Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Đánh giá tiềm năng sản xuất sạch hơn tại cụm công nghiệp Cơ khí đúc Tống Xá, xã Yên Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 74 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được rất nhiều sự giúp đỡ tận tình từ các thầy cô giáo trong Khoa Tài nguyên và
Môi trường và các cán bộ của xã Yên Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu
trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Khoa Tài nguyên và Môi trường, Bộ
môn Quản lý môi trường; cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đã truyền đạt cho tôi
những kiến thức và những kinh nghiệm quý báu trong suốt quá trình học tập
và nghiên cứu trên giảng đường đại học vừa qua.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới Th.S Cao Trường Sơn-
người đã dành nhiều thời gian, tạo điều kiện thuận lợi, hướng dẫn tôi tận tình
về phương pháp nghiên cứu và cách thức thực hiện các nội dung của đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cán bộ của xã Yên Xá, huyện Ý Yên,
tỉnh Nam Định đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện thực tập, cung cấp thông
tin, số liệu cần thiết phục vụ cho quá trình thực hiện và hoàn thiện đề tài này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới tập thể lớp MTB – K54, gia đình
và bạn bè đã luôn giúp đỡ, chia sẻ, động viên và khích lệ tôi trong suốt thời
gian học tập và rèn luyện tại trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
Trong quá trình thực hiện đề tài, do điều kiện về thời gian, tài chính và
trình độ nghiên cứu của bản thân còn nhiều hạn chế nên khi thực hiện đề tài
khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự quan tâm
đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn để Khóa luận tốt nghiệp này
được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày … tháng năm 2012
Sv. Ninh Thị Lành
i
MỤC LỤC
PHẦN 5 57
KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ 57
5.1. Kết luận: 57


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt : Diễn giải
BTNMT : Bộ Tài nguyên Môi trường
BVMT : Bảo vệ môi trường
CCN : Cụm công nghiệp
CKĐ : Cơ khí - đúc
CT.TNHH : Công ty trách nhiệm hữu hạn
DN : Doanh nghiệp
GDP : Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm quốc nội)
QCVN : Quy chuẩn Việt Nam
SXSH : Sản xuất sạch hơn
TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
Thuế GTGT : Thuế giá trị gia tăng
UBND : Ủy ban Nhân dân
UNDP : A. United Nations Development Programme
(Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc)
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Đặc trưng ô nhiễm từ sản xuất của một số loại hình làng nghề
Error: Reference source not found
Bảng 2.2. Thải lượng ô nhiễm do đốt than tại làng nghề tái chế Error:
Reference source not found
Bảng 4.1. Thống kê số thành viên và doanh thu của Hiệp hội CKĐ Error:
Reference source not found
của huyện Ý Yên Error: Reference source not found
Bảng 4.2. Danh sách tên, diện tích các cơ sở sản xuất tại CCN CKĐ Tống Xá
Error: Reference source not found
Bảng 4.3. Danh sách thiết bị, máy móc sử dụng của các cơ sở của Error:
Reference source not found
CCN CKĐ Tống Xá Error: Reference source not found

Bảng 4.4. Nguyên liệu sản xuất trung bình năm của cơ sở trong CCN CKĐ
Tống Xá Error: Reference source not found
Bảng 4.5. Cân bằng vật chất cho cả quy trình sản xuất CCN CKĐ Tống Xá
trong một năm 37
Bảng 4.6. Đặc trưng nước thải của CCN CKĐ Tống Xá, Yên Xá, Ý Yên, Nam Định
Error: Reference source not found
Bảng 4.7. Chi phí bên trong của cả CCN trong một năm. .Error: Reference source
not found
Bảng 4.8. Chi phí bên ngoài của cả CCN trong một năm Error: Reference
source not found
iii
Bảng 4.9. Xác định nguyên nhân dòng thải Error: Reference source not found
Bảng 4.10. Các cơ hội sản xuất sạch hơn của CCN CKĐ Tống Xá Error:
Reference source not found
Bảng 4.11. Bảng sàng lọc các cơ hội sản xuất sạch hơn Error: Reference
source not found
Bảng 4.12. Bảng tính NPV, IRR, PB khi xây dựng hệ thống tuần hoàn nước
Error: Reference source not found
Bảng 4.13. Bảng tính NPV, IRR, PB khi sử dụng lò ủ nhiệt bằng điện Error:
Reference source not found
iv
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1. Phân loại làng nghề Việt Nam theo ngành nghề sản xuất Error:
Reference source not found
Hình 2.2. Hàm lượng bụi trong không khí làng nghề tái chế nhựa Error:
Reference source not found
Hình 4.1. Tình hình sử dụng đất của các cơ sở sản xuất Error: Reference
source not found
Hình 4.2: Quy trình sản xuất của CCN CKĐ Tống Xá.Error: Reference source
not found

Hình 4.3: Sơ đồ quá trình gia công (xưởng cơ khí) Error: Reference source not
found
Hình 4.4. Sơ đồ dòng quy trình sản xuất của CCN CKĐ Tống Xá 38
v
vi
PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1.Tính cấp thiết của đề tài
Các làng nghề truyền thống ở Việt Nam đã và đang có nhiều đóng góp
cho GDP của đất nước nói chung và đối với nền kinh tế nông thôn nói riêng.
Nhiều làng nghề truyền thống hiện nay đã được khôi phục, đầu tư phát triển
với quy mô và kỹ thuật cao hơn, hàng hóa không những phục vụ nhu cầu
trong nước mà còn cho xuất khẩu với giá trị lớn.
Tuy nhiên, một trong những thách thức đang đặt ra đối với các làng
nghề là vấn đề môi trường và sức khỏe của người lao động, của cộng đồng
dân cư đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng từ hoạt động sản xuất của các làng
nghề.
Những năm gần đây, vấn đề này đang thu hút sự quan tâm của Nhà
nước cũng như các nhà khoa học nhằm tìm ra các giải pháp hữu hiệu cho sự
phát triển bền vững các làng nghề. Đã có nhiều làng nghề thay đổi phương
thức sản xuất cũng như quản lý môi trường và thu được hiệu quả đáng kể.
Song đối với không ít làng nghề, sản xuất vẫn đang tăng về quy mô, còn môi
trường ngày càng ô nhiễm trầm trọng.
Để quản lý chất thải làng nghề đã có nhiều biện pháp khác nhau, tuy
nhiên sản xuất sạch hơn vẫn được xem là biện pháp có hiệu quả và đem lại
nhiều lợi ích nhất. Sản xuất sạch hơn giúp tiết kiệm năng lượng và tài nguyên,
giảm chất thải và ô nhiễm, thậm chí loại bỏ các dòng chất thải và hiệu suất
tiêu thụ nguyên liệu tiến tới 100%.
Nam Định là một trong những tỉnh thành đang rất phát triển trên cả
nước với sự xuất hiện của nhiều làng nghề, trong đó phải kể đến làng nghề

CKĐ Tống Xá (xã Yên Xá, huyện Ý Yên) có truyền thống gần 900 năm với
các sản phẩm đúc chủ yếu là các đồ gia dụng, các chi tiết phụ tùng máy, …
Làng nghề phát triển kèm theo các vấn đề môi trường đang đe doạ cuộc sống
1
nơi đây, hơi độc từ các lò nấu kim loại và nhiệt luyện, khí, bụi trong quá trình
gia công, làm sạch sản phẩm, đặc biệt, nước thải chứa kim loại, hoá chất từ
các lò đúc chưa được xử lý đều xả thẳng ra không khí, đất, nước,… Từ thực
trạng hoạt động tại làng nghề cho thấy, nếu muốn làng nghề được duy trì phát
triển bền vững và hiệu quả thì nhất thiết phải có các biện pháp khắc phục tình
trạng ô nhiễm môi trường. Để quản lý làng nghề tốt hơn, làng nghề Tống Xá đã
quy hoạch thành CCN gồm CCN 1 và CCN 2. Cụm 1 thành lập năm 1993 với
tổng diện tích là 20.148,5 m
2
gồm 14 công ty và DN, 10 hộ gia đình và có một
mảnh đất đang tranh chấp. Cụm 2 thành lập năm 2004 với tổng diện tích là
21.577 m
2
gồm 20 công ty và DN, 4 hộ gia đình (UBND xã Yên Xá, 2012).
CCN CKĐ Tống Xá là một trong những nơi đã áp dụng quy trình sản
xuất sạch hơn vào quá trình sản xuất nhằm tiết kiệm nguyên nhiên liệu và
giảm tác động xấu tới môi trường. Để đánh giá các lợi ích đạt được khi áp
dụng sản xuất sạch hơn vào quy trình sản xuất, tôi xin tiến hành đề tài:
“Đánh giá tiềm năng sản xuất sạch hơn tại cụm công nghiệp Cơ khí- đúc
Tống Xá, xã Yên Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định”.
1.2.Mục đích, yêu cầu
 Mục đích
- Đánh giá hiện trạng sản xuất của CCN CKĐ Tống Xá, Yên Xá, Ý
Yên, Nam Định.
- Xác định và đánh giá tiềm năng SXSH tại CCN CKĐ Tống Xá, Yên
Xá, Ý Yên, Nam Định.

- Đề xuất một số biện pháp SXSH cho CCN CKĐ Tống Xá, Yên Xá, Ý
Yên, Nam Định.
 Yêu cầu
- Các nội dung nghiên cứu phải đáp ứng được các mục tiêu đề ra của đề tài.
- Các số liệu, kết quả phải trung thực, chính xác, khoa học.
2
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan về làng nghề Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Làng nghề là một trong những đặc thù của nông thôn Việt Nam. Nhiều sản
phẩm được sản xuất trực tiếp tại các làng nghề đã trở thành thương phẩm trao đổi,
góp phần cải thiện đời sống gia đình và tận dụng những lao động dư thừa lúc nông
nhàn. Đa số các làng nghề đã trải qua lịch sử phát triển hàng trăm năm, song song
với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa và nông nghiệp của đất nước. Ví
dụ, như làng đúc đồng Đại Bái (Bắc Ninh) với hơn 900 năm phát triển, làng nghề
gốm Bát Tràng (Hà Nội) có gần 500 năm tồn tại, nghề chạm bạc ở Đồng Xâm
(Thái Bình) hay nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước (Thành phố Đà Nẵng) cũng
đã hình thành cách đây hơn 400 năm, … (Báo cáo môi trường quốc gia 2008).
Trong vài năm gần đây, làng nghề đang thay đổi nhanh chóng theo nền
kinh tế thị trường, các hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp phục vụ tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu được tạo điều kiện phát triển. Qúa trình công
nghiệp hóa cùng với việc áp dụng các chính sách khuyến khích phát triển
ngành nghề nông thôn, thúc đẩy sản xuất tại các làng nghề đã làm tăng mức
thu nhập bình quân của người dân nông thôn, các công nghệ mới đang ngày
càng được áp dụng phổ biến. Các làng nghề mới và các cụm làng nghề không
ngừng được khuyến khích phát triển nhằm đạt được sự tăng trưởng, tạo công
ăn việc làm và thu nhập ổn định ở khu vực nông thôn.
Do ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau như vị trí địa lý, đặc điểm tự
nhiên, mật độ phân bố dân cư, điều kiện xã hội và truyền thống lịch sử, sự

phân bố và phát triển làng nghề giữa các vùng của nước ta là không đồng đều,
thông thường tập trung ở những khu vực nông thôn đông dân cư nhưng ít đất
sản xuất nông nghiệp, nhiều lao động dư thừa lúc nông nhàn.
3
2.1.2. Đặc điểm chung của các làng nghề Việt Nam
Theo thống kê của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, đến năm 2011, nước
ta có 2.790 làng nghề, riêng ở Hà Nội có 1.160 làng nghề. Làng nghề nước ta
phân bố tập trung chủ yếu tại đồng bằng sông Hồng (chiếm khoảng 60%),
miền Trung (khoảng 30%) và miền Nam (khoảng 10%). Sự phát triển của
làng nghề đang góp phần đáng kể trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các địa
phương. Tại nhiều làng nghề, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ đạt từ
60% - 80% và ngành nông nghiệp chỉ đạt 20% - 40% (Nguyễn Văn Hiến,
2012).
Nhìn chung, làng nghề Việt Nam có một số đặc điểm chung sau:
* Nguyên liệu cho sản xuất.
Hầu hết các nguồn nguyên liệu vẫn lấy từ trực tiếp từ tự nhiên. Do sự
phát triển mạnh mẽ của sản xuất, việc khai thác và cung ứng các nguyên liệu
tại chỗ hay các vùng khác trong nước đang dần bị hạn chế. Các làng nghề chế
biến gỗ, mây tre đan trong những năm qua đòi hỏi cung cấp một khối lượng
nguyên liệu rất lớn, đặc biệt là các loại gỗ quý dùng cho sản xuất đồ gỗ gia
dụng và gỗ mỹ nghệ. Nhiều nguyên liệu chúng ta đã phải nhập từ một số nước
khác. Ví dụ, theo thống kê, làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ (Bắc Ninh),
hiện mỗi năm các hộ gia đình, cơ sở chế biến sử dụng khoảng 34.000m
3
gỗ
(Minh Huệ, 2013).
Sự khai thác bừa bãi, không có kế hoạch đã làm cạn kiệt tài nguyên và gây ảnh
hưởng tới môi trường sinh thái. Việc sơ chế các nguyên liệu chủ yếu do các hộ, các cơ sở
sản xuất tự làm với kỹ thuật thủ công hoặc các máy móc thiết bị tự chế lạc hậu. Do đó,
chưa khai thác hết hiệu quả của các nguyên liệu, gây lãng phí tài nguyên.

* Công nghệ, thiết bị và cơ sở hạ tầng sản xuất.
Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới, nhiều
làng nghề đã áp dụng công nghệ mới, thay thế máy móc mới, hiện đại. Ví dụ,
làng gốm Bát Tràng đã dùng đã dần dần đưa công nghệ nung gốm sứ bằng lò tuy
4
nen (dùng gas và điện) thay cho lò hộp và lò bầu (dùng than và củi), nhào luyện
đất bằng máy thay cho bằng tay thủ công, dùng bàn xoay bằng mô tơ điện thay
cho bàn xoay bằng tay Song nhìn chung, phần lớn công nghệ và kỹ thuật áp
dụng cho sản xuất trong các làng nghề nông thôn còn lạc hậu, tính cổ truyền chưa
được chọn lọc và đầu tư khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm còn
thấp, do đó chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường và giảm sức cạnh tranh.
Hơn nữa, các làng nghề hiện nay nhìn chung đều gặp khó khăn về mặt
bằng cho sản xuất. Tình trạng phổ biến nhất hiện nay là việc sử dụng luôn nhà ở
làm nơi sản xuất. Các bãi tập kết nguyên liệu, kể cả các bãi, kho chứa hàng gần
khu dân cư, tạm bợ, không đúng tiêu chuẩn môi trường (ví dụ như làng nghề tái
chế nhựa Minh Khai, Hưng Yên; làng nghề tái chế chì Chỉ Đạo, Hưng Yên…).
* Đặc điểm về lao động và tổ chức sản xuất.
Lao động làng nghề còn yếu và thiếu: Hiện nay số lượng lao động làm
nghề truyền thống ở các làng nghề đang thiếu nhiều, nhất là thợ giỏi. 90,4%
làng nghề thiếu lao động, chỉ có 9% làng nghề có đủ lao động và 0,6% làng
nghề thừa lao động. Nguyên nhân là do số con em lao động trong các làng
nghề học hết trung học phổ thông đều có xu hướng thi vào các trường đại học,
cao đẳng, chuyên nghiệp chứ không lựa chọn các trường dạy nghề, kể cả
trường cao đẳng nghề. Bên cạnh đó, quá trình truyền nghề cho lớp trẻ chưa
được coi trọng đúng mức, việc dạy nghề tại các làng nghề phần lớn theo lối
truyền nghề trong các gia đình, cầm việc chỉ tay hoặc tổ chức những lớp học
ngắn ngày cho con em trong địa phương, rất ít làng nghề tổ chức đào tạo bài
bản dẫn đến hiệu quả chưa cao; số lượng lao động trong các làng nghề học ở
trường dạy nghề rất thấp, cơ sở vật chất, phương tiện dạy nghề ở các gia đình
và các cơ sở nhỏ lẻ còn đơn sơ, thiếu thốn. Giáo viên truyền nghề cho học

viên bằng cách truyền nghề trực tiếp theo kinh nghiệm của từng người. Quy
mô dạy nghề truyền thống còn quá ít về số lượng, chất lượng cũng chưa cao,
chưa thu hút được đông đảo các nghệ nhân cao tuổi tham gia truyền nghề
5
truyền thống cho thanh niên. Mặt khác, mạng lưới dạy nghề đã phát triển
rộng rãi trong cả nước với hơn 100 trường cao đẳng nghề, hơn 300 trường
trung cấp nghề và trên 1.000 cơ sở khác có dạy nghề, hầu hết các huyện đều
có trung tâm dạy nghề, rất nhiều trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp có hệ dạy nghề nhưng có rất ít trường và trung tâm đào tạo nghề truyền
thống, quy mô đào tạo cũng rất nhỏ và chất lượng chưa cao. Việc dạy nghề truyền
thống ở các trường này thường chưa gắn với nhu cầu của sản xuất, kinh doanh, do
đó nhiều người học xong vẫn không tìm được việc làm hoặc nơi tiếp nhận phải
tốn thêm thời gian, kinh phí để đào tạo lại,… (Phạm Liên, 2011).
Các hình thức tổ chức sản xuất của các làng nghề chủ yếu gồm: Tổ
chức sản xuất Hợp tác xã; DN tư nhân; hộ gia đình; CT.TNHH; công ty cổ
phần. Các hình thức này cùng tồn tại, tác động lẫn nhau trong điều kiện kinh
tế mới của nền kinh tế thị trường. Song, hiện tại, hộ gia đình vẫn là hình thức
tổ chức sản xuất phổ biến nhất trong các làng nghề Việt Nam.
* Thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Trước đây, về cơ bản thị trường này nhỏ hẹp, tiêu thụ tại chỗ (các vùng
nông thôn, các làng nghề) do đó giá thành cũng thấp. Từ khi nền kinh tế
chuyển sang cơ chế thị trường, cơ cấu kinh tế và quan hệ hệ sản xuất ở nông
thôn cũng dần thay đổi, điều này đã tác động mạnh mẽ đến tình hình sản xuất
và kinh doanh của các làng nghề, chúng dần thích ứng, đáp ứng các nhu cầu
của một nền kinh tế mới. Nhiều mặt hàng từ các làng nghề đã được nhiều thị
trường trong nước chấp nhận và vươn tới các thị trường nước ngoài, mang lại
nguồn thu đáng kể cho quốc gia, đặc biệt phải kể đến là các mặt hàng thủ
công mỹ nghệ (mây tre đan, hàng dệt, thêu ren, gốm…), đồ gỗ gia dụng, gỗ
mỹ nghệ… Hiện nay, thị trường xuất khẩu các mặt hàng truyền thống của
Việt Nam mở rộng sang khoảng hơn 100 quốc gia trên thế giới, trong đó có

các nước như Trung Quốc, Hồng Kông, Singapo, thậm chí cả các thị trường
khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, …
6
2.1.3. Phân loại làng nghề Việt Nam
Dựa trên các tiêu chí khác nhau, có thể phân loại làng nghề theo một số
dạng như sau:
Theo làng nghề truyền thống và làng nghề mới.
Theo ngành sản xuất, loại hình sản phẩm.
Theo quy mô sản xuất, theo quy trình công nghệ.
Theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm.
Theo mức độ sử dụng nguyên/nhiên liệu.
Theo thị trường tiêu thụ sản phẩm, tiềm năng tồn tại và phát triển.
Mỗi cách phân loại nêu trên có những đặc thù riêng và tùy theo mục
đích mà có thể lựa chọn cách phân loại phù hợp. Trên cơ sở tiếp cận vấn đề
môi trường làng nghề, cách phân loại theo ngành sản xuất và loại hình sản
phẩm là phù hợp hơn cả.
Dựa trên các yếu tố tương đồng về ngành sản xuất, sản phẩm, thị
trường nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm có thể chia hoạt động làng nghề
nước ta ra thành 6 nhóm ngành chính (Hình 2.1), mỗi ngành chính có nhiều
ngành nhỏ. Mỗi nhóm ngành làng nghề có các đặc điểm khác nhau về hoạt
động sản xuất sẽ gây ảnh hưởng khác nhau tới môi trường.
Hình 2.1. Phân loại làng nghề Việt Nam theo ngành nghề sản xuất
Nguồn: Tổng cục Môi trường tổng hợp, 2008
7
2.2. Tổng quan môi trường làng nghề Việt Nam
2.2.1. Nguồn thải phát sinh từ các làng nghề
Các làng nghề đang phát triển nhanh đã giải quyết nhu cầu công việc và
thu nhập cho một lực lượng lớn lao động tại nông thôn. Tuy nhiên, vấn đề
môi trường làng nghề đang ngày càng phức tạp, tăng theo cấp số nhân. Ô
nhiễm môi trường làng nghề là dạng ô nhiễm phân tán trong phạm vi một khu

vực và mang đậm nét đặc thù của hoạt động sản xuất theo ngành nghề và loại
hình sản phẩm. Cụ thể, tại các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, không
khí bị ô nhiễm do đốt nhiên liệu, do sự phân hủy yếm khí các chất hữu cơ có
trong nước thải, chất thải rắn (CO
2
, NH
3
, CH
4
…). Tại các làng nghề mây tre
đan, làm nón, tăm hương…, do khâu sấy chống mốc dùng diêm sinh đã gây
phát sinh một lượng lớn khí SO
2
.
Không khí tại các làng nghề sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ thường bị ô
nhiễm tiếng ồn do các máy khoan, máy cưa, đục, búa, …, bụi từ các khâu cưa
gỗ, trà, mài có kích thước nhỏ mịn có khả năng phân tán rộng, kết hợp mùi
với các loại dung môi độc hại từ các khâu hoàn thiện vécni, sơn gỗ, …
Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá: chất lượng
không khí bị suy giảm chủ yếu do khí thải từ đốt nhiên liệụ. Ở các làng nghề
khai thác đá, bụi phát sinh từ quá trình khai thác và chế tác đá là nguyên nhân
chủ yếu dẫn tới ô nhiễm không khí ở đây.
Làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi, giết mổ gây ô
nhiễm không khí không chỉ do sử dụng nhiên liệu mà còn do sự phân hủy các chất
hữu cơ trong nước thải, chất thải rắn. Ở làng nghề này, quá trình đốt than đã tạo ra
lượng lớn xỉ.
Trong nhóm làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da, thì dệt nhuộm là
loại hình có nhu cầu hóa chất rất lớn gồm thuốc nhuộm các loại, xút, axit.
Nước thải bao gồm các hóa chất tẩy, thuốc nhuộm, sút, muối trung tính thải ra
từ quá trình tẩy trắng, nhuộm in vải. Cùng với đó là khí thải phát sinh từ các

8
cơ sở dệt nhuộm chủ yếu do đốt than của lò hơi và bụi bong, sợi vải từ quá
trình sản xuất gây ra,…
Làng nghề tái chế gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường đặc biệt
là làng nghề tái chế kim loại. Môi trường không khí của làng nghề này bị ô
nhiễm nặng do quá trình đốt nhiên liệu trong giai đoạn nung, nấu luyện, cán
nhôm, … thải ra các loại khí độc hại. Bên cạnh đó, môi trường nước cũng bị
ảnh hưởng do nước thải từ khâu nung, nấu luyện, rửa, … Chất thải rắn ở làng
nghề này gồm bụi kim loại, rỉ sắt, … thải ra với một lượng lớn.
2.2.2. Hiện trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề
Hiện nay, do công nghệ sản xuất ở các làng nghề trên địa bàn cả nước
còn lạc hậu, quy mô theo hộ cá thể nên không đủ năng lực tài chính và kỹ
thuật để đầu tư các công trình bảo vệ môi trường và xử lý ô nhiễm. Đồng thời,
hệ thống các văn bản về quản lý môi trường làng nghề chưa cụ thể và phù hợp
với đặc điểm sản xuất. Vì vậy, tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề vẫn
diễn ra nghiêm trọng kéo dài.
Do các làng nghề mang đậm nét đặc thù của hoạt động sản xuất theo
ngành nghề và loại hình sản phẩm, vì vậy không phải tất cả các làng nghề đều
gây ô nhiễm và mức độ cũng như dạng ô nhiễm gây ra là không giống nhau.
9
Bảng 2.1. Đặc trưng ô nhiễm từ sản xuất của một số loại hình làng nghề
Loại hình
sản xuất
Các dạng chất thải
Khí thải Nước thải Chất thải rắn
Các dạng
ô nhiếm
khác
1.Chế biến lương
thực, thực phẩm,

chăn nuôi, giết mổ
Bụi, CO, SO
2
, NO
x
.
CH
4
BOD
5
, COD, SS,
tổng N, tổng P,
Coliform
Xỉ than, CTR từ
nguyên liệu
Ô nhiễm
nhiệt, độ
ẩm
2.Dệt nhuộm, ươm
tơ, thuộc da
Bụi, CO, SO
2
, NO
x
,
hơi axit, hơi kiềm,
dung môi
BOD
5
, COD, độ

màu, tổng N, hóa
chất, thuốc tẩy, Cr
6+
Xỉ than, tơ sợi, vải
vụn, cặn và bao bì
hóa chất
Ô nhiễm
nhiệt, độ
ẩm, tiếng
ồn
3.Thủ công mỹ
nghệ
-Gốm sứ
-Sơn mài, đồ gỗ
mỹ nghệ, chế tác
đá
- Bụi, SiO
2
, CO, SO,
NO
x
, HF, THC
- Bụi, hơi xăng, dung
môi, oxit Fe, Zn, Cr,
Pb
BOD
5
, COD, SS,
độ màu, dầu mỡ
công nghiệp

Xỉ than (gốm sứ),
phế phẩm, cặn hóa
chất
Ô nhiễm
nhiệt
( gốm sứ)
4.Tái chế
-Tái chế giấy
-Tái chế kim loại
-Tái chế nhựa
-Bụi, SO
2
, H
2
S, hơi
kiềm
-Bụi, CO, hơi kim
loại, hơi axit, Pb, Zn,
HF, HCL, THC
-Bụi, CO, Cl
2
, HCL,
THC. Hơi dung môi
-Ph, BOD
5
, COD,
SS, tổng N, tổng P,
độ màu
-COD, SS, dầu mỡ,
CN

-
, kim loại
- BOD
5
,COD, tổng
P, độ màu, dầu mỡ
-Bụi giấy, tạp chất
từ giấy phế liệu, bao
bì hóa chất
-Xỉ than, rỉ sắt, vụn
kim loại nặng (Cr
6+
,
Zn
2+
…)
-Nhãn mác, tạp
không tái sinh, chi
tiết kim loại, cao su
Ô nhiễm
nhiệt
5.Vật liệu xây
dựng, khai thác đá
-Bụi, CO, SO
2
, NO
x
,
HF, THC
-SS, Si, Cr Xỉ than, xỉ đá, đá

vụn
Ô nhiễm
nhiệt, tiếng
ồn, độ rung
Nguồn: Đặng Kim Chi, 2005
* Ô nhiễm không khí - Vấn đề nhức nhối ở các làng nghề tái chế, sản
xuất vật liệu xây dựng, khai thác đá, chế biến lương thực, thực phẩm, chăn
nuôi và giết mổ.
Đối với các làng nghề, ô nhiễm không khí bao gồm các dạng ô nhiễm
do bụi, do khí độc hại, ô nhiễm mùi và ô nhiễm tiếng ồn. Các làng nghề tái
chế mọc lên ngày càng nhiều, làm cho vấn đề ô nhiễm ngày càng trở nên
nghiêm trọng.
10
Bảng 2.2. Thải lượng ô nhiễm do đốt than tại làng nghề tái chế
Đơn vị: tấn/năm
Làng nghề
Lượng
than
Bụi CO SO
2
NO
2
HC
1. Đa Hội – Bắc Ninh 270.000 2.457,0
0
1,00 2.894,4 2.359,80 4,88
2. Vân Chàng - Nam Đinh 42.280 384,75 2,68 453,2 369,50 2,33
3. Xuân Tiến – Nam Định 250 2,28 0,075 2,68 2,19 0,01
4
4. Dương Ổ - Bắc Ninh 7.606 69,21 2,28 81,54 66,48 0,42

5. Phú Lâm – Bắc Ninh 3.430 31,21 1,03 36,77 29,98 0,19
Nguồn: Bộ Công thương, 2008
Tại các làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng, hàm lượng chất ô nhiễm
thường tăng cao cục bộ xung quanh lò nung, có nơi hàm lượng bụi vượt tiêu
chuẩn cho phép từ 3 - 8 lần, hàm lượng SO2 có nơi vượt đến 6,5 lần.
Hình 2.2. Hàm lượng bụi trong không khí làng nghề tái chế nhựa
Nguồn: Bộ Công thương, 2008
K1: Cơ sở đùn nhựa Minh Khai, Hưng Yên
K2: Bãi rác làng nghề tái chế nhựa Minh Khai, Hưng Yên
K3: Cơ sở đùn hạt nhựa Trung Văn, Hà Nội
K4: Cơ sở nghiền nhựa Minh, Hưng Yên
K5: Cơ sở đùn hạt nhựa Triều Khúc, Hà Nội
11
- Trong số các làng nghề thủ công mỹ nghệ, môi trường không khí
xung quanh khu vực sản xuất của làng nghề chế tác đá bị ô nhiễm nghiêm
trọng do bụi đá và tiếng ồn. Đặc biệt, trong bụi phát sinh từ hoạt động chế tác
đá còn chứa một lượng không nhỏ SiO
2
(0,56 - 1,91% tại làng nghề đá Non
Nước - Đà Nẵng) rất có hại cho sức khỏe. Trong khi đó, tại làng nghề sản
xuất mây tre đan, không khí thường bị ô nhiễm bởi SO
2
(phát sinh từ quá
trình xử lý chống mốc cho các sản phẩm mây tre đan). Ở tỉnh Thái Bình, nơi
có 40/210 làng nghề làm mây tre đan, có tới 800 lò sấy lưu huỳnh thải ra
lượng khổng lồ khí SO
2
từ quá trình xử lý chống mốc cho các sản phẩm mây
tre đan. Môi trường vi khí hậu ở các làng nghề dệt bị ô nhiễm bởi tiếng ồn do
các máy dệt thủ công. Mức ồn có nơi vượt tiêu chuẩn cho phép từ 4 - 14 dBA

(Báo cáo môi trường quốc gia, 2008).
Khác với các nhóm làng nghề trên, sản xuất tại các làng nghề chế biến
lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ phát sinh ô nhiễm không khí
không chỉ do sử dụng nhiên liệu mà còn do sự phân hủy các chấ t hữu cơ
trong nước thải, chất thải rắn tạo nên các khí như SO
2
, NO
2
, H
2
S, NH
3
, CH
4

các khí ô nhiễm gây mùi tanh thối rất khó chịu, nhất là ở các cơ sở chăn nuôi
và giết mổ gia súc, gia cầm.
* Ô nhiễm nước - Trăm thứ nước thải không qua xử lý đang xả thải làm
hủy hoại môi trường các dòng sông, ao hồ, kênh rạch.
Kết quả khảo sát chất lượng nước thải của các làng nghề những năm
gần đây cho thấy, mức độ ô nhiễm hầu như không giảm, thậm chí còn tăng
cao hơn trước. Khối lượng và đặc trưng nước thải sản xuất ở các làng nghề
không giống nhau, phụ thuộc trực tiếp vào loại công nghệ và nguyên liệu
dùng trong sản xuất.
Chế biến lương thực, chăn nuôi, giết mổ gia súc, ươm tơ, dệt nhuộm
là những ngành sản xuất có nhu cầu nước rất lớn và cũng xả thải ra khối
lượng lớn nước thải với mức ô nhiễm hữu cơ cao đến rất cao. Trong đó phải
12
kể đến hoạt động sản xuất tinh bột từ sắn và dong giềng với 60 - 72% nước
thải (phát sinh từ khâu lọc tách bã và tách bột đen) có pH thấp, mức ô nhiễm

BOD
5
, COD vượt TCVN 5945-2005 loại B trên 200 lần. Khối lượng nước
thải của các làng nghề này có nơi đạt 7.000 m3/ngày với thải lượng BOD
5
lên
tới 44 tấn/ngày không qua xử lý đã xả trực tiếp vào môi trường (Báo cáo môi
trường quốc gia, 2008).
Dệt nhuộm là loại hình có nhu cầu hóa chất rất lớn. Khoảng 85 - 90%
lượng hóa chất này hòa tan nước thải. Kết quả phân tích mẫu nước cho thấy
độ màu có nơi lên tới 13.000 Pt-Co, hàm lượng COD, BOD
5
gấp 2 - 15 lần
TCVN, đặc biệt Coliform vượt hàng nghìn lần TCVN. Ngược lại, một số
ngành như tái chế, chế tác kim loại, đúc đồng có nhu cầu nước không lớn
nhưng nước thải bị ô nhiễm các chất rất độc hại như các hóa chất, axit, muối
kim loại, xianua và các kim loại nặng (Báo cáo môi trường quốc gia, 2008).
Làng nghề cơ kim khí Thanh Thùy, huyện Thanh Oai (Hà Nội), là một
minh chứng của sự ô nhiễm. Thanh Thùy có sáu thôn thì bốn thôn sản xuất cơ
kim khí, một thôn làm trống, thôn còn lại sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ,
điêu khắc gỗ. Các làng nghề của xã thu hút 1.787 hộ tham gia, nhờ vậy cơ cấu
kinh tế địa phương chuyển dịch đáng kể, giá trị sản xuất nông nghiệp giảm
xuống chỉ còn 16,5%, tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp chiếm 83,5%. Tuy nhiên,
theo kết quả khảo sát, nhiều chỉ tiêu môi trường tại Thanh Thùy vượt quá tiêu
chuẩn cho phép như BOD
5
vượt 1,86-7,06 lần, COD vượt 2,46-11,16 lần, NH
4
vượt 1,1-7,64 lần, lượng dầu mỡ thải ra môi trường vượt 6,5-11 lần, Colifom
vượt 12-30,6 lần Điều đáng lo ngại, làng nghề Thanh Thùy nằm xen kẽ

trong khu dân cư, không có hệ thống cống phân tách giữa nước thải sản xuất
và nước thải sinh hoạt, tất cả đều xả trực tiếp xuống sông Rùa gây ô nhiễm
nghiêm trọng (Hà Nội mới, 2013).
13
* Chất thải rắn: Bài toán chưa có lời giải
Chất thải rắn ở hầu hết các làng nghề chưa được thu gom và xử lý triệt
để, nhiều làng nghề xả thải bừa bãi gây tác động xấu tới cảnh quan môi
trường, gây ô nhiễm môi trường không khí, nước và đất. Thống kê năm 2008
của Trung tân Nghiên cứu và Quy hoạch Môi trường Đô thị – Nông thôn, Bộ
Xây dựng cho thấy, tổng lượng chất thải rắn nguy hại phát sinh từ các làng
nghề trên toàn quốc vào khoảng 2.800 tấn/ngày. Trong đó, các làng nghề tại
miền Bắc phát sinh nhiều chất thải nguy hại nhất, đặc biệt là các làng nghề tái
chế kim loại, đúc đồng với nguồn chất thải rắn phát sinh bao gồm bavia, bụi
kim loại, phôi, rỉ sắt, lượng phát sinh khoảng 1-7 tấn/ngày (Báo cáo môi
trường quốc gia, 2008).
Ví dụ, theo thống kê của Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm môi
trường Công an Hải Phòng: Trong 3 năm (2003-2006), đơn vị đã phát hiện
gần 2.300 container chứa gần 37.000 tấn ắc quy chì phế thải nhập vào cảng
Hải Phòng. Còn 2 năm (2008-2009) tiếp tục phát hiện thêm 340 container rác
phế liệu và hàng chục container ắc quy chì phế thải, vi mạch điện tử được
nhập vào cảng. Từ năm 2010 đến nay, cảng Hải Phòng vẫn còn lưu giữ hơn
300 container chất thải vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường (Thể thao & Văn
hóa, 2013).
Đối với các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và
giết mổ, chất thải rắn giàu chất hữu cơ dễ bị phân hủy sinh học gây mùi xú uế.
Với sản lượng 52.000 tấn tinh bột/năm, làng nghề Dương Liễu phát sinh tới
105.768 tấn bã thải, phần không nhỏ cuốn theo nước thải gây bồi lắng hệ
thống thu gom, các ao hồ trong khu vực và gây ô nhiễm nghiêm trọng nước
mặt, nước dưới đất. Ngoài ra, việc đốt than làm nhiên liệu cũng tạo ra lượng
lớn xỉ (Báo cáo môi trường quốc gia, 2008).

Làng nghề may gia công, da giầy tạo ra chất thải rắn như vải vụn, da
vụn gồm da tự nhiên, giả da, cao su, chất dẻo với lượng thải lên tới 2 - 5
14
tấn/ngày (làng nghề Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc, Hải Dương: 4 - 5 tấn/ngày).
Đây là loại chất thải rất khó phân hủy nên không thể xử lý bằng chôn lấp. Từ
nhiều năm nay loại chất thải rắn này chưa được thu gom xử lý mà đổ khắp nơi
trong làng, gây mất mỹ quan và ảnh hưởng tới môi trường sinh thái. Các làng
nghề tái chế cũng tạo ra lượng chất thải không nhỏ. Làng nghề tái chế giấy
Dương ổ - Bắc Ninh thải ra 4 - 4,5 tấn chất thải/ngày, làng tái chế nhựa Trung
Văn và Triều Khúc thải 1.123 tấn/năm Cho đến nay các chất thải rắn này
vẫn chưa được xử lý triệt để (Báo cáo môi trường quốc gia, 2008).
Ô nhiễm môi trường làng nghề có tác hại rất lớn đến sức khoẻ cộng
đồng dân cư. Trong thời gian gần đây, ở nhiều làng nghề, tỷ lệ người mắt
bệnh, nhất là nhóm người trong độ tuổi lao động đang có xu hướng tăng cao.
Theo kết quả nghiên cứu cho thấy, tuổi thọ trung bình của người dân tại các
làng nghề ngày càng giảm, thấp hơn 10 năm so với tuổi thọ trung bình toàn
quốc và so với làng không làm nghề tuổi thọ này cũng thấp hơn từ 5 đến 10
năm. Theo thống kê, tại tỉnh Hà Nam, so sánh giữa 7 làng nghề: dệt lụa Nha
Xá, trống Đọi Tam, rượu Hợp Lý, bánh đa nem Mão Câu, dũa Đại Phúc, đá
La Mát, làng đa nghề Nhật Tân và những làng không làm nghề như Yên Nam,
Trắc Văn, Hợp Lý, thị trấn Quế, Ngọc Sơn, Liêm Phong có thể thấy, tỷ lệ mắc
các bệnh ngoài da, tiêu chảy, hô hấp và đau mắt tại 7 làng nghề cao hơn rất
nhiều so với các làng không làm nghề. Làng nghề tái chế kim loại Châu Khê
(Bắc Ninh) có trên 60% dân cư trong vùng mắc các triệu chứng bệnh liên
quan đến thần kinh, hô hấp, ngoài da, điếc. Làng nghề cơ khí Vân Chàng
(Nam Định) ô nhiễm đất, nguồn nước và không khí đã làm cho phần lớn cư
dân trong làng mắc các bệnh về đường hô hấp, bệnh ngoài da và phụ khoa,
4,7% số người trong làng bị mắc bệnh lao phổi, 8,3% mắc bệnh viêm phế
quản, số người chết vì ung thư ngày càng tăng. Làng nghề chế biến rượu Vân
Hà (Bắc Giang) có đến 68,5% bệnh ngoài da, 58,8% bệnh đường ruột, 44,4%

bệnh hô hấp; làng nước mắm Thanh Hải (Thanh Hoá), tỷ lệ mắc bệnh là 15%,
15
bao gồm các loại bệnh như tiêu hoá, phụ khoa, đường hô hấp và cao huyết áp
(Chu Thái Thành, 2009).
Trước tình trạng ô nhiễm trên, ngày 2/9/2012 Phó Thủ tường Chính
phủ Hoàng Trung Hải vừa ký Quyết định số 1206/QĐ-TTg phê duyệt Chương
trình mục tiêu quốc gia khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường giai đoạn
2012 – 2015: Chính phủ đã quyết định dành 5.863 tỷ đồng cho Chương trình
mục tiêu quốc gia khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường trong giai đoạn
2012 – 2015. Trong đó, 2.420 tỷ đồng dành cho dự án khắc phục ô nhiễm ở
47 làng nghề (ngân sách trung ương chi 1.420 tỷ đồng, ngân sách địa phương
đóng góp 700 tỷ đồng, huy động từ các tổ chức, cá nhân 300 tỷ đồng) (Quyết
định số 1206/QĐ-TTg).
2.2.3. Hiện trạng quản lý môi trường tại các làng nghề
Có thể thấy trong những năm gần đây, môi trường làng nghề đang nổi
lên như một vấn đề nóng hổi, cấp bách. Cùng với việc gia tăng phát triển cả
về số lượng làng nghề và loại ngành nghề, ô nhiễm môi trường cũng ngày
càng tăng, nhiều nơi vượt quá tầm kiểm soát của các cấp chính quyền. Nhận
thức được vấn đề đó, bảo vệ môi trường làng nghề đã được đề cập tại nhiều
văn bản của Đảng, Nhà nước, ví dụ như Thông tư số 46/2011/TT-BTNMT
quy định về bảo vệ môi trường làng nghề, Chiến lược BVMT Quốc gia đến
năm 2010, Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam…
Ở góc độ văn bản quy phạm pháp luật, Luật BVMT năm 2005 và hàng
loạt văn bản dưới luật cũng đã được ban hành, trong đó có nêu trách nhiệm,
nghĩa vụ, quyền hạn của các bên liên quan trong công tác bảo vệ môi trường
làng nghề từ trung ương đến địa phương.
Một số địa phương có làng nghề cũng đã chú ý đến việc ban hành các
văn bản liên quan nhằm cụ thể hóa đường lối chính sách của Đảng và Chính
phủ ở địa phương mình. Ở mức độ triền khai thực tế, hàng loạt các chính sách
biện pháp cụ thể đã được đề ra và áp dụng ở các mức khác nhau tại các làng

16
nghề trong cả nước. Tại nhiều tỉnh đã có quy hoạch không gian làng nghề với
mục đích tập trung các hộ sản xuất trong một quần thể với hệ thống cơ sở hạ
tầng kĩ thuật tốt, có các hệ thống xử lý chất thải tập trung, nhằm hạn chế mức
độ ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất trong làng nghề. Một số làng
nghề đã từng bước ứng dụng sản xuất sạch hơn và các công nghệ xử lý chất
thải, giảm thiểu ô nhiễm môi trường như làng nghề gốm Bát Tràng (Hà Nội),
làng nghề Đồng Côi (Nam Định), …
Đầu tư về tài chính cho BVMT làng nghề đã bắt đầu được chú ý. Một
số hướng dẫn hỗ trợ kinh phí, giảm thuế, ưu đãi tín dụng đã được ban hành.
Qũy BVMT Việt Nam đã bắt đầu cho vay với lãi suất ưu đãi đối với một số
dự án về xử lý chất thải làng nghề, nghiên cứu và triền khai các công nghệ
thân thiện với môitrường. Nhà nước cũng đã có chủ trương triển khai mạnh
mẽ công tác xã hội hóa bảo vệ môi trường làng nghề, huy động sự tham gia
tích cực của chính bản thân người sản xuất. Nhiều hương ước đã ra đời tại các
làng nghề, nhiều tổ chức tự nguyện hoạt động BVMT với sự đóng góp tài
chính của từng hộ sản xuất đã hoạt động hiệu quả.
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng quản lý môi
trường làng nghề vẫn đang còn nhiều tồn tại, bất cập chưa được giải quyết ở
các mức độ và cấp độ quản lý khác nhau.
Cho đến nay, những yêu cầu về BVMT tại các làng nghề như đầu tư hệ
thống thu gom và xử lý nước thải tập trung, các biện pháp giảm thiểu phát
sinh khí thải cũng như quy định theo các đặc thù riêng của mỗi loại hình sản
xuất làng nghề chưa có văn bản luật nào đề cập tới.
Một hạn chế khác là tình trạng chồng chéo trong quản lý. Trách nhiệm
trong vấn đề BVMT làng nghề giữa các Bộ/ngành và giữa Bộ/ngành với địa
phương chưa được cụ thể hoá dẫn đến việc thiếu các hướng dẫn, định hướng và
hỗ trợ trong sản xuất tại các làng nghề theo hướng thân thiện môi trường. Thiếu
sự phối hợp chặt chẽ từ cấp Trung ương tới địa phương nên các giải pháp phòng
17

ngừa, xử lý ô nhiễm cũng như BVMT làng nghề khó thực thi và đạt hiệu quả
mong muốn tới cấp cơ sở.
Không chỉ vậy, tình trạng chung ở phần lớn các làng nghề trong cả
nước là tập trung sản xuất theo quy mô hộ gia đình ngay tại nơi sinh sống, vì
vậy dẫn đến một số khó khăn, chẳng hạn như xử lý ô nhiễm môi trường.
Nhiều cấp chính quyền còn tỏ ra lúng túng trong việc giải quyết bài toán giữa
phát triển kinh tế và BVMT. Bất cập này hiện đang được một số địa phương
khắc phục bằng cách chỉ cho phép các cơ sở được tham gia sản xuất làng
nghề tại các khu vực nhất định cách biệt với khu dân cư. Điều này dẫn tới một
bất cập khác, đó là vấn đề quy hoạch. Để hạn chế ô nhiễm môi trường, nhiều
tỉnh thành phố đã có chủ trương xây dựng cụm công nghiệp làng nghề hoặc
khu sản xuất tập trung. Nhưng khi di chuyển, các cơ sở sản xuất không chỉ
chuyển bộ phận sản xuất mà lại di chuyển cả gia đình theo. Hậu quả làm cho
vấn đề ô nhiễm càng lan rộng, các khu quy hoạch mới thực chất không khác
gì khu giãn dân và là hình thức làm ô nhiễm gia tăng.
Ngoài ra, còn phải kể đến một loạt nguyên nhân khác làm vấn đề môi
trường ở làng nghề tiếp tục suy thoái. Thứ nhất, công tác thanh tra, kiểm tra
về môi trường cũng như thanh tra việc thi hành luật tại các làng nghề chưa
được thường xuyên và triệt để, xử phạt hành chính các hành vi gây ô nhiễm
môi trường tại làng nghề còn chưa nghiêm, mới chỉ dừng lại ở mức độ nhắc
nhở, chưa áp dụng được các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính. Các công
cụ giám sát, BVMT làng nghề như công cụ kinh tế, quan trắc chưa được
triển khai mạnh mẽ, các quan trắc môi trường làng nghề của các đề tài, dự án
đã góp phần cung cấp số liệu về diễn biến ô nhiễm nhưng lại thường chỉ tiến
hành một lần trong giai đoạn nghiên cứu mà ít khi có điều kiện triển khai tiếp
sau khi đề tài, dự án kết thúc. Trình độ nhận thức về BVMT còn yếu kém và
tính cộng đồng của làng nghề cũng góp phần làm gia tăng mức ô nhiễm.
Thiếu nhân lực và tài chính cũng là cản trở không nhỏ đối với công tác
BVMT làng nghề.
18

2.3. Tình hình áp dụng sản xuất sạch hơn tại các làng nghề Việt Nam
* Hiện trạng
Kể từ khi khái niệm “Sản xuất sạch hơn” (UNEP) lần đầu tiên được
giới thiệu vào nước ta năm 1995, đến nay khái niệm này đã được nhiều người
biết đến hơn. Việc hiểu và nắm rõ phương pháp luận này là yếu tố then chốt
đảm bảo cho công tác triển khai thực hiện SXSH tại địa phương hay tại doanh
nghiệp. Nhận thức được tầm quan trọng và vai trò cấp thiết của SXSH trong
công nghiệp, ngày 07/9/2009 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số
1419/QĐ-TTg phê duyệt "Chiến lược Sản xuất sạch hơn trong công nghiệp
đến năm 2020". Quyết định này đã nêu ra những chỉ tiêu, lộ trình cụ thể và
những dự án mà các Bộ, ngành địa phương cần phải làm để thúc đẩy các
doanh nghiệp mở rộng SXSH nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên
thiên nhiên, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu; Giảm thiểu phát thải và hạn chế
mức độ gia tăng ô nhiễm; bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, sức khỏe
con người và bảo đảm phát triển bền vững.
Mục tiêu của chiến lược đặt ra trong giai đoạn từ nay đến năm 2015 là
50% cơ sở sản xuất công nghiệp nhận thức được lợi ích của việc áp dụng
SXSH trong công nghiệp; 25% cơ sở sản xuất công nghiệp sẽ áp dụng SXSH
và những cơ sở sản xuất công nghiệp áp dụng SXSH sẽ tiết kiệm được từ 5
đến 8% mức tiêu thụ năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu trên đơn vị
sản phẩm. Ngoài ra, 70% các sở công thương có cán bộ chuyên trách đủ năng
lực hướng dẫn áp dụng SXSH trong công nghiệp. Giai đoạn từ năm 2016 đến
năm 2020, mục tiêu của chiến lược là đưa 90% cơ sở sản xuất công nghiệp
nhận thức được lợi ích của việc áp dụng SXSH trong công nghiệp. Đồng thời,
50% cơ sở sản xuất công nghiệp sẽ áp dụng SXSH và những cơ sở áp dụng
SXSH sẽ tiết kiệm được từ 8 đến 13% mức tiêu thụ năng lượng, nguyên liệu,
nhiên liệu, vật liệu/đơn vị sản phẩm. Ngoài ra, 90% doanh nghiệp vừa và lớn
sẽ có bộ phận chuyên trách về sản xuất sạch hơn. Cũng trong giai đoạn này,
19

×