1973 Nhật Bản thiết lập mối quan hệ chính trị với Việt Nam một cách chính
thức, đây là một bước tiến không thể thiếu được nhằm tiến tới thiết lập quan
hệ kinh tế chính thức với Việt Nam. Và từ đó quan hệ thương mại Việt Nhật
được công khai hoá. Quan hệ thương mại Việt - Nhật đã bước sang một giai
đoạn đầy triển vọng với sự giúp đỡ của hai chính phủ. Chính vì vậy kim
ngạch buôn bán Việt - Nhật năm 1974 tăng vọt lên bằng 454,3% so với năm
1973, năm 1975 tăng 185,7% so với năm 1974 “nguồn thống kê của Bộ Tài
Chính Nhật”.
Giai đoạn 1976-1985, Việt Nam bước vào thời kỳ khắc phục hậu quả
chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quan hệ chính trị của cả hai nước
đã được cải thiện tạo đà cho quan hệ thương mại phát triển, quan hệ thương
mại Việt - Nhật giai đoạn này tuy gặp thuận lợi hơn nhưng lại phải gánh vác
trọng trách nặng nề phục vụ sự phát triển kinh tế của Việt Nam, nên giá trị
buôn bán giai đoạn này phát triển không nhiều song không còn lý do gì ngăn
cản hai nước tiến tới thiết lập quan hệ hợp tác kinh tế với nhau một việc mà
lẽ ra họ phải làm từ lâu.
2. Tầm quan trọng của việc đẩy mạnh mối quan hệ thương mại với Việt
Nam nhìn từ góc độ Nhật Bản
Như chúng ta đã biết sự phát triển kinh tế là mục tiêu lớn nhất của
Nhật Bản sau chiến tranh được mọi người dân đồng ý. Những mục tiêu này
không thể đạt được nếu không có được sự đóng góp của các nước Đông
Nam á trong đó có Việt Nam. Việt Nam là một trong những nước nắm huyết
mạch của Nhật Bản với thế giới bên ngoài (con đường này đi qua Malaca,
qua các nước Indonêxia, Malaisia, Singapore và Việt Nam …). Mặt khác,
Việt Nam là một nước giàu tài nguyên khoáng sản, có nguồn nhân công dồi
dào. Trong khi Nhật Bản có nền kinh tế phát triển nhưng lại phụ thuộc vào
tài nguyên và nguyên liệu từ bên ngoài. Chúng ta cũng biết Nhật Bản đặt
vấn đề ưu tiên số một cho lợi ích kinh tế. Về mặt này Việt Nam là một nước
hấp dẫn đối với Nhật Bản. Nước Việt Nam có hơn 70 triệu dân là một thị
trường lớn và có tiềm năng đối với các sản phẩm của Nhật. Nhiều tài nguyên

của Việt Nam chưa được khai thác hoặc đã được khai thác nhưng còn trữ
lượng rất lớn đang được chờ khai thác.
Việt Nam còn nhiều sản phẩm để phát triển công nghiệp khai mỏ,
công nghiệp, ngư nghiệp và một số nghành trọng điểm. Việt Nam cũng là
một nơi hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Nhật do còn nhiều tài nguyên thiên
nhiên, trong đó có các mỏ dầu đang khai thác, nền nông nghiệp và công
nghiệp của Việt Nam còn nhiều khả năng phát triển trong tương lai.
3. Tầm quan trọng của việc đẩy mạnh mối quan hệ thương mại với Nhật
Bản nhìn từ góc độ Việt Nam
Việt Nam là một nước nghèo trong khu vực và trên thế giới, đang thực
hiện chính sách mở cửa nền kinh tế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, những
chiến lược phát triển công nghiệp và hạ tầng cơ sở lớn là những nhiệm vụ
kinh tế nặng nề mà Việt Nam giải quyết.
Khác với các nước công nghiệp đi trước - NIC Đông Nam á và các
nước ASEAN, sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam
diễn ra trong bối cảnh quốc tế vừa thuận lợi và không thuận lợi. Chiến tranh
lạnh chấm dứt trên phạm vi toàn cầu, hoà bình được tái lập ở Đông Nam á
và quá trình hội nhập ở vùng này cũng như quan hệ được cải thiện ở Trung
Quốc và các nước Châu á - Thái Bình Dương, trong đó có Nhật Bản đã tạo
ra môi trường quốc tế và khu vực thuận lợi cho công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của Việt Nam.
Là nước đi sau trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, Việt
Nam có lợi thế là có thể học tập kinh nghiệm của các nước đi trước và đặc
biệt là của Nhật Bản.

CHƯƠNG II
QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN GIAI
ĐOẠN 1986 ĐẾN NAY
I. NH NG NHÂN T KHÁCH QUAN VÀ CH QUANỮ Ố Ủ
THÚC Y QUAN H TH NG M I VI T NAM –ĐẨ Ệ ƯƠ Ạ Ệ

NH T B N Ậ Ả
1. Nhân tố khách quan
Năm 1989 một sự kiện lịch sử rất lớn đã xảy ra đó là: Bức tường
Berlin bị phá vỡ, toàn nước Đức được thống nhất. Sự kiện này đã đánh dấu
sự kết thúc của một nửa thế kỷ “chiến tranh lạnh” kể từ sau chiến tranh thế
giới lần thứ II, mở ra một bước ngoặt trong sự sắp xếp lại một trật tự thế giới
mới. Một năm sau hệ thống Liên Bang Xô Viết và khối SEV cũng sụt đổ. Sự
thay thế đó làm thế giới thu về một cực, “chiến tranh lạnh” kết thúc quá trình
dân chủ hoá và tự do hoá diễn ra trên toàn cầu đi liền với cuộc cách mạng
khoa học công nghệ và những vấn đề về môi trường. Tất cả hợp thành giai
đoạn chuyển tiếp của cục diện thế giới tác động hết sức sâu sắc đến mọi
quốc gia và mọi khu vực. Đặc biệt ở khu vực Châu á Thái Bình Dương có
những biến động diễn ra rất mạnh mẽ và có xu hướng khá đặc thù.
Chính vì vậy là một quốc gia thuộc khu vực Châu á Thái Bình Dương,
Việt Nam cũng đã và đang chịu ảnh hưởng của sự phát triển rất nhanh trong
khu vực, đã làm cho quan hệ của Việt Nam với các nước nói chung và với
Nhật Bản nói riêng càng trở lên tốt đẹp hơn. Đặc biệt là sau khi Mỹ xoá bỏ
cấm vận đối với Việt Nam (3/2/1994) nhờ đó mà mọi cản trở trong thương
mại Việt – Nhật hầu như được khai thông. Và việc Việt Nam được gia nhập
chính thức công nhận là thành viên của ASEAN (ngày 28/7/1995) cũng là
một yếu tố quan trọng làm khai thông những bế tắc trong quan hệ Việt –
Nhật trước đây bởi vị trí và vai trò của ASEAN rất quan trọng đối với Nhật
Bản.
2. Những yếu tố chủ quan
Về phía Việt Nam:
Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn lạc hậu vẫn bị cô lập và bao vây
về kinh tế. Giai đoạn này tình hình quốc tế đã có những thay đổi, nhân tố
này đòi hỏi Việt Nam phải có sự chuyển hướng chiến lược thiết lập nền hoà
bình ổn định khu vực. Mở hướng quan hệ kinh tế với các nước Đông Nam
Á, Châu Á Thái Bình Dương thực hiện phương châm “Việt Nam muốn làm

bạn với tất cả các nước vì hoà bình, độc lập và hợp tác phát triển”.
Để thực hiện đường lối đó, chính phủ Việt Nam đã ban hành chính
sách cải tổ cơ cấu và mở cửa kinh tế vào năm 1986. Việt Nam bắt đầu thực
hiện sự chuyển hướng của mình với ba nội dung chính:
(1) Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
(2) Từ bỏ mô hình công nghiệp hoá cũ, chuyển hướng cơ cấu ngành và điều
chỉnh cơ cấu đầu tư. Ưu tiên trọng tâm cho ngành sản xuất lương thực
thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.
(3) Mở cửa nền kinh tế đa phương hoá quan hệ thương mại và đầu tư, đa
dạng hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại, tự do hoá thương mại.
Việt Nam chuyển hướng phát triển kinh tế nhằm thu hút vốn kỹ thuật
tiên tiến của các nước nhằm thoát ra khỏi tình trạng cô lập và lạc hậu. Với
chính sách đổi mới đó tháng 12 năm 1987 Việt Nam đã ban hành luật đầu tư.
Sau đó cùng với chính sách tự do hoá thương mại và đẩy mạnh xuất khẩu bộ
mặt nền kinh tế Việt Nam được thay đổi cũng nhờ luật đầu tư nước ngoài.
Về phía Nhật Bản
Nhật Bản bước vào thập kỷ 90 đã tích cực điều chỉnh các chính sách
đối ngoại của mình nhằm tăng cường ảnh hưởng kinh tế và chính trị của
mình trên trường quốc tế. Có thể nói trọng tâm chính sách đối ngoại của
Nhật hiện nay là Châu á Thái Bình Dương và coi Đông Nam á có vị trí đặc
biệt. Hơn nữa Nhật Bản lại có mối quan tâm lâu dài, tầm nhìn xa rộng trong
quan hệ với Việt Nam, nước đông dân thứ hai ở Nam á nơi có nguồn tài
nguyên thiên nhiên và lao động dồi dào, đồng thời là một thị trường đầy hứa
hẹn cho việc tiêu thụ các sản phẩm của Nhật. Việt Nam còn là nơi hấp dẫn
về đầu tư khu vực trong tương lai, Nhật Bản cũng coi Việt Nam là một nhân
tố quan trọng đối với hoà bình và ổn định trong khu vực Đông Nam á. Nhật
Bản càng trở nên quan trọng hơn và có vai trò to lớn trong nền ngoại thương
Việt Nam nhất là sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Xã Hội Chủ Nghĩa
và Đông Âu. Sau sự kiện này Nhật Bản đã trở thành bạn hàng lớn nhất của

Việt Nam.
ii. TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM VÀ NHẬT
BẢN
Quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản đã phôi phai kể từ sau 1975,
người Nhật muốn thông qua các quan hệ thương mại để tác động đến lập
trường của Việt Nam về các vấn đề an ninh, chính trị trong khu vực. Kể từ
sau 1989 Nhật Bản đã đẩy mạnh các quan hệ buôn bán với Việt Nam lên
một nấc thang mới. Nét nổi bật trong quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật
Bản là sự tăng nhanh chóng các quan hệ buôn bán mậu dịch. Điều này được
thể hiện rất rõ ở kim ngạch buôn bán hai nước ngày một tăng.
1. Sự tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu ở Việt Nam và Nhật Bản
Từ năm 1986 đến nay, ngay sau khi Việt Nam thực hiện chính sách
đổi mới nền kinh tế chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường và thực hiện
chính sách mở cửa, đây là bước ngoặt lớn của Việt Nam trong quá trình phát
triển kinh tế cả đối nội cũng như đối ngoại. Quan hệ thương mại giữa Việt
Nam - Nhật Bản cũng bước vào một giai đoạn mới với sự tăng lên vững
chắc về khối lượng buôn bán và sự quan tâm ngày càng cao của các nhà kinh
doanh và các công ty Nhật Bản đối với thị trường Việt Nam. Do vậy năm
1988 là năm đầu tiên Việt Nam xuất khẩu dầu thô mà lại xuất sang Nhật.
Tiếp đến tháng 10/1990 lần đầu tiên trong lịch sử quan hệ giữa hai
nước có chiều hướng tốt đẹp bằng chuyến thăm của Ngoại trưởng kiêm Phó
thủ tướng Nguyễn Cơ Thạch đã sang thăm Nhật Bản. Chuyến thăm Nhật
Bản lần này của Ngoại trưởng Việt Nam đã mở ra một thời kỳ mới trong
quan hệ Việt – Nhật. Đến tháng 6/1991 Ngoại trưởng Makayama sang thăm
nước ta. Những bước tiến này của chính phủ hai nước là động lực thúc đẩy
quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước phát triển và có những bước chuyển
biến rõ rệt cả về thương mại lẫn đầu tư.
Quan hệ giữa Việt Nam và các nước Đông Nam á cũng được cải thiện
từ khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Từ năm 1992 có nhiều cuộc
viếng thăm lẫn nhau ở cấp chính phủ giữa Việt Nam và các nước ASEAN.

Ngày 22/7/1992 Việt Nam đã ký hiệp ước Bali mở đầu cho quá trình hội
nhập của Việt Nam vào khu vực Đông Nam á và trở thành quan sát viên của
ASEAN. Khu vực và thế giới ngày càng ủng hộ quan hệ thương mại Việt –
Nhật. Các nước ASEAN giờ đây là những người bạn của Việt Nam, nhân tố
này tạo tiền đề cho Nhật Bản mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam.
Tháng 11/1992 chính phủ Nhật Bản đã quyết định viện trợ trở lại cho
Việt Nam kết thúc 14 năm gián đoạn (1978-1992). Tiếp sau là viện trợ
ODA, chính phủ Nhật tuyên bố huỷ bỏ qui chế “hạn chế xuất khẩu một số
mặt hàng kỹ thuật cao, hàng chiến lược sang các nước XHCN trong đó có
Việt Nam”. Từ đây Việt Nam sẽ được nhập những máy móc, các thiết bị
hiện đại từ Nhật để phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Nhìn chung những năm gần đây từ (1986-2002) kim ngạch buôn bán
giữa hai nước tiếp tục tăng trưởng khá ổn định về cả xuất khẩu và nhập khẩu
(xem bảng 1)
Bảng 1: Giá trị xuất nhập khẩu Việt Nam và Nhật Bản giai đoạn 1986 đến
nay:
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm Xuất
khẩu
Nhập
khẩu
Tổng kim
ngạch xuất
nhập khẩu
Tỷ lệ so
với năm
trước (%)
Cán cân
mậu
dịch

1986 82,9 189,2 272,1 -106,3
1987 143,5 178,8 322,3 118,4 -35,3
1990 595,0 214,0 809,0 381
1991 662,0 207,0 869,0 317,8 455,0
1992 870,0 451,0 1321,0 152,0 419,0
1993 1069,0 639,0 1708,0 129,2 430,0
1994 1350,7 643,6 1994,3 116,7 707,1
1995 1716,0 921,0 2637,0 132,2 795,0
1996 2020,0 1140,0 3160,0 119,8 880,0
1997 1614,6 1425,7 3040,3 103,2 188,9
1998 1481,0 1469,0 2950,0 97,0 12,0
1999 1786,0 1476,0 3262,0 110,0 310,0
2000 2621,0 2250,0 4871,0 149,3 371,0
2001 2509,0 2215,0 4724,0 96,98 294,0
2002 2438,0 2509,0 4947,0 104,7 -71
2 tháng
20003
366,0 442,0 808,0 -79
Nguồn: Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á [4] [12]
Số liệu bảng 1 cho thấy xuất nhập khẩu của Việt Nam sang thị trường
Nhật Bản đều được duy trì khá đều đặn, riêng năm 1998 do khủng hoảng
kinh tế Châu á kim ngạch giảm chỉ còn 97% so với năm 1997 và xuất khẩu
sang Nhật bản hai năm liền vừa qua có xu hướng giảm. Trong đó năm 1992
là năm quan trọng không chỉ vì nó là một bước ngoặt trong quan hệ mà còn
vì nó là năm đánh dấu đầu tiên Việt Nam trở thành một trong mười nước
nhận ODA song phương lớn nhất của Nhật Bản với số tiền 291,14 triệu
USD. Ngoài những lý do về khó khăn kinh tế của cả hai phía thì khả năng
tiếp cận và xâm nhập thị trường của các doanh nghiệp rất kém, cách thức
bán và giới thiệu hàng hoá làm cho người Nhật khó tiếp cận, giao hàng
chậm, không đủ số lượng, hàng mẫu và hàng bán không giống nhau, hạn chế

trong việc sử dụng ngôn ngữ để giao dịch. Cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt
Nam và Nhật Bản năm 2002 cũng không có nhiều thay đổi so với năm trước
đó. Mặt hàng chính Việt Nam xuất sang Nhật Bản vẫn là: hải sản, dệt may,
dầu thô, dây điện và dây cáp điện. Nhóm hàng này chiếm gần 60% giá trị
xuất khẩu chung vào thị trường này. Nét mới của năm 2002 trong xuất khẩu
sang Nhật Bản là một số mặt hàng Việt Nam có rất nhiều khả năng như hạt
tiêu, đường, đã bắt đầu có mặt trên thị trường Nhật Bản. Dù khối lượng mặt
hàng này còn khá nhỏ bé, song nếu có được chỗ đứng ổn định và tăng
trưởng khá thì đây sẽ là một tín hiệu tốt đẹp cho xuất khẩu của Việt Nam.
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản năm 1996
tăng 136%, cán cân thương mại Việt – Nhật năm 1996 vẫn nghiêng về phía
Việt Nam và năm 1996 Việt Nam đã xuất siêu sang Nhật Bản với trị giá 9,5
tỷ Yên, chiếm 27,8% kim ngạch xuất nhập khẩu Việt – Nhật năm 1996. Bắt

×