Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Tổ chức bộ máy quản lý ngành thuế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 107 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM





NGUYỄN THU HÀ





Tổ chức bộ máy quản lý ngành thuế ở Việt Nam



luËn v¨n th¹c sÜ KINH TẾ CHÍNH TRỊ











Hµ néi - 2008





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM





NGUYỄN THU HÀ




Tổ chức bộ máy quản lý ngành thuế ở Việt Nam

Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01



luËn v¨n th¹c sÜ KINH TẾ CHÍNH TRỊ





Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Văn Thanh


Hµ néi - 2008






1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của Đề tài

Thuế là chính sách điều tiết thu nhập, là phương thức phân phối và
phân phối lại thu nhập quốc dân và là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà
nước ở tất cả các quốc gia có tổ chức nhà nước. Cũng như mọi hệ thống quản
lý, đối với hệ thống quản lý thuế, yếu tố tổ chức bộ máy quản lý có vai trò, vị
trí rất quan trọng. Cùng với việc xác định nội dung, cơ chế vận hành hợp quy
luật của hệ thống quản lý, bộ máy tổ chức điều hành sẽ là nhân tố quyết định
để toàn bộ hệ thống quản lý ngành thuế vận hành thông suốt và hiệu quả. Đổi
mới, hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý ngành thuế cũng có nghĩa là nghiên
cứu cách thức, biện pháp tác động đến chủ thể quản lý tài chính. Mặt khác,
trong kinh tế thị trường, khi mà nội dung phạm vi hoạt động được mở rộng
hơn, chức năng, nhiệm vụ của ngành thuế đã có sự thay đổi, nhiều lĩnh vực
quan trọng của đời sống kinh tế xã hội đã được xã hội hoá và do thị trường
đảm nhận, khi mà cơ chế, chính sách thuế luôn đổi mới hoàn thiện, gắn liền
với đổi mới cơ chế quản lý tài chính, ngành thuế luôn đặt ra yêu cầu phải tiếp
tục đổi mới bộ máy tổ chức quản lý thuế một cách tương ứng để phù hợp với

yêu cầu mà nền kinh tế đặt ra, phải thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách do Quốc
hội, Chính phủ giao. Vì vậy, xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy quản lý
ngành thuế một cách khoa học, đủ mạnh có hiệu lực để thực hiện chức năng
thu đúng, tập trung kịp thời nguồn thu vào ngân sách nhà nước là một vấn đề
rất quan trọng, là việc làm cần thiết.

Ở Việt nam, từ năm 1990, ngành thuế được tổ chức thống nhất từ Trung
ương đến địa phương. Trong quá trình phát triển, ngành thuế đã luôn quan
tâm xây dựng và phát triển lực lượng, đổi mới tổ chức bộ máy quản lý để
hoàn thành tốt nhiệm vụ thu mà Nhà nước và nhân dân giao phó. Tuy nhiên,
cho đến nay vẫn chưa có công trình hay đề tài nào nghiên cứu một cách đầy
đủ, toàn diện, có hệ thống về tổ chức bộ máy quản lý ngành thuế và đề ra các
phương hướng, biện pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý ngành
thuế cho phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nền kinh tế thị
trường, mở cửa ở nước ta hiện nay. Đi đôi với việc tiếp tục cải cách và hoàn
thiện chính sách thuế, tiếp tục hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý
ngành thuế là vấn đề cực kỳ quan trọng và cần thiết để ngành thuế đáp ứng
yêu cầu đổi mới kinh tế đất nước và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ thu ngân
sách ngày càng nặng nề mà Quốc hội, Chính phủ và nhân dân giao phó.

Do vậy, việc lựa chọn Đề tài “Tổ chức bộ máy quản lý ngành thuế ở
Việt Nam” làm chủ đề tài nghiên cứu với mong muốn đóng góp ý kiến có cơ
sở khoa học và thực tiễn vào tiến trình đổi mới quản lý ngành thuế nhà nước ở
nước ta trong điều kiện mới.


2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua, vấn đề tổ chức bộ máy ngành thuế đã được
nghiên cứu, quan tâm trên nhiều lĩnh vực, khía cạnh khác nhau, nhưng cùng

một mục tiêu chung là hoàn thiện lại tổ chức bộ máy ngành thuế cho phù hợp
để nhằm mục tiêu thu đúng, thu đủ, thu nhanh nguồn thu ngân sách nhà nước.
Về tổng thể, các đề tài nghiên cứu trên được chia thành 2 hướng:

+ Các văn bản của Nhà nước đã ban hành: Kế hoạch thực hiện chiến
lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010. Đề án và các tiêu đề án thuộc:
- Chương trình 4: Cải cách và hiện đại hoá công tác quản lý thu thuế
giai đoạn 2005-2010.
- Chương trình 7: Kiện toàn tổ chức ngành thuế theo yêu cầu cải cách
và hiện đại hoá hệ thống thuế giai đoạn 2005-2010.
- Chương trình 8: Nâng cao năng lực cán bộ thuế phục vụ cải cách và
hiện đại hoá hệ thống thuế giai đoạn 2005-2010.
+ Ngoài ra, là một số các công trình nghiên cứu đáng chú ý của các cá
nhân trên một số báo, tạp chí gồm:
- Bồi dưỡng nguồn thu, bù đắp thiếu hụt giảm thuế khi hội nhập (Bộ
trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh - Tạp chí thuế tháng 10/2006).
- Cam kết WTO - nhận diện những thách thức (Ngọc Sơn, Trần An -
Tạp chí thuế tháng 10/2006).
- Kiểm soát chặt mọi nguồn thu (Minh Đức-Tạp chí Thuế, tháng
10/2006).
- Hệ thống chính trị tiếp sức cho công tác quản lý thuế (Nguyễn Đức
Hiệu - Tạp chí Thuế, tháng 5/2006).
- Thị trường ngạch cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam (Tiến
sĩ Đỗ Thị Phi Hoài - Tạp chí thuế tháng 5/2006).
- Ba yếu tố tác động đến cải cách, hiện đại hoá ngành thuế (Trọng Báo-
Tạp chí thuế tháng 10/2006).
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên mới chủ yếu đề cập đến từng khía cạnh
cụ thể của một lĩnh vực, một vấn đề đối với ngành thuế, chưa có một công
trình nào nghiên cứu chuyên sâu về tổ chức bộ máy, hoạt động quản lý ngành
thuế. Do đó, việc nghiên cứu về tổ chức bộ máy, hoạt động, quản lý ngành

thuế và xây dựng mô hình bộ máy quản lý thích hợp với nền kinh tế thị
trường hiện nay là rất cần thiết.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Đề tài là:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức bộ máy quản lý
ngành thuế Việt nam trong điều kiện kinh tế thị trường.
- Đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy quản lý ngành thuế ở nước ta.
- Đề xuất các mục tiêu, yêu cầu, quan điểm và nội dung giải pháp đổi
mới tổ chức bộ máy quản lý ngành thuế trong nền kinh tế thị trường nước ta
trong giai đoạn tới.


3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề về tổ chức bộ máy ngành thuế gắn với
nhiệm vụ của Nhà nước dưới góc độ kinh tế chính trị.
+ Phạm vi nghiên cứu
Tổ chức bộ máy ngành thuế các cấp từ trung ương đến địa phương từ
năm 1990 đến nay.
+ Nội dung
- Làm rõ thực trạng hệ thống tổ chức bộ máy ngành thuế các cấp (từ
Trung ương đến địa phương).
- Phương thức tổ chức thu thuế hiện nay, sự phù hợp của nó trong điều
kiện nền kinh tế thị trường làm cơ sở để xây dựng một mô hình bộ máy quản
lý phù hợp với yêu cầu của giai đoạn mới.
- Về không gian: Đề tài chỉ đề cập đến ngành thuế Việt Nam
- Về thời gian: Nghiên cứu quá trình phát triển hệ thống tổ chức bộ

máy ngành thuế từ năm 1990 đến nay đối với ngành thuế Trung ương và tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương.
5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp
phân tích thống kê, điều tra khảo sát, vận dụng các lý luận cơ bản của khoa
học quản lý kinh tế, đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trên
tinh thần đổi mới.
6. Những đóng góp của luận văn

Luận văn tập trung làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận có liên
quan đến tổ chức bộ máy quản lý, phân tích có chọn lọc kinh nghiệm, bộ máy
quản lý ngành thuế của một số nước để phục vụ cho việc lựa chọn mô hình bộ
máy quản lý ngành thuế của Việt Nam cho phù hợp với nền kinh tế hàng hoá
ở nước ta và bắt kịp với xu thế hiện đại chung của thế giới và khu vực.
- Phân tích đánh giá có căn cứ khoa học và có hệ thống thực trạng của
tổ chức bộ máy quản lý ngành thuế của Việt Nam qua các thời kỳ.
- Trình bày có căn cứ khoa học các quan điểm làm cơ sở cho việc hoàn
thiện bộ máy quản lý ngành thuế phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam.
- Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn trình bầy rõ những giải pháp và
những kiến nghị nhằm thực hiện việc hoàn thiện hệ thống bộ máy quản lý
ngành thuế ở nước ta.

7. Cấu trúc của Luận văn

Không kể mục lục, lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Luận văn gồm 3 chương, cụ thể:



4

Chương 1. Lý luận và kinh nghiệm một số nước về tổ chức bộ
máy quản lý ngành thuế.

Chương 2. Thực trạng hệ thống tổ chức bộ máy ngành thuế ở Việt
Nam.

Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy
quản lý ngành thuế Việt nam trong điều kiện hiện nay.





























5

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VỀ TỔ CHỨC BỘ
MÁY QUẢN LÝ NGÀNH THUẾ

1.1- NHỨNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ VÀ LAO ĐỘNG
QUẢN LÝ
Nhiều từ điển trong nước cũng như nước ngoài đều định nghĩa “Quản
lý” là sự “trông nom”, “cai quản”, “sự chỉ huy”, “sự điều hành” một hệ thống,
một lĩnh vực hay một tổ chức, một tập thể nào đó. Cũng có thể định nghĩa
quản lý một cách rộng hơn, coi quản lý như một “Nghệ thuật đảm bảo sự phát
triển của một hệ thống tổ chức nhất định” hay nói cách khác là “tổng thể
những phương tiện mà theo đó những sự thay đổi xã hội, công nghệ và chính
trị có thể được tổ chức hợp lý và phổ biến trong cơ chế xã hội”.
Trong thực tế từ “quản lý” được hiểu và vận dụng với những phạm vi
và ý nghĩa khá linh hoạt, có thể rất rộng như: quản lý xã hội, quản lý Nhà
nước có thể rất hẹp như quản lý doanh nghiệp, quản lý nhân sự
Nói đến quản lý là phải nói đến lao động, quản lý lao động. Quản lý lao
động gồm: những cán bộ và nhân viên tham gia vào việc thực hiện các chức
năng quản lý. Trong bộ máy quản lý hoạt động của lao động quản lý rất

phong phú và đa dạng. Để thực hiện được các chức năng quản lý trong bộ
máy quản lý phải có nhiều hoạt động lao động quản lý khác nhau. Căn cứ vào
việc tham gia vào các hoạt động và các chức năng quản lý, người ta chia lao
động quản lý thành ba loại chính:
- Cán bộ lãnh đạo: Là những người quản lý trực tiếp thực hiện các
chức năng quản lý lãnh đạo trong một bộ phận hay toàn hệ thống.
Trong bộ máy quản lý cán bộ lãnh đạo bao gồm: Thủ trưởng cơ quan,
các Phó thủ trưởng, các trưởng, phó trưởng phòng ban, bộ phận Nhiệm vụ
của cán bộ lãnh đạo là sử dụng các phương pháp quản lý để tổ chức điều hành
một tổ chức, một bộ phận để hoàn thành được nhiệm vụ và chức năng được
giao. Cụ thể là: Lựa chọn, đào tạo, bố trí cán bộ, phân công công việc; thực
hiện việc kiểm tra, phối hợp hoạt động của các cá nhân, các bộ phận trong tổ
chức; thực hiện chức năng quản lý hành chính; lựa chọn các phương án thực
hiện công việc có hiệu quả.
- Chuyên gia: Là những người không thực hiện các chức năng quản lý,
lãnh đạo trực tiếp mà thực hiện các công việc chuyên môn. Các chuyên gia là
những người có chuyên môn sâu về một lĩnh vực nào đó như: kỹ thuật, luật
pháp, tổ chức, tâm lý học, xã hội học, quản lý hành chính Chuyên gia bao
gồm chuyên gia kỹ thuât, chuyên gia tâm lý, chuyên gia luật pháp, chuyên gia


6
tổ chức, chuyên gia hành chính Họ làm các công việc chuyên môn ở các
phòng ban trong hệ thống bộ máy quản lý. Nhiệm vụ của các chuyên gia là:
Nghiên cứu, hoàn thiện đưa vào áp dụng những phương pháp công nghệ mới,
những định mức kinh tế kỹ thuật, những hình thức tổ chức sản xuất, tổ chức
quản lý, dự thảo các văn bản quản lý, hướng dẫn về một mặt chuyên môn nào
đó Ngoài ra họ còn thực hiện một số công việc kiểm tra, quản lý do thủ
trưởng trực tiếp phân công.
- Nhân viên thực hành kỹ thuật: Là người thực hiện những công việc

giản đơn, thường xuyên lặp đi, lặp lại, mang tính chất thông tin kỹ thuật và
phục vụ, nhân viên thực hành kỹ thuật bao gồm những người đánh máy chữ,
sao chụp tài liệu, văn thư, lưu trữ, bảo vệ, tạp vụ, thủ kho, thủ quỹ, kỹ thuật vi
tính, kế toán Nhiệm vụ của các nhân viên kỹ thuật là nhận các thông tin ban
đầu, phân loại và truyền đến nơi xử lý, đồng thời chuẩn bị và giải quyết các
thủ tục hành chính đối với các loại văn bản khác nhau.
Trong một bộ máy quản lý, ba loại cán bộ nói trên đều cần thiết. Tuy
nhiên, mỗi loại phải có một tỷ lệ theo một cơ cấu thích hợp. Nội dung hoạt
động lao động quản lý rất phong phú và đa dạng, hoạt động của lao động quản
lý có thể chia thành 5 nội dung sau:
- Nội dung kỹ thuật thể hiện ở sự thực hiện những công việc mang tính
chất chuyên môn như: Nghiên cứu thiết kế các quy trình công nghệ mới, các
sản phẩm mới, nghiên cứu dự thảo các văn bản nghiệp vụ chuyên môn, xử lý
các thông tin chuyên ngành để dự thảo các quyết định, các công văn hướng
dẫn thi hành
- Nội dung tổ chức, hành chính thể hiện ở sự thực hiện các công việc
mang tính chất tổ chức hành chính như: Lập kế hoạch tiến độ thực hiện công
việc, điều chỉnh kiểm tra, đánh giá sự thực hiện các công việc, phối hợp với
các bộ phận, tổ chức có liên quan để tiến hành công việc.
- Nội dung thực hành giản đơn thể hiện ở sự thực hiện các công việc
theo các quy định đã được hướng dẫn sẵn, các công việc phục vụ như: Đánh
máy văn bản, sao chụp tài liệu, thu dọn nơi làm việc, sắp xếp hệ thống lại các
tài liệu, văn bản
- Nội dung hội họp và sự vụ thể hiện ở sự tham gia các cuộc họp về
chuyên môn, tổng kết hoặc giải quyết các công việc có tính chất thủ tục như:
họp giao ban, họp cơ quan, hội nghị tổng kết, tiếp khách đến công tác
- Nội dung sáng tạo thể hiện ở sự thực hiện những công việc như suy
nghĩ, tìm tòi phát minh ra những kiến thức mới, ra các quyết định xử lý công
việc; xây dựng phương pháp mới để hoàn thành công việc.
Do thực hiện các chức năng quản lý khác nhau dẫn đến tỷ trọng thành

phần các nội dung hoạt động của các loại lao động quản lý cũng khác nhau.
Điều đó có nghĩa là vị trí, cương vị, khả năng thực hiện công việc, năng lực


7
chuyên môn, trách nhiệm được giao của mỗi lao động quản lý khác nhau thì
tỷ trọng thành phần các nội dung công việc cũng khác nhau. Ví dụ: Đối với
cán bộ lãnh đạo thì nội dung sáng tạo chiếm tỷ lệ lớn sau đó là nội dung kỹ
thuật, nội dung tổ chức, nội dung hội họp
Trong nội dung của lao động quản lý, năng lực cá nhân là vấn đề rất
quan trọng và có ảnh hưởng quyết định, trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả
của công tác quản lý. Năng lực cá nhân được thể hiện ở trình độ lành nghề
của lao động quản lý. Khi đánh giá trình độ lành nghề của lao động quản lý
người ta dùng các chỉ tiêu sau:
- Những kiến thức cần có
- Những thói quen và kỹ năng cần có
- Những công việc cụ thể có thể làm tốt
Những yếu tố này được vận dụng để đánh giá tất cả các cán bộ quản lý,
nhưng đối với từng loại lao động quản lý cụ thể cần có những yêu cầu riêng
trong khi đánh giá.
Mặc dù các loại lao động quản lý khác nhau nhưng hoạt động của họ
vẫn có những tính chất giống nhau. Những tính chất này hợp thành đặc điểm
chung của lao động quản lý và quy định tính chất đặc thù của những biện
pháp tổ chức lao động khoa học đối với lao động quản lý. Hoạt động của lao
động quản lý mang những đặc điểm sau:
+ Hoạt động lao động quản lý là hoạt động trí óc, mang nhiều tính
chất sáng tạo
Đây là đặc điểm cơ bản, quy định các đặc điểm khác trong hoạt động
lao động của lao động quản lý. Đặc trưng của hoạt động lao động quản lý là
hoạt động lao động trí óc. Lao động trí óc được hiểu là sự tiêu hao sức lao

động do sự hoạt động chủ yếu của khả năng trí tuệ, thần kinh, tâm lý của
người lao động trong quá trình thực hiện công việc. Vì hoạt động lao động
quản lý chủ yếu về trí óc nên nó mang đặc tính sáng tạo nhiều hơn so với lao
động thể lực. Tuỳ vào mức độ sáng tạo cao hay thấp, lao động trí óc lại được
phân biệt thành lao động trí óc sáng tạo, lao động trí óc tái tạo và lao động trí
óc hình thức.
- Lao động trí óc sáng tạo là lao động để giải quyết các vấn đề quản lý
thông qua việc tạo nên những kiến thức mới và ra các quyết định quản lý.
- Lao động trí óc tái tạo là lao động để giải quyết các nhiệm vụ lao động
với việc sử dụng các biện pháp quen thuộc, những kiến thức và khả năng
được tích luỹ trong tiềm thức.
- Lao động trí óc hình thức là lao động giải quyết những nhiệm vụ
không phức tạp với việc sử dụng những kỹ năng nhất định và theo những
hướng dẫn có sẵn.


8
Lao động quản lý là lao động trí óc nên đòi hỏi phải có những yêu cầu
riêng về tổ chức lao động. Lao động quản lý cần phải được tập trung tư tưởng
độc lập làm việc, phải được bố trí và tổ chức nơi làm việc với những yêu cầu
nghiêm khắc, loại trừ tiếng ồn, đảm bảo chiếu sáng hợp lý. Do đặc tính sáng
tạo nên khi tổ chức lao động đối với lao động quản lý phải đạt mục tiêu là tạo
điều kiện để phát huy cao độ đặc tính này. Mặt khác cũng chính đặc tính sáng
tạo của hoạt động lao động quản lý đã xuất hiện một trở ngại cho công tác tổ
chức và định mức lao động quản lý. Lao động quản lý đòi hỏi phải có phương
pháp định mức thích hợp và các dạng định mức lao động riêng biệt khác với
lao động sản xuất.
+ Hoạt động của lao động quản lý là loại hoạt động mang đặc tính
tâm lý xã hội cao
Lao động quản lý là lao động trí óc do vậy nó đặt ra những yêu cầu nhất

định về khả năng trí tuệ, khả năng nhận biết, thu nhận thông tin và các phẩm
chất tâm lý. Hơn nữa trong quá trình lao động, cán bộ quản lý luôn phải thực
hiện các mối quan hệ giao tiếp dẫn đến hoạt động lao động quản lý mang tính
xã hội cao. Đồng thời đối tượng của lao động quản lý chính là con người, do
đó trong quá trình làm việc, lao động quản lý phải hết sức lưu ý tới các quan
hệ xã hội giữa người quản lý và người bị quản lý. Đặc điểm này đặt ra yêu
cầu là phải tạo ra môi trường lao động thoải mái dễ chịu, tạo ra bầu không khí
tâm lý tốt trong tập thể cũng như phải chú ý đến những giới hạn về tâm lý xã
hội trong tổ chức lao động.
+ Thông tin kinh tế vừa là đối tượng lao động vừa là phương tiện
lao động của lao động quản lý
Trong quá trình lao động của lao động quản lý, đối tượng lao động
không phải là các yếu tố vật chất thông thường mà là các thông tin kinh tế.
Bằng hoạt động lao động của mình, lao động quản lý thu nhận và biến đổi các
thông tin để phục vụ mục tiêu quản lý ở các cấp trong hệ thống quản lý.
Thông tin kinh tế là một tập hợp các tin tức được thể hiện ghi lại, truyền đi,
lưu trữ xử lý và sử dụng trong quản lý kinh tế. Thông tin kinh tế phản ánh các
sự kiện, hiện tượng, quá trình đã xẩy ra hoặc sẽ xẩy ra. Những thông tin chưa
được xử lý là đối tượng của lao động quản lý, còn những thông tin đã đươc xử
lý là kết quả của hoạt động lao động quản lý. Mặt khác thông tin kinh tế là
phương tiện để hoàn thành nhiệm vụ của lao động quản lý. Bởi vì nhờ có
thông tin mà lao động quản lý nhận được những hiểu biết cần thiết, những tư
liệu cần thiết để giải quyết nhiệm vụ.
Đặc điểm này đòi hỏi phải tổ chức tốt công tác thông tin trong toàn hệ
thống, phải trang bị đầy đủ các phương tiện để thu nhận xử lý, cất giữ truyền
tin, phải đảm bảo cho các thông tin được truyền đi nhanh chóng và chính xác.
Do vậy, khi tổ chức và bố trí nơi làm việc của lao động quản lý phải lưu ý đến


9

tính chất, tần số, chu kỳ xử lý của các thông tin, phương pháp thể hiện và
đường đi của các tài liệu công văn.
+ Hoạt động lao động quản lý có nội dung đa dạng và kết quả lao
động không biểu hiện dưới dạng vật chất trực tiếp
Do đặc điểm này nên hoạt động của lao động quản lý khó theo dõi, khó
đánh giá đúng, khó định mức và kết quả của nó không được nhìn thấy ngay
mà phải qua một thời gian nhất định mới được biểu hiện rõ. Đặc điểm này đòi
hỏi trong công tác tổ chức lao động phải có phương pháp nghiên cứu, phương
pháp tổ chức thích hợp. Khi đánh giá kết quả hoạt động của lao động quản lý
phải căn cứ vào kết quả hoạt động của toàn bộ phận, đơn vị mà người đó phụ
trách và phải là kết quả hoạt động của toàn hệ thống sau một thời kỳ nhất
định.
+ Hoạt động lao động quản lý là hoạt động khó có thể được cơ giới
hoá
Lao động quản lý là lao động tư duy, lao động trí óc, hiện nay không gì
có thể thay thế được bộ óc con người, lao động trí óc đòi hỏi phải có sự tư
duy khoa học tức là phải nhạy bén với cái mới, biết từ trong đống sự kiện, tư
liệu chắt lọc lấy cái cần thiết từ đó sáng tạo ra cái mới, ra các quyết định phù
hợp với tình hình. Những công việc đó không có máy móc nào có thể thay thế
được. Tuy nhiên, có thể làm giảm bớt sự nặng nhọc của lao động quản lý
bằng cách trang bị những máy móc, dụng cụ văn phòng thích hợp như: máy
vi tính, điện thoại, máy photocopi, máy fax để cơ giới hoá phần công việc,
sự vụ, công việc thực hành giản đơn mà trong nội dung lao động quản lý nào
cũng có, để họ dành thời gian nhiều hơn cho công việc sáng tạo.
+ Hoạt động lao động quản lý là hoạt động mang tính năng động và
tinh thần trách nhiệm cao
Như trên đã nói: Thông tin kinh tế vừa là đối tượng lao động, kết quả
lao động vừa là phương tiện của lao động quản lý. Kết quả cuối cùng của lao
động quản lý là những quyết định điều hành cả một hệ thống, một tổ chức
nhất định, tổ chức và hệ thống bị lãnh đạo đó với những chức năng nhất định

có tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động khoa học,
xã hội, kinh tế, tổ chức của một bộ phận, một tổ chức, một ngành thậm chí cả
một nền kinh tế, một đất nước. Do vậy, chỉ một quyết định sai lầm có thể dẫn
đến một hậu quả lớn trong quản lý kinh tế. Đặc điểm này đặt ra yêu cầu hết
sức đặc biệt khi tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đề bạt cán bộ quản lý, khi tiến
hành tổ chức và định mức lao động quản lý cần lưu ý đến yêu cầu xác định rõ
trách nhiệm, quyền hạn trong phân công lao động quản lý.

1.2. TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ


10
Quản lý là hoạt động phức tạp nhiều mặt của con người, quản lý chỉ
được thực hiện trong một hệ thống quản lý cụ thể. Mỗi đơn vị, mỗi tổ
chức bao giờ cũng có hai hệ thống: Hệ thống quản lý và hệ thống bị quản lý.
Hệ thống quản lý chính là bộ máy quản lý, bộ máy quản lý là một hệ thống
các cơ quan quản lý có thẩm quyền chung. Nó là tập hợp các cơ quan hay cá
nhân thực hiện sự tác động có hướng một hoặc một số đối tượng quản lý nào
đó.
Hệ thống bị quản lý là đối tượng mà tác động của bộ máy quản lý
hướng vào, nhằm mục đích tăng thêm cho nó những hình thức cụ thể, chỉ đạo
hoạt động của nó để đạt được kết quả định trước. Giữa hệ thống quản lý và hệ
thống bị quản lý có mối quan hệ qua lại rất chặt chẽ, không chỉ hệ thống quản
lý tác động đến hệ thống bị quản lý mà ngược lại hệ thống bị quản lý cũng có
ảnh hưởng tác động trở lại đến tính chất, nội dung, hình thức tổ chức, phương
tác động của hệ thống quản lý. Sở dĩ có vấn đề trên là vì: Hệ thống bị quản lý
không chỉ chịu sự tác động có hướng đích của hệ thống quản lý mà nó còn
phát triển theo quy luật vốn có của nó, do đó hệ thống quản lý phải được tổ
chức cho phù hợp với đối tượng quản lý mà nó phụ trách, điều hành.
Tổ chức bộ máy quản lý là sự xác định các chức năng, các bộ phận tạo

thành một hệ thống tổ chức nhằm thực hiện được các chức năng quản lý.
1.2.1. Phân loại các chức năng quản lý
1.2.1.1. Căn cứ vào nội dung quản lý người ta chia thành 5 loại
chức năng cơ bản là:
- Chức năng dự đoán: Dự đoán là việc đoán trước có cơ sở khoa học
sự phát triển có thể xẩy ra của các quá trình, hiện tượng kinh tế. Dự đoán
chính là lập ra các kế hoạch phát triển của tổ chức, đề ra mục tiêu phát triển
và dự kiến các biện pháp thực hiện để đạt mục tiêu đó. Sự phát triển của đơn
vị ở đây phải bao gồm toàn diện vừa là kinh tế kỹ thuật, vừa là văn hoá xã
hội, cả về cơ sở vật chất lẫn tổ chức thực hiện.
- Chức năng tổ chức: tổ chức là việc kết hợp, liên kết các bộ phận tổ
chức riêng rẽ, các biện pháp khác nhau, các yếu tố sản xuất khác nhau thành
một thể thống nhất nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. Tổ chức là một chức năng
quan trọng không thể thiếu được của một bộ máy quản lý.
- Chức năng điều hoà phối hợp: Điều hoà phối hợp là làm cho hoạt
động của mọi người, mọi bộ phận trong một tổ chức hoạt động nhịp nhàng, ăn
khớp với nhau tạo ra nhịp điệu hoạt động chung của toàn hệ thống. Điều hoà
phối hợp được tiến hành dựa trên các tiêu chuẩn, thông số kỹ thuật, trên cơ sở
phân công hiệp tác lao động, trên cơ sở kế hoạch đã được xây dựng từ trước.
- Chức năng kiểm tra: Kiểm tra là xem xét toàn bộ diễn biến, hoạt
động của các bộ phận. Căn cứ vào kế hoạch đã định ra và nhiệm vụ đã phân
công, kiểm tra phải phát hiện kịp thời các thiếu sót, tìm ra nguyên nhân và đề


11
ra các biện pháp khắc phục các sai lệch đó làm cho toàn bộ hệ thống hoạt
động nhịp nhàng đạt các mục tiêu đã định.
- Chức năng hạch toán: Hạch toán là sự phân tích và tổng hợp các
hoạt động diễn ra của các bộ phận về mặt kinh tế, thông qua các chỉ tiêu kinh
tế để đánh giá đúng diễn biến của tình hình hoạt động của hệ thống và dự kiến

đúng quá trình phát triển của toàn hệ thống.
1.2.1.2. Căn cứ vào mối quan hệ trực tiếp với các hoạt động của tổ
chức người ta chia thành 9 loại chức năng quản lý như sau
- Chức năng chuyên môn, kỹ thuật
- Chức năng kế hoạch và điều độ
- Chức năng nhân sự
- Chức năng tài chính và hạch toán
- Chức năng thanh tra, kiểm tra
- Chức năng thương mại
- Chức năng hành chính, pháp chế và bảo vệ
- Chức năng tuyên truyền, thi đua
- Chức năng tổ chức đời sống tập thể và các hoạt động xã hội khác
Dựa vào các cách phân loại trên đây người ta có thể lựa chọn một cơ
cấu tổ chức bộ máy quản lý phù hợp với đối tượng quản lý, nhiệm vụ được
giao, có hiệu lực mạnh với chi phí ít nhất và biên chế gọn nhẹ.
1.2.2. Yêu cầu và nguyên tắc của tổ chức bộ máy quản lý:
- Bảo đảm cho toàn hệ thống hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị
được giao, thực hiện đầy đủ và toàn diện các chức năng quản lý nhà nước mà
tổ chức đó được phân công.
- Bộ máy quản lý phải phù hợp với đối tượng quản lý, thích hợp với các
đặc điểm kinh tế xã hội và nhiệm vụ được giao.
- Bộ máy quản lý phải vừa tinh giản vừa vững mạnh. Một bộ máy được
coi là tinh giản khi số cấp, số bộ phận quản lý ít nhất, tỷ lệ giữa cán bộ quản
lý so với tổng số cán bộ công nhân viên là ít nhất mà vẫn hoàn thành đầy đủ
các chức năng quản lý. Bộ máy quản lý được coi là vững mạnh khi những
quyết định của nó được chuẩn bị một cách chu đáo, có cơ sở khoa học và sát
với thực tế khách quan, khi những quyết định ấy được mọi bộ phận, mọi
người trong tổ chức chấp hành với tinh thần kỷ luật nghiêm khắc, ý thức tự
giác đầy đủ.
Để đạt được yêu cầu trên, khi xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý

phải tuân theo các nguyên tắc sau:


12
- Tính cân đối của cơ cấu, nghĩa là giữa các khâu, các cấp quản lý đều
phải thiết lập những mối quan hệ hợp lý với số lượng cấp quản lý ít nhất trong
mỗi hệ thống.
- Tính linh hoạt, cơ cấu quản lý được xây dựng phải có khả năng phản
ứng linh hoạt với bất kỳ tình huống nào xẩy ra trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ, đảm bảo sao cho thời gian từ lúc ra quyết định đến lúc thực hiện
quyết định là ngắn nhất.
- Độ tin cậy trong hoạt động, bộ máy tổ chức quản lý phải đảm bảo độ
tin cậy cao trong hoạt động, điều đó có nghĩa là: Phải đảm bảo tính chính xác
của các thông tin được truyền đi trong các kênh của toàn hệ thống nhờ đó mà
duy trì sự phối hợp các hoạt động của mọi bộ phận. Bất kỳ tình huống nào
xẩy ra thông tin cũng phải đảm bảo thông suốt, chính xác, kịp thời.
- Tính kinh tế của bộ máy quản lý, điều này có nghĩa là: Chi phí quản lý
ít nhất nhưng phải mang lại hiệu quả cao nhất. Tiêu chuẩn để xem xét là mối
tương quan giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu lại.
Trong thực tế rất khó có thể xây dựng được một bộ máy quản lý đạt
được tất cả các yêu cầu trên và thoả mãn mọi nguyên tắc xây dựng đã nêu ra.
Tuy nhiên, những yêu cầu và nguyên tắc đó vẫn là cần thiết, vì nó là kim chỉ
nam cho việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy quản lý.
1.2.3. Các kiểu cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý
Để xây dựng và hoàn thiện một hệ thống tổ chức bộ máy quản lý phù
hợp với đối tượng quản lý và nhiệm vụ được giao, điều trước tiên là phải chọn
được kiểu cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý thích hợp. Trong thực tiễn quản lý
đã xuất hiện nhiều kiểu cơ cấu tổ chức quản lý khác nhau. Một kiểu cơ cấu tổ
chức quản lý có những ưu, nhược điểm khác nhau và được áp dụng thích hợp
trong những điều kiện cụ thể nhất định, luận văn cũng nêu lên các kiểu cơ cấu

tổ chức quản lý:
+ Kiểu cơ cấu tổ chức theo trực tuyến
Đây là cơ cấu tổ chức đơn giản nhất trong đó có một cấp trên và một số
cấp dưới. Toàn bộ các vấn đề quản lý được giải quyết theo một kênh liên hệ
đường thẳng.

Sơ đồ số 1.1:




Người lãnh đạo


13






Đặc điểm cơ bản của kiểu cơ cấu này là người lãnh đạo thực hiện tất cả
các chức năng quản lý, hoàn toàn chịu trách nhiệm về hệ thống do mình phụ
trách. Các mối liên hệ giữa các thành viên trong tổ chức được thực hiện theo
đường thẳng, người thừa hành mệnh lệnh chỉ nhận mệnh lệnh qua một người
phụ trách và chỉ thi hành mệnh lệnh của người phụ trách đó mà thôi. Cơ cấu
này tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chế độ thủ trưởng, người lãnh
đạo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về kết quả công việc của người dưới
quyền.
Nhược điểm của cơ cấu này là đòi hỏi người lãnh đạo phải có kiến thức

toàn diện, tổng hợp; hạn chế việc sử dụng các chuyên gia có trình độ cao về
từng mặt quản lý, khi phối hợp công việc giữa các cá nhân ngang quyền
thuộc các tuyến khác nhau thì phải báo cáo, thỉnh thị cấp trên. Các thông tin
phải đi đường vòng theo kênh liên hệ đã được quy định. Kiểu cơ cấu này chỉ
áp dụng cho các đơn vị có quy mô nhỏ, việc quản lý không quá phức tạp.
+ Kiểu cơ cấu tổ chức quản lý theo chức năng:
Theo kiểu cơ cấu tổ chức quản lý này thì nhiệm vụ quản lý được phân
chia cho các đơn vị riêng biệt theo các chức năng quản lý và hình thành nên
những người lãnh đạo được chuyên môn hoá chỉ đảm nhận thực hiện một
chức năng nhất định. Mối liên hệ giữa các nhân viên trong tổ chức rất phức
tạp và phải chịu sự lãnh đạo của nhiều thủ trưởng.
Ưu điểm của cơ cấu này thu hút được các chuyên gia vào công tác lãnh
đạo, giải quyết các vấn đề chuyên môn một cách thành thạo hơn, đồng thời
giảm bớt gánh nặng quản lý cho người lãnh đạo.
Sơ đồ số 1.2






Người LĐ tuyến 1
Người LĐ tuyến 2
ĐTQL
ĐTQL
ĐTQL
ĐTQL
ĐTQL
ĐTQL
Người lãnh đạo

Người LĐ chức năng A
Người LĐ chức năng B
Người LĐ chức năng C


14



Nhược điểm của kiểu cơ cấu này là người lãnh đạo tổ chức khó phối
hợp các hoạt động của người lãnh đạo chức năng. Đối tượng quản lý phải
chịu sự lãnh đạo của nhiều thủ trưởng khác nhau, do đó kiểu cơ cấu này làm
yếu chế độ thủ trưởng.
+ Kiểu cơ cấu tổ chức quản lý trực tuyến-chức năng:
Kiểu cơ cấu này là sự kết hợp cả hai cơ cấu quản lý theo trực tuyến và
cơ cấu quản lý theo chức năng. Theo cơ cấu này người lãnh đạo tổ chức
được sự giúp sức của các lãnh đạo chức năng để chuẩn bị ra quyết định,
hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện quyết định. Người lãnh đạo tổ chức
vẫn chịu trách nhiệm về mọi mặt công tác và toàn quyền quyết định trong
phạm vi tổ chức của mình. Mối liên hệ giữa cấp dưới và người lãnh đạo chỉ
là một đường thẳng duy nhất, còn những bộ phận chức năng chỉ làm nhiệm
vụ chuẩn bị những lời chỉ dẫn, những lời khuyên và kiểm tra sự hoạt động
của các cán bộ trực tuyến. Ưu điểm của kiểu cơ cấu này là đã lợi dụng được
ưu điểm của cả hai kiểu cơ cấu trực tuyến và chức năng. Tuy nhiên nó có
nhược điểm là người lãnh đạo tổ chức phải giải quyết thường xuyên mối
quan hệ giữa bộ phận trực tuyến với bộ phận chức năng.
Sơ đồ số 1.3















Đ.tượng quản lý 3
Đ.tượng quản lý 2
Đ.tượng quản lý 1
Người lãnh đạo cấp I
Người lãnh đạo
chức năng A
Người lãnh đạo
chức năng B
Người lãnh đạo cấp II
Người LĐ chức năng A

Người LĐ chức năng B

Người LĐ chức năng C

Người lãnh đạo
chức năng C



15

+ Kiểu cơ cấu tổ chức quản lý theo trực tuyến tham mưu:
Thực chất của kiểu cơ cấu tổ chức này là kiểu cơ cấu tổ chức theo trực
tuyến mở rộng. Đặc điểm cơ bản của kiểu cơ cấu này là vẫn duy trì lãnh đạo
theo trực tuyến. Người lãnh đạo ra mệnh lệnh và chịu hoàn toàn trách nhiệm
đối với người thừa hành trực tiếp của mình. Khi gặp các vấn đề phức tạp,
người lãnh đạo phải tham khảo ý kiến của các chuyên gia, cho nên cần có
những bộ phận chức năng riêng để thực hiện vai trò tham mưu.
Ưu điểm của kiểu cơ cấu này là người lãnh đạo sẽ sử dụng được tài
năng chuyên môn của một số chuyên gia, có thể tiếp cận thường xuyên với
họ, không cần hình thành một cơ cấu tổ chức phức tạp với các bộ môn thực
hiện các chức năng quản lý.
Nhược điểm của kiểu cơ cấu tổ chức này là không phù hợp với các đơn
vị, các tổ chức mà khối lượng công tác quản lý lớn, đòi hỏi sự phân công tỷ
mỷ và chuyên môn hoá cao trong lao động quản lý. Cơ cấu tổ chức đòi hỏi
người lãnh đạo phải tìm kiếm được chuyên gia các loại, sao cho đồng bộ để
đưa ra các quyết định hợp lý.
Sơ đồ số 1.4:






Đối tượng Qlý 1
Đối tượng Qlý 3

Đối tượng Qlý 2


Người lãnh đạo
Người LĐ tuyến1
Người LĐ tuyến2

Người LĐ tuyến3



16

Các kiểu cơ cấu tổ chức quản lý trên đây, mỗi kiểu đều có những ưu
nhược điểm riêng. Việc lựa chọn kiểu cơ cấu nào phải xuất phát từ đặc điểm
đối tượng quản lý của tổ chức ấy sao cho kiểu cơ cấu đó phù hợp, phát huy
hết những ưu điểm đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất các khuyết tật vốn
có của nó.
1.2.4. Các phương pháp hình thành cơ cấu tổ chức quản lý
Để hình thành cơ cấu tổ chức quản lý thường dựa vào hai phương pháp
chủ yếu là:
+ Phương pháp tương tự
Đây là phương pháp hình thành cơ cấu tổ chức quản lý mới dựa vào
việc kế thừa những kinh nghiệm thành công và gạt bỏ những yếu tố bất hợp
lý của cơ cấu tổ chức có sẵn. Những cơ cấu tổ chức có trước này có những
yếu tố tương tự với cơ cấu tổ chức sắp hình thành. Để hình thành cơ cấu tổ
chức quản lý mới có thể dựa vào một cơ cấu tổ chức mẫu nhưng có tính đến
điều kiện cụ thể của đơn vị mới như so sánh về nhiệm vụ, chức năng, về đối
tượng quản lý, về điều kiện cơ sở vật chất để xác định cơ cấu tổ chức quản
lý thích hợp. Cơ sở phương pháp luận để xác định cơ cấu tổ chức theo
phương pháp tương tự là sự phân loại đối tượng quản lý căn cứ vào những
tiêu thức nhất định. Ưu điểm của phương pháp này là quá trình hình thành
cơ cấu nhanh, chi phí để thiết kế cơ cấu nhỏ, kế thừa có phân tích những

kinh nghiệm quý báu của quá khứ. Tuy nhiên sự sao chép máy móc kinh
nghiệm thực tế, thiếu sự phân tích những điều kiện cụ thể của đơn vị mới khi
xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý mới là khuynh hướng cần phải ngăn ngừa.
+ Phương pháp phân tích
Theo phương pháp này, việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý hiện tại
được bắt đầu bằng cách nghiên cứu kỹ lưỡng cơ cấu tổ chức hiện tại, tiến
hành đánh giá những hoạt động của nó theo những tiêu thức nhất định. Cần
Nguời LĐ tuyến1
Nguời LĐ tuyến2

TM1
TM2

TM3

TM1

TM2


TM3

TM1

TM2

TM3

TM3


TM2

TM1

ĐTQL
ĐTQL
ĐTQL
ĐTQL
ĐTQL
ĐTQL


17
phân tích các chức năng của từng bộ phận, các quan hệ phụ thuộc của các bộ
phận. Kết quả của phân tích là những nhận xét đánh giá mặt hợp lý và chưa
hợp lý của cơ cấu hiện hành. Trên cơ sở đó dự thảo cơ cấu tổ chức mới. Sau
đó bổ sung, thay đổi cán bộ, xây dựng các điều lệ, nội quy, quy chế hoạt
động cho từng bộ phận và cho cán bộ lãnh đạo, các chuyên viên, các nhân
viên thừa hành chủ chốt.
Ưu điểm của phương pháp này là phân tích được những điều kiện thực
tế của cơ cấu, đánh giá được các mặt hợp lý và chưa hợp lý, từ đó có hướng
để hoàn thiện cơ cấu tổ chức mới có hiệu quả. Tuy nhiên, áp dụng phương
pháp này sẽ tốn nhiều thời gian và chi phí để thiết kế cơ cấu tổ chức mới.
1.3. HOÀN THIỆN TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ NGÀNH THUẾ-
MỘT TẤT YẾU KHÁCH QUAN TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI QUẢN
LÝ NỀN KINH TẾ.
1.3.1. Thuế và cải cách thuế ở Việt Nam
Mỗi nhà nước đều phải thực hiện các chức năng củng cố bộ máy đảm
bảo an ninh quốc phòng, trật tự xã hội. Để có điều kiện thực hiện các chức
năng của mình, Nhà nước phải động viên mọi nguồn lực, động viên sự đóng

góp của nhân dân mà chủ yếu là từ thuế.
Thuế là một hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội
và thu nhập quốc dân, tập trung một phần thu nhập quốc dân và một phần thu
nhập quốc doanh vào trong tay nhà nước, nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
Nhà nước.
Thuế là một đòi hỏi tất yếu khách quan. Thuế xuất hiện trong xã hội
loài người do hai điều kiện: Sự xuất hiện của Nhà nước và sự xuất hiện của
sản phẩm thặng dư cùng với sự ra đời của nền sản xuất hàng hoá tiền tệ.
Sự xuất hiện của Nhà nước tạo quyền lực tập trung để Nhà nước ban
hành pháp luật về thuế bắt buộc mọi thành viên trong xã hội phải chấp hành
nghiêm chỉnh.
Sự xuất hiện của sản phẩm thặng dư trong xã hội là cơ sở chủ yếu tạo
khả năng và nguồn động viên về thuế. Sản phẩm xã hội ngày càng phát triển,
cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá là sự mở rộng quan hệ thị
trường, thuế động viên dưới hình thức tiền tệ cũng ngày càng phát triển.
Vì thuế gắn liền với Nhà nước nên bản chất của Nhà nước, nhiệm vụ
chính trị-kinh tế của mỗi Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm của
phương thức sản xuất là những nhân tố chủ yếu có ảnh hưởng đến vai trò, nội
dung cơ cấu các loại thuế và đặc điểm thuế khoá của Nhà nước.
Chuyển nền kinh tề từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết


18
của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa là sự chuyển hướng đúng đắn của Đảng và
Nhà nước ta.
Một hệ thống chính sách thuế phù hợp sẽ góp phần khắc phục sự trì trệ,
lạc hậu của nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế ổn định và tăng trưởng. Ngược
lại, có thể làm cho nền kinh tế ngày càng tụt hậu, kém hiệu quả, dẫn tới sự
khủng hoảng chính trị.

Thuế có vai trò đặc biệt trong nền kinh tế thị trường ở nước ta: Thuế là
nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, là bộ phận cơ bản của nền tài
chính quốc gia lành mạnh. Ở nước ta hiện nay, thuế chiếm 90% thu ngân sách
so với trước đây trong thời kỳ bao cấp thuế chỉ chiếm khoảng 60%.
Thuế đã trở thành công cụ chủ yếu của Nhà nước trong việc quản lý và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế, góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội.
Hệ thống thuế của nước ta được hình thành và phát triển gắn liền với sự
ra đời và phát triển của Nhà nước cách mạng dân tộc-dân chủ và cách mạng
Xã hội chủ nghĩa.
Trải qua những năm tháng lịch sử, hệ thống thuế đã được sửa đổi bổ
sung nhiều lần cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ chính trị, kinh tế từng giai
đoạn.
Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế sản xuất
hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường đòi hỏi phải đổi mới hệ
thống thuế. Chính vì vậy mà từ năm 1990. cuộc cải cách thuế đã được tiến
hành, bao gồm cải cách chính sách thuế và cải tổ lại bộ máy tổ chức thu thuế
trước đây.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII,
quan điểm cơ bản để đổi mới hệ thống thuế ở nước ta là:
Hệ thống thuế và từng chính sách thuế phải đạt được các yêu cầu:
Về mặt kinh tế: Thuế là công cụ để quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh
tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển đúng hướng.
Về mặt tài chính: Thuế phải là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà
nước.
Về mặt xã hội: Thuế góp phần thực hiện bình đẳng và công bằng xã
hội.
Về nghiệp vụ: Bảo đảm đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, phù hợp với nền
kinh tế thị trường.
Sau 17 năm thực hiện cải cách thuế theo từng giai đoạn, đã mang lại
được những kết quả đáng khích lệ trên nhiều mặt:



19
1.3.1.1. Về mặt kinh tế: Bước đầu đã phát huy tác dụng quản lý, điều
tiết vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy sắp xếp lại cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu
đầu tư, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.
- Việc áp dụng chung một hệ thống các luật thuế, pháp lệnh thuế đối
với các thành phần kinh tế đã tạo sự bình đẳng về nghĩa vụ, góp phần tạo lập
môi trường bình đẳng trong kinh doanh, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa
các thành phần kinh tế và thông qua thuế đã bao quát được đầy đủ hơn đối với
hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế.
- Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển, giúp doanh nghiệp thoát dần
ra khỏi khó khăn, từng bước tính đủ chi phí đầu vào, đảm bảo làm tròn nghĩa
vụ với nhà nước và có lãi, khắc phục dần tình trạng “lãi giả lỗ thật”.
Khuyến khích phát triển sản xuất, mở rộng giao lưu hàng hoá, hướng
dẫn và khuyến khích hợp tác đầu tư với nước ngoài, đẩy mạnh sản xuất nhập
khẩu và coi trọng bảo vệ hàng nội địa. Tốc độ phát triển kinh tế qua các năm
tương đối khá, tạo ra cơ sở vững chắc để tăng thêm nguồn thu cho ngân sách
nhà nước.
- Thông qua việc thực hiện các luật thuế, pháp lệnh thuế, nhà nước có
cơ sở xác định được đúng các doanh nghiệp lỗ lãi để phân loại doanh nghiệp
và sắp xếp lại sản xuất, cổ phần hoá và đa dạng hoá hình thức doanh nghiệp
cho phù hợp với sự phát triển kinh tế của đất nước.
1.3.1.2. Về thu ngân sách nhà nước: Số thu từ thuế và phí đã trở thành
nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, kết quả tăng từ 13,5% số GDP
năm 1991 lên 23% và 23,3% GDP trong các năm 1994, 1995; tăng lên 32,4%
GDP trong các năm 2005, 2006, 2007; số thu về thuế chiếm trên 90% tổng số
thu ngân sách, đã góp phần đáng kể để giảm bội chi ngân sách nhà nước, đẩy
lùi lạm phát, ổn định giá cả thị trường và dành một phần đáng kể cho đầu tư

và tài trợ, cụ thể như:
Bảng số 1.1:
Thu ngân sách Nhà nước các năm 2001-2005
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu

2001
2002
2003
2004
2005
Thuế giá trị gia tăng (VAT)
13.952
17.455
23.238
28.058
31.059
Thuế tiêu thụ đặc biệt
6.229
8.364
10.506
13.541
14.703
Thuế thu nhập doanh nghiệp
25.805
29.772
32.447
39.329
53.965
Thuế tài nguyên

8.416
7.708
8.661
12.195
18.235


20
Thu sử dụng vốn
1.711
519
0
0
45
Thuế môn bài
400
419
664
647
725
Lợi tức sau thuế
7.493
6.700
6.558
12.567
9.471
Lệ phí trước bạ
1.191
1.170
1.400

2.000
2.096
Thuế sử dụng đất nông nghiệp
814
540
65
100
132
Thuế nhà đất
330
280
270
362
514
Thuế thu nhập cá nhân
2.058
3.150
4.550
6.700
4.237
Thu phí và lệ phí
2.583
4.070
5.500
6.400
6.738
Thu phí xăng dầu
2.537
3.920
4.350

5.700
3.943
Thu tiền cho thuê đất
570
516
511
687
704
Thu tiền bán nhà thuộc sở
hữu nhà nước
959
700
800
620
982
Thu tiền cấp quyền sử dụng
đất
1.870
2.530
1.940
8.339
12.174
Thu tiền chuyển quyền sử
dụng đất
298
310
360
498
682
Thuế xuất nhập khẩu

17.458
22.500
25.100
21.420
21.000
Thuế xuất nhập khẩu
5.375
7.800
13.500
15.002
22.284
Thu chênh lệch giá hàng
nhập khẩu
116
200
200
78
1
Thu viện trợ
2.011
2.000
2.000
2.000
2.400
Thu khác
1.712
3.237
4.957
4.154
5.310

Tổng thu ngân sách nhà
nước
103.888
123.860
147.577
180.397
211.400
(Nguồn báo cáo thu ngân sách nhà nước các năm 2001, 2002, 2003,
2004, 2005 Kho bạc Nhà nước-Bộ Tài chính)
Năm năm qua thu về thuế tăng nhanh qua các năm, chiếm phần chủ yếu
trong ngân sách nhà nước, đảm bảo về cơ bản yêu cầu chi thường xuyên ngày
càng tăng của ngân sách nhà nước, giữa tỷ lệ bội chi, chấm dứt tình trạng phát
hành tiền để chi cho ngân sách, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả
và đã dành một phần cho tích luỹ (đầu tư xây dựng cơ bản)
1.3.1.3. Về mặt xã hội: Hệ thống thuế được áp dụng chung cho mọi
thành phần kinh tế, mọi loại hình sở hữu, bước đầu thể hiện sự bình đẳng về
nghĩa vụ, góp phần tạo lập môi trường bình đẳng trong kinh doanh. Ngoài ra,
với việc ban hành và áp dụng Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu


21
nhập cao, hệ thống thuế bước đầu đã có đóng góp đáng kể trong việc thu hẹp
khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, trước hết là
giữa những người lao động trong các doanh nghiệp khác nhau về sở hữu và
hình thức đầu tư.
Những tổ chức, các cá nhân kinh doanh có doanh thu, lợi tức lớn nhiều
hơn tổ chức có doanh thu, lợi tức kém. Những doanh nghiệp làm ăn giỏi, có
hiệu quả kinh tế cao, mặc dù đã nộp thuế đầy đủ, nhưng thu nhập vẫn cao
hơn. Qua đó khuyến khích đầu tư vốn, chất xám, tăng năng xuất lao động, hạ
giá thành, vừa đóng thuế cho Nhà nước nhiều hơn, vừa có quyền lợi cho cơ sở

kinh doanh.
Những cá nhân có thu nhập cao phải nộp thuế thu nhập cao. Thực tế
thuế thu nhập cao đã thu được qua các năm như sau: Năm 2001: 2.058 tỷ
đồng, 2002: 3.150 tỷ đồng, 2003: 4.550 tỷ đồng, 2004:6.700 tỷ đồng, 2005:
4.237 tỷ đồng. Việc điều tiết thu nhập nhằm hạn chế chênh lệch thu nhập giữa
người làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với những
người làm việc trong các doanh nghiệp trong nước và người làm công ăn
lương trong các cơ quan hành chính sự nghiệp.
1.3.1.4. Về mặt pháp lý: Các loại thuế được ban hành chủ yếu bằng
Luật, Pháp lệnh của Quốc hội, việc đăng ký thuế, kê khai tính thuế, nộp thuế
quy định cụ thể, rõ ràng hơn, nhận thức về trách nhiệm, nghĩa vụ nộp thuế của
các doanh nghiệp, hộ tư nhân ngày càng được nâng cao, các biện pháp về
cưỡng chế thuế như phạt hành chính, phạt nộp chậm, phạt do trốn lậu thuế đã
có tác dụng giảm bớt chây ì, nợ đọng thuế của các cơ sở sản xuất kinh doanh.
1.3.1.5. Về thuế trực thu và thuế gián thu: Nước ta trong những năm
qua tỷ trọng thuế trực thu trong tổng số thuế còn ở mức thấp là vì thu nhập
của ta còn thấp (thu nhập bình quân đầu người ở mức thấp nhất thế giới),
công tác quản lý và các điều kiện để thực hiện tốt thuế trực thu còn nhiều mặt
hạn chế. Nhưng cùng với sự phát triển kinh tế, thực hiện đồng bộ các chính
sách, luật pháp có liên quan và công tác quản lý thu thuế được cải tiến dần,
Nhà nước sẽ đưa tỷ trọng thuế trực thu ngày một cao hơn trong các năm tới.
Tuy nhiên, mức động viên vào ngân sách nhà nước tăng lên so với giai
đoạn trước nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn đảm bảo xấp xỉ 9% trong
nhiều năm. Do đó, hệ thống thuế cần phải được tiếp tục đổi mới hơn nữa mới
làm tròn được chức năng của mình.
Cải cách thuế ở Việt Nam có ảnh hưởng quyết định đến hoàn thiện hệ
thống tổ chức bộ máy ngành thuế. Nếu không có tổ chức bộ máy hoàn thiện
thì hệ thống chính sách thuế dù có tiên tiến đến mấy cũng không thể thực thi
được trong thực tế. Cải cách thuế phải bao hàm cả hai nội dung: Cải cách hệ
thống chính sách và cải cách tổ chức bộ máy, cải cách tổ chức bộ máy phải

phục vụ cho tiến hành cải cách hệ thống chính sách thuế. Mặt khác trên cơ sở


22
nhiệm vụ thu và hệ thống chính sách thuế để xây dựng hệ thống tổ chức bộ
máy quản lý ngành thuế. Do vậy, hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý
ngành thuế là một tất yếu khách quan của thời kỳ đổi mới. Hoàn thiện hệ
thống tổ chức bộ máy quản lý phải góp phần thực hiện thắng lợi cải cách hệ
thống thuế và là một bộ phận không thể tách rời của cải cách hệ thống thuế ở
Việt Nam.
1.3.2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý ngành thuế-một tất yếu
khách quan trong công cuộc đổi mới quản lý nền kinh tế.
Bất kỳ Nhà nước nào bằng cách này hay cách khác đều có sự can thiệp
nhất định vào nền sản xuất xã hội. Đó là một tất yếu khách quan gắn liền với
sự tồn tại của Nhà nước. Trong quá trình chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp sang cơ chế thị trường ở nước ta, vai trò của Nhà nước không giảm đi
mà càng tăng lên với những hình thức quản lý mới và sử dụng những công cụ
mới để tác động vào nền kinh tế. Nhà nước sử dụng một hệ thống công cụ tác
động vào nền kinh tế để định hướng sự phát triển của nó theo mục tiêu đã
định. Trong hệ thống công cụ đó, thuế là một công cụ đặc biệt quan trọng,
Nhà nước sử dụng công cụ thuế nhằm 2 mục đích:
- Điều chỉnh nền kinh tế phát triển theo quỹ đạo.
- Tạo lập nguồn tài chính cần thiết để duy trì hoạt động của bộ máy Nhà
nước.
Một hệ thống chính sách thuế đúng sẽ góp phần khắc phục sự trì trệ, lạc
hậu của nền kinh tế, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và giữ ổn định chính trị,
ngược lại một hệ thống chính sách không phù hợp sẽ làm cho nền kinh tế tụt
hậu, kém hiệu quả và có thể dẫn tới khủng hoảng về chính trị.
Sự tất yếu khách quan phải hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý
ngành thuế được thể hiện ở những vấn đề sau:

Một là: Trong nền kinh tế hàng hoá thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân
sách nhà nước. Một nền tài chính lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu
từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Trong hệ thống đòn bẩy của cơ chế quản lý
mới, thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối và phân phối lại tổng sản
phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt
đối với nước ta hiện nay, nguồn thu từ nước ngoài không phải là nhiều, kinh
tế đối ngoại đã trở thành “có vay có trả” đo đó, thuế là nguồn thu chủ yếu để
góp phần giảm bội chi ngân sách, giảm lạm phát, từng bước góp phần ổn định
trật tự xã hội, tạo tiền đề cho phát triển lâu dài.
Một nền kinh tế mà cơ cấu của nó bao gồm nhiều thành phần thì hệ
thống thuế phải được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế, phải
bao quát hết mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, mọi nguồn thu nhập và mọi
tiêu dùng xã hội. Trong các kỳ hợp thứ IIX, IX, X, XI, XII của Quốc hội đã
có Nghị quyết phải động viên thuế và các khoản thu khác từ 23-25% thu nhập


23
quốc dân trong nước và tăng dần lên trong những năm tiếp theo, với số thu
năm sau luôn cao hơn năm trước từ 1,3 đến 2 lần và tỷ lệ thu từ trong nước
ngày một tăng từ 76,78% năm 2004 lên 98,5% năm 2005. Nhiệm vụ thu ngân
sách của ngành thuế ngày một nặng nề. Với một nhiệm vụ và vai trò đặc biệt
quan trọng như vậy, ngành thuế không thể nào hoàn thành suất sắc nhiệm vụ
được giao nếu không có một tổ chức bộ máy vững mạnh, năng động, đủ trình
độ chuyên môn và có phẩm chất đạo đức tốt. Do đó, thường xuyên hoàn thiện
tổ chức bộ máy quản lý ngành thuế là một tất yếu khách quan trong thời kỳ
đổi mới.
Hai là: Thuế là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Song song với việc đổi mới công tác kế hoạch hoá, giá cả và các đòn
bẩy kinh tế khác, thuế có vị trí rất quan trọng trong việc kiểm kê, kiểm soát,
quản lý hướng dẫn và khuyến khích phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông

đối với tất cả các thành phần kinh tế theo hướng phát triển của kế hoạch Nhà
nước, góp phần tích cực vào việc điều chỉnh các mặt mất cân đối lớn trong
nền kinh tế quốc dân như tích luỹ và tiêu dùng, tiền và hàng, cung và cầu
Thông qua cơ cấu và mối quan hệ giữa các loại thuế, cùng với việc xác
định đúng các đối tượng nộp thuế, đối tượng tính thuế, thuế suất, biểu thuế,
chế độ miễn giảm, phương pháp quản lý thu thuế trên cơ sở hạch toán kiểm kê
đầy đủ, chính xác ý nghĩa điều tiết của thuế được biểu hiện ở hai mặt:
- Khuyến khích nâng đỡ những hoạt động sản xuất kinh doanh cần thiết
và có hiệu quả cao.
- Thu hẹp kìm hãm những ngành nghề, mặt hàng cần hạn chế sản xuất,
hạn chế tiêu dùng.
Trong điều kiện hiện nay hệ thống chính sách thuế cần phải góp phần
khuyến khích việc bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, khuyến khích các cơ sở
sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh lành mạnh trên
cơ sở bình đẳng trước pháp luật, khuyến khích khai thác sử dụng nguyên liệu
vật tư trong nước, tranh thủ vốn hợp tác của nước ngoài để phát triển kinh tế
hàng hoá, không ngừng nâng cao khả năng tích luỹ, đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng và xuất khẩu.
Để thực hiện được vai trò trên đây của hệ thống chính sách thuế đòi hỏi
phải có một tổ chức bộ máy quản lý ngành thuế vững mạnh, tinh thông nghiệp
vụ, bám sát thực tế sản xuất kinh doanh, kịp thời đề xuất với Quốc hội và
Chính phủ sửa đổi ban hành các chính sách thuế hợp lý. Nhất là trong điều
kiện nền kinh tế mở cửa của ta hiện nay đang cần khuyến khích đầu tư nước
ngoài, khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất thì những biến
động những sai sót của hệ thống chính sách thuế càng cần phải được sửa chữa
kịp thời nhanh chóng do vậy hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý
ngành thuế là một tất yếu khách quan.

×