Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 102 trang )


đại học quốc gia hà nội
Khoa kinh tế





Nguyễn Thu Hạnh






Quan hệ th-ơng mại Việt Nam - Nhật Bản
Thực trạng và giải pháp















Luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế






Hà Nội - 2004




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ





NGUYỄN THU HẠNH




QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT
BẢN
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP


Chuyên ngành : Kinh tế chính trị xã hội chủ nghĩa

Mã số: 50201


Luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. NGUYỄN XUÂN THIÊN









Hà Nội - 2004



MỤC LỤC

NỘI DUNG
TRANG
MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUAN

HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN
1.1. MỘT SỐ LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ
1.1.1. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối
1.1.2. Lý thuyết lợi thế so sánh
1.1.3. Lý thuyết về giá trị quốc tế, mối tƣơng quan của cầu
1.1.4. Quan điểm của Các Mác về ngoại thƣơng
1.2. NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM - NHẬT BẢN
1.2.1. Xu hƣớng chung của quan hệ thƣơng mại quốc tế
1.2.2. Những yếu tố tƣơng đồng và khác biệt chi phối quan
hệ thƣơng mại Việt Nam - Nhật Bản
1.2.3. Những yếu tố truyền thống văn hoá, chính trị
5

5
5
8
12
13
13

13
22

33
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT
NAM - NHẬT BẢN
2.1. TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI QUAN HỆ
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN

2.1.1. Sự điều chỉnh chính sách kinh tế đối ngoại hƣớng về
châu Á của Nhật Bản
2.1.2. Điều chỉnh chính sách đối ngoại của Việt Nam
2.1.3. Tác động của chính sách đối với sự phát triển hoạt
động thƣơng mại hai nƣớc Việt Nam và Nhật Bản
2.2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM -
NHẬT BẢN
2.2.1. Xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản
2.2.2. Nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN
38
38

38

45
50

53
53
59
64

64

2.3.1. Quan hệ thƣơng mại Việt Nam - Nhật Bản góp phần
tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam
2.3.2. Những hạn chế, bất cập còn đang tồn tại trong quan
hệ thƣơng mại Việt Nam - Nhật Bản

66

CHƢƠNG 3. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT
NAM - NHẬT BẢN.
3.1. BỐI CẢNH CHÍNH TÁC ĐỘNG TỚI QUAN HỆ THƯƠNG
MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN
3.1.1. Nhu cầu và khả năng phát triển quan hệ thƣơng mại
của Việt Nam và Nhật Bản
3.1.2. Tác động khách quan của các yếu tố môi trƣờng khu
vực và toàn cầu đến quan hệ thƣơng mại Việt Nam - Nhật
Bản
3.1.3. Những hoạt động xúc tiến thƣơng mại đã thúc đẩy
quan hệ thƣơng mại Việt - Nhật
3.2. NHÓM GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN
3.2.1. Đổi mới căn bản nội dung cơ chế, chính sách
3.2.2. Về sự định hƣớng phát triển một cơ cấu các sản
phẩm xuất nhập khẩu hợp lý và có hiệu quả cao phù hợp
với mục tiêu phát triển một nền kinh tế bền vững
3.2.3. Sự định hƣớng về thị trƣờng, thông tin và xúc tiến
thƣơng mại
3.2.4. Các biện pháp cần triển khai về cả hai phía Việt Nam
- Nhật Bản
70

70

70


71

73

80

80
85


87
89
KẾT LUẬN
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
94


-1-
MỞ ĐẦU

1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam và Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 21/ 03/1973.
Trong 30 năm qua, quan hệ kinh tế giữa hai nước không ngừng phát triển trong đó
quan hệ thương mại ngày càng được tăng cường mạnh mẽ. Đặc biệt từ khi Liên
Xô và Đông Âu tan rã, Nhật Bản đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam, có
vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam.
Quá trình phát triển thương mại giữa hai nước có thể chia làm ba giai đoạn
; 1973 - 1986, 1987 - 1992, 1993 cho đến nay với hai bước ngoặt quyết định vào
năm 1987 và 1992. Trước năm 1987, quan hệ thương mại giữa hai nước vẫn được

duy trì nhưng nói chung không ổn định và còn ở mức độ thấp. Trong giai đoạn
này, buôn bán giữa hai nước gia tăng từ năm 1973 đến năm 1978, sau đó giảm đi
trong những năm 1979 - 1982. Sau đó đến năm 1986, quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và Nhật Bản phát triển trở lại. Từ năm 1987, Việt Nam bước vào một
giai đoạn mới với công cuộc đổi mới chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường và
thực hiện chính sách mở cửa. Đây là bước ngoặt lớn của Việt Nam trong phát
triển kinh tế cả đối nội cũng như cả đối ngoại. Quan hệ thương mại giữa Việt
Nam và Nhật Bản cũng bước vào một giai đoạn mới với hai đặc trưng là sự tăng
lên vững chắc về khối lượng buôn bán và sự quan tâm ngày càng cao của các nhà
kinh doanh và các công ty Nhật Bản đối với thị trường Việt Nam. Năm 1992 là
năm đầu tiên giá trị buôn bán giữa hai nước đạt trên 1 tỷ USD. Từ năm 1992 cho
dến nay- những năm đầu tiên của thế kỷ thứ 21, quan hệ thương mại giữa hai
nước liên tục có sự phát triển khả quan mặc dù có sự suy giảm trong hai năm
1998 - 1999 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á.
Nguyên nhân cơ bản nhất, quan trọng nhất thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai
nước phát triển ngày càng mạnh mẽ là hoàn cảnh môi trường quốc tế và khu vực
thuân lợi; công cuộc đổi mới của Việt Nam với các chính sách kinh tế đối ngoại
năng động, phù hợp với xu thế phát triển thời đại và lợi ích của cả hai bên Nhật
Bản - Việt Nam Đương nhiên, đó mới chỉ là những nguyên nhân có tính khách
quan bên ngoài đối với Nhật Bản. Điều cần lưu ý là về phía chủ quan Nhật Bản:
sự chuyển hướng chiến lược trong chính sách đối ngoại nói chung và chính sách
kinh tế đối ngoại nói riêng của Nhật Bản đối với các nước ASEAN nói chung và
Việt Nam nói riêng kết hợp với các sự kiện chính trị quan trọng khác như Mỹ
huỷ bỏ chính sách cấm vận thương mại chống Việt Nam ( tháng 2/ 1994), Mỹ
-2-
tuyên bố bình thường quan hệ với Việt Nam( tháng 7/ 1995) và Việt Nam gia
nhập ASEAN( tháng 7 / 1995)
Tuy nhiên , quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản trong những năm
qua còn nhiều hạn chế như tỷ trọng xuất nhập khẩu trong tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu giữa hai nước là chưa hợp lý dẫn đến Việt Nam luôn xuất siêu, cơ cấu

xuất nhập khẩu hàng hoá giữa hai nước còn nhiều bất cập Vì vậy nhiều vấn đề
đặt ra cần được nghiên cứu như : tại sao kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
Nhật Bản đã tăng lên một cách nhanh chóng nhưng tỷ trọng của nó trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại tăng giảm thất thường? Quan hệ thương mại
Việt Nam - Nhật Bản đã tương xứng với tiềm năng vốn có của hai nước hay
chưa? Việt Nam cần phải làm gì để thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của quan hệ
thương mại Việt Nam - Nhật Bản.
Mặc dù cho đến nay trong quan hệ thương mại Việt - Nhật vẫn còn khó
khăn, song trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá thương mại, gần đây Nhật Bản
cũng đã có một số động thái tích cực, đó là liên minh tự do thương mại với một số
quốc gia như Singapo, Canađa, Chilê và Mêhicô và Nhật cũng đang nỗ lực xúc
tiến việc thành lập khối mậu dịch tự do với ASEAN, nhằm mở rộng hơn nữa vai
trò cường quốc kinh tế ở khu vực châu Á. Đây là một thay đổi lớn trong chính
sách thương mại của Nhật Bản vì cho đến tận cuối những năm 1990, Nhật Bản
vẫn cứng rắn không tham gia một thoả thuận thương mại song phương nào mà
chủ yếu chỉ dựa vào các tổ chức đa phương như Tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Chính vì thế, hy vọng rằng trước những yêu cầu mới của bối cảnh toàn
cầu hoá và khu vực hoá các hoạt động kinh tế, sự thay đổi chính sách thương mại
quốc tế của Nhật Bản cùng với sự kiện kỷ niệm trọng thể 30 năm ngày chính thức
thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản trong năm 2003, trong tương lai
gần hai nước sẽ ký kết hiệp định về thương mại song phương, khi đó quan hệ
thương mại Việt - Nhật càng có điều kiện phát triển mạnh hơn nữa. Đương nhiên
để đạt được sự phát triển như vậy, về phía Việt Nam đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực
thực hiện có hiệu quả cao nhất các giải pháp cơ bản về phát triển ngoại thương
Việt Nam nói chung và thương mại Việt - Nhật nói riêng.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Ở Việt Nam từ trước đến nay các công trình của một số các tác giả nghiên cứu
liên quan đến quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản là :
- Đỗ Đức Định, “ Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản đang phát triển”,
Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996.

-3-
- Trần Anh Phương, chương 4: “ Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản
trong những năm 1990 “ trong cuốn sách: Quan hệ kinh tế Việt Nam- Nhật
Bản trong những năm 1990 và triển vọng ( Vũ Văn Hà chủ biên ), Nhà xuất
bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.
- Ngô Xuân Bình - Hồ Việt Hạnh , Chương 2 - mục 2.4. “ Quan hệ kinh tế
Nhật - Việt năm 2001” trong cuốn sách “ Nhật Bản năm đầu thế kỷ XXI ” ,
Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002.
- Nguyễn Duy Dũng , “ Năm 2002: quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
tiếp tục phát triển ổn định ”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á
, số 1(43) 2- 2003.
- Nguyễn Xuân Thiên, “ 20 năm quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản ”
, Tạp chí Con số và Sự kiện số 1/1995 v.v
Các công trình trên đây đã nghiên cứu về quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật
Bản trong thời gian một số năm của thế kỷ 20 . Các công trình nói trên đã nghiên
cứu thực trạng quan hệ thương mại Việt - Nhật , thuân lợi và khó khăn và có đưa
ra những giải pháp để giải quyết những khó khăn, bất cập đó tuy nhiên các công
trình nói trên mới chỉ đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn trong khoảng thời gian
mà các tác giả nghiên cứu mà khoảng thời gian đó đã qua, mặt khác vấn đề mà
các tác giả nghiên cứu chỉ là một nội dung trong công trình mà các tác giả nghiên
cứu hoặc nêú có tách riêng thì mới chỉ dừng ở một bài báo, một chương sách
nên tính khái quát là rất cao, không đi sâu nghiên cứu một cách sâu sắc, vì thế
không thể giải quyết được một cách căn bản các vấn đề đặt ra trong quan hệ
thương mại Việt Nam - Nhật Bản. Cho nên tác giả luận văn nghiên cứu vấn đề
này ở một phạm vi nghiên cứu rộng hơn và sâu sắc hơn của một luận văn cao học.
Hướng tiếp cận của luận văn là nghiên cứu trực tiếp thực trạng quan hệ thương
mại Việt- Nhật trong giai đoạn hiện nay, phát hiện những vấn đề mới nảy sinh, đề
xuất những giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản phát
triển hơn nữa phù hợp với những lợi ích kinh tế, chính trị của Việt Nam và Nhật
Bản. Nhưng luận văn không tách rời, cô lập quan hệ thương mại Việt Nam- Nhật

Bản mà đặt trong quan hệ tác động qua lại với các vấn đề kinh tế chính trị khác
như đầu tư, ODA, hoạt động chính trị và ngoại giao
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả quan hệ thương mại Việt Nam- Nhật
Bản, góp phần phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước ngày càng sâu sắc
hơn.
-4-
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu : Nghiên cứu quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật
Bản với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản và nhập khẩu
của Việt Nam từ Nhật Bản.
- Phạm vi nghiên cứu : Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản có từ thế
kỷ XVI - XVII nhưng luận văn tập trung phân tích quan hệ thương mại Việt
Nam - Nhật Bản từ năm 1976 đến nay.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Ngoài các phương pháp cơ bản được sử dụng rộng rãi trong việc nghiên cứu
như duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trừu tượng hoá khoa học, luận văn còn sử
dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và trường hợp đặc biệt sử
dụng phương pháp phân tích so sánh, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để làm
sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
- Phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn của quan hệ thương mại Việt
Nam - Nhật Bản.
- Làm rõ những đặc điểm nổi bật của quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật
Bản, xu hướng vận động và phát triển.
- Đề xuất những giải pháp đối với Việt Nam để thúc đẩy và nâng cao hiệu
quả quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:

CHƯƠNG 1 : Cơ sở lý luận và thực tiễn của quan hệ thương mại Việt Nam -
Nhật Bản
CHƯƠNG 2 : Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản
CHƯƠNG 3 : Những giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả quan
hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản







-5-
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUAN HỆ
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN

1.1. MỘT SỐ LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1.1. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối
Theo Adam Smith (1723-1790) - nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh cho
rằng “ Sự giàu có của một quốc gia phụ thuộc vào số hàng hoá và dịch vụ có
sẵn hơn là sự phụ thuộc vào vàng ”.
Tại sao các nước cần phải giao dịch buôn bán với nhau? Tại sao Việt
Nam (hay bất cứ một quốc gia nào khác) không bằng lòng với hàng hoá và
dịch vụ sản xuất tại nước mình?
Trong cuốn “sự giàu có của các quốc gia” xuất bản năm 1776, Adam
Smith đã nghi ngờ về chủ nghĩa trọng thương vì cho sự phồn vinh của một
nước phụ thuộc vào châu báu mà nước đó tích luỹ được. Thay vào đó, ông cho
rằng sự giàu có thực sự của một nước là tổng số hàng hoá và dịch vụ có sẵn ở
nước đó. Ông cho rằng những quốc gia khác nhau có thể sản xuất những loại

hàng hoá khác nhau có hiệu quả hơn những thứ khác.
Adam Smith cho rằng nếu thương mại không bị hạn chế thì lợi ích của
thương mại quốc tế thu được do sự thực hiện nguyên tắc phân công. Ông phê
phán sự phi lý của những hạn chế của lý tưởng trọng thương và chứng minh
rằng mậu dịch sẽ giúp ích cả hai bên tăng gia sản - hiểu theo ý lợi tức thực sự
qua việc thực thi một nguyên tắc cơ bản : nguyên tắc phân công.
Theo cuốn “The Wealth of Nations - Sự giàu có của một quốc gia”
Adam Smith cho rằng : phương ngôn của mọi người chủ gia đình khôn ngoan
là không bao giờ tự sản xuất những gì mà nếu đi mua sẽ được rẻ hơn. Người
thợ may không khi nào hì hục đóng đôi giày mà thường đi mua ở người thợ
giày. Và người thợ giày cũng không cần loay hoay cắt may, mà nhờ anh thợ
may may hộ. Người nông dân không tự làm lấy hai thứ trên, mà nhờ vào các
tay thợ khéo. Mọi người dân đều có lợi khi chăm chỉ làm công việc của mình
có lợi thế hơn láng giềng, và dùng một phần số sản phẩm của mình hay tiền
bán được số sản phẩm ấy để đi mua mọi thứ cần dùng khác.
-6-
Những gì trong sinh hoạt cá nhân được coi là khôn ngoan ít khi nào lại
là một điều rồ dại đối với quốc gia. Nếu một nước ngoài có thể cung cấp một
loại hàng rẻ hơn là khi ta tự sản xuất, thì tốt hơn hết nên đi mua loại hàng ấy,
dành thì giờ chuyên chú vào một hoạt động khác mà ta có lợi hơn, để bán lấy
tiền tiêu dùng.
Theo Adam Smith, nếu quốc gia chuyên môn hoá vào những ngành sản
xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối thì cho phép họ sản xuất sản phẩm với chi phí
và hiệu quả hơn các quốc gia khác.
Nhờ sự chuyên môn hoá, các nước có thế gia tăng hiệu quả do :
1) Người lao động sẽ lành nghề hơn do họ lặp lại cùng một thao tác nhiều
lần.
2) Người lao động không phải mất thời gian chuyển từ việc sản xuất sản
phẩm này sang sản xuất sản phẩm khác.
3) Do làm một công việc lâu dài, người lao động sẽ nẩy sinh các sáng kiến,

đề xuất các phương pháp làm việc tốt hơn.
Tuy nhiên, một nước chuyên môn hoá vào những sản phẩm nào? Mặc dù
Adam Smith cho rằng thị trường chính là nơi quyết định, nhưng Ông vẫn nghĩ
rằng lợi thế của một nước có thể là lợi thế tự nhiên hay do nỗ lực của nước đó.
Lợi thế tự nhiên liên quan đến các điều kiện khí hậu và tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên có thể đóng vai trò quyết định trong việc sản xuất có hiệu
quả rất nhiều sản phẩm như càfê, chè, cao su, dừa , các loại khoáng sản.
Lợi thế do nỗ lực là lợi thế có được do sự phát triển của kỹ thuật và sự lành
nghề.
Ngày nay, người ta thường buôn bán, trao đổi các loại hàng hoá đã được
sản xuất công phu hơn là các nông phẩm hay tài nguyên thiên nhiên nguyên
khai hoặc sơ chế.
Quy trình sản xuất những loại hàng hoá này phần lớn phụ thuộc vào ”lợi
thế do nỗ lực” thường do kỹ thuật chế biến, là khả năng sản xuất các loại sản
phẩm khác nhau, khác biệt với các thứ khác. Ví dụ, Đan Mạch sản xuất đĩa bạc
không phải vì nước này có nguồn mỏ bạc dồi dào mà do họ có thể sản xuất
được những đĩa bạc thật đặc biệt. Lợi thế về kỹ thuật chế biến là khả năng chế
tạo các sản phẩm đồng nhất có hiệu quả hơn. Ví dụ, Nhật Bản là nước phải
-7-
nhập sắt và than, là hai thành phần quan trọng và cần thiết cho quá trình sản
xuất thép. Nhưng nhờ có được quy trình sản xuất thép tiên tiến nên tiết kiệm
được nguyên liệu và lao động đã làm cho các nhà sản xuất thép Nhật Bản rất
thành công trong cạnh tranh trên thị trường.
Lợi thế tuyệt đối đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có thể được
sản xuất ra, sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác nhau. Một nước
được coi là có lợi thế tuyệt đối so với nước kia trong việc sản xuất hàng hoá A
khi cùng một nguồn lực có thể sản xuất được nhiều sản phẩm A ở nước thứ
nhất hơn là nước thứ hai.
Giả sử Việt Nam có lợi thế tuyệt đối so với Hàn Quốc trong một loại
hàng hoá, trong khi Hàn Quốc lại có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam một loại

hàng hóa khác. Đó là trường hợp lợi thế tuyệt đối tương hỗ. Mỗi nước đều có
lợi thế tuyệt đối trong sản xuất một loại sản phẩm. Trong trường hợp như thế,
tổng sản phẩm của cả hai nước có thể tăng lên (so với nền kinh tế tự cung tự
cấp) nếu mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất loại sản phẩm mà nước đó có lợi
thế tuyệt đối.
Ví dụ sau đây đưa ra tình huống giả định về sản lượng gạo và vải vóc
đều tăng lên khi mỗi nước sản xuất nhiều hơn số hàng hoá mà nước đó có lợi
thế tuyệt đối. Kết quả là sẽ có nhiều lúa gạo và vải vóc cùng một chi phí về
nguồn lực.
Bảng 1: Lượng lúa gạo và vải vóc có thể được sản xuất với một đơn vị
nguồn lực ở Việt Nam và Hàn Quốc.

Nƣớc
Lúa gạo (tạ)
Vải vóc (m
2
)
Việt Nam
10
6
Hàn Quốc
5
10

Ta có thể thấy ngay Việt Nam có lợi thế trong việc sản xuất lúa gạo, còn
Hàn Quốc trong việc sản xuất vải.
-8-
Bảng 2: Những thay đổi xẩy ra khi chuyển một đơn vị nguồn lực của Việt
Nam sang sản xuất lúa gạo, và một đơn vị nguồn lực của Hàn Quốc sang
sản xuất vải.


Nƣớc
Lúa gạo (tạ)
Vải vóc (m
2
)
Hàn Quốc
-5
+10
Việt Nam
+10
- 6
Tổng số
+5
+ 4

Do việc chuyển đổi nguồn lực đầu vào của việc sản xuất lúa gạo ở Việt
Nam và vải ở Hàn Quốc, quá trình chuyên môn hoá sẽ làm tăng sản lượng cả
cả hai loại hàng hoá. Ví dụ này trình bày sự thay đổi về sản lượng do chuyển
một đơn vị nguồn lực từ việc sản xuất vải sang việc sản xuất gạo (Việt Nam)
và từ việc sản xuất lúa gạo sang sản xuất vải (Hàn Quốc). Sản lượng trên thế
giới tăng 5 tạ lúa và 4m
2
vải, trên toàn thế giới sẽ có lợi ích do chuyên môn
hoá. Trong trường hợp này có nhiều sự chuyển đổi nguồn lực sang sản xuất lúa
ở Việt Nam và càng có nhiều sự chuyển đổi nguồn lực sang sản xuất vải ở Hàn
Quốc thì lợi ích càng lớn.
Những lợi ích này của việc chuyên môn hoá sẽ khiến những lợi ích của
ngoại thương trở thành hiện thực. Việt Nam sẽ sản xuất nhiều lúa gạo và Hàn
Quốc thì sản xuất nhiều vải hơn so với trước khi hai nước này còn ở tình trạng

tự cung tự cấp. Như vậy, Việt Nam sẽ phải sản xuất nhiều lúa gạo và ít vải hơn
so với nhu cầu người tiêu dùng ở Việt Nam và Hàn Quốc sẽ sản xuất nhiều vải
và ít lúa gạo hơn so với nhu cầu của người tiêu dùng ở Hàn Quốc. Nếu người
tiêu dùng ở cả hai nước có vải và lúa gạo theo một tỷ lệ mong muốn thì Hàn
Quốc cần phải xuất khẩu vải sang Việt Nam và nhập lúa gạo từ Việt Nam.
1.1.2 . Lý thuyết lợi thế so sánh
-9-
Lợi ích thương mại vẫn diễn ra ở những nước có lợi ích tuyệt đối về tất
cả các sản phẩm vì các nước này cần phải hy sinh sản lượng kém hiệu quả để
sản xuất ra sản lượng có hiệu quả hơn. Hay nói cách khác những lợi ích do
chuyên môn hoá và ngoại thương mang lại phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ
không phải lợi thế tuyệt đối.
Khi mỗi nước có lợi thế tuyệt đối so với nước khác về một loại hàng
hoá, lợi ích của ngoại thương là rõ ràng. Nhưng điều gì sẽ xẩy ra nếu một nước
có thể sản xuất có hiệu quả hơn nước kia trong hầu hết các mặt hàng? Hoặc
những nước không có lợi thế tuyệt đối nào cả, thì chỗ đứng của họ trong phân
công lao động quốc tế là ở đâu? hoạt động thương mại diễn ra như thế nào với
những nước này?
Trên thực tế đó là một câu hỏi mà David Ricardo từ hơn 170 năm trước
và chính ông đã trả lời câu hỏi đó trong các tác phẩm với tiếng của mình
“Những nguyên lý của kinh tế chính trị, 1817” trong tác phẩm này, David
Ricardo đã đưa ra một lý thuyết tổng quát chính xác hơn về cơ chế xuất hiện
lợi ích trong thương mại quốc tế. Theo David Ricardo, cơ chế xuất hiện lợi ích
trong thương mại quốc tế là :
- Mỗi nước đều có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế bởi vì
ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước : do
chỉ chuyên môn hoá vào sản xuất một số sản phẩm nhất định và xuất
khẩu hàng hoá của mình để đổi lấy hàng hoá nhập khẩu từ nước khác.
- Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn nước khác hoặc bị kém
lợi thế tuyệt đối hơn các nước khác trong việc sản xuất mọi sản phẩm,

thì vẫn có lợi thế khi tham gia vào phân công lao động quốc tế bởi vì
mỗi nước có một lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và kém
lợi thế so sánh về một số mặt hàng khác. Ví dụ sau đây minh hoạ về lợi
thế so sánh giữa hai nước Việt Nam và Hàn Quốc :


-10-



Bảng 3: Năng lực sản xuất trong trường hợp lợi thế tương đối

Các giả thiết
Đơn vị nguồn lực có sẵn
Đơn vị nguồn lực để sản xuất 1 tấn lúa gạo
Đơn vị nguồn lực để sản xuất 1 kiện vải
Sử dụng một nửa tài nguyên cho mỗi loại
sản phẩm khi không có ngoại thương
Vải
Lúa gạo
Sản xuất

Không có ngoại thương
Việt Nam
Hàn Quốc
Tổng cộng
Có ngoại thương (Việt Nam sản xuất toàn
bộ sản lượng lúa gạo cần thiết)
Việt Nam
Hàn Quốc

Tổng cộng
Có ngoại thương (Việt Nam sản xuất lượng
vải cần thiết còn lại)
Tăng sản xuất lúa gạo
Việt Nam
Hàn Quốc
Tổng cộng
Việt Nam
100
3
4


50
50
vải


12,5
10
22,5


6,3
20
26,3



2,5

20
22,5
Hàn Quốc
100
6
5


50
50
Lúa gạo


16,6
8,3
24,9


24,9
0
24,9



30
0
30
Dù Việt Nam có lợi thế tuyệt đối cả hai loại sản phẩm, nhưng Việt Nam
lại có lợi thế tương đối trong việc sản xuất lúa gạo. Cũng một nguồn lực, Việt
-11-

Nam có thể sản xuất lúa gạo gấp hai lần so với Hàn Quốc, còn về sản xuất vải
thì Việt Nam lại chỉ có gấp hơn một lần.
Cho dù Hàn Quốc bất lợi về sản xuất cả hai loại sản phẩm nhưng Hàn
Quốc vẫn có lợi thế tương đối về vải. Do sản xuất lúa gạo của Hàn Quốc chỉ
bằng 50% so với Việt Nam, còn sản xuất vải chỉ bằng 75% so với Việt Nam.
Chúng ta giả thiết mỗi quốc gia đang có 100 đơn vị nguồn lực. Nếu mỗi
nước dùng một nửa đơn vị nguồn lực cho việc sản xuất mỗi sản phẩm thì Việt
Nam có thể sản xuất được 12,5 kiện vải (50/4) và 16,6 tấn lúa gạo (50/3), còn
Hàn Quốc được 10 kiện vải (50/5) và 8,3 tấn gạo (50/6).
Nếu không có ngoại thương, sản lượng lúa gạo tổng cộng là 24,9 tấn
(Việt Nam 16,6 tấn; Hàn Quốc 8,3 tấn) và 22,5 kiện vải (Việt Nam 12,5 kiện;
Hàn Quốc 10 kiện) .
Nhờ mở cửa buôn bán mà sản lượng lúa gạo và vải hay tổng cộng cả hai
loại sản phẩm có thể tăng thêm.
Nếu ta tăng sản xuất vải, mà không thay đổi sản xuất lúa gạo như trước
khi ta trao đổi, thì Việt Nam có thể sản xuất tất cả 24,9 tấn lúa gạo bằng cách
sử dụng 74,7 đơn vị nguồn lực (74,7/3) với 25,3 đơn vị nguồn lực còn lại, Việt
Nam có thể sử dụng để sản xuất 6,3 kiện vải (25,3/4). Hàn Quốc trong trường
hợp này sử dụng toàn bộ nguồn lực của mình để sản xuất 20 kiện vải. Sản
lượng lúa gạo tổng cộng là 24,9 tấn, nhưng sản lượng vải tăng lên từ 22,5 kiện
lên 26,3 kiện.
Nếu ta tăng sản xuất lúa gạo tại Việt Nam, và vẫn giữ nguyên sản lượng
vải như trước khi có buôn bán giữa hai nước, Hàn Quốc có thể sử dụng toàn bộ
nguồn lực của mình để sản xuất 20 kiện vải, Việt Nam có thể sản xuất 2,5 kiện
vải còn lại với 10 đơn vị nguồn lực (10/4); 90 đơn vị nguồn lực còn lại Việt
Nam có thể sản xuất 30 tấn lúa gạo (90/3) không cần phải hy sinh lượng vải có
sẵn trước khi có ngoại thương, lượng lúa gạo vẫn tăng lên từ 24,9 tấn lên 30
tấn.
Xét cho kỹ thì lý luận của David Ricardo chỉ là mở rộng nguyên tắc
phân công. Một cách khái quát, cho cả quốc gia cũng như cá nhân, chuyên

môn hoá phải dựa theo khả năng.
Chúng ta thấy lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo đã đi xa hơn
quan điểm của Adam Smith về căn bản của mậu dịch quốc tế, khắc phục được
-12-
những hạn chế của lý thuyết thương mại dựa trên lợi thế tuyệt đối của Adam
Smith.
1.1.3. Lý thuyết về giá trị quốc tế, mối tƣơng quan của cầu
Lý thuyết của David Ricardo mới chỉ đề cập đến yếu tố cung, chưa chú
ý tới yếu tố cầu. Để bổ sung cho khiếm khuyết này, J.Stuart Mill đã bàn đến
vấn đề giá trị quốc tế hay tỷ lệ trao đổi giữa các sản phẩm. Ông là một trong
những nhà kinh tế học của thế kỷ XIX ủng hộ lợi ích của ngoại thương.
J.Stuart Mill cho rằng “sự mở rộng của ngoại thương đôi khi là một kiểu
cách mạng công nghiệp ở một nước mà các nguồn lực của nó trước đó chưa
được phát triển".
Thay vì so sánh phí tổn nhân công của quốc gia khi sản xuất ra một sản
phẩm ngang nhau, ông lại so sánh các sản phẩm sản xuất ra của hai quốc gia
khi sử dụng đầu vào nhân công ngang nhau.
Lý thuyết của S.Mill dựa trên năng xuất tương đối của nhân công chứ
không phải phí tổn của nhân công như D.Ricardo. Cấu trúc của S.Mill như sau:
Bảng 4: Đầu vào và đầu ra hai sản phẩm ở hai quốc gia

Đầu vào
nhân công (số ngày)
Quốc gia
Đầu ra
Rƣợu (thùng)
Vải (kiện)
300
300
Bồ Đào Nha

Anh
100
50
75
60
Chúng ta thấy, cùng một nguồn lực (đầu vào) là nhân công, Bồ Đào
Nha có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất cả hai thứ hàng, nhưng có lợi thế
tương đối hơn về rượu (100/50=2/1 so với 75/60=5/4) . Ngược lại, Anh lại có
lợi thế tương đối hơn về vải (60/75=4/5 so với 50/100=1/2).
Một cách tổng quát, có thể phát triển nguyên tắc lợi thế tương đối như sau:
Nếu với cùng một điều kiện đầu vào, người ta có thể sản xuất được a
1

và b
1
lượng hàng A và B ở quốc gia I, và a
2
và b
2
ở quốc gia II thì quốc gia I sẽ
xuất khẩu A để nhập B nếu a
1
/b
1
>a
2
/b
2
, nghĩa là so với quốc gia II, tương đối
quốc gia I có khả năng sản xuất A nhiều hơn B (hoặc có thể a

1
/a
2
>b
1
/b
2
) và
ngược lại b
2
/b
1
>a
2
/a
1
thì quốc gia II sẽ xuất khẩu sản phẩm B và nhập khẩu sản
phẩm A.
-13-



1.1.4. Quan điểm của Các Mác về ngoại thƣơng
Trong học thuyết của mình, Các Mác chưa trình bày một cách hệ thống
các quan điểm về lý luận ngoại thương. Tuy nhiên trong học thuyết kinh tế của
CácMác, nhất là trong bộ “ Tư bản ” trong khi phân tích về nền kinh tế hàng
hoá tư bản chủ nghĩa, quan điểm của Các Mác về ngoại thương được hình
thành. Lý luận về ngoại thương của Các Mác có thể nói được tập trung ở
những điểm sau đây:
Thứ nhất nguyên tắc chi phí ngoại thương là bình đẳng, cùng có lợi. Sự

phân tích của ông về ngoại thương là dựa trên quy luật giá trị, Các Mác cho
rằng chi phí về lao động là cơ chế cho trao đổi, buôn bán hàng hoá giữa các
nước, theo đó hạ thấp được chi phí lao động thì hoạt động ngoại thương tất yếu
là có lợi. Điều có nghĩa là chi phí lao động là nguồn lực quan trọng nhất, là cơ
sở quan trọng nhất để phân tích lợi ích của ngoại thương. Trong mậu dịch quốc
tế, nguyên tắc trao đổi hàng hoá phải tuân theo nguyên tắc ngang giá. Ông đã
phê phán gay gắt quan điểm sai lầm, thô thiển của chủ nghĩa trọng thương cho
rằng “Trọng thương mại sở dĩ là một bên có lợi là vì đã làm thiệt hại bên kia”.
Thứ hai, sự hình thành và phát triển của ngoại thương là tất yếu khách
quan của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa là một nền kinh tế hàng hoá luôn đòi hỏi thị trường ngày càng
mở rộng, không chỉ là thị trường tiêu thụ sản phẩm mà còn là thị trường cung
cấp nguyên liệu cho sản xuất. Và điều quan trọng hơn hết, ngoại thương xuất
hiện là một tất yếu do sự chi phối của quy luật giá trị thặng dư tối đa.

1.2. NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM -
NHẬT BẢN
1.2.1. Xu hƣớng chung của quan hệ thƣơng mại quốc tế
* Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế
Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là từ đầu
những năm 1990 đến nay đã có tác động rất lớn đến quan hệ kinh tế giữa Việt
Nam và Nhật Bản. Bước vào thập kỷ 90, xu hướng hoà bình hợp tác và phát
-14-
triển đã trở thành chủ đề chính của thời đại. Hình thức chủ yếu của cạnh tranh
quốc tế đã chuyển từ chạy đua vũ trang thời kỳ chiến tranh lạnh sang cạnh
tranh kinh tế. Có thể nói rằng, kể từ sau chiến tranh thế giới hai, dưới sự tác
động của quốc tế hoá sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật không ngừng
phát triển, tính tuỳ thuộc lẫn nhau và bổ sung cho nhau của nền kinh tế các
nước vốn đã khá phát triển lại càng gia tăng mạnh mẽ trong xu thế của quá
trình toàn cầu hoá kinh tế hiện nay. Và chính quá trình toàn cầu hoá và sự phụ

thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng chặt chẽ đã làm cho các hoạt
động hợp tác và cạnh tranh giữa các quốc gia cũng như giữa các công ty trên
thế giới ngày càng phức tạp và đa dạng. Đặc biệt là xu hướng tự do hoá thương
mại và đầu tư của các quốc gia và các công ty trong khu vực ngày càng mang
tính quy định và bổ sung cho nhau như một chính thể thống nhất. Không phải
ngẫu nhiên mà người ta thường cho rằng các trung tâm kinh tế buôn bán của
thế giới như Mỹ, Nhật Bản và EU đang dẫn dắt quá trình tự do hoá và toàn cầu
hoá hiện nay, đặc biệt trong việc chi phối Quỹ tiền tệ quốc tế( IMF), Ngân
hàng thế giới (WB), tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Thứ nhất, có thể nói xu thế toàn cầu hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại
của các nước nhằm thích ứng với một môi trường kinh tế quốc tế mới và đang
thay đổi. Dù biện minh dưới hình thức nào và thay đổi hoạt động theo cách
thức gì thì mục tiêu cuối cùng của các quốc gia cũng như các nhà kinh doanh
cũng là lợi nhuận, thị phần, và những ảnh hưởng quốc tế ngày càng sâu rộng
của mình. Để đạt được những mục đích cần thiết này, các quốc gia phải bắt
kịp, thích ứng, và thậm chí phải đón đầu được với cả những triển vọng phát
triển mới của nền kinh tế thế giới.
Thứ hai, trong quá trình toàn cầu hoá, tiến bộ công nghệ nói chung, đặc
biệt là sự bùng nổ của cuộc cách mạng tin học trong những năm gần đây đã
đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tin
học trong nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là nhân tố nổi bật giúp cho việc
điều hành một cách dễ dàng các hoạt động kinh tế phân tán ở nhiều nơi khác
nhau trên thế giới bằng sử dụng rộng rãi các thiết bị tin học, nhờ đó các quốc
gia phát triển và các nhà kinh doanh không những có thể mở rộng các hoạt
động kinh tế về quy mô ra nước ngoài mà còn có thể tăng cường các hoạt động
về chiều sâu, đổi mới về phương thức tổ chức và quản lý Theo sự phát triển
-15-
của mạng lưới thông tin hiện đại, sự trao đổi và thông tin lẫn nhau giữa các
quốc gia ngày càng trở nên rõ ràng và thuận tiện. Chính vì thế, hoạt động
thương mại và đầu tư không những đã có thể phát triển rộng khắp đến những

khu vực và các nền kinh tế trên khắp thế giới mà còn có thể tiến sâu hơn vào
những vùng sâu, vùng xa và những nơi hẻo lánh mà trước đây không thể có
điều kiện vươn tới được.
Thứ ba, dưới tác động của toàn cầu hoá và cách mạng tin học, các quá
trình liên kết khu vực và toàn cầu cũng đang diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi các quốc
gia phải sử dụng tối ưu các nguồn lực để hội nhập có hiệu quả vào quá trình
hợp tác và phân công lao động quốc tế. Các tiến trình này sẽ làm nảy sinh nhu
cầu kết hợp chặt chẽ giữa các chính sách thương mại với đầu tư và viện trợ,
đẩy mạnh tự do hoá thương mại bằng cách dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi
thuế quan giữa các quốc gia Các nước phát triển có điều kiện thực hiện các
chiến lược đầu tư và thương mại mà trước đó luôn bị các hàng rào bảo hộ
phong toả thông qua việc đặt các chi nhánh ở nước ngoài và cho phép các chi
nhánh đó thực hiện đầu tư trực tiếp và mở rộng buôn bán sang các nước thứ ba.
Vâỵ thực chất của toàn cầu hoá kinh tế là gì và những đặc trưng cơ bản
của quá trình này là như thế nào? thực chất của toàn cầu hoá về kinh tế: “ là sự
tự do hoá kinh tế và hội nhập kinh tế và hội nhập quốc tế, mà trước hết là về
thương mại đầu tư, và dịch vụ v v. Tự do hoá kinh tế cũng có các mức độ
khác nhau, từ giảm thuế quan đến xoá bỏ thuế quan; từ tự do hoá thương mại
đến tự do hoá về hàng hoá và dịch vụ, từ tự do hoá về kinh tế trong quan hệ đôi
bên đến nhiều bên, trong quan hệ khu vực đến toàn cầu. Hội nhập kinh tế cũng
vậy, cũng có những thứ bậc cao thấp khác nhau, song các quốc gia dù muốn
hay không dần dần đều phải hội nhập vào các tổ chức kinh tế khu vực và toàn
cầu, cần phải có chiến lược và có chính sách để thích ứng với quá trình toàn
cầu hoá”
1
Cùng với sự phát triển không ngừng của toàn cầu hoá, sự dựa vào nhau,
tác động và ảnh lẫn nhau của kinh tế các nước ngày càng sâu sắc, trách nhiệm
của chính phủ các nước đối với sự phát triển kinh tế toàn cầu ngày càng lớn,
các nước phát triển trên cơ sở tinh thần cùng gánh chịu trách nhiệm và sự rủi



1
Võ Đại Lược - Toàn cầu hoá. Những tác động và đối sách của Việt Nam, Kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương, số 1(22), 3-1999, trang 3.
-16-
ro (nếu có) để tiến hành hợp tác, phối hợp quốc tế rộng rãi và hiệu quả thiết
thực. Cùng với xu thế này các nước đang phát triển cần phải áp dụng các chính
sách có hiệu quả trong việc tham gia vào quá trình toàn cầu hoá. Nói cách
khác, cần tiến hành sự hợp tác và phát triển sao cho có thể thu được lợi ích tối
đa và thiệt hại ở mức thấp nhất.
Một trong những mốc đánh dấu tiến trình toàn cầu hoá kinh tế tăng nhanh
là sự luân chuyển nhanh chóng tiền vốn với quy mô ngày càng lớn. Nguồn vốn
với quy mô lớn với tốc độ luân chuyển nhanh đã trở thành một lĩnh vực mạo
hiểm và sôi động nhất của kinh tế thế giới hiện nay. “Theo số liệu thống kê,
mỗi ngày mức giao dịch ngoại hối trên phạm vi toàn cầu đạt 1500 tỷ đô la Mỹ
(USD), nếu tính theo 250 ngày làm việc thì một năm mức giao dịch ngoại hối
toàn cầu đạt tớí 375.000 tỉ USD, trong đó, 98% chủ yếu dùng để mua bán có
tính chất đầu tư với nhiều hình thức”.
2

Toàn cầu hoá kinh tế đòi hỏi nguồn vốn (một yếu tố quan trọng của sản
xuất ) cũng phải được toàn cầu hoá. Lưu động vốn còn là biện pháp hữu hiệu
nhằm vượt qua hàng rào thuế quan để chiếm lĩnh thị trường các nước. Tính đến
cuối năm 1996, tổng giá trị vốn lưu động trong thị trường cổ phiếu thế giới là
20.200 tỉ USD, trong đó tổng giá trị của 70 thị trường cổ phiếu mới thành lập
đã chiếm gần 1600 tỉ USD (khoảng 11% tổng số vốn). Nhờ có biện pháp áp
dụng cao trong nghiệp vụ tiền tệ mà tốc độ lưu chuyển vốn toàn cầu đã được
đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Từ năm 1980 đến nay, trong khi tốc độ tăng bình
quân hàng năm của mậu dịch thế giới là 5,5 - 6% thì lượng lưu thông tiền vốn
đã tăng bình quân lên 20%/năm. Hiện nay, kim ngạch trao đổi ngoại tệ hàng

ngày lên tới 1200 - 1300 tỉ USD. Những con số đã chứng tỏ sức sống của toàn
cầu hoá kinh tế, mặt khác cũng phản ánh kinh tế đang mở rộng theo cơ cấu tiền
tệ tăng lên. Chính vì thế những rủi ro liên quan đến tiền tệ cũng ngày càng gia
tăng đòi hỏi công tác quản lý và giám sát thị trường ngày càng phải chặt chẽ.
Một trong những lực lượng chủ yếu thúc đẩy sự phân công quốc tế và
quá trình toàn cầu hoá là các công ty xuyên quốc gia thực hiện phương châm


2
Toàn cầu hoá kinh tế và đối sách của các nước đang phát triển, Tạp chí tri thức thế giới, số 16,1999.
3. Bùng nổ nguồn vốn đầu tư, Báo Đầu tư, số 513, ngày 17-1-2000.

-17-
lấy thế giới làm nhà máy và lấy các nước làm phân xưởng của mình nhằm
thông qua phân công quốc tế để lợi dụng ưu thế về kỹ thuật, tiền vốn, sức lao
động và thị trường của các nước, thúc đẩy quốc tế hoá sản xuất nhanh chóng.
Tổng giá trị sản xuất của những công ty xuyên quốc gia chiếm tới 40% GDP
của thế giới, tổng kim ngạch mậu dịch chiếm 50% giá trị mậu dịch của thế giới
và tổng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chiếm tới 90% đầu tư trực tiếp của
thế giới. Hơn nữa, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các công ty xuyên quốc
gia chủ yếu là đầu tư qua lại lẫn nhau. Theo số liệu thống kê, 82% đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của các công ty ở 29 nước thành viên thuộc tổ chức phát
triển và hợp tác kinh tế là đầu tư lẫn nhau giữa các nước. Năm 1999, tổng vốn
đầu tư nước ngoài trên toàn thế giới đã lên tới 648 tỉ USD, tăng 34,6% so với
năm 1998 và gấp rưỡi so với 1997. Trong đó, các công ty xuyên quốc gia là
đầu tư ra nước ngoài lớn nhất, đã rót vào các nền kinh tế khoảng 441 tỉ USD và
các nước dang phát triển 165 tỉ USD.
3
Đánh giá về tình hình kinh tế trên thế
giới năm 1999, phần đông các nhà phân tích kinh tế cho rằng, các công ty

xuyên quốc gia hiện chiếm một lượng nguồn vốn đầu tư vào các nước đang
phát triển, đặc biệt là các nước Châu Á.
Điều này cho thấy, các nước đang và sẽ phụ thuộc nhiều vào các công ty
xuyên quốc gia.
Sự phụ thuộc này vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực, bởi vì nó
vừa hỗ trợ các nước đang phát triển, vừa buộc các nước đi theo hướng do các
công ty xuyên quốc gia đưa ra. Theo phân loại của ngân hàng thế giới, trong số
25 quốc gia và vùng kinh tế có môi trường đầu tư hấp dẫn nhất trong năm 1999
thì có tới 10 quốc gia và vùng lãnh thổ các nước phát triển và đang phát triển
châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Hồng Kông,
Singapo, Philippin, Đài Loan và Malaixia.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính và tiền tệ, nhiều nền kinh tế châu Á đã lấy
lại niềm tin của các nhà đầu tư trong đó, Nhật Bản là một trường hợp điển
hình. Trong quý III năm1999, Nhật Bản đã thu hút hơn 10 tỉ USD đầu tư
nước ngoài. Đây được coi là một mức vốn đầu tư cao nhất trong một quý kể từ
sau chiến tranh thế giới thứ hai. Đối với các nước ASEAN sau khi giảm xuống
mức thấp khoảng 17 tỉ USD vào năm 1998, năm 1999, tổng số vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào các nước ASEAN đã tăng lên đáng kể. Theo dự báo của
-18-
công ty tư vấn quốc tế (PERG) PERG dự tính, từ nay đến năm 2005, khu vực
Đông Bắc Á và ASEAN cần khoảng 1500 tỉ USD đầu tư cho phát triển cơ sở
hạ tầng. PERG ước tính, kế hoạch của các nước ASEAN về hệ thống đường
xuyên Á, hệ thống viễn thông chung cần từ 200 tỉ đến 500 tỉ USD vốn đầu
tư. Và để thực hiện “tầm nhìn 2020” đưa các nước ASEAN trở thành các nước
công nghiệp hoá và phát triển đồng đều, Hiệp hội các nước này cần khoảng
1000 tỉ USD vốn đầu tư, chủ yếu từ các nguồn vốn bên ngoài.
Trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế, tốc độ tăng trưởng của mậu dịch
thế giới cũng vượt ra xa tốc độ tăng trưởng kinh tế. Theo các số liệu thống kê,
trong nhiều năm nay, tốc độ tăng trưởng mậu dịch thế giới thường cao hơn tốc
độ tăng trưởng kinh tế 1 đến 1,5 lần

Đây là kết quả của sự phân công lao động quốc tế không ngừng sâu sắc
và cũng là một trong những tiêu chí quan trọng của toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá cũng thúc đẩy quá trình hợp tác trong lĩnh vực kinh tế không
ngừng phát triển. Sự hợp tác này được mở rộng từ lĩnh vực mậu dịch hàng hoá
hữu hình và lĩnh vực mậu dịch dịch vụ vô hình. Đầu tư quốc tế và thị trường
tiền tệ quốc tế cũng phát triển với tốc độ ngày càng cao đòi hỏi phải có các văn
bản quy định, giám sát và điều hoà. Việc chuyển nhượng và bảo vệ bản quyền
tri thức tiếp tục phát triển, việc di chuyển sức lao động trên phạm vi thế giới đã
được đưa vào nghị trình hợp tác toàn cầu. Có thể nói rằng các khâu trong hoạt
động kinh tế đối ngoại của các nước, thậm chí việc định ra chính sách kinh tế
trong nước của mỗi nước như bảo vệ môi trường, dân số, chính sách tiền tệ
đều đã trở thành những chủ đề hợp tác kinh tế toàn cầu đòi hỏi phải có các văn
bản quy định và điều phối. Chính vì thế, quá trình toàn cầu hoá kinh tế đã lan
đến mọi quốc gia trên thế giới, từ các nước phát triển đến các nước đang phát
triển. Và chỉ có thể đi theo xu hướng lịch sử này, các nước mới có thể giành
chiến thắng trong cuộc cạnh tranh quốc tế gay gắt hiện nay.
Đối với nước ta, quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế cũng có
tác động hai mặt, cả tích cực lẫn tiêu cực.
Về khía cạnh tích cực, với thế mạnh về con người, vị trí địa lý chiến
lược, tài nguyên đa dạng, nếu chúng ta thực hiện thành công quá trình hội nhập
quốc tế thì chắc chắn chúng ta sẽ phát huy được các lợi thế so sánh của đất
nước, thu hút được vốn đầu tư của nước ngoài, tiếp cận được với khoa học và
-19-
công nghệ tiên tiến để có thể đối mới công nghệ, nâng cao được năng lực cạnh
tranh trên trường quốc tế, góp phần mở rộng thị trường trong nước, tạo điều
kiện cho sự khai thông giao lưu các nguồn lực trong nước với các nước trên thế
giới và trong khu vực.
Về khía cạnh tiêu cực, có thể nhiều hay ít phụ thuộc vào các chính sách,
đặc biệt là các chính sách kinh tế đối ngoại của nước ta có phù hợp hay không
phù hợp. Một số khía cạnh tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế mà một số

người Việt Nam lo ngại có thể kể ra như: thứ nhất, do tham gia vào các tổ chức
quốc tế, nước ta phải giảm dần các thuế quan và bỏ các hàng rào phi thuế quan.
Điều này sẽ làm cho hàng hoá và dịch vụ nước ngoài ồ ạt đổ vào, bóp chết các
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Thứ hai, do hội nhập kinh tế quốc
tế mà chấn động tiêu cực trong hệ thống kinh tế toàn cầu (ví dụ như tiền tệ, tài
chính, giá cả nguyên vật liệu ) cũng sẽ ảnh hưởng đến nước ta. Thứ ba, tham
gia vào các qúa trình toàn cầu hoá không chỉ có các lực lượng kinh tế tiến bộ
mà còn có cả các thế lực phản động
Tuy nhiên những tác động tiêu cực này có thể từ nhỏ đến lớn đến đâu,
điều đó cũng còn phụ thuộc vào các chính sách hội nhập của chúng ta. Nếu
chúng ta có các chính sách hội nhập kinh tế đúng đắn và thích hợp, thì tác hại
của những mặt tiêu cực sẽ bị hạn chế và ngược lại.
Hiện nay, với một xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta còn thấp, còn
một bộ phận kinh tế chưa thật sự thoát khỏi sản xuất hàng hoá nhỏ, các yếu tố
đồng bộ của một nền kinh tế thị trường chưa phát triển đầy đủ, thị trường bất
động sản, thị trường tài chính, thị trường lao động chưa hoàn thiện.
Để chuẩn bị đầy đủ hành trang cho cuộc hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu
quả, chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách hành chính tương đối
toàn diện để đáp ứng các yêu cầu toàn cầu hoá và hội nhập, đặc biệt là nâng
cao hiệu quả sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước Trong đó, có
một số lĩnh vực đặc biệt cần được chú trọng trong quá trình cải cách như: cải
cách hệ thống thuế, chính sách thương mại, đầu tư, các thủ tục thuế quan, tự do
hoá lĩnh vực dịch vụ, tài chính, bảo hiểm, hàng không, viễn thông, sở hữu trí
tuệ Nếu không kịp thời cải cách và nâng cao năng lực cạnh tranh trên quy mô
nền kinh tế nói chung, cũng như sản phẩm của từng doanh nghiệp nói riêng,
của từng ngành, hàng, dịch vụ thì nước ta không những không mở rộng được
-20-
thị trường mà còn có thể dẫn đến nguy cơ bị thu hẹp thị trường (kể cả trong
nước và nước ngoài). Trong bối cảnh năng động của tình hình kinh tế quốc tế
hiện nay, dưới sự chi phối của môi trường tự do buôn bán, tự do đầu tư, nước

ta có thể sẽ biến thành thị trường tiêu thụ hàng hoá cho các hãng, các công ty
và quốc gia bên ngoài. Hơn thế nữa, nếu hàng sản xuất ra vừa đắt, vừa chất
lượng thấp, không tiêu thụ được, đầu tư không đem lại hiệu quả mong muốn,
lao động không có việc làm thì hậu quả xã hội sẽ rất nặng nề, thậm chí khó
tránh khỏi khủng hoảng.
*Xu hướng khu vực hoá được đẩy mạnh
Một xu hướng kinh tế lớn trong nền kinh tế thế giới từ sau chiến tranh
thế giới thứ hai, đó là sự trỗi dậy và phát triển mạnh mẽ sự hợp tác và liên kết
kinh tế khu vực. Khái niệm khu vực hoá về mặt kinh tế đại thể được hiểu là
một nhóm nước liên hợp với nhau trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, các bên tự
nguyện hạn chế một phần quyền lợi kinh tế của mình, thậm chí nhượng bộ một
phần chủ quyền theo nguyên tắc đối đẳng; xây dựng cơ cấu chấp hành tương
ứng theo quy định nghiêm ngặt, cùng nhau quy định điều kiện lưu thông tự do
của các yếu tố sản xuất hoặc toàn bộ các yếu tố sản xuất như hàng hoá, vốn,
lao động, dịch vụ giữa các nước thành viên, từ đó làm cho nguồn vốn của các
nhóm nước này không chịu sự hạn chế của các nước thành viên và được sự ưu
tiên, sắp xếp lại trong không gian kinh tế chung của một nhóm nước, khiến cho
các nước thành viên có thể thực hiện được sự bổ sung kinh tế cho nhau, để đạt
được mục đích cùng phồn vinh.
Khu vực hoá về kinh tế có thể được thực hiện qua các tổ chức có tính
khu vực. Căn cứ vào các mức độ liên kết khác nhau, người ta có thể chia các tổ
chức kinh tế khu vực thành 6 loại bao gồm: khu thuế quan ưu đãi, khu mậu
dịch tự do, đồng minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế, khu vực
hoá toàn bộ.
Cùng với quá trình toàn cầu hoá, quá trình khu vực hoá diễn ra đặc biệt mạnh
mẽ trong thời đại ngày nay. Hiện nay, trên thế giới, có rất nhiều tổ chức kinh tế
khu vực, điển hình có thể kể ra như: Khu mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA);
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); Liên minh châu
Âu (EU); Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)
-21-

Mục tiêu của toàn cầu hoá kinh tế là lưu thông tự do hàng và yếu tố sản
xuất trên phạm vi toàn cầu. Nhưng trong tương lai gần, mục tiêu này chưa thể
thực hiện được. Chính vì vậy, việc từng nhóm nước liên kết với nhau, cùng
nhau đưa ra những ưu huệ cao hơn những ưu huệ quốc tế hiện hành, loại bỏ
các hàng cao ngăn cách lưu thông hàng hoá và các yếu tố sản xuất giữa các
nước, tạo điều kiện cho việc lưu thông tự do một vài loại hoặc toàn bộ các yếu
tố sản xuất giữa các nước là một khâu quan trọng đặt nền móng cho quá trình
toàn cầu hoá về kinh tế. Từ đó có thể khẳng định rằng, khu vực hoá và hợp tác
kinh tế toàn cầu không mâu thuẫn với nhau, thúc đẩy lẫn nhau, bổ trợ cho
nhau. Khu vực hoá chỉ nẩy sinh trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đã phát
triển đến một mức độ nhất định nhưng trình độ hợp tác của khu vực lại cao hơn
so với toàn cầu hoá kinh tế. Khu vực hoá phát triển rộng rãi trên toàn thế giới
sẽ lại giúp cho hợp tác kinh tế toàn cầu phát triển ngày càng sâu sắc hơn. Vì
thế nên, quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản ngày càng phát triển mạnh
mẽ hơn khi hiện nay Việt Nam và Nhật Bản đều là thành viên chính thức của
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Tính đến thời
điểm năm 1999, APEC là một tổ chức hợp tác kinh tế khu vực có quy mô lớn
nhất thế giới với : dân số 2.165,5 triệu người (chiếm khoảng 42,5% dân số toàn
thế giới ); tổng sản phẩm quốc dân (GDP) 15.526,23 tỷ USD (chiếm khoảng
55,8% GDP của toàn thế giới) và kim ngạch xuất khẩu 2.255,6 tỷ USD (chiếm
khoảng 43,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới ). Với mục tiêu là tự do
hoá đầu tư và mậu dịch với nguyên tắc hiệp thương nhất trí tự nguyện, cân
bằng lợi ích, không phân biệt đối xử và nhất trí cho rằng cần tăng cường hợp
tác trong lĩnh vực tiền tệ quốc tế và khu vực để ngăn ngừa rủi ro và bảo vệ sự
ổn định của thị trường. Chính vì thế, mô hình hợp tác kinh tế châu Á về kinh tế
- kỹ thuật của APEC đã và đang cuốn hút sự chú ý của toàn thế giới. Thế kỷ 21
chắc chắn sẽ là thế kỷ phát triển đầy năng động của khu vực châu Á - Thái
Bình Dương và APEC là tổ chức hạt nhân.
Cùng với APEC, tổ chức kinh tế khu vực thứ hai có vai trò quan trọng
và ảnh hưởng trực tiếp đến các quan hệ đối ngoại của Việt Nam và Nhật Bản là

ASEAN. ASEAN được thành lập vào ngày 8 tháng 8 năm 1967 chỉ có 5 nước
thành viên Đông Nam Á, hiện nay đã phát triển và mở rộng ra toàn bộ các
nước Đông Nam Á bao gồm 10 nước, trong đó có Việt Nam. Ngay trong ngày

×