Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Thị trường lao động ở khu vực nông thôn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 88 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
_________________________



NGUYỄN GIA THIỆN






























THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
Ở KHU VỰC NÔNG THÔN VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



HÀ NỘI – 2011

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
_________________________



NGUYỄN GIA THIỆN



THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG

Ở KHU VỰC NÔNG THÔN VIỆT NAM


Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐINH QUANG TY



HÀ NỘI - 2011
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 5
1.1. Sức lao động và hàng hóa sức lao động 5
1.1.1. Các quan điểm trước Mác về sức lao động và hàng hoá sức lao
động 5
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về sức lao động và hàng
hoá sức lao động 6
1.1.3. Quan điểm của các nhà kinh tế học tư sản về sức lao động và
hàng hoá sức lao động 14
1.2. Thị trường lao động 15
1.2.1. Những quan niệm khác nhau về thị trường lao động 15
1.2.2. Các yếu tố cấu thành thị trường lao động 23
1.3. Kinh nghiệm phát triển thị trường lao động của một số nước và những

vấn đề rút ra có thể tham khảo cho Việt Nam 31
13.1. Về kinh nghiệm của một số nước 31
1.3.2. Những vấn đề rút ra có thể tham khảo cho Việt Nam 36
Chương 2. VẤN ĐỀ VIỆC LÀM NHÌN DƯỚI GÓC ĐỘ THỊ TRƯỜNG LAO
ĐỘNG Ở KHU VỰC NÔNG THÔN VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM
GẦN ĐÂY 39
2.1. Một số khía cạnh về sự thay đổi nhận thức và quan hệ luật pháp 39
2.1.1. Sự thay đổi nhận thức về vấn đề việc làm và thất nghiệp 39
2.1.2. Đặc điểm của lao động, việc làm ở khu vực nông thôn Việt Nam 43
2.2. Thực trạng vấn đề việc làm ở khu vực nông thôn 49
2.2.1. Cung về lao động 49
2.2.2. Cầu về lao động 56
2.2.3. Tình trạng thiếu việc làm ở khu vực nông thôn 59
2.2.4. Mức tiền công và thu nhập của lao động nông thôn 60
2.2.5. Những vấn đề đặt ra 61
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO
ĐỘNG Ở KHU VỰC NÔNG THÔN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2020 64
3.1. Quan điểm 64
3.1.1. Phát triển thị trường lao động dựa trên cơ sở quán triệt một cách
đúng đắn và nhất quán các quan điểm chủ trương và chính sách có
liên quan của Đảng và Nhà nước 64
3.1.2. Phát triển thị trường lao động phải kết hợp giữa hiệu quả kinh tế
và đảm bảo công bằng xã hội 64
3.1.3. Cần giải phóng triệt để mọi nguồn lực về đất đai, lao động, nguồn
vốn để tạo việc làm cho người lao động nói chung và việc làm cho
lao động nông thôn nói riêng 65
3.1.4. Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để người tao động tự tạo
việc làm là chính 65
3.2. Các giải pháp chủ yếu phát triển thị trường lao động ở khu vực nông
thôn Việt Nam 66

3.2.1. Các giải pháp chung 66
3.2.2. Các giải pháp về cung lao động 71
3.2.3. Các giải pháp về cầu lao động 76
KẾT LUẬN 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong chặng đường đầu của quá trình đổi mới 25 năm qua, đất nước ta
đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. Mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Người lao động với tư cách là nguồn lực
quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế, xã hội đã được tạo điều kiện thuận lợi
hơn để phát huy năng lực của mình, và chủ động tìm kiếm việc làm. Thực hiện
chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước và cả xã hội đã và đang nỗ
lực tạo nhiều việc làm cho người lao động. Tuy vậy, do tốc độ gia tăng nguồn
nhân lực quá cao và do những bất cập về thể chế, chính sách, vẫn còn một bộ
phận đáng kể người lao động thiếu hoặc không có việc làm - nhất là lực lượng
lao động ở khu vực nông thôn. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực
nông thôn mới đạt trên 70%. Tình trạng dư thừa lao động, thiếu việc làm ở
nông thôn đang là một trong những lực cản chính đối với công cuộc xoá đói
giảm nghèo, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, và là nguyên nhân sâu xa làm
phát sinh các vấn đề tiêu cực và tệ nạn xã hội. Trong khi đó địa bàn nông thôn
là nơi cư trú, sinh sống, làm ăn của một bộ phận lớn lao động và dân cư cả
nước. Nông thôn Việt Nam hiện nay chiếm tới 69,83% dân số và 72% lực
lượng lao động của cả nước (năm 2010). Do đó, việc nghiên cứu thị trường lao
động để tìm ra các giải pháp giải quyết vấn đề việc làm ở khu vực nông thôn
Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa rất cấp bách và thiết thực. Từ những lý do

trên, tác giả đã chọn đề tài: “ Thị trường lao động ở khu vực nông thôn Việt
Nam” làm luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề thị trường lao động cũng như vấn đề việc làm,
trong những năm đổi mới vừa qua, các nhà nghiên cứu nước ta đã có khá
nhiều bài viết và công trình được công bố. Ở đây, xin được điểm qua một số
công trình có liên quan đến hướng nghiên cứu của đề tài luận văn:
- "Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế nông
thôn - thực trạng và giải pháp", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005.

2
- Hoàng Ngọc Hòa: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội 2008.
- Lê Quang Phi: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn trong thời kỳ mới ”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2007.
- "Một số vấn đề về thị trường lao động", Nxb Khoa học và Kỹ thuật,
Hà Nội 2003.
- "Một số vấn đề phát triển thị trường lao động ở Việt Nam", Nxb Khoa
học và Kỹ thuật, Hà Nội 2003.
- "Một số vấn đề về lao động, việc làm và đời sống người lao động ở
Việt Nam hiện nay", Nxb Lao động, Hà Nội 2004.
- Nguyễn Sinh: “Nhìn lại nông nghiệp Việt Nam sau một năm vào Tổ
chức Thương mại Thế giới”, Tạp chí Cộng sản số 3 (2008).
- Phạm Đức Chính: “Thị trường lao động - cơ sở lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005.
- “Thị trường lao động Việt Nam - thực trạng và các giải pháp phát
triển", Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội 2003.
- "Việc làm ở nông thôn - thực trạng và giải pháp", Nxb Nông nghiệp,
Hà Nội 2001.

- "Vấn đề phân bổ và sử dụng nguồn lao động theo vùng và hướng giải
quyết việc làm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Nxb Thống kê, Hà Nội
2003…
Ngoài ra, còn nhiều bài viết và công trình nghiên cứu khác có bàn đến
thị trường lao động và vấn đề việc làm. Tuy nhiên, việc đi sâu nghiên cứu
những vấn đề mới nảy sinh về thị trường lao động giải quyết việc làm ở khu
vực nông thôn Việt Nam vẫn rất cần được tiếp tục.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích

3
Mục đích chính của luận văn là xây dựng hệ thống luận cứ khoa học để
từ đó đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản góp phần phát triển thị
trường lao động, giải quyết việc làm cho lực lượng lao động ở khu vực nông
thôn Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất, góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận về thị trường
lao động.
Thứ hai, cố gắng tập trung phản ánh thực trạng thị trường lao động và
vấn đề việc làm ở khu vực nông thôn Việt Nam trong những năm gần đây.
Thứ ba, đưa ra các quan điểm và các giải pháp cơ bản góp phần thúc
đẩy sự phát triển thị trường lao động ở khu vực nông thôn Việt Nam trong
giai đoạn 2011-2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thị trường lao động và vấn đề việc làm ở
khu vực nông thôn nước ta, chỉ ra những những nét đặc trưng của việc làm ở
nông thôn nước ta, qua đó đề xuất một số quan điểm giải quyết việc làm ở
nông thôn nước ta giai đoạn 2011 - 2020.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Địa bàn nông thôn nước ta.
- Về thời gian: Tập trung khảo sát từ thời kỳ đất nước đổi mới đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở những phương pháp chung của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn áp dụng những phương pháp cụ
thể phù hợp với đối tượng, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã xác định,
như lôgic và lịch sử, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp… và kế thừa các
kết quả nghiên cứu có liên quan đã được công bố.
6. Một số đóng góp chính của luận văn
Với mục đích và nhiệm vụ đã được xác định, luận văn có một số đóng
góp mới:

4
Một là, góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về thị
trường lao động.
Hai là, góp phần làm rõ thực trạng thị trường lao động và vấn đề việc làm
ở khu vực nông thôn Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp phát triển thị
trường lao động ở địa bàn này trong giai đoạn 2011-2020.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thị trường lao động.
Chương 2: Vấn đề việc làm nhìn dưới góc độ thị trường lao động ở
khu vực nông thôn Việt Nam trong những năm gần đây.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp phát triển thị trường lao động ở
khu vực nông thôn Việt Nam giai đoạn 2011-2010.


5
Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG

1.1. Sức lao động và hàng hóa sức lao động
1.1.1. Các quan điểm trước Mác về sức lao động và hàng hoá sức lao động
Trước Mác, đã có nhiều nhà kinh tế học bàn đến vấn đề sức lao động và
hàng hoá sức lao động:
Một trong những người đầu tiên đề cập đến vai trò của người lao động
là nhà kinh tế học cổ điển người Anh W.Petty (1623-1687). Là người đặt nền
móng cho lý thuyết giá trị - lao động, ông khẳng định lao động là cơ sở của
giá cả tự nhiên, lao động giữ vai trò chủ yếu trong việc tạo ra của cải cho xã
hội. W.Petty đưa ra nguyên lý nổi tiếng: Lao động là cha còn đất đai là mẹ
của mọi của cải.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của W.Petty, Adam Smith (1723-1790) -
nhân vật trung tâm của trường phái Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh, trong
cuốn: "Nguồn gốc của cải của các dân tộc - The Weath of Nations" (1776) đã
khẳng định: Lao động là nguồn gốc của của sự giầu có của các quốc gia và là
"thực thể" của giá trị hàng hoá. Ông cho rằng, không phải vàng bạc mà chính
là lao động trong một quốc gia mới là vốn liếng ban đầu và có khả năng tạo ra
mọi của cải cần thiết cho đời sống.
David Ricardo (1772-1823), đại biểu kiệt xuất của trường phái Kinh tế
chính trị tư sản cổ điển Anh, trong tác phẩm chủ yếu của ông “Nguyên lý kinh
tế chính trị và thuế khóa”, (1817), đã phê phán sai lầm của Adam Smith và
phát triển hơn nữa lý luận lao động tạo ra giá trị. D.Ricardo cho rằng lý luận
đó là cơ sở của toàn bộ khoa học kinh tế chính trị. Xuất phát từ lý luận lao
động tạo ra giá trị, ông đã nghiên cứu hầu hết các phạm trù cơ bản của kinh tế
chính trị như tư bản, tiền lương, lợi nhuận, địa tô… D.Ricardo đã tiến thêm
một bước so với lý luận giá trị của Adam Smith và vạch rõ, giá trị do lao động
của công nhân tạo ra là nguồn gốc của tiền lương, lợi nhuận và địa tô. Ông
nhận xét rằng, tiền lương và lợi nhuận là hai bộ phận của giá trị do lao động
tạo ra, từ đó rút ra kết luận: Tiền lương càng thấp thì lợi nhuận càng cao, tiền


6
lương càng cao thì lợi nhuận càng thấp. Tuy nhiên, ông đã sai lầm khi cho
rằng công nhân bán lao động cho nhà tư bản, chứ không phải bán sức lao
động, do đó không thể trình bày nguồn gốc của lợi nhuận trên cơ sở lý luận
lao động tạo ra giá trị. Ông đồng nhất giá trị với giá cả sản xuất, do đó không
thể trình bày sự không nhất trí trên thực tế giữa giá trị và giá cả sản xuất…
Như vậy, công lao quan trọng nhất của Kinh tế chính trị học tư sản cổ
điển là phát hiện ra lý luận giá trị lao động. Các đại biểu của nó đã xác định
rằng giá trị của hàng hóa được quyết định bởi lao động cần thiết để sản xuất
ra hàng hóa đó. Họ cũng nhận thấy rằng giá trị của hàng hóa cá biệt tỷ lệ
nghịch với năng suất lao động. Song, họ không nghiên cứu tính chất của lao
động đã tạo ra hàng hóa, không đặt vấn đề là sản phẩm của lao động mang
hình thức hàng hóa như thế nào và vì sao lại như vậy, mà chỉ giới hạn ở sự
phân tích lượng giá trị… Có thể nói, một trong những hạn chế lớn nhất của họ
là ở chỗ đã coi lao động là hàng hóa.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về sức lao động và hàng
hoá sức lao động
1.1.2.1. Khái niệm về sức lao động
C.Mác viết: “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những
năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người
đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị
sử dụng nào đó" [13, tr.251].
Trong khái niệm trên, C.Mác đã chỉ rõ sức lao động của con người
được cấu thành bởi hai bộ phận: thể chất và tinh thần. Hai bộ phận này thống
nhất trong một cơ thể sống. Trong đó sức lao động là yếu tố tiềm năng của
mỗi con người, nó phải được biểu hiện ra bên ngoài thông qua quá trình con
người tiến hành lao động sản xuất. Như vậy, sức lao động của mỗi con người
đang sống chỉ được người khác nhận biết khi nó tham gia sản xuất ra một giá
trị sử dụng nào đó. Còn lao động là "quá trình tiêu dùng sức lao động - quá

trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt
động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao
đổi chất giữa họ và tự nhiên" [13, tr.265-266]; nói cách khác, lao động là sự

7
vận dụng sức lao động, sự tiêu hao thể lực, trí lực, năng lực chuyên môn của
người lao động vào những mục đích nhất định, sản xuất ra những giá trị sử
dụng nhất định.
Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng đều là điều kiện chủ yếu
của sản xuất. Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ tác động đến
thiên nhiên xung quanh mình, mà còn phát triển kinh nghiệm sản xuất và kỹ
năng lao động của mình.
Lao động là quá trình hoạt động tự giác, hợp lý của con người, nhờ đó,
con người làm thay đổi các đối tượng tự nhiên và làm cho chúng thích ứng để
thỏa mãn nhu cầu của mình. Lao động là điều kiện đầu tiên và cơ bản của sự
tồn tại của con người, của cả xã hội loài người. Nhờ lao động, con người đã
tách khỏi thế giới động vật, đã có thể chế ngự lực lượng tự nhiên và bắt chúng
phục vụ lợi ích của mình, biết chế tạo công cụ lao động, có thể phát huy khả
năng và kiến thức của mình; tất cả những điều đó gộp lại đã quyết định sự
phát triển tiến bộ hơn nữa của xã hội. Quá trình lao động bao gồm ba yếu tố
chủ yếu: 1) hoạt động hợp lý của con người, nghĩa là chính bản thân lao động;
2) đối tượng lao động; 3) tư liệu lao động mà con người dùng để tác động đến
đối tượng lao động. Trong quá trình hoat động lao động để thu được tư liệu
sinh hoạt, con người bắt đầu có quan hệ sản xuất giữa họ với nhau. Tính chất
của lao động và hình thức kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất phụ thuộc
vào phương thức sản xuất chiếm địa vị thống trị. Như vậy, với những nội
dung và tính chất như đã trình bày, lao động không thể là thứ mang ra để mua
bán, nói cách khác, lao động không thể là hàng hóa.
Sức lao động và lao động có mối qua hệ chặt chẽ với nhau: sức lao
động là khả năng lao động tiềm ẩn trong bên trong người lao động, lao động

là quá trình hiện thực hoá sức lao động. Sức lao động là hàng hoá còn lao
động không phải là hàng hoá. Người công nhân bán sức lao động của mình
cho nhà tư bản chứ không phải là bán lao động. Sức lao động chỉ trở thành
hàng hoá trong những điều kiện nhất định.
Vậy điều kiện nào để sức lao động trở thành hàng hoá?
1.1.2.2. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá

8
Trong bất kỳ một hình thái kinh tế - xã hội nào thì sức lao động cũng là
điều kiện cơ bản của sản xuất, nhưng chỉ trong những điều kiện lịch sử nhất
định thì sức lao động mới trở thành hàng hoá. Những điều kiện đó là:
Thứ nhất: Người lao động phải được tự do về thân thể. Nghĩa là người
lao động phải có quyền sở hữu sức lao động của mình và có quyền đem bán
nó như một thứ hàng hoá đặc biệt. Mác viết: "Muốn cho người chủ sức lao
động ấy có thể bán được nó với tư cách hàng hoá thì người đó phải có khả
năng chi phối được sức lao động ấy, do đó người ấy phải là kẻ tự do sở hữu
năng lực lao động của mình, thân thể của mình" [13, tr.251]. Có như vậy
người chủ sở hữu sức lao động mới được bình đẳng về mặt pháp lý với người
chủ sở hữu tư liệu sản xuất để ký hợp đồng bán sức lao động của mình trong
một thời gian nhất định.
Thứ hai: Người lao động có sức lao động nhưng không có tư liệu
sản xuất hoặc các của cải khác, do đó để duy trì cuộc sống của mình
buộc họ phải đem bán sức lao động của mình cho người chủ sở hữu tư
liệu sản xuất.
Sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có đủ cả hai điều kiện trên ,vì
nếu người lao động được tự do về thân thể mà lại có tư liệu sản xuất trong tay
thì họ sẽ tự tiến hành sản xuất ra hàng hoá để bán chứ không bán sức lao động
của mình. Sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động đã đánh dấu một giai đoạn
mới trong sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Mác khẳng định: "Tư bản
chỉ phát sinh ở nơi nào mà người chủ những tư liệu sản xuất và tư liệu sinh

hoạt tìm thấy được người lao động tự do với tư cách là người bán sức lao
động của mình trên thị trường và chỉ một điều kiện lịch sử ấy cũng bao trùm
cả một lịch sử thế giới. Vì thế ngay từ lúc đầu mới xuất hiện, tư bản đã báo
hiệu một thời đại đặc biệt của quá trình sản xuất xã hội" [13, tr.255].
1.1.2.3. Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động
Cũng như các hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc
tính là giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị của hàng hoá sức lao động

9
Giá trị của hàng hoá sức lao động do số lượng lao động xã hội cần thiết
để sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Giá trị sức lao động được tính
bằng giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản
xuất ra sức lao động, để duy trì đời sống của người công nhân làm thuê và gia
đình anh ta. Nó bao gồm:
- Giá trị những tư liệu sinh hoạt để duy trì cuộc sống của bản thân
người lao động. Trong quá trình lao động người lao động phải hao phí một
lượng sức lực thần kinh, cơ bắp nhất định sự hao phí đó cần phải được bù
đắp lại để người công nhân tái sản xuất ra sức lao động của mình. Do đó
người công nhân phải tiêu dùng những tư liệu sinh hoạt cần thiết: lương thực,
thực phẩm, hàng tiêu dùng Và những nhu cầu về thức ăn, quần áo, nhà ở
cũng khác nhau ở từng vùng, từng nước trong từng thời kỳ. Mặt khác các nhu
cầu thiết yếu cũng như phương thức thoả mãn nhu cầu đó lại phụ thuộc phần
lớn vào trình độ văn minh của mỗi nước, phụ thuộc vào những thói quen ở
từng nơi mà người lao động sinh sống. Nghĩa là giá trị hàng hoá sức lao động
cồn bao hàm cả yếu tố lịch sử và tinh thần. Nhưng trong một nước nhất định,
trong một thời kỳ lịch sử nhất định thì số lượng tư liệu sinh hoạt trung bình
cần thiết cho người lao động là một đại lượng xác định.
- Giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết cho những người sẽ thay thế: Mỗi
người lao động chỉ có thể lao động trong một khoảng thời gian nhất định rồi

họ sẽ phải về hưu hay chết. Những sức lao động rút khỏi thị trường sức lao
động ấy cần phải được thường xuyên thay thế bằng những sức lao động mới.
Vì vậy tổng số tư liệu sinh hoạt cần thiết cho việc sản xuất và tái sản xuất ra
sức lao động còn bao gồm cả những tư liệu sinh hoạt cho những sức lao động
thay thế nó tức là cho con cái của người lao động.
- Chi phí đào tạo: Người lao động muốn trở thành một sức lao động và
đặc thù thì người đó phải có kiến thức, trình độ học vấn và những kỹ năng kỹ
xảo về một ngành nghề nhất định. Để có được điều đó thì người lao động phải
trải qua một quá trình đào tạo nhất định với một chi phí nhất định tuỳ theo
tính chất phức tạp của công việc. Do đó những chi phí ấy đều gia nhập vào
tổng số giá trị để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động.

10
- Ngoài ra, giá trị của hàng hoá sức lao động còn bao gồm giá trị của
các sản phẩm phục vụ đời sống tinh thần cho người lao động. Để tái sản xuất
ra sức lao động với chất lượng ngày càng cao thì người lao động không những
cần các tư liệu phục vụ đời sống vật chất mà còn cần các sản phẩm văn hoá
phục vụ đời sống tinh thần ngày càng phong phú.
Giá trị của hàng hoá sức lao động được biểu hiện ra dưới hình thức tiền
công. Nhưng chính hình thức tiền công lại "Xoá bỏ mọi vết tích phân chia
ngày lao động thành lao động cần thiết và lao động thặng dư, lao động được
trả công và lao động không công" [13, tr.761]. Chính điều này làm người ta
lầm tưởng toàn bộ ngày lao động của người công nhân đã được trả công. Như
vậy tiền công chính là giá cả của sức lao động. Có hai hình thức cơ bản của
tiền công là tiền công tính theo thời gian và tiền công tính theo sản phẩm.
Nhưng cho dù tính theo cách nào thì người lao động cũng chỉ nhận được sự
trả công cho phần lao động cần thiết, còn phần lao động thặng dư thì bị nhà tư
bản chiếm không.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động
Giá trị sử dụng của sức lao động là tính có ích của sức lao động có thể

thoả mãn một nhu cầu nào đó của người mua. Nói cách khác, giá trị sử dụng
của hàng hóa sức lao động là ở chỗ trong quá trình lao động, người công nhân
có thể tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị mà bản thân nó - có nghĩa là có thể
đem lại giá trị thặng dư, và đó là điều quan tâm chủ yếu của nhà tư bản. Nhà
tư bản muốn tiến hành sản xuất thì trước tiên phải mua được trên thị trường
hai yếu tố - đó là sức lao động và tư liệu sản xuất. Sau đó nhà tư bản sẽ tiến
hành kết hợp sức lao động của công nhân làm thuê với tư liệu sản suất trong
quá trình sản xuất để tạo ra các giá trị sử dụng, các hàng hoá. Chính vì vậy mà
giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ được thể hiện trong quá trình
sản xuất, là nguồn gốc sinh ra giá trị và giá trị thặng dư. Giá trị sử dụng của
hàng hoá sức lao động khác với giá trị sử dụng của hàng hoá thông thường ở
chỗ: "Cái có ý nghĩa quyết định là giá trị sử dụng đặc biệt của thứ hàng hoá
đó là cái đặc tính của nó là một nguồn sinh ra giá trị, hơn nữa lại sinh ra một

11
giá trị lớn hơn giá trị của chính bản thân nó. Đó là sự phục vụ đặc biệt mà nhà
tư bản mong chờ ở nó" [13, tr.289-290].
Giá trị sử dụng của sức lao động "chỉ thực sự được thực hiện, tức là chỉ
thật sự tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó khi sức lao động phải
được hoạt động trong những điều kiện bình thường" [13, tr.292-293]. Những
điều kiện đó là:
- Đảm bảo tính chất bình thường của những yếu tố vật chất tham gia
vào quá trình sản xuất: Tư liệu lao động, nguyên liệu, vật liệu đạt trình độ phổ
biến bình thường của xã hội.
- Bản thân sức lao động cũng phải là một sức lao động bình thường,
nghĩa là trong ngành chuyên môn mà sức lao động ấy được sử dụng thì sức
lao động ấy phải đạt một trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất định. Và vì vậy,
để nâng cao giá trị sử dụng của sức lao động, người công nhân cần phải được
đào tạo nâng cao tay nghề thường xuyên.
- Nguyên liệu và tư liệu lao động phải được tiêu dùng một cách hợp lý.

Nếu bị tiêu phí một cách bất hợp lý thì chúng sẽ không được tính đến và
không tham gia vào việc hình thành giá trị sản phẩm.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động là giá trị sử dụng đặc biệt,
trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn
giá trị của bản thân nó, phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị
thặng dư. Đó chính là đặc điểm riêng có của giá trị sử dụng của hàng hoá sức
lao động.
1.1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sức lao động
Sức lao động tồn tại bên trong người lao động và nó gồm hai mặt là số
lượng và chất lượng. Số lượng sức lao động biểu hiện ở tổng số những người
lao động và thời gian làm việc có thể được huy động. Chất lượng sức lao
động là trình độ chuyên môn, sức khoẻ của người lao động. Có nhiều yếu tố
ảnh hưởng đến số lượng, chất lượng sức lao động:
Các yếu tố ảnh hưởng đến số lượng sức lao động

12
- Dân số và tỷ lệ gia tăng dân số: Đây là yếu tố cơ bản quyết định số
lượng sức lao động. Quy mô và cơ cấu dân số có ý nghĩa quyết định đến quy
mô và cơ cấu sức lao động. Sự biến động về quy mô, cơ cấu dân số sẽ kéo
theo sự biến động về quy mô, cơ cấu sức lao động. Nếu dân số gia tăng với
tốc độ quá nhanh (như đối với các nước đang phát triển), hoặc quá chậm (như
đối với một số nước phát triển) thì sẽ gây ra hiện tượng dư thừa hoặc thiếu hụt
sức lao động, và do đó sẽ ảnh hưởng xấu tới quá trình phát triển kinh tế.
- Tỷ lệ tham gia của người lao động: Tỷ lệ tham gia của người lao động
là số phần trăm của dân số trong độ tuổi lao động tham gia lực lượng lao động
trong tổng số nguồn nhân lực. Nếu tỷ lệ này mà cao thì số lượng sức lao động
sẽ cao; ngược lại, số lượng sức lao động sẽ thấp khi tỷ lệ tham gia của người
lao động thấp.
- Thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp:
Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, trong lực lượng lao

động hiện đang chưa có việc làm nhưng mong muốn và đang tìm kiếm việc làm.
Số người thất nghiệp cao sẽ tạo gánh nặng đối với những người đang
có việc làm, làm giảm hiệu quả của các hoạt động kinh tế và các hoạt động xã
hội, làm giảm số lượng sức lao động. Thất nghiệp biểu hiện ở tỷ lệ thất
nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người thất nghiệp so với tổng số
người trong lực lượng lao động của xã hội.
Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sức lao động
- Giáo dục đào tạo: Giáo dục được coi là yếu tố quan trọng nhất cho sự
phát triển tiềm năng con người. Kết quả của giáo dục làm tăng chất lượng sức
lao động, thông qua đó tạo khả năng thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Vai trò của giáo dục đối với việc nâng cao chất lượng sức
lao động được đánh giá qua năng suất lao động của người lao động đã qua
đào tạo. Chính vì nhận thức được vai trò to lớn của giáo dục đào tạo nên Đảng
và Nhà nước ta đã coi giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu.

13
- Y tế: Sức khoẻ là yếu tố cơ bản cấu thành nên sức lao động. Người có
sức khoẻ tốt thì sẽ có một sức lao động tốt và sẽ có khả năng lao động tốt, tạo
ra một năng suất lao động cao. Để người lao động có được một sức khoẻ tốt
thì cần nhiều yếu tố, nhưng trong đó điều kiện chăm sóc về y tế tốt là một yếu
tố không thể thiếu. Vì vậy việc chăm sóc sức khoẻ cho người lao động cũng
như thế hệ sau của họ là việc làm cần được quan tâm thường xuyên.
- Điều kiện làm việc: Điều kiện làm việc tốt, thuận lợi cho người lao
động làm việc sẽ góp phần phát huy hết năng lực làm việc của người lao
động, và do đó hiệu quả công việc sẽ cao hơn. Mặt khác, khi điều kiện làm
việc tốt thì sẽ khiến người lao động được thoải mái về tinh thần, tích cực học
tập và rèn luyện để nâng cao trình độ của bản thân. Tạo mọi điều kiện làm
việc thuận lợi không chỉ là trách nhiệm của mỗi doanh nghiệp mà còn là trách
nhiệm của Nhà nước.

1.1.3. Quan điểm của các nhà kinh tế học tư sản về sức lao động và
hàng hoá sức lao động
Theo quan điểm của một số nhà kinh tế học tư sản hiện đại thì sức lao
động được coi là một trong những yếu tố đầu vào của hoạt động kinh tế, là
nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến việc sử dụng các nguồn lực khác. Chẳng
hạn, nhà kinh tế học hiện đại người Anh David Beng khẳng định vai trò của
lao động như là một nguồn lực của quá trình sản xuất. Vốn nhân lực là kết
quả của đầu tư trong quá khứ với mục đích tạo ra thu nhập trong tương lai.
Ông định nghĩa: "Vốn nhân lực là toàn bộ trình độ chuyên môn mà một người
lao động tích luỹ được. Nó được đánh giá cao vì có tiềm năng đem lại thu
nhập trong tương lai" [3, tr.1]. Hiện nay, lý thuyết phát triển kinh tế hiện đại
cho rằng vai trò của kinh tế tri thức gắn liền với khoa học - công nghệ và
nguồn lao động chất lượng cao là nhân tố cơ bản của sự phát triển. Đồng thời
trình độ phát triển kinh tế - xã hội như: cơ cấu kinh tế, trình độ phát triển khoa
học công nghệ, giáo dục đào tạo, chính sách tiền lương cũng ảnh hưởng lớn
đến việc phát triển và sử dụng sức lao động.
Theo kết quả nghiên cứu của các học giả tư sản hiện đại, và cũng đã
được những người đi tiên phong trong nghiên cứu về kinh tế tri thức ở Việt

14
Nam tán thành, thì nền kinh tế tri thức - một hướng phát triển mới nhất của
thế giới ngày nay, có một đặc trưng nổi bật là dựa chủ yếu vào nguồn nhân
lực được đào tạo tốt, có năng lực sáng tạo, không ngừng học tập, nâng cao
kiến thức và kỹ năng.
Để phát triển kinh tế tri thức, phải có lực lượng lao động được đào tạo
tốt, có đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết về lĩnh vực chuyên môn; đồng thời
có khả năng thích nghi với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công
nghệ, dễ dàng chuyển sang những ngành nghề mới. Tăng năng suất lao động,
hiệu quả kinh tế, tạo ra giá trị gia tăng mới của nền kinh tế chủ yếu là do đội
ngũ nhân lực này.

Lực lượng công nhân tri thức tăng nhanh - đó là những người làm việc
bằng trí óc để trực tiếp làm ra sản phẩm, như những lập trình viên, những nhà
thiết kế công nghệ, thiết kế sản phẩm trên máy tính, những người điều khiển
máy móc đòi hỏi có trình độ tri thức ngày càng cao… Trong các ngành dịch
vụ dựa vào công nghệ cao, phần lớn những người lao động là công nhân tri
thức. Hiện nay, ở các nước OECD, công nhân tri thức chiếm khoảng 45-55%
lực lượng lao động…
1.2. Thị trường lao động
1.2.1. Những quan niệm khác nhau về thị trường lao động
1.2.1.1. Các ý kiến xung quanh vấn đề "Thị trường lao động" và "Thị
trường sức lao động"
Khi nghiên cứu về thị trường lao động, chúng ta thường gặp hai thuật
ngữ "Thị trường lao động" và "Thị trường sức lao động". Một số nhà nghiên
cứu sử dụng thuật ngữ “ Thị trường lao động”, nhưng một số nhà nghiên cứu
khác lại sử dụng thuật ngữ “Thị trường sức lao động”. Các nhà kinh tế sử
dụng một trong hai thuật ngữ trên vì còn có sự khác nhau trong quan niệm về
thực chất của loại thị trường này.
- Sự khác nhau nói trên xuất phát từ vấn đề là trên thị trường lao động
có sự mua bán lao động hay mua bán sức lao động. Ở đây cũng có hai ý kiến
khác nhau:

15
- Các nhà nghiên cứu theo lý thuyết kinh tế thị trường của chủ nghĩa
Mác thì cho rằng trên thị trường lao động chỉ có mua, bán sức lao động. Các
nhà nghiên cứu này đã dựa vào lý luận của Mác về sức lao động và hàng hoá
sức lao động để giải thích cho lập luận của mình. Như ta đã biết, Mác đã chỉ
ra hai điều kiện cơ bản để sức lao động trở thành hàng hoá là:
+ Người lao động phải được tự do về thân thể. Nghĩa là người lao động
phải có quyền sở hữu sức lao động của mình và có quyền đem bán nó như
một thứ hàng hoá đặc biệt. Có như vậy người chủ sở hữu sức lao động mới

được bình đẳng về mặt pháp lý với người chủ sở hữu tư liệu sản xuất để ký
hợp đồng bán sức lao động của mình trong một thời gian nhất định.
+ Người lao động có sức lao động nhưng không có tư liệu sản xuất
hoặc các của cải khác, do đó để duy trì cuộc sống của mình buộc họ phải đem
bán sức lao động của mình cho người chủ sở hữu tư liệu sản xuất.
Như vậy, sức lao động trở thành hàng hoá, và cái mà người ta mua, bán
trên thị trường ở đây là hàng hoá sức lao động. Vì vậy thị trường này là thị
trường sức lao động.
Nhưng giữa sức lao động và lao động có mối liên hệ với nhau và lao
động có phải là hàng hoá hay không? C.Mác cũng đã đề cập mối quan hệ giữa
hai khái niệm "sức lao động", và "lao động". C.Mác cho rằng sức lao động
được hiểu là tổng hợp toàn bộ thể lực, trí lực của con người nó nói lên khả
năng có lao động; còn lao động là hoạt động có mục đích của con người, là sự
tiêu dùng sức lao động trong quá trình lao động. Hai khái niệm này khác
nhau, nhưng có mối liên hệ với nhau. Vì lao đông không thể trở thành hiện
thực nếu không có sức lao động và muốn sức lao động được thực hiện, thì
phải có lao động (quá trình kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất để tạo ra
sản phẩm).
C.Mác cho rằng lao động chỉ xuất hiện sau khi tiến hành mua, bán sức
lao động trên thị thị trường thông qua hoạt động mua, bán sức lao động. Do
đó cái mà người lao động bán cho người sử dụng lao động là sức lao động
chứ không phải là lao động. Người công nhân không bán cái gì mà anh ta

16
không có. Vì trên thị trường tiến hành mua bán sức lao động cho nên sử dụng
thuật ngữ “Thị trường sức lao động”.
- Một số nhà kinh tế theo lý thuyết kinh tế thị trường hiện đại cũng
đồng tình với quan điểm nói trên của các nhà kinh tế theo lý thuyết kinh tế thị
trường của chủ nghĩa Mác, nhưng họ cho rằng quan niệm đó đúng với thời kỳ
bình minh của nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Họ đưa ra lập luận rằng

ngôn ngữ kinh tế học đôi khi có nhiều nghĩa. Thuật ngữ "lao động" không
phải chỉ có nghĩa là những hoạt động có mục đích của con người, mà nó còn
có nghĩa công việc hay là việc làm. Việc làm là một thứ có thể mua, bán được.
Do đó họ đưa ra quan niệm việc làm là công việc được đổi lấy tiền công. Và
vì vậy theo họ sử dụng thuật ngữ "Thị trường lao động" là phù hợp.
- Theo suy nghĩ của tác giả luận văn này, gọi là “ Thị trường lao
động” hay “ Thị trường sức lao động” chỉ đơn giản khác nhau về vấn đề
quan niệm học thuật. Tác giả luận văn ủng hộ cách gọi là “Thị trường
lao động”. Cách gọi này phù hợp với bối cảnh tăng cường mở rộng hợp
tác giao lưu về mọi mặt giữa nước ta và các nước trên thế giới.
1.2.1.2. Khái niệm thị trường lao động
Thị trường lao động là một trong những thị trường quan trọng và cơ
bản của nền kinh tế thị trường. Phát triển thị trường lao động là một tất yếu
khách quan nhằm phân bố và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực theo cung-
cầu và giá cả lao động của thị trường, thu hút đầu tư, tạo động lực nâng cao
năng suất lao động xã hội, tạo nhiều việc làm, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội đất nước.
Trên thế giới và ở nước ta, khái niệm thị trường lao động được nhiều
nhà khoa học nghiên cứu, đề cập và giải quyết bằng nhiều cách khác nhau tuỳ
theo cách tiếp cận khác nhau:
- Theo A dam Smith: Thị trường lao động là không gian trao đổi dịch vụ
lao động giữa một bên là người mua sức lao động và một bên là người bán sức
lao động. Với khái niệm này thì đối tượng trao đổi là dịch vụ lao động.

17
- Theo Từ điển kinh tế học Pengiun: Thị trường lao động là thị trường
trong đó tiền công, tiền lương và các điều kiện lao động được xác định trong
bối cảnh quan hệ của cung lao động và cầu lao động.
- Theo Từ điển kinh tế: Thị trường lao động là nơi cung và cầu sức lao
động tác động qua lại với nhau. Khái niệm này đã nhấn mạnh quan hệ cung -

cầu như các loại thị trường khác.
Các nhà khoa học kinh tế Việt Nam cũng đưa ra nhiều khái niệm về thị
trường lao động:
+ "Thị trường sức lao động là nơi thực hiện các quan hệ xã hội giữa
người bán sức lao động (người lao động làm thuê) và người mua sức lao động
(người sử dụng sức lao động) thông qua các hình thức thoả thuận về giá cả
(tiền công) và các điều kiện làm việc khác trên cơ sở một hợp đồng lao động
bằng văn bản, bằng miệng hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay thoả thuận
khác" [12, tr.11].
+ "Thị trường sức lao động biểu hiện mối quan hệ giữa một bên là
người có sức lao động và bên kia là người sử dụng sức lao động nhằm xác
định số lượng và chất lượng lao động sẽ đem ra trao đổi và mức thù lao tương
ứng [9, tr.7].
+ "Thị trường sức lao động là thị trường mua bán các dịch vụ của người
lao động. Về thực chất là mua bán sức lao động trong một phạm vi nhất
định " [5, tr.165-166].
Trên đây là một vài khái niệm về thị trường lao động. Ở mỗi khái niệm
đều biểu hiện những mặt khác nhau của vấn đề nhưng nhìn chung đều toát lên
một yếu tố cơ bản để xác định loại thị trường này, đó là các quan hệ giữa
người mua sức lao động và người bán sức lao động. Chúng ta nêu ra một vài
khái niệm đó với mục đích là làm rõ tính phức tạp của chính khái niệm và tính
đặc thù của loại thì trường này. Nó có tính đặc thù bởi nó biểu hiện phần lớn
những quan hệ kinh tế - xã hội và nó chịu nhiều ảnh hưởng của yếu tố chủ
quan và khách quan. Chúng ta có thể tóm lược nội dung của các khái niệm
trên thành một khái niệm tương đối về thị trường lao động, như sau:
Thị trường lao động là nơi thực hiện các quan hệ xã hội giữa người
bán sức lao động và người mua sức lao động, thông qua các hình thức thoả

18
thuận về tiền công hay tiền lương và các điều kiện làm việc khác, trên cơ sở

một hợp đồng lao động bằng văn bản, bằng miệng, hoặc thông qua các dạng
hợp đồng hay thoả thuận khác.
1.2.1.3. Bản chất của thị trường lao động
Thị trường - đó là một khái niệm tổng hợp và nó được phân chia làm
nhiều loại: Thị trường hàng hoá, thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán,
thị trường lao động Mỗi loại thị trường đều có đối tượng mua bán riêng của
nó. Thị trường lao động cũng được xác định như vậy. Đối tượng mua bán của
thị trường lao động là gì? Đó là một câu hỏi không đơn giản. Một nhóm các
nhà kinh tế cho rằng trên thị trường lao động người ta mua bán “Lao động”;
nhóm khác lại cho rằng trên thị trường lao động người ta mua bán dịch vụ lao
động; các nhà nghiên cứu theo lý thuyết kinh tế thị trường của C.Mác thì cho
rằng trên thị trường chỉ có mua và bán sức lao động. Trong quan niệm trên,
quan niệm nào là đúng đắn và khoa học? Tôi xin phép bày tỏ quan điểm của
mình bằng cách sử dụng phương pháp phân tích biện chứng, phủ định biện
chứng của C.Mác để đưa ra quan điểm của mình:
Quan niệm 1: Đối tượng mua bán của thị trường lao động là lao động.
Với quan niệm này thì lao động được coi là hàng hoá: nó có giá cả, giá trị và
giá trị sử dụng. Nếu nói lao động là hàng hoá thì nó phải có trước, phải được
vật hoá trong một hình thức cụ thể nào đó. Mà tiền đề để lao động có thể vật
hoá được là phải có tư liệu sản xuất. Nếu người lao động có tư liệu sản xuất
thì họ sẽ bán hàng hoá do mình sản xuất ra chứ không bán "lao động".
Là hàng hoá thì lao động phải có giá trị. Nhưng lao động là thực thể và
là thước đo của giá trị, bản thân lao động không có giá trị. Hơn nữa, khi thực
hiện giá trị của hàng hoá thì giá trị sử dụng của nó được chuyển giao cho
người mua - nghĩa là giá trị sử dụng được thực hiện sau khi đã thực hiện giá
trị. Trong quá trình lao động thì không thể phân biệt cái nào thực hiện trước
cái nào, do đó lao động không phải là hàng hoá và trên thị trường lao động
người ta không thể bán lao động.
Quan niệm 2: Quan niệm của các nhà kinh tế học theo C.Mác: Đối
tượng được mua, bán trên thị trường lao động là sức lao động. Nghĩa là sức


19
lao động là hàng hoá có giá trị và giá trị sử dụng và nó có giá cả. Giá trị của
sức lao động được xác định bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt để nuôi
sống người lao động, còn giá trị sử dụng của chúng là tính có ích của sức lao
động trong việc tạo ra giá trị và giá trị mới. Biểu hiện ra bên ngoài của giá trị
sức lao động là giá cả hay chính là tiền công mà người mua trả cho người bán
khi đã thoả thuận xong hợp đồng lao động. Khi mua và bán, giá trị của hàng
hoá được thanh toán còn giá trị sử dụng được trưng tập, mặt hàng đó được
chuyển cho người mua.
Ở đây, người lao động chỉ bán sức lao động của mình trong một thời
gian nhất định cho người mua. Nghĩa là người lao động chỉ nhượng lại quyền
sử dụng sức lao động của mình cho người mua, sức lao động của người lao
động không hề bị tách rời khỏi người lao động. Đây là một đặc điểm đặc biệt
của hàng hoá sức lao động.
Như vậy đối tượng mua bán trên thị trường lao động là sức lao động
chứ không phải lao động. Chỉ có sức lao động mới là đối tượng được mua bán
trên thị trường.
1.2.1.4. Điều kiện hình thành thị trường lao động
Thị trường lao động chỉ có thể hình thành và phát triển ở mỗi quốc gia
khi ở quốc gia đó đảm bảo được các điều kiện sau:
- Có nền kinh tế hàng hoá phát triển theo cơ chế thị trường.
- Có các điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá.
- Có định chế pháp luật cho phép tồn tại thị trường lao động, trong đó
người chủ sở hữu tư liệu sản xuất có quyền tự do mua sức lao động, còn
người lao động có quyền sở hữu sức lao động của mình, có quyền đem bán
sức lao động của mình như một hàng hoá.
- Có hệ thống thể chế thị trường lao động thích hợp để giải quyết các
nhu cầu và quan hệ phát sinh trên thị trường này như: Hệ thống các cơ quan,
tổ chức dịch vụ việc làm, hệ thống thông tin về thị trường lao động, các

trường dạy nghề cho người lao động

20
Ở nước ta hiện nay cũng đang từng bước hình thành và hoàn thiện thị
trường lao động; nhưng quy mô của thị trường còn nhỏ, trình độ phát triển
của thị trường còn thấp chưa tương xứng với yêu cầu của nền kinh tế. Nhà
nước ta đã và đang đưa ra nhiều biện pháp phát triển thị trường đặc biệt này
nhằm giải quyết tốt hơn nhu cầu việc làm cho người lao đông. Trong Điều 10
Bộ Luật Lao động sửa đổi, bổ sung năm 2002 của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có ghi: "Nhà nước thống nhất quản lý nguồn nhân lực và
quản lý lao động bằng pháp luật và có chính sách để phát triển, phân bố
nguồn nhân lực, phát triển đa dạng các hình thức sử dụng lao động và giới
thiệu việc làm" [22, tr.11].
1.2.1.5. Đặc điểm của thị trường lao động
Hàng hoá trao đổi trên thị trường lao động là loại hàng đặc biệt: Trên
thị trường lao động, hàng hoá được đem ra trao đổi là sức lao động. Đây là
loại hàng hoá đặc biệt. Tính đặc biệt của loại hàng hoá này được thể hiện qua
những đặc điểm sau:
+ Khác với các loại hàng hoá thông thường, hàng hoá sức lao động
luôn gắn chặt với chủ thể mang nó. Xét cả về mặt số lượng và chất lượng,
hàng hoá sức lao động phụ thuộc trực tiếp và hoàn toàn vào bản thân người
mang hàng hoá này.
+ Dù hàng hoá sức lao động đã được mang ra thị trường trao đổi hay
chưa thì nó vẫn đòi hỏi được cung cấp những điều kiện vật chất và tinh thần
nhất định để tồn tại và phát triển.
+ Xét về mặt giá trị và giá trị sử dụng thì hàng hoá sức lao động cũng
có điểm khác biệt so với các hàng hoá thông thường:
Giá trị của hàng hoá sức lao động được đo bằng thời gian lao động xã
hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống
người công nhân cùng gia đình anh ta,và những chi phí đào tạo để người công

nhân có được một tay nghề nhất định.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động khác các hàng hoá thông
thường ở chỗ nó có khả năng tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của

21
bản thân nó, đó là giá trị thặng dư. Đối với những hàng hoá thông thường thì
giá trị và giá trị sử dụng của nó sẽ giảm dần trong quá trình sử dụng, còn đối
với hàng hoá sức lao động thì giá trị sử dụng sẽ ngày càng tăng cao cùng với
quá trình sử dụng. Sở dĩ như vậy là do người lao động càng làm việc lâu thì
trình độ tay nghề của họ ngày càng tăng, sản phẩm của họ làm ra chất lượng
ngày càng cao, số lượng ngày càng tăng.
Tính đa dạng của thị trường lao động:
- Trên thực tế có nhiều dạng thị trường lao động khác nhau tuỳ thuộc
vào các tiêu chí được dùng để phân loại. Xét từ góc độ pháp lý có thị trường
lao động hợp pháp và thị trường lao động bất hợp pháp; dưới góc độ quản lý
có thị thị trường lao động tự do và thị trường lao động có sự kiểm soát của
nhà nước; dưới góc độ hình thức tổ chức, có thị trường lao động tập trung và
thị trường lao động phi tập trung. Tuy nhiên, có hai tiêu chí thường được sử
dụng nhất đó là dựa trên trình độ, khả năng của người lao động và dựa vào
phạm vi địa lý.
Nếu dựa trên trình độ, khả năng của người lao động thì thị trường lao
động được chia thành thị trường lao động giản đơn và thị trường lao động đã
qua đào tạo.
Nếu dựa vào phạm vi địa lý thì thị trường lao động được chia thành thị
trường lao động địa phương và thị trường lao động toàn quốc; thị trường lao
động trong nước và thị trường lao động khu vực và quốc tế.
+ Tính không đồng nhất của hàng hoá sức lao động trên thị trường
lao động:
Hàng hoá thông thường là những loại hàng hoá được chuẩn hoá ở mức
cao, còn hàng hoá sức lao động hoàn toàn không giống nhau ở mỗi người lao

động. Mỗi người lao động là một tập hợp các năng lực bẩm sinh cộng với các
kỹ năng cá biệt tiếp thu được từ giáo dục đào tạo, từ môi trường sống xung
quanh và tích lũy được qua quá trình lao động. Mỗi người lao động đều có
đặc điểm riêng về tuổi tác, khả năng, trình độ, chính vì thế mà sức lao động
của họ không giống nhau khi đem ra trao đổi trên thị trường lao động.

×