Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốctt.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.15 KB, 31 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

***




VŨ TUYẾT LAN




QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM –
TRUNG QUỐC








LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
















HÀ NỘI - 2008
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

***




VŨ TUYẾT LAN




QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM -
TRUNG QUỐC




Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị
Mã số: 60 31 01



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN KIM BẢO










HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ 6
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 6
1.1.1. THUYẾT TỰ DO THƯƠNG MẠI 6
1.1.1.1. LÝ THUYẾT “BÀN TAY VÔ HÌNH” CỦA ADAM SMITH 6
1.1.1.2. LÝ THUYẾT “BÀN TAY HỮU HÌNH” CỦA JONH
MAYNARD KEYNES 8

1.1.1.3. LÝ THUYẾT “KINH TẾ HỖN HỢP” CỦA SAMUELSON 9
1.1.2. LÝ THUYẾT VỀ LỢI THẾ SO SÁNH TRONG THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ 11
1.1.2.1. CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG 11
1.1.2.2. THUYẾT “LỢI ÍCH TUYỆT ĐỐI”CỦA ADAM SMITH (1723
– 1790) 12
1.1.2.3. TƯ TƯỞNG CỦA RICARDO (1772-1823) VỀ LỢI ÍCH SO
SÁNH 12
1.1.2.4. ĐỊNH LÝ HECKSCHER - OHLIN 13
1.1.3. LÝ THUYẾT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ TRONG ĐIỀU KIỆN
CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN 15
1.1.4. QUAN ĐIỂM CỦA TRUNG QUỐC VỀ NGOẠI THƯƠNG
TRONG THỜI KỲ CẢI CÁCH VÀ MỞ CỬA 18
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN 19
1.2.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI THÚC ĐẨY QUAN HỆ
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – TRUNG QUỐC 19
1.2.1.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ 19
1.2.1.2. KHÍ HẬU 20
1.2.1.3. TÀI NGUYÊN BIỂN 21

1
1.2.1.4. TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN 21
1.2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN THÚC ĐẨY QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT
NAM - TRUNG QUỐC 22
1.2.2.1. XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA, KHU VỰC HÓA KINH TẾ 22
1.2.2.2. CHÍNH SÁCH MỞ CỬA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM 24
1.2.2.3. CHÍNH SÁCH MỞ CỬA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CỦA TRUNG QUỐC 27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM –

TRUNG QUỐC 30
2.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI HÀNG
HÓA GIỮA HAI NƯỚC. 30
2.1.1. GIAI ĐOẠN TỪ 1991 - 1995: THỜI KỲ KHỞI ĐỘNG 30
2.1.2. GIAI ĐOẠN TỪ 1996 – 2000: THỜI KỲ PHÁT TRIỂN ỔN
ĐỊNH 33
2.1.3. GIAI ĐOẠN TỪ 2001 ĐẾN NAY: THỜI KỲ HỘI NHẬP VÀ PHÁT
TRIỂN MẠNH MẼ 37
2.2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA GIỮA
HAI NƯỚC 40
2.2.1. KIM NGẠCH XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA 40
2.2.2. CƠ CẤU MẶT HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU 42
2.2.3. CHỦ THỂ THAM GIA XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA 50
2.2.4. PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN 52
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
HÀNG HÓA GIỮA HAI NƯỚC 52
2.3.1. NHỮNG THÀNH TỰU 53
2.3.2. NHỮNG HẠN CHẾ 56
2.2.3. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN NHỮNG HẠN CHẾ 60

2
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUAN HỆ HƯƠNG MẠI
HÀNG HÓA VIỆT NAM – TRUNG QUỐC 65
3.1. BỐI CẢNH MỚI TRONG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM –
TRUNG QUỐC 65
3.1.1. TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM ĐỀU LÀ THÀNH VIÊN CỦA
WTO 65
3.1.2. TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM ĐỀU THAM GIA VÀO HỢP
TÁC KHU VỰC 66
3.1.3. VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC THAM GIA HỢP TÁC KINH TẾ

VÙNG 68
3.2. MỘT SỐ ĐIỀU CHỈNH VỀ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH CỦA HAI
NƯỚC SAU KHI HAI NƯỚC GIA NHẬP WTO693.2.1. VỀ PHÍA
TRUNG QUỐC 69
3.2.2. VỀ PHÍA VIỆT NAM 71
3.3. TRIỂN VỌNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – TRUNG
QUỐC 73
3.3.1. NHỮNG NHÂN TỐ THUẬN LỢI THÚC ĐẨY QUAN HỆ
THƯƠNG MẠI GIỮA HAI NƯỚC TRONG THỜI GIAN TỚI. 73
3.3.2. TRIỂN VỌNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – TRUNG
QUỐC TRONG NHỮNG NĂM TỚI 75
3.4. NHỮNG GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
HÀNG HÓA VIỆT NAM-TRUNG QUỐC 79
3.4.1. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CHO
PHÙ HỢP VỚI THÔNG LỆ QUỐC TẾ, TẠO CƠ SỞ PHÁP LÝ
CHO VIỆC PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA HAI
NƯỚC 79
3.4.2. NÂNG CAO VAI TRÒ LÃNH ĐẠO ĐỊA PHƯƠNG CỦA HAI
NƯỚC 81

3
3.4.3. NÂNG CAO NĂNG LỰC TỔ CHỨC QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU HÀNH
HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA GIỮA VIỆT
NAM VỚI TRUNG QUỐC. 82
3.4.4. THÚC ĐẨY TIẾN TRÌNH HỢP TÁC XÂY DỰNG “HAI HÀNH
LANG VÀ MỘT VÀNH ĐAI KINH TẾ”. 86
3.4.5. TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG THƯƠNG MẠI
TẠI CÁC CỬA KHẨU VÀ TRÊN TOÀN TUYẾN BIÊN GIỚI PHÍA
BẮC 88
3.4.6. TĂNG CƯỜNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CHỢ BIÊN GIỚI VÀ

QUẢN LÝ VIỆC MUA BÁN, TRAO ĐỔI HÀNG HOÁ TẠI CÁC
CHỢ BIÊN GIỚI 89
3.4.7. HOÀN THIỆN THỦ TỤC THANH TOÁN QUA NGÂN HÀNG Ở
KHU VỰC BIÊN GIỚI 90
3.4.8. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC ĐẤU TRANH CHỐNG BUÔN LẬU VÀ
GIAN LẬN THƯƠNG MẠI 90
KẾT LUẬN 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94

1
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc được bình thường hóa
(11/1991) đến nay, nhiều văn bản, hiệp định đã được ký kết giữa hai nước, đã tạo
cơ sở pháp lý thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nước phát triển và đạt được
một số thành tựu quan trọng. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước ngày càng
tăng. Năm 1991, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc đạt 37,7 triệu
USD, đến năm 2007 đạt 15.559 triệu USD, gấp 413 lần so năm 1991. Với tốc độ
tăng trưởng nhanh, hiện nay Trung Quốc đang trở thành bạn hàng lớn nhất của
Việt Nam. Việc tham gia vào kinh tế toàn cầu và khu vực đã mở ra cho hai nước
nhiều cơ hội, cụ thể là hệ thống pháp luật và chính sách thương mại ngày càng
minh bạch, thị trường xuất khẩu được mở rộng, hàng rào thuế quan đang dần được
dỡ bỏ giữa hai nước, cơ sở hạ tầng thương mại cũng đang được hai nước quan tâm
phát triển Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng đưa lại những thách thức, đó là cạnh
tranh hàng hóa của Việt Nam với hàng hóa của các nước trong khu vực và hàng
hóa của Trung Quốc ngày càng diễn ra gay gắt. Chất lượng sản phẩm yêu cầu ngày
càng cao hơn Bên cạnh đó, quan hệ thương mại giữa hai nước còn nhiều vấn đề
phải tiếp tục giải quyết như việc triển khai các văn: Thâm hụt thương mại của Việt

Nam với Trung Quốc còn quá lớn, tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại có
dấu hiệu gia tăng, ô nhiễm môi trường đang trở thành hiện tượng phổ biến, các
doanh nghiệp Việt Nam còn thụ động, phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc
Đề tài “Quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc” được lựa chọn nghiên
cứu góp phần đáp ứng yêu cầu trình bày ở trên, nhằm tìm ra các giải pháp chủ yếu
làm cho quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc không ngừng mở rộng và
phát triển bền vững trong những năm tới.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cho đến nay đã có tài liệu trong và ngoài nước nghiên cứu về quan hệ thương mại
Việt Nam – Trung Quốc, song chưa nhiều và đề cập ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Nhưng chưa có tài liệu nào nghiên cứu đánh giá một cách tổng quát quan hệ thương
mại Việt Nam - Trung Quốc từ 1991 đến nay, đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm phát
triển quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc trong những năm tới, nhất là trong
bối cảnh mới Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên của WTO.

2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển quan hệ
thương mại hai nước. Đánh giá thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Trung
Quốc từ 1991 đến nay và đưa ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động thương mại hàng hóa giữa hai nước.
* Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu lý luận cơ bản về thương mại quốc tế;
nghiên cứu bối cảnh mới trong nước và quốc tế tác động tới thương mại hai nước;
khảo sát và đánh giá thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc; đánh
giá triển vọng phát triển thương mại hai nước trong thời gian tới; đề xuất một số
giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại hai nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam-Trung
Quốc dưới góc độ kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu: Thương mại hàng hoá giữa Việt Nam – Trung Quốc.

1991 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp duy vật lịch sử và duy vật biện
chứng; Sử dụng phương pháp thống kê; Kết hợp mô hình phân tích, so sánh và dự
báo kinh tế.
6. Những đóng góp mới của luận văn: Trên cơ sở phân tích quan hệ thương
mại Việt Nam - Trung Quốc hiện nay. Đề tài đưa ra một số vấn đề gợi mở cho Việt
Nam nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nước.
7. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về thương mại quốc tế
Chương 2: Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam-Trung Quốc từ
1991 đến nay
Chương 3: Các giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam-Trung Quốc


3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Thuyết tự do thương mại
Ra đời vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVIII, thuyết Tự do thương mại phát triển
thịnh hành vào thế kỷ XIX trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
nhất tại Tây Âu và Bắc Mỹ. Thuyết Tự do thương mại xuất hiện đầu tiên ở Anh,
sau đó là ở nước Tây Âu như Hà Lan, Pháp, Đức. Tuy nhiên, mức độ áp dụng
những quan điểm này ở các nước, ở các thời kỳ lịch sử là khác nhau. Điều này
được thể hiện rõ nét qua các học thuyết sau.
1.1.1.1. Lý thuyết “Bàn tay vô hình” của Adam Smith
Lý thuyết về “Bàn tay vô hình” của Adam Smith có ảnh hưởng lớn ở các nước

phương Tây vào cuối thế kỷ XVII đến đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Với tư
tưởng tự do kinh tế, Adam Smith cho rằng, nền kinh tế phải được phát triển trên cơ
sở tự do kinh tế, tự do sản xuất, tự do liên doanh, liên kết, tự do mậu dịch. A. Smith
đề cao vai trò của “bàn tay vô hình” và cho rằng, hoạt động sản xuất và lưu thông
hàng hóa được phát triển theo sự điều tiết của bàn tay vô hình. Nhà nước không nên
can thiệp vào kinh tế mà chỉ có thể thực hiện những chức năng kinh tế khi mà chức
năng đó vượt quá khả năng của các đơn vị kinh doanh đơn lẻ.
1.1.1.2. Lý thuyết “Bàn tay hữu hình” của Jonh Maynard Keynes
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản lâm vào khủng hoảng
kinh tế nghiêm trọng, thất nghiệp diễn ra thường xuyên. Điển hình là cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 hay còn gọi khủng hoảng thừa. Học thuyết kinh
tế “Chủ nghĩa tư bản được điều tiết” của Jonh Maynard Keynes ra đời.
Cùng với quan điểm của chủ nghĩa Trọng thương, Keynes ra sức tán thành
xuất siêu, phản đối nhập siêu. Ông chủ trương mở rộng xuất khẩu bằng mọi cách,
đồng thời nhờ sự giúp đỡ của việc bảo vệ thuế quan và khuyến khích “mua hàng
của Anh” để hạn chế nhập siêu.
Theo Keynes, để đảm bảo sự cân bằng của nền kinh tế thì phải cần đến sự can
thiệp của nhà nước. Từ đó Keynes đã đưa ra lý thuyết về bàn tay hữu hình. Theo
thuyết đó, thông qua những hỗ trợ của nhà nước như là những biện pháp để duy trì
cầu đầu tư, thông qua hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, thông qua hệ
thống các đơn đặt hàng của nhà nước, hệ thống thu mua của nhà nước để tạo ra
sự ổn định về môi trường kinh doanh, ổn định thị trường, ổn định về lợi nhuận cho

4
các công ty.
1.1.1.3. Lý thuyết “Kinh tế hỗn hợp” của Samuelson
Lý thuyết “Kinh tế hỗn hợp” của Samuelson là sự kết hợp giữa cơ chế thị
trường và nhà nước. Samuelson cho rằng, cơ chế thị trường là hình thức tổ chức
kinh tế, nó mang nặng yếu tố tự phát, nhưng là trật tự kinh tế có tính quy luật.
Trật tự này có nhiệm vụ kết nối các kết giao kinh tế của hàng triệu cá nhân với

nhau. Để thực hiện được nhiệm vụ này, ông cho đó là sức mạnh của thị trường.
Theo ông, cơ chế thị trường sẽ đưa nền kinh tế đạt được những thành tựu đáng
kể. Ngược lại, nó cũng gây ra một số khuyết tật của thị trường, đó là khủng
hoảng, thất nghiệp, lạm phát
Samuelson cho rằng, nhà nước nên tập trung vào 4 chức năng sau: (1) Thiết
lập khuôn khổ pháp luật. (2) Sửa chữa những thất bại của thị trường. (3) Ổn định
kinh tế vĩ mô. (4) Đảm bảo sự công bằng xã hội. Theo Samuelson, việc đưa ra
những chính sách và phương án lựa chọn của nhà nước không phải lúc nào cũng
đúng. Vì vậy, vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng có những giới
hạn. Để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường và khắc phục những
giới hạn trong vai trò của nhà nước, theo Samuelson phải kết hợp cả cơ chế thị
trường và vai trò nhà nước trong điều hành nền kinh tế hiện đại, hình thành nên
một nền kinh tế hỗn hợp.
1.1.2. Lý thuyết về lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế
1.1.2.1. Chủ nghĩa Trọng thương
Chủ nghĩa Trọng thương là trường phái kinh tế lớn đầu tiên của lịch sử nhân
loại, nó ra đời ở giữa thế kỷ XV. Tư tưởng chính của chủ nghĩa Trọng thương là:
Muốn gia tăng khối lượng tiền tệ phải phát triển ngoại thương và thực hiện chính
sách xuất siêu, tăng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Lợi nhuận đạt được trong buôn
bán là kết quả của trao đổi không ngang giá và lường gạt.
Những người theo học thuyết Trọng thương kêu gọi nhà nước phải can thiệp
sâu vào hoạt động kinh tế như: Lập hàng rào thuế quan; miễn thuế nhập khẩu cho
các loại nguyên liệu phục vụ cho sản xuất; cấm xuất khẩu tài nguyên thô; tài trợ
xuất khẩu, duy trì quota và đánh thuế suất nhập khẩu cao đối với nhập khẩu hàng
tiêu dùng Có thể nói, chủ nghĩa Trọng thương là những học thuyết kinh tế đầu
tiên mở đường cho việc nghiên cứu hiện tượng và lợi ích của thương mại quốc tế.
1.1.2.2. Thuyết “lợi ích tuyệt đối”của Adam Smith (1723 – 1790)
Trong tác phẩm “Sự giàu có của các dân tộc”, năm 1776, A. Smith đã đưa ra

5

thuyết “lợi ích tuyệt đối”. Adam Smith cho rằng: một nước phải sản xuất những
sản phẩm sở trường nhất của nước mình, tức là những sản phẩm mà giá thành sản
xuất tuyệt đối rẻ, rồi dùng những sản phẩm này trao đổi với các nước khác, đem về
những sản phẩm không phải sở trường sản xuất của mình nhất, tức là những sản
phẩm mà giá thành sản xuất cao. Kiểu phân công quốc tế này sẽ làm hai nước
tiết kiệm được nhiều lao động, nâng cao hiệu suất bố trí sắp xếp tài nguyên sản
xuất, từ đó thu được một số lượng hàng hóa nhiều hơn là trong điều kiện đóng
cửa giữ mình, tức là thu được lợi ích tuyệt đối của mậu dịch.
1.1.2.3. Tư tưởng của Ricardo (1772-1823) về lợi ích so sánh
Ricardo đưa ra quan điểm mậu dịch quốc tế trên cơ sở thuyết lợi ích tuyệt
đối của Adam Smith. Ricardo cho rằng: Tăt cả các quốc gia ở bất kỳ trình độ và
điều kiện sản xuất nào, khi tham gia vào mậu dịch quốc tế thì đều có lợi. Những
quốc gia có lợi thế tuyệt đối hơn các nước khác hoặc kém các nước khác trong
sản xuất sản phẩm vẫn có thể và có lợi khi tham gia phân công lao động, vì một
nước có lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh các
mặt hàng khác.
1.1.2.4. Định lý Heckscher - Ohlin
Định lý Heckscher – Ohlin là do nhà kinh tế học Thuỵ Điển E.Heckscher
(1897-1952) và B.Ohlin (1899 – 1979) nêu ra đầu tiên.
Định lý Heckcher-Ohlin cho rằng: sự phát triển của mậu dịch quốc tế lấy sự
khác nhau về sự sẵn có tương đối của yếu tố sản xuất các nước làm cơ sở, một
nước có loại yếu tố sản xuất tương đối dồi dào nào đó, trong trường hợp nhu cầu
giả định không thay đổi, giá cả của yếu tố này tất nhiên là tương đối rẻ, nước đó sẽ
có thể sản xuất những sản phẩm đòi hỏi sử dụng một số lượng lớn yếu tố giá rẻ loại
này, từ đó có ưu thế giá thành so sánh về mặt sản xuất sản phẩm đó. Vì vậy, một
nước phải xuất khẩu những sản phẩm trong sản xuất tập trung sử dụng những yếu
tố sản xuất tương đối phong phú của mình, nhập khẩu những sản phẩm trong sản
xuất tập trung sử dụng những yếu tố sản xuất tương đối khan hiếm thiếu của mình.
Các nước dựa vào yếu tố sản xuất phong phú và hiếm thiếu để tiến hành phân công
quốc tế, làm cho yếu tố sản xuất được sử dụng hữu hiệu nhất.

1.1.3. Lý thuyết thương mại quốc tế trong điều kiện các quốc gia đang phát triển
Để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu về kinh tế, các nước đang phát
triển đã trải qua một trong những chiến lược phát triển kinh tế sau:
- Chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu: Sử dụng thuế và các hạn

6
ngạch nhập khẩu nhằm bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước. Với chiến lược
này, nhiều nước đã khai thác, phát huy được tiềm năng, thế mạnh về lao động, tài
nguyên và đã đạt được tốc độ cao về tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc bảo hộ
các ngành công nghiệp non trẻ đã khiến nhiều quốc gia hoàn toàn không có khả
năng đối mặt với sự cạnh tranh trên thế giới.
- Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế: chiến lược này thường áp
dụng cho những nước ở vào thời kỳ đầu công nghiệp hóa, nhờ có lợi thế so sánh về
một số sản phẩm xuất khẩu như cao su, cà phê, dầu dừa, dầu cọ, quặng kim
loại Tuy nhiên, các sản phẩm này thường bị tác động bởi sự biến động giá cả trên
thị trường thế giới, giá cả thấp, gây hậu quả xấu về môi trường sinh thái.
- Chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu: khuyến khích việc sản
xuất và xuất khẩu các loại hàng hóa các nước đang phát triển có lợi thế so sánh.
Tuy nhiên, việc xuất khẩu các sản phẩm sang các nước phát triển gặp nhiều khó
khăn, do các nước phát triển đã và đang sử dụng nhiều biện pháp nhằm hạn chế
nông sản nhập khẩu từ các nước đang phát triển.
- Chiến lược phát triển hỗn hợp: là sự kết hợp hai hay ba loại chiến lược nói
trên. Mặc dù cho đến nay chưa có sự tổng kết đầy đủ về những nước đã áp dụng
chiến lược này, song tấm gương của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Ấn Độ,
Indonexia, Trung Quốc đã thành công lớn trong việc phát triển kinh tế nhờ kết
hợp cả hai chiến lược hướng nội, hướng ngoại, trong đó ưu tiên phát triển mạnh
hướng ngoại. Chiến lược này đang trong xu thế phát triển đầy hứa hẹn, hiện đang
được thế giới (đặc biệt là các nước đang phát triển) quan tâm.
1.1.4. Quan điểm của Trung Quốc về ngoại thương trong thời kỳ cải cách và
mở cửa

Một số quan điểm mới về ngoại thương của Trung Quốc những năm qua. Cụ
thể: 1) Xóa bỏ tư tưởng tự cấp tự túc và khẳng định lợi ích của nền kinh tế khi
tham gia phân công lao động và cạnh tranh quốc tế. 2) Thừa nhận lý thuyết về lợi
thế so sánh trong buôn bán quốc tế, khẳng định rằng: để mở rộng xuất khẩu, Trung
Quốc cần tận dụng đầy đủ các lợi thế của mình, đặc biệt là lợi thế về lao động rẻ.
3) Cần phi tập trung hóa việc quản lý ngoại thương. 4) Khẳng định giá cả hàng hóa
về cơ bản do cung cầu thị trường quyết định. 5) Phát triển kinh tế nhiều loại sở
hữu, coi kinh tế công hữu là chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Những điều kiện thuận lợi thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam –

7
Trung Quốc
1.2.1.1. Vị trí địa lý
Việt Nam và Trung Quốc có chung đường biên giới dài khoảng 1353 km, bao
gồm 7 tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam tiếp giáp với hai tỉnh Vân Nam và Quảng
Tây Trung Quốc. Đặc biệt, Việt Nam nằm ở điểm trung gian nối Trung Quốc với
ASEAN trên các tuyến đường xuyên á, hành lang Đông – Tây, cũng như trong
khuôn khổ hợp tác tiểu vùng Mê Kông mở rộng. Với vị trí địa lý nêu trên, Việt
Nam và Trung Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển việc mua bán, trao đổi
hàng hóa và phát triển các hoạt động hợp tác về kinh tế – xã hội khác.
1.2.1.2. Khí hậu
Việt Nam với khí hậu nhiệt đới và Trung Quốc với khí hậu ôn đới. Với khí
hậu trên đã tạo điều kiện cho hai nước phát triển một số cây trồng và nông sản
nhiệt đới và ôn đới. Những mặt hàng này đang được trao đổi với khối lượng lớn
giữa hai nước, thể hiện sự bổ sung, hỗ trợ các mặt hàng khan hiếm trong nước cho
nhau.
1.2.1.3. Tài nguyên biển
Với nhiều sông ngòi và bờ biển dài,Việt Nam rất có tiềm năng phát triển nuôi
trồng và khai thác thủy sản. Hàng thủy sản Việt Nam đã có mặt ở nhiều nước trên

thế giới. Trung Quốc cũng là một trong những thị trường xuất khẩu thủy sản truyền
thống của Việt Nam.
1.2.1.4. Tài nguyên khoáng sản
Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú và dồi dào. Mỏ
than Hòn Gai là mỏ than gầy nổi tiếng của thế giới, ngoài ra các tỉnh biên giới còn
có nguồn tài nguyên phong phú như quặng sắt, nhôm, mangan v.v đây là những
mặt hàng có nhu cầu lớn ở thị trường Trung Quốc.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc
1.2.2.1. Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế
* Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế:
Trong những năm gần đây, xu hướng tự do hóa thương mại diễn ra theo chiều
hướng phạm vi ngày càng được mở rộng. Nội dung ngày càng được phát triển theo
bề sâu. Các nước đang phát triển muốn liên kết để khẳng định tiếng nói của mình.
Vị trí của Trung Quốc có lợi cho các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước
trong khu vực có vị trí và cơ cấu sản xuất gần với Trung Quốc. Việc mở rộng
phạm vi và tăng độ sâu của tiến trình đa phương cũng như vai trò ngày càng tăng
của các nước đang phát triển làm cho tiến trình trong đàm phán thương mại đa
phương có dấu hiệu giảm tốc độ.

8
* Xu hướng khu vực hóa kinh tế
Quá trình tự do hóa thông qua các Hiệp định mậu dịch tự do và quá trình nhất
thể hóa về kinh tế đang diễn ra một cách mạnh mẽ. Đặc biệt là xu hướng này đang
bùng nổ mạnh mẽ trong khu vực Đông Á. So với thập kỷ 90, xu hướng khu vực
hóa gần đây đã có nhiều khác biệt, cụ thể là: diễn ra giữa các nước có hoặc không
cùng một khu vực địa lý; nội dung hết sức khác biệt về phạm vi, mức độ cam kết,
không theo chuẩn mực thống nhất; Việc ký kết thường tập trung vào một khu vực
địa lý, do một số nước khởi xướng.
Nhận thức được tầm quan trọng của hội nhập quốc tế, hai nước đã không
ngừng vun đắp quan hệ láng giềng thân thiện, tích cực tham gia vào WTO , APEC,

ASEM, ACFTA, GMS nhằm đẩy nhanh tiến trình tự do hóa thương mại, mở rộng
giao lưu và hợp tác quốc tế theo nhiều hình thức, nhiều cấp độ, tạo điều kiện cho
hai nước phát huy lợi thế so sánh, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phù hợp với
quốc tế hóa.
1.2.2.2. Chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Trong chính sách phát triển kinh tế các vùng núi phía Bắc của Việt Nam thời
kỳ 2001-2010, Việt Nam đã đưa ra giải pháp đẩy mạnh giao lưu kinh tế với Trung
Quốc qua các cửa khẩu biên giới phía Bắc. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế
khu vực, Việt Nam đã tham gia vào ACFTA, GMS. Gần đây, Chính phủ Việt Nam
đã có chủ trương cùng Trung Quốc xây dựng “Hai hành lang và một vành đai kinh
tế”. Với chủ trương trên, Việt Nam có thể tận dụng tối đa nguồn tài nguyên thiên
nhiên hiện có, điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển một số lĩnh vực như du
lịch, vận tải hàng hóa và hành khách, phát triển thủy sản và kinh tế biển, xây dựng
và khai thác hệ thống cảng biển, sản xuất, chế biến nông thủy sản, sản xuất công
nghiệp, khai thác và chế biến khoáng sản…đây cũng là điều kiện để đưa quan hệ
thương mại giữa hai nước lên tầm cao mới.
1.2.2.3. Chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Trung Quốc
Trong chính sách phát triển kinh tế, Trung Quốc thi hành chính sách “Đại
khai phá miền Tây” với chủ trương ưu tiên phát triển vùng biên giới Tây Nam.
Gần đây nhất, ngày 20/7/2006, Trung Quốc đã đưa ra Chiến lược một trục hai cánh
với 3 nội dung chính sau: Một là, hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng với Quảng Tây;
Hai là, hợp tác tiểu vùng sông Mê Kông với Vân Nam; Ba là, thực hiện trục hành
lang kinh tế Nam Ninh – Singapore dài 3.900 km qua nhiều nước Đông Nam Á.
Với chính sách mở cửa và chính sách phát triển kinh tế của Trung Quốc đã mang
lại những có hội hợp tác thương mại với Việt Nam về đường sắt, cảng biển, điện

9
lực, khoáng sản cho Trung Quốc.
Tóm lại, những cơ sở lý luận và thực tiễn trên cho chúng ta thấy quan hệ thương
mại giữa hai nước xây dựng trên cơ sở lý luận khoa học. Nó thể hiện rõ những luận

điểm của Chính phủ hai nước cùng với sự tiếp thu lý luận của các trường phái kinh tế
trong việc lý giải vấn đề thương mại quốc tế. Đây là nhân tố quan trọng giúp cho hai
nước xây dựng và phát triển quan hệ thương mại với nhau.


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – TRUNG QUỐC

2.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA
GIỮA HAI NƯỚC.
2.1.1. Giai đoạn từ 1991 - 1995: Thời kỳ khởi động
Sau khi bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, nhiều văn bản, hiệp định liên
quan đến thương mại được ký kết giữa hai nước nhằm đẩy mạnh quan hệ kinh tế
thương mại giữa hai nước trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Ngày 7/7/1995 Mỹ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam;
Ngày 28/7/1995 Việt Nam chính thức trở thành hội viên của ASEAN, đây là cơ hội
tốt cho Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, tăng
khả năng cạnh tranh đối với hàng xuất khẩu. Đồng thời, thông qua cầu nối giữa
Trung Quốc với các nước ASEAN, Việt Nam và Trung Quốc còn phát triển thêm
nhiều loại hình kinh doanh. Bên cạnh việc thúc đẩy hợp tác song phương, Chính
phủ hai nước cũng chú trọng đến hợp tác đa phương. Những sự kiện trên đã mở ra
một không gian rộng lớn cho việc phát triển quan hệ thương mại và hợp tác kinh tế
giữa hai nước.
2.1.2. Giai đoạn từ 1996 – 2000: Thời kỳ phát triển ổn định
Về phía Việt Nam, tiếp tục thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế
quốc tế, Chính phủ Việt Nam cho phép Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng
được áp dụng thí điểm một số chính sách tại khu vực kinh tế cửa khẩu. Bên cạnh
đó, Chính phủ Việt Nam cũng ban hành Nghị định 57/1998/NĐ- CP ngày
31/7/1998 về việc quy định chi tiết Luật thương mại, sửa đổi Luật khuyến khích
đầu tư trong nước, miễn thu thuế nhập khẩu đối với hàng tạm nhập tái xuất, bãi bỏ

thuế xuất khẩu tiểu ngạch, đơn giản hóa thủ tục gia công, áp dụng thuế

10
VAT Những chính sách ưu đãi trên đã khuyến khích một số ngành sản xuất trong
nước phát triển, góp phần làm thay đổi dần cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt
Nam sang Trung Quốc.
Về phía Trung Quốc, để chiếm lĩnh thị trường các nước có chung đường biên
giới trên bộ bằng hàng hóa giá rẻ và thu hút các loại nguyên nhiên liệu phục vụ cho
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Trung Quốc đã ban hành chính sách ưu
đãi biên mậu, thuế VAT, hoàn thuế VAT cho hàng hóa xuất khẩu biên mậu. Đồng
thời thành lập hệ thống các cơ quan quản lý biên mậu từ Trung ương đến địa
phương và phân cấp mạnh quản lý cho địa phương. Những chính sách này đã giúp
cho Trung Quốc rất thành công trong việc phát triển quan hệ thương mại với các
nước có chung đường biên giới, luôn ở thế chủ động trong quan hệ trao đổi hàng
hóa với các nước.
Ngoài ra, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp định về mua bán hàng hoá ở vùng
biên giới; Hiệp định về biên giới trên bộ, đây là vấn đề được nhân dân hai nước và
dư luận quốc tế rất quan tâm.
Thông qua các chuyến thăm, những hiệp định ký kết trên, lãnh đạo hai nước
vừa củng cố quan hệ, xây dựng lòng tin, vừa đưa ra các phương hướng, biện pháp
để thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển, đặc biệt là quan hệ thương mại hàng hóa
giữa hai nước phát triển ổn định.
2.1.3. Giai đoạn từ 2001 đến nay: Thời kỳ hội nhập và phát triển mạnh mẽ
Năm 2001 Trung Quốc chính thức gia nhập WTO, Trung Quốc đã dành cho
các nước đang phát triển được hưởng quy chế tối huệ quốc, trong đó có Việt nam.
Đây chính là cơ hội để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc.
Bên cạnh đó, hệ thống chính sách và hệ thống pháp luật của Trung Quốc cũng
phải điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của WTO. Đặc biệt là hàng rào tiêu
chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn đối với hàng nhập khẩu vào thị trường
Trung Quốc yêu cầu ở mức cao hơn trước đây. Một số chính sách ưu đãi đối với

buôn bán biên mậu cũng đang được chính phủ Trung Quốc loại bỏ dần. Điều này
đã gây tổn thất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Ngày 14/11/2002, Trung Quốc và ASEAN đã ký kết Hiệp định khung về hợp
tác kinh tế toàn diện, tạo tiền đề thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN –
Trung Quốc (ACFTA) vào năm 2010 đối với các nước ASEAN – 6 và 2015 đối
với ASEAN – 4. Hiệp định này mở ra cho Việt Nam và Trung Quốc một thị trường

11
rộng lớn với 1,8 tỷ người tiêu dùng, GDP lên tới 2 nghìn tỉ USD và tổng kim ngạch
thương mại hàng năm ước khoảng 1,2 nghìn tỉ USD.
Tháng 5/2004, Chính phủ hai nước chủ trường xây dựng “hai hành lang và
một vành đai kinh tế”, đây được coi là chương trình hợp tác trung và dài hạn giữa
hai nước nhằm thúc đẩy quan hệ giữa hai nước phát triển.
Ngày 11/1/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO,
điều này khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Như vậy, Việt Nam
và Trung Quốc đều là thành viên của WTO, hệ thống hành lang pháp lý khá hoàn
chỉnh sẽ thuận lợi cho phát triển quan hệ thương mại hàng hóa giữa hai nước trong
những năm tới.
2.2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA GIỮA HAI NƯỚC
2.2.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa
Từ 1991 đến nay, quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc phát triển
mạnh trên nhiều lĩnh vực, trong đó, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai
nước đã diễn ra sôi động và ngày càng phát triển. Với kim ngạch xuất nhập khẩu
tăng nhanh, trao đổi hàng hóa giữa Việt Nam – Trung Quốc đã góp phần tích cực
trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế của hai nước.
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa
Việt Nam - Trung Quốc thời kỳ 1991-2007
Đơn vị tính: Triệu USD

Năm

Tổng kim ngạch
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân
TM
Giá trị
Tốc độ
tăng
(%)
Giá trị
Tốc độ
tăng (%)
Giá trị
Tốc độ
tăng
(%)
1991
37,7
-
19,3
-
18,4
-
+ 0,9
1992
127,4
238
95,6
395
31,8

73
+ 63,8
1993
221,3
73,7
135,8
42
85,5
168
+ 50,3
1994
439,9
98,7
295,7
118
144,2
68
+ 151,5
1995
691,6
57,2
361,9
22,3
329,7
128
+ 32,2
1996
669,2
-3,3
340,2

-6,0
329,0
-0,3
+ 11,2
1997
878,5
31,2
474,1
39,3
404,4
22,9
+ 69,7
1998
989,4
12,6
478,9
1,0
510,5
26,2
- 31,6
1999
1.542,3
55,8
858,9
79,3
683,4
33,8
+ 175,5

12

2000
2.957,3
91,7
1.534,0
78,6
1.423,2
108
+ 110,8
2001
3.047,9
3,0
1.418,0
- 7,6
1.629,9
14,5
- 211,9
2002
3.653,0
19,8
1.495,0
5,5
2.158,0
14,5
- 663,0
2003
4.867,0
33,2
1.747,0
16,9
3.120,0

44,6
-1.373,0
2004
7.192,0
47,7
2.735,5
56,6
4.456,5
42,8
-1.721,0
2005
8.730,0
21,5
2.960,0
8,24
5.770,0
29,6
-2.810,0
2006
10.420,0
19,2
3.030,0
2,30
7.390,0
28,0
-4.360,0
2007
15.559,0
49,3
3.357,0

10,0
12.502,0
69,0
-9.145,0
Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam [5, tr.2]
Từ số liệu ở Bảng 2.1 cho thấy, năm 1991 kim ngạch xuất nhập khẩu Việt
Nam – Trung Quốc chỉ đạt 37,7 triệu USD, con số này đạt 691,6 triệu USD vào
năm 1995, tăng 18,34 lần so với năm 1991. Từ năm 2001 đến nay, kim ngạch xuất
nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước đã tăng mạnh, vượt quá mục tiêu mà Chính phủ
hai nước đã đặt ra (năm 2005: 5 tỷ USD; năm 2010: 15 tỷ USD. Đặc biệt, sau một
năm Việt Nam là thành viên của WTO, năm 2007 kim ngạch xuất nhập khẩu giữa
hai nước đạt 15.559,0 triệu USD, tăng 49,3% so với năm 2006, vượt mục tiêu mà
Chính phủ hai nước đặt ra cho năm 2010 là 3,7%.
Song từ năm 2001 cho đến nay, xuất khẩu của Trung Quốc tăng vọt và thâm
hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc đã gia tăng nhanh chóng. Năm 2001
mức thâm hụt thương mại 211,0 triệu USD, đến năm 2005 là 2.810,0 triệu USD,
năm 2006 đã là 4.360,0 triệu USD, năm 2007 mức thâm hụt thương mại là 9.145,0
triệu USD, tăng gấp 2 lần so với năm 2006.
2.2.2. Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu
* Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc:
Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu là các mặt hàng nguyên, nhiên
liệu (dầu thô, than đá, cao su ), nông sản dưới dạng thô (hạt điều, cà phê, chè,
gạo ), hải sản tươi sống (tôm, mực, cá ) và nhóm hàng công nghiệp và thủ công
mỹ nghệ (dệt may, giày dép, đồ gỗ ). Trong các mặt hàng xuất khẩu, nhóm hàng
nguyên, nhiên liệu chiếm tỷ trọng cao, giai đoạn 1991-1995 chiếm 38,30%; giai
đoạn 1996 – 2000 là 45,35%; giai đoạn 2001- 2007 chiếm trên 60 %. Tiếp đến là
nhóm hàng nông, thủy sản tương ứng là chiếm 16,98%; 24,33% và nhóm hàng này
giảm mạnh trong giai đoạn 2001-2007, chỉ chếm có 10,84%. Ở giai đoạn này,
nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ có tốc độ tăng ổn định.


13
* Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc
Những mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc chủ yếu là nguyên
nhiên liệu, máy móc thiết bị và phụ tùng, hóa chất, hàng công nghiệp tiêu
dùng Các mặt hàng nhập khẩu tăng mạnh qua các năm. Đặc biệt, giai đoạn 2001-
2007, mặt hàng máy móc thiết bị chiếm tỷ trọng cao, chiếm 16%; tiếp đến xăng
dầu chiếm 11%; sắt thép 14%; vải may mặc 8% Còn lại các mặt hàng như
nguyên phụ liệu dệt may, da, giày, phân bón, thuốc trừ sâu, hóa chất, hàng tiêu
dùng tăng ổn định qua các năm.
2.2.3. Chủ thể tham gia xuất nhập khẩu hàng hóa
Trong những năm gần đây, số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất
nhập khẩu ở biên giới Việt – Trung ngày càng tăng mạnh. Tính đến nay, Việt Nam
đã có 1557 doanh nghiệp kinh doanh với Trung Quốc, chủ yếu là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân chiếm giữ vai trò chủ đạo. Về phía Trung Quốc,
có khoảng 388 doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh với Việt Nam, chủ yếu là
các doanh nghiệp địa phương trên địa bàn biên giới Trung Quốc.
2.2.4. Phương thức thanh toán
Những hình thức thanh toán chủ yếu giữa hai nước là: hàng đổi hàng, hàng –
tiền trao đổi và thanh toán bằng đồng nhân dân tệ, tiền đồng Việt Nam và đô la
Mỹ. Ngày 26/5/1993 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Nhân dân
Trung Quốc đã ký kết Hiệp định thanh toán và hợp tác. Đồng thời hai bên cũng đã
cho phép ngân hàng thương mại hai nước được mở quan hệ đại lý thanh toán. Mặc
dù ngân hàng hai nước đã có nhiều cố gắng, việc thanh toán xuất nhập khẩu hàng
hóa giữa hai nước qua ngân hàng chỉ chiếm khoảng 15 – 20% trong tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của hai nước.
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI HÀNG
HÓA GIỮA HAI NƯỚC
2.3.1. Những thành tựu
* Kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước tăng trưởng mạnh mẽ: Sau 15 năm bình
thường hóa quan hệ giữa hai nước, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước

không ngừng tăng lên. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, năm 2007 đạt
15.559 triệu USD, tăng 413 lần so với năm 1991, vượt mục tiêu đề ra giữa hai nước cho
năm 2010 (15 tỷ USD). Với kết quả trên đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế của hai
nước những năm qua, đặc biệt vùng kinh tế liền kề biên giới hai nước.

14
* Tăng thu ngân sách của các tỉnh biên giới: Thu ngân sách của các tỉnh biên giới
phía Bắc cũng tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là các tỉnh có cửa khẩu có khối lượng buôn
bán lớn như Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai. Trong tổng số thu ngân sách các tỉnh biên
giới phía Bắc, tỷ trọng của thuế xuất nhập khẩu chiếm tỷ lệ cao, đạt mức bình quân
46,84%. Việc tăng thu ngân sách đã góp phần cải thiện đáng kể bộ mặt kinh tế – xã hội
của các tỉnh biên giới
* Chuyển dịch cơ cấu ngành ở một số vùng, miền: Việc mua bán và trao đổi hàng
hóa giữa hai nước đã phát triển mạnh dịch vụ thương mại và phát triển kinh tế theo
hướng sản xuất hàng hóa, góp phần làm giảm tỷ lệ đói nghèo đối với dân cư trong vùng,
đồng thời từng bước phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả nước, góp
phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
* Thúc đẩy một số ngành phát triển: Quá trình phát triển quan hệ thương mại hàng
hóa giữa hai nước đã thúc đẩy một số ngành phát triển như: sản xuất hàng mây tre xuất
khẩu, đồ gốm sứ, đồ gỗ gia đình…góp phần cải thiện cơ cấu hàng hóa trao đổi giữa hai
nước, tăng giá trị hàng công nghiệp chế biến, thúc đẩy kim ngạch trao đổi hàng hóa giữa
hai nước không ngừng phát triển, từng bước thu hẹp khoảng cách nhập siêu giữa hai
nước.
* Đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng ở mỗi nước: Thông qua chính sách mở
cửa nền kinh tế, hai nước đã xuất khẩu được một số hàng hóa có sẵn trong nước và nhập
khẩu một số hàng hóa khan hiếm trong nước, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của
cư dân hai nước. Lợi ích thu được từ hoạt động thương mại giữa hai nước đã cải thiện
nhanh chóng tình trạng đói nghèo tại các vùng núi, vùng sâu, vùng xa.
* Tạo ra nhiều công ăn, việc làm, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân hai nước:
Thông qua việc trao đổi hàng hóa giữa hai nước đã tạo ra nhiều công ăn việc làm, mỗi

năm có thêm hàng vạn lao động có việc làm, và hàng ngàn lao động từ các vùng trong
nước đến làm ăn. Đặc biệt, kinh tế phát triển đã góp phần quan trọng trong việc cải thiện
và nâng cao đời sống văn hóa và tinh thần cho nhân dân ven biên giới hai nước, góp phần
tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, tạo độ tin cậy giữa nhân dân hai nước, giữa doanh
nghiệp hai nước trong quá trình trao đổi hàng hóa.
2.3.2. Những hạn chế
* Tỷ trọng kim ngạch XNK hàng hóa còn nhỏ so với tiềm lực của hai nước:
Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam – Trung Quốc tăng mạnh so
với chỉ tiêu đặt ra của Chính phủ hai nước, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng

15
vốn có của hai nước. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước chiếm khoảng 12%
trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam và 0,59% trong tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc.
* Cán cân thương mại hàng hóa nghiêng nhiều về phía Trung Quốc: Trong quan hệ
thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc, lợi thế đang nghiêng về phía Trung
Quốc. Giá trị nhập khẩu của Việt Nam lớn gấp 2,2 lần giá trị hàng hóa xuất khẩu của
Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn 2001-2007. Tình trạng này là do cơ cấu hàng xuất
khẩu của Việt Nam có giá trị thấp và thường bị tác động của giá thị trường thế giới theo
xu hướng giảm.
* Năng lực cạnh tranh hàng hóa chưa đồng đều: Cho đến nay, Trung Quốc đã có
một nền kinh tế phát triển, khoa học công nghệ đã được áp dụng rộng rãi trong sản xuất,
hàng hóa có giá rẻ, mẫu mã phong phú, chủng loại đa dạng đáp ứng được nhu cầu của thị
trường…Trong khi đó, hàng hóa của Việt Nam chất lượng thấp, mẫu mã đơn điệu, giá
thành sản phẩm cao. Với năng lực cạnh tranh này, nhiều hàng hóa có lợi thế của Việt
Nam (rau, hoa quả…) cũng đang bị thu hẹp thị phần ngay trên thị trường nội địa.
* Độ tin cậy nhau giữa doanh nghiệp hai nước còn thấp: Việt Nam và Trung Quốc
đã có quan hệ buôn bán, trao đổi hàng hóa từ lâu đời. Song cho đến nay, hoạt động buôn
bán, trao đổi hàng hóa giữa hai nước chưa đi vào nề nếp, hiện tượng tranh mua, tranh bán
diễn ra thường xuyên. Những sự việc trên đã làm giảm độ tin cậy lẫn nhau giữa doanh

nghiệp hai nước, ảnh hưởng trực tiếp đến trao đổi và buôn bán hàng hóa giữa hai nước.
* Sự liên doanh, liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp hai nước diễn ra còn chậm:
Hoạt động trao đổi hàng hóa giữa hai nước đã có những bước phát triển mạnh. Nó đã
thúc đẩy hoạt động hợp tác kỹ thuật, xuất nhập khẩu dịch vụ, tạm nhập, tái xuất, chuyển
khẩu qua biên giới, hình thành nên các liên doanh xuyên biên giới, các xí nghiệp 100%
vốn đầu tư phía đối tác bên kia biên giới. Tuy nhiên, tiến độ thực hiện quá trình liên
doanh, liên kết, hợp tác giữa hai nước diễn ra còn chậm. Do vậy, hai nước chưa khai thác
triệt để lợi thế và tiềm năng kinh tế của mỗi nước.
* Trao đổi hàng hóa giữa hai nước còn manh mún, nhỏ lẻ dẫn đến hiệu quả kinh
doanh không cao: Các doanh nghiệp tham gia trao đổi hàng hóa giữa hai nước chủ yếu là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy mô nhỏ bé, nguồn vốn hạn hẹp, dẫn đến khối lượng
hàng hóa trao đổi giữa hai nước còn manh mún, nhỏ lẻ, thiếu mặt hàng chủ lực, không ổn
định, chưa đáp ứng được các hợp đồng đặt hàng lớn, dẫn đến hiệu quả trao đổi hàng hóa
giữa hai nước chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của hai nước.

16
* Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh giữa hai nước phát triển chưa đồng đều: Cho đến nay,
hệ thống dịch vụ hỗ trợ kinh doanh của Trung Quốc đã từng bước được mở rộng và phát
triển theo tiêu chuẩn quốc tế. Trong khi đó, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ hỗ trợ kinh
doanh tại các khu kinh tế cửa khẩu (hệ thống kho tàng, bến bãi, giao nhận vận chuyển…)
của Việt nam còn thiếu và yếu, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế.
Điều này đã hạn chế khả năng lưu thông hàng hóa giữa hai nước, làm tăng giá thành sản
phẩm, giảm năng lực cạnh tranh của hàng hóa.
* Tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại gia tăng: Hàng hóa buôn lậu giữa hai
nước cũng rất đa dạng và được chuyển lậu theo đường bộ và đường biển. Hàng hóa từ
Trung Quốc chuyển lậu sang Việt Nam chủ yếu là hàng điện tử, hàng cấm, tiền giả, hàng
tiêu dùng chất lượng thấp, giá rẻ. Hàng hóa Việt Nam chuyển lậu sang Trung Quốc chủ
yếu là gỗ và động vật quý hiếm. Việc này đã và đang gây thiệt hại cho người tiêu dùng và
một số doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh của hai nước.
* Tình trạng ô nhiễm môi trường tại các khu vực cửa khẩu biên giới: Hàng hóa rau

quả, thực phẩm là những hàng hóa được đưa ra buôn bán và trao đổi với khối lượng lớn
giữa hai nước, nhưng do việc vận chuyển, bảo quản và tiêu thụ không kịp thời, làm ứ
đọng, thối nát, trong khi đó việc xử lý các loại rác thải, phế thải diễn ra còn chậm, gây ô
nhiễm môi trường ở các khu vực chợ và cửa khẩu biên giới.
2.3.3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế
* Nguyên nhân từ hai phía: Cho tới nay, hai nước đã ký kết và thỏa thuận với
nhau rất nhiều văn bản và hiệp định liên quan đến thương mại, tuy nhiên có một số
văn bản, hiệp định chưa được ký chính thức mà vẫn mang tính tạm thời hoặc mang
tính thỏa thuận. Đây chính là nguyên nhân làm giảm kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa nông, thủy sản của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc trong những năm
qua.
* Nguyên nhân từ phía Việt Nam: Nhiều văn bản liên quan đến thương mại đã
được ký kết giữa hai nước, nhưng phía Việt Nam triển khai còn chậm, công bố, hướng
dẫn, chỉ đạo các văn bản đến các doanh nghiệp chưa kịp thời, dẫn đến các doanh nghiệp
của Việt Nam thường bị động trong trao đổi hàng hóa với Trung Quốc.
* Nguyên nhân từ phía Trung Quốc: Trở thành thành viên WTO, Trung Quốc
đã tiến hành sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều chính sách và cơ chế quản lý xuất
nhập khẩu mới cho phù hợp với quy định của tổ chức này. Trung Quốc điều chỉnh
chính sách thương mại, đặc biệt giảm mạnh ưu đãi biên mậu, thắt chặt hơn các quy

17
định về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm đối với hàng nông sản thực phẩm
nhập khẩu từ Việt Nam.
Tóm lại, hơn 15 năm qua, với những chủ trương, chính sách và biện pháp tích
cực, hợp lý và có hiệu quả của hai nước, việc phát triển quan hệ thương mại Việt
Nam – Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng kể. Quá trình hình thành và
phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước được tiến hành từng bước theo tình
hình thực tế của hai nước. Hai nước đã thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế,
tham gia hợp tác kinh tế toàn cầu, khu vực và hợp tác vùng… tạo ra môi trường
kinh doanh thuận lợi và mở ra nhiều lĩnh vực hoạt động giữa hai nước. Đặc biệt,

thông qua các giai đoạn phát triển quan hệ thương mại, hai nước đã kịp thời điều
chỉnh những chính sách xuất nhập khẩu, chính sách biên mậu, chính sách đầu tư,
chính sách thuế Mặc dù các chính sách này còn nhiều hạn chế song nó đã đưa
quan hệ giữa hai nước từng bước phát triển phù hợp với yêu cầu của hội nhập kinh
tế quốc tế.


18
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUAN HỆ THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA
VIỆT NAM – TRUNG QUỐC



3.1. BỐI CẢNH MỚI TRONG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM –
TRUNG QUỐC
3.1.1. Trung Quốc và Việt Nam đều là thành viên của WTO
Đến nay, Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên của WTO, quan hệ
thương mại giữa hai nước có nhiều thay đổi so với trước đây. Mối quan hệ này dựa
trên những nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi. Các tranh chấp thương mại sẽ
được giải quyết theo cơ sở pháp lý minh bachh và rõ ràng. Hàng rào thuế quan
giữa hai nước đang dần được cắt giảm, tạo điều kiện cho hàng hóa hai nước tự do
thâm nhập thị trường của nhau. Bên cạnh đó, sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của
Trung Quốc cũng dẫn đến nhiều mặt hàng sẽ được bán phá giá sang Việt Nam,
nguồn tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam sẽ bị hút sang Trung Quốc dẫn đến sự
cạn kiệt và suy thoái môi trường, những công nghệ lạc hậu có thể sẽ thâm nhập vào
Việt Nam.
3.1.2. Trung Quốc và Việt Nam đều tham gia vào hợp tác khu vực
Tham gia vào ACFTA, hai nước có một thị trường tự do rộng lớn với tổng số
dân lên tới 1,7 tỷ người và tổng sản phẩm nội địa GDP đạt gần 4.000 tỷ USD, tổng

kim ngạch ngoại thương với thế giới đạt 3.100 tỷ USD, có điều kiện phát triển một
số lĩnh vực như vận tải, du lịch, kho tàng, bến bãi Ngược lại, tham gia vào
ACFTA, cạnh tranh hàng hóa giữa các nước trong khu vực ngày càng gay gắt, đòi
hỏi chất lượng sản phẩm ngày càng cao. Đặc biệt giai đoạn 2 (2010-2020) sẽ tiến
hành giảm thuế đối với mặt hàng công nghiệp, khi đó sức ép cạnh tranh trên thị
trường nội địa Việt Nam sẽ ngày càng lớn. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam không
tiếp cận những kinh nghiệm quản lý, công nghệ hiện đại để nâng cao khả năng
cạnh tranh của mình, thì trong tương lai, thặng dư thương mại nghiêng về Trung
Quốc là rất lớn.
3.1.3. Việt Nam và Trung Quốc tham gia hợp tác kinh tế vùng
Hiện nay, Việt Nam và Trung Quốc đều tham gia vào hợp tác kinh tế vùng,
đó là hợp tác Hai hành lang và một vành đai kinh tế và hợp tác Tiểu vùng sông Mê
Kông mở rộng (GMS). Thông qua hợp tác này, giúp cho hai nước cải thiện được
cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực vận tải hàng hóa giữa hai, bảo vệ môi trường,

19
phát triển du lịch
3.2. MỘT SỐ ĐIỀU CHỈNH VỀ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH CỦA HAI NƯỚC SAU
KHI HAI NƯỚC GIA NHẬP WTO
3.2.1. Về phía Trung quốc
- Về cơ chế quản lý XNK của Trung Quốc: Trung Quốc đã quy định về kiểm
nghiệm, kiểm dịch hàng XNK như sau: 1) Đối với hàng miễn kiểm nghiệm kiểm
dịch phải đạt 3 tiêu chuẩn: đồng ý của Cục kiểm nghiệm nhà nước và được cấp
giấy chứng nhận; phải có sự chấp nhận của Ủy ban công tác hệ thống ISO 9000;
chất lượng hàng miễn kiểm phải ổn định lâu dài. 2) Đối với hàng liên quan đến an
toàn vệ sinh và có yêu cầu đặc biệt bắt buộc kiểm nghiệm, kiểm dịch. 3) Quy định
về chế độ giấy phép an toàn chất lượng hàng nhập khẩu. 4) Các quy định về vệ
sinh y tế tại Cảng, cửa khẩu Trung Quốc.
- Về thuế quan: Từ năm 2001 đến năm 2006, bình quân thuế quan đã giảm từ
15,3% xuống còn 9,9%; thuế quan bình quân đối với các sản phẩm công nghiệp đã

giảm từ 14,8% xuống còn 9,0%; thuế quan bình quân đối với các sản phẩm nông
nghiệp giảm từ 23,2% xuống còn 15,2%.
Với những qui định trên của Trung Quốc, các nhà quản lý thương mại, các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam cần nắm bắt kỹ để điều chỉnh hàng
hóa cho phù hợp với yêu cầu của Trung Quốc.
3.2.2. Về phía Việt Nam
Cam kết về thuế nhập khẩu: 1) Mức cam kết chung: Việt Nam đồng ý ràng
buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng thuế). Mức thuế bình quân toàn
biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung
bình trong 5 – 7 năm. Trong đó, mức thuế bình quân đối với hàng nông nghiệp
giảm từ 23,5% xuống còn 20,9%; hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6%.
2) Mức cam kết cụ thể: hơn 1/3 số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng
có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như
nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô, xe máy…vẫn duy trì được mức
bảo hộ nhất định.
Việt Nam với tư cách là nước gia nhập WTO sau Trung Quốc, Việt Nam vẫn
đang được hưởng một số ưu đãi về thuế và trợ cấp từ WTO, đây cũng là cơ hội để
Việt Nam tăng khối lượng hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc trong

×