Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tài liệu ôn thi cao học hành chính môn triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.16 KB, 18 trang )

Câu 5:phân tích định nghĩa Vật chất của
lênin và ý nghĩa phương pháp luận của nó ?
1.phạm trù vật chất là một trong những
phạm trù cơ bản, nền tảng của chủ nghĩa
duy vật,nó chứa đựng bên trong nội dung
thế giới khách quan và phương pháp luận
,vừa mang tính khái quát vừa mang tính sâu
sắc.
2.phạm trù vật chất được hiểu rất khác
nhau,phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt
động thực tiễn và nhận thức của mỗi con
người trong từng giai đoạn phát triển của
lịch sử;trong các học thuyết duy vật trước
Mác,vật chất được coi là thực thể,mang tính
bất biến của mỗi sự vật,hiện tượng; các nhà
triết học đã đồng nhất vật chất với ngững vật
cụ thể, coi đó là cơ sở đầu tiên của mọi tồn
tại.Đây chính là nguyên nhân để chủ nghĩa
duy tâm lợi dụng chống lại chủ nghĩa duy
vật.
Theo Lênin “Vật chất là phạm trù triết
học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta khép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác”
Vật chất theo định nghĩa của Lênin là
phạm trù triết học ,nó khác với các khái
niệm của khoa học tự nhiên về các đối
tượng và sự vật cụ thể; phạm trù vật chất là
pạm trù rộng nhất trong hệ thống các phạm


trù, nên không thể định nghĩa như những
khái niệm đơn thuần, quy về một khái niệm
rộng hơn và chỉ ra những đặc điểm khác
biệt.
Thuộc tính duy nhất của vật chất là thực
tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, đó là tất cả những gì tồn tại
bên ngoài và độc lập với ý thức, với cảm
giác và đem lại cho chúng ta trong cảm giác;
thuộc tính này thể hiện lập trình của chủ
nghĩa duy vật,vật chất có trước, ý thức có
sau,vật chất là nguồn gốc khách quan của ý
thức,ý thức chỉ là phản ánh thực tại khách
quan và con người có thể nhận được thế giới
vật chất.
Định nghĩa của Lênin về vật chất đã
bao quát cả 2 mặt vấn đề cơ bản của triết
học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật
biện chứng ,nó khắc phục được tính siêu
hình, trực quan trong các quan niệm về vật
chất của triết học trước Mác.
3.tính thống nhất vật chất của thế giới
:các nhà triết học của chủ nghĩa duy vật biện
chứng cho rằng ”bản chất của thế giới là vật
chất,thế giới thống nhất ở tính vật chất”;điều
này thể hiên ở những điểm cơ bản sau:
-chỉ có một thế giới duy nhất và thống
nhất là thế giới vật chất ;thế giới vật chất tồn
tại khách quan,có trước và độc lập với ý
thức con người.

-mọi bộ phận của thế giới vật chất đều
có mối liên hệ mật thiết và thống nhất
nhau,biểu hiện ở chỗ chúng đều là những
dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu
vật chất,có nguồn gốc từ vật chất và cùng
chịu sự tác động, chi phối của các quy luật
khách quan,phổ biến của thế giới vật chất.
-thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô
hạn và vô tận, không tự sinh ra và cũng
không tự mất đi, mà chính là sự chuyển hóa
cho nhau, là nguồn gốc,nguyên nhân và kết
quả của nhau.
4. Vật chất tồn tại tronh sự vận động:
Vận động bao hàm toàn bộ những sự
biến đổi nói chung, là phương thức tồn tại
của vật chất, là thuộc tính vốn có và không
thể tách rời của vật chất;điều này cũng có
nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động
và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn
tại của mình, không thể có vật chất mà
không vận động và ngược lại.
Theo quan điểm duy vật biện chứng
,vận động của vật chất là sự tự thân vận
động,là sự tác động qua lại giũa các yếu tố,
các mặt,các quá trình đang tồn tại bên trong
sự vật hiện tượng ; quan niệm này hoàn toàn
đối lập với quan điểm duy tâm và siêu hình
về vận động ,cho rằng vận động có nguồn
gốc và chịu sự tác động từ bên ngoài chứ
không phải xuất phát từ bên trong của sự vật

hiện tượng.
Dựa vào những thành tựu của khoa học
tự nhiên và triết học,Anghen đã phân loại
các hình thức vận động cơ bản của vật
chất,bao gồm: vận động cơ giới(sự di
chuyển vị trí của các vật thể),vận động vật lí
(sự vận động của các hạt cơ bản),vận động
hóa học(các quá trình phân giải,hóa hợp các
chất),vận động sinh học(sự trao đổi chất
giữa cơ thể sống với môi trường),vận động
xã hội(là quá trình biến đổi, thay thế các
hình thái kinh tế-xã hội)
Mỗi dạng vật chất cụ thể bao giờ cũng
được đặc trưng bởi một hình thức vận động
cơ bản xác định ; dạng vận động sau cao
hơn dạng vận động trước.Tuy có sự khác
nhau về chất, nhưng giữa các hình thức vận
động có liên hệ, tác động, chuyển hóa qua
lại, và đây cũng là sự thể hiện sự phát triển
của thế giới vật chất từ hình thức thấp đến
hình thức cao.
Đứng im là trạng thái vận động trong
cân bằng,chỉ mang tính tương đối;nếu
không có đứng im tương đối thì không có sự
phân hóa thế giới vật chất thành các sự vật
hiện tượng phong phú đa dạng.
5.Vật chất tồn tại gắn liền với khong
gian và thời gian:
Không gian và thời gian là những hình
thức tồn tại của vật chất,là những thuộc tính

chung vốn có của các dạng vật chất cụ
thể;không gian biểu hiện những thuộc tính
như cùng tồn tại và tách biệt(vị trí), có kết
cấu và quảng tính (độ dài ngắn, cao
thấp);thời gian bao gồm những thuộc tính
như độ lâu của sự biến đổi , trình tự xuất
hiện và mất đi của sự vật hiện tượng, các
trạng thái khác nhau của thế giới vật chất.
Vật chất vận động không thể ở đâu
ngoài không gian và thời gian ; sự thống
nhất nhất ở không gian và thời gian với vận
động của vật chất hoàn toàn đối lập với
quang điểm siêu hình khi tách không giang,
thời gian với sự vận động của vật chất.
Tuy đều là hình thức tồn tại của vật
chất, nhưng giữa không gian và thời gian có
sự khác nhau cơ bản, đó là không gian có 3
chiều:chiều dài,chiều rộng và chiều cao; còn
thời gian chỉ có một chiều đi từ quá khứ đến
tương lai.
6.Ý nghĩa và phương pháp luận:
Định nghĩa cũa Lênin về vật chất góp
phần đấu tranh chống lại các quang điểm
duy tâm về vật chất, cả duy tâm chủ nghĩa
và duy tâm khách quan; đấu tranh chống
xuyên tạc học thuyết Mác, bảo vệ sự trong
sáng của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Định nghĩa của lênin về vật chất không
chỉ là sự khái quát các thành tựu của khoa
học tự nhiên, mà còn có vai trò định hướng

cho sự phát triển của nhận thức khoa học
,giúpcho nhận thức khoa học tránh được các
cuộc khủng hoảng, dẫn dắt khoa học tiếp tục
phát triển đi lên.
Định nghĩa của lênin về vật chất giúp ta
giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết
học;khái niệm vật chất của lênin bao quát cả
dạng vật chất trong xã hội,tạo cơ sở lí luận
để khắc phụcquan điểm duy tâm trong đời
sống xã hội của con người.
Thấy được mối quan hệ hữu cơ qua các
quy luật vận động của các vật chất,giúp
chúng ta tránh được khuynh hướng sai lầm
khi nhận định,đánh giá một sự vật hiện
tượng mang tính cứng nhắc,không thấy
được sự vận động và phát triển của
chúng,không thấy được mối liên hệ với
những sự vật hiện tượng khác,nói chung cần
có quan điểm toàn diện,lịch sử và cụ thể
trong giải quyết công việc cụ thể.

1
Câu 6:phát biểu định nghĩa Vật chất của
lênin. Phân tích sự giống nhau và khác nhau
giữa pham trù vật chất với những tồn tại vật
chất cụ thể?
1.phạm trù vật chất là một trong những
phạm trù cơ bản, nền tảng của chủ nghĩa
duy vật,nó chứa đựng bên trong nội dung
thế giới khách quan và phương pháp luận,

vừa mang tính khái quát vừa mang tính sâu
sắc.
2.phạm trù vật chất được hiểu rất khác
nhau, phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt
động thực tiển và nhận thức của con người
trong từng giai đoạn phát triển của lịch
sử,trong các học thuyết duy vật trước
Mác,vật chất được coi là thực thể.
GIỐNG CÂU 5 TỪ PHẦN 1 ĐẾN PHẦN
5 NHỎ
6.giữa phạm trù vật chất và những tồn tại
vật chất cụ thể có những điểm giống nhau và
khác nhau cơ bản như sau:
Vật chất là phạm trù triết học ,có tính
khái quát cao;còn những vật chất cụ thể là
những khái niệm thuộc các ngành khoa học
dùng đề chỉ những hình thức tồn tại cụ thể
của vật chất.
Đối với vật chất con người không thể sờ
mó được,trong khi đó những dạng tồn tại cụ
thể của vật chất thì con người có thể cảm
nhận qua các giác quan của mình

CÂU 7:phân tích nguồn gốc và bản chất
của ý thức? ý nghĩa của vấn đề đó trong việc
nâng cao vai trò của ý thức trong hoạt động
thực tiển?
1.khái niệm: ý thức là phạm trù triết học
dùng để chỉ sự phản ánh thế giới khách quan
vaò bộ não con người, là hình ảnh chủ quan

của thế giới khách quan.
có 2.nguồn gốc của ý thức:
a. nguồn gốc tự nhiên:
Dựa trên những thành tựu khoa học, chủ
nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức
là một thuộc tính của vật chất,nhưng không
phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là một
dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc
của con người,ý thức là chức năng bộ óc
người, hoạt động phụ thuộc vào bộ óc
người, nếu bộ óc người bị tổn thương thì
hoạt động của ý thức sẽ không bình thường
và bị hỗn loạn
Bộ óc người hiện đại là sản phẩm của
quá trình tiến hóa lâu dài từ vượn biến thành
người, là một tổ chức sống đặc biệt với hàng
tỉ tế bào,các tế bào này có liên quan nhau và
với các giác quan khác tạo thành vô số
những quan hệ thu nhận, điều khiển hoạt
động cơ thể con người trong mối quan hệ
với thế giới bên ngoài qua các phản xạ
không điều kiện và các phản xạ có điều
kiện.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà
không có sự tác động của thế giới bên ngoài
thì cũng không có ý thức,phản ánh là thuộc
tế chung của mọi đối tượng của vật chất,là
sự tái tạo những đặc điểm của hệ thống vật
chất khác trong quá trình tác động qua lại
giữa chúng.

Trong quá trình phát triển lâu dài của
thế giới vật chất cho thấy nếu thế giới vật
chất có tổ chức càng phức tạp thì năng lực
phản ánh càng cao; trong giới tự nhiên vô
sinh chỉ phản ánh vật lí, hóa học ,mang tính
thụ động, chưa có sự lựa chọn; trong giới tự
nhiên hữu sinh phản ánh phát triển lên một
trình độ cao hơn đó là phản ánh sinh học, đã
bắt đầu có sự lựa chọn, mang tính định
hướng, được thể hiện thông qua các hình
thức như sự kích thích ở thực vật, sự phản
xạ ở động vật.
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế
giới hiện thực, ý chí chỉ nảy sinh ở giai đoạn
cao nhất của thế giới vật chất, cùng với sự
xuất hiện của con người, ý thức là ý thức của
con người, nằm trong con người, không thể
tách rời con người.Tóm lại bộ óc người
cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ
óc chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
b.nguồn gốc xã hội:
Những tiền đề và điều kiện tự nhiên là
rất quan trọng, không thể thiếu được, song
điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý
thức là những tiền đề và nguồn gốc xã hội; ý
thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ
óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những
quan hệ xã hội.
Nhờ lao động con người tác động vào thế
giới khách quan, bắt chúng phải bộc lộ

những thuộc tính, những kết cấu, những quy
luật vận động của mình thành những hiện
tượng cụ thể tác động vào bộ óc người, đây
chính là hoạt động cải taọ thế giới khách
quan của con người.
Trong quá trình lao động, con người xuất
hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm, trao đổi
tư tưởng cho nhau, từ đó ra đời ngôn ngữ,
do vậy ngôn ngữ là do nhu cầu lao động và
nhờ lao động mà hình thành, ngờ vào hệ
thống những tín hiệu vật chất của ngôn ngữ
mà ý thức tồn tại và được thể hiện, con
người có thể khái quát hóa, trừu tượng hóa
hiện thực khách quan và tác động vào hiện
thực khách quan để phục vụ nhu cầu của
con người.
Như vậy nguồn gốc trực tiếp và quan
trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển
của ý thức chính là lao động, là thực tiễn xã
hội, hay nói cách khác ý thức lẩn phẩm xã
hội, là hiện tượng xã hội.
3.Bản chất của ý thức:
Các nhà duy vật trước Mác thừa nhận
vật chất tồn tại khách quan và ý thức phản
ánh tồn tại khách quan ấy, tuy nhiên do ảnh
hưởng bởi quan điểm siêu hình nên chỉ coi ý
thức là sự phản ánh thụ động ,đơn giản và
mang tính máy móc ,các nhà triết học duy
tâm thì cường điệu tính năng động , sáng tạo
của ý thức dến mức coi ý thức sản sinh ra

vật chất, chứ không phải là sự phản ánh vật
chất.
Khác với các quan điểm trên ,chủ nghĩa
duy vật biện chứng xem ý thức là sự phản
ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc
người một cách năng động và sáng tạo; tính
sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ: ý thức
không phải là bản sao giản đơn,thụ động và
máy móc mà ý thức có thể tạo ra những tri
thức mới trên cơ sở những cái đã có, có thể
tiên đoán, dự báo tương lai thông qua nhận
biết các quy luật khách quan, có thể tạo ra
những giả thiết, lí thuyết khoa học trừu
tượng và có tính khái quát cao…
4. kết cấu của ý thức:
Xét theo chiều ngang; ý thức có kết cấu
phức tạp, bao gồm các yếu tố khác nhau
như: tri thức ,xúc cảm,tình cảm và ý chí,
trong đó tri thức là yếu tố quan trọng nhất.
Trí thức là phương thức tồn tại của ý
thức, tri thức của con người về sự vật hiện
tượng càng nhiều thì ý thức về sự vật hiện
tượng càng sâu sắc(ví dụ minh họa), tri thức
có thể là cảm giác dưới dạng tri giác, cảm
giác và biểu tượng và cũng có thể là tri thức
lí tính như những khái niệm, phán đoán và
suy luận, việc nhấn mạnh tri thức là yếu tố
cơ bản nhất, quan trọng nhất của ý thức giúp
chúng ta tránh được những quan điểm giản
đơn, coi ý thức như là những yếu tố tình

cảm, niềm tin, đó cũng chính la bệnh chủ
quan duy ý chí, không xuất phát từ thực tế
khách quan để nhận thức và vận dụng các
quy luật vào thực tiễn đời sống xã hội một
cách phù hợp, ý thức không có tri thức chỉ là
niềm tin mù quáng, ngược lại tri thức không
biến thành tình cảm, niềm tin và ý chí thì tự
nó không có vai trò gì trong hiện thực.
Xét theo chiều dọc: ý thức bao gồm tự ý
thức, tiềm thức và vô thức ,trong đó, tự ý
2
thức là ý thức về hành vi, tình cảm tư tưởng
và động cơ, lợi ích và địa vị của chính bản
thân con người trong mối quan hệ với ý thức
thế giới khach quan, là yếu tố quan trọng của
ý thức. tiềm thức là những tri thức mà con
người có được từ trước nhưng đã gần như
trở thành bản năng, kĩ năng nằm trong tầng
sâu của ý thức, khi cần thiết những tri thức
ấy quay trở về phục vụ cho hoạt động thực
tiễn của con người. Vô thức là iện tượng tâm
lí điều khiển những hoạt động của con người
xảy ra bên ngoài phạm vi của ý thức hoặc
không có sự chỉ đạo trực tiếp của ý thức.
5.Vai trò của ý thức: khi khẳng định vai
trò quyết định củavật chất đối với ý thức,
chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng thời
cũng vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng
quan trọng của ý thức đối với vật chất.
Tính độc lập tương đối: ý thức do vật

chất sinh ra và quyết định, song sau khi ra
đời ý thức có tính độc lập tương đối tác động
trở lại đối với vật chất, có thể là thúc đẩy
hoặc kiềm hãm quá trình phát triển của sự
vật hiện tượng. (liên hệ thực tế: cần tránh
quan điểm duy vật bình thường và bệnh bảo
thủ trì trệ trong nhận thức và hành động).
Tính dự đoán và sáng tạo :vai trò tích
cực của ý thức không phải ở chỗ nó trực tiếp
tạo ra hay hay thay đổi thế giới vật chất, mà
là tù sự nhận thức thế giới con người có thể
dự báo sự vận động và phát triển trong
tương lai, qua đó hình thành mục đích ,
phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết
cho hoạt động của mình.( liên hệ thực tế;
phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý
thức, đồng thời lấy thực tiễn khách quan làm
căn cứ cho mọi hoạt động của mình, cần
tránh bệnh duy ý chí).

CÂU 8:phân tích bản chất ý thức.Vai trò
của tri thức khoa học trong hoạt động thực
tiển?(TRẢ LỜI NHƯ CÂU 7)
CÂU 9:Phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức?Ý nghĩa của
vấn đề đó?
Vật chất là gì? Phạm trù vật chất là một
trong những phạm trù cơ bản, nền tảng của
chủ nghĩa duy vật, nó chứa đựng bên trong
nội dung thế giới quan và phương pháp

luận, vừa mang tính khái quát vừa mang tính
sâu sắc.
2.phạm trù vật chất được hiểu rất khác
nhau,phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt
động thực tiễn và nhận thức của mỗi con
người trong từng giai đoạn phát triển của
lịch sử;trong các học thuyết duy vật trước
Mác,vật chất được coi là thực thể,mang tính
bất biến của mỗi sự vật,hiện tượng; các nhà
triết học đã đồng nhất vật chất với ngững vật
cụ thể, coi đó là cơ sở đầu tiên của mọi tồn
tại.Đây chính là nguyên nhân để chủ nghĩa
duy tâm lợi dụng chống lại chủ nghĩa duy
vật.
Theo Lênin “Vật chất là phạm trù triết
học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta khép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác”
Vật chất theo định nghĩa của Lênin là
phạm trù triết học ,nó khác với các khái
niệm của khoa học tự nhiên về các đối
tượng và sự vật cụ thể; phạm trù vật chất là
pạm trù rộng nhất trong hệ thống các phạm
trù, nên không thể định nghĩa như những
khái niệm đơn thuần, quy về một khái niệm
rộng hơn và chỉ ra những đặc điểm khác
biệt.
Thuộc tính duy nhất của vật chất là thực

tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, đó là tất cả những gì tồn tại
bên ngoài và độc lập với ý thức, với cảm
giác và đem lại cho chúng ta trong cảm giác;
thuộc tính này thể hiện lập trình của chủ
nghĩa duy vật,vật chất có trước, ý thức có
sau,vật chất là nguồn gốc khách quan của ý
thức,ý thức chỉ là phản ánh thực tại khách
quan và con người có thể nhận được thế giới
vật chất.
Định nghĩa của Lênin về vật chất đã
bao quát cả 2 mặt vấn đề cơ bản của triết
học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật
biện chứng ,nó khắc phục được tính siêu
hình, trực quan trong các quan niệm về vật
chất của triết học trước Mác.
2.ý thức là gì? Ý thức là phạm trù triết
học dùng để chỉ sự phản ánh thế giới khách
quan vào bộ não con người, là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan.
a. nguồn gốc tự nhiên:
Dựa trên những thành tựu khoa học, chủ
nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức
là một thuộc tính của vật chất,nhưng không
phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là một
dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc
của con người,ý thức là chức năng bộ óc
người, hoạt động phụ thuộc vào bộ óc
người, nếu bộ óc người bị tổn thương thì
hoạt động của ý thức sẽ không bình thường

và bị hỗn loạn
Bộ óc người hiện đại là sản phẩm của
quá trình tiến hóa lâu dài từ vượn biến thành
người, là một tổ chức sống đặc biệt với hàng
tỉ tế bào,các tế bào này có liên quan nhau và
với các giác quan khác tạo thành vô số
những quan hệ thu nhận, điều khiển hoạt
động cơ thể con người trong mối quan hệ
với thế giới bên ngoài qua các phản xạ
không điều kiện và các phản xạ có điều
kiện.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà
không có sự tác động của thế giới bên ngoài
thì cũng không có ý thức,phản ánh là thuộc
tế chung của mọi đối tượng của vật chất,là
sự tái tạo những đặc điểm của hệ thống vật
chất khác trong quá trình tác động qua lại
giữa chúng.
Trong quá trình phát triển lâu dài của
thế giới vật chất cho thấy nếu thế giới vật
chất có tổ chức càng phức tạp thì năng lực
phản ánh càng cao; trong giới tự nhiên vô
sinh chỉ phản ánh vật lí ,hóa học ,mang tính
thụ động, chưa có sự lựa chọn; trong giới tự
nhiên hữu sinh phản ánh phát triển lên một
trình độ cao hơn đó là phản ánh sinh học, đã
bắt đầu có sự lựa chọn, mang tính định
hướng, được thể hiện thông qua các hình
thức như sự kích thích ở thực vật, sự phản
xạ ở động vật.

Là hình thức cao nhất của sự phản ánh
thế giới hiện thực, ý chí chỉ nảy sinh ở giai
đoạn cao nhất của thế giới vật chất, cùng với
sự xuất hiện của con người, ý thức là ý thức
của con người, nằm trong con người, không
thể tách rời con người.Tóm lại bộ óc người
cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ
óc chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
b.nguồn gốc xã hội:
Những tiền đề và điều kiện tự nhiên là
rất quan trọng, không thể thiếu được, song
điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý
thức là những tiền đề và nguồn gốc xã hội; ý
thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ
óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những
quan hệ xã hội.
Nhờ lao động con người tác động vào
thế giới khách quan, bắt chúng phải bộc lộ
những thuộc tính, những kết cấu, những quy
luật vận động của mình thành những hiện
tượng cụ thể tác động vào bộ óc người, đây
chính là hoạt động cải taọ thế giới khách
quan của con người.
Trong quá trình lao động, con người
xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm, trao
đổi tư tưởng cho nhau, từ đó ra đời ngôn
ngữ, do vậy ngôn ngữ là do nhu cầu lao
động và nhờ lao động mà hình thành, ngờ
vào hệ thống những tín hiệu vật chất của
ngôn ngữ mà ý thức tồn tại và được thể hiện,

con người có thể khái quát hóa, trừu tượng
hóa hiện thực khách quan và tác động vào
hiện thực khách quan để phục vụ nhu cầu
của con người.
Như vậy nguồn gốc trực tiếp và quan
trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển
3
của ý thức chính là lao động, là thực tiễn xã
hội, hay nói cách khác ý thức lẩn phẩm xã
hội, là hiện tượng xã hội.
3.Bản chất của ý thức:
Các nhà duy vật trước Mác thừa nhận
vật chất tồn tại khách quan và ý thức phản
ánh tồn tại khách quan ấy, tuy nhiên do ảnh
hưởng bởi quan điểm siêu hình nên chỉ coi ý
thức là sự phản ánh thụ động ,đơn giản và
mang tính máy móc ,các nhà triết học duy
tâm thì cường điệu tính năng động , sáng tạo
của ý thức dến mức coi ý thức sản sinh ra
vật chất, chứ không phải là sự phản ánh vật
chất.
Khác với các quan điểm trên ,chủ nghĩa
duy vật biện chứng xem ý thức là sự phản
ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc
người một cách năng động và sáng tạo; tính
sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ: ý thức
không phải là bản sao giản đơn,thụ động và
máy móc mà ý thức có thể tạo ra những tri
thức mới trên cơ sở những cái đã có, có thể
tiên đoán, dự báo tương lai thông qua nhận

biết các quy luật khách quan, có thể tạo ra
những giả thiết, lí thuyết khoa học trừu
tượng và có tính khái quát cao…
3.mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
và ý thức:
a.vật chất quyết định ý thức: từ định
nghĩa vật chất của Lênin cho ta thấy vật chất
là thực tại khach quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, và do đó vật chất là
tính thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết
học, là nguồn gốc khách quan của ý thức,tồn
tại bên ngoài ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con
người có thể nhận biết được hay chưa nhận
biết được.
khi khẳng định vật chất là cái được
cảm giác chúng ta khép lại ,chụp lại, phản
ánh Lenin muốn nhấn mạnh rằng con người
có thể nhận biết được thế giới vật chất; như
vậy định nghĩa của Lenin đã bác bỏ thuyết
không thể biết đồng thời cũng khắc phục
được những khiếm khuyết trong những
quan điểm siêu hình, máy móc về vật chất.
b.Tính độc lập tương đối: ý thức do vật
chất sinh ra và quyết định, song sau khi ra
đời ý thức có tính độc lập tương đối tác động
trở lại đối với vật chất, có thể là thúc đẩy
hoặc kiềm hãm quá trình phát triển của sự
vật hiện tượng. (liên hệ thực tế: cần tránh
quan điểm duy vật bình thường và bệnh bảo
thủ trì trệ trong nhận thức và hành động).

Tính dự đoán và sáng tạo :vai trò tích
cực của ý thức không phải ở chỗ nó trực tiếp
tạo ra hay hay thay đổi thế giới vật chất, mà
là tù sự nhận thức thế giới con người có thể
dự báo sự vận động và phát triển trong
tương lai, qua đó hình thành mục đích ,
phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết
cho hoạt động của mình.( liên hệ thực tế;
phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý
thức, đồng thời lấy thực tiễn khách quan làm
căn cứ cho mọi hoạt động của mình, cần
tránh bệnh duy ý chí).
Sự tác động của ý thức đối với vật chất
được thông qua hoạt động của con
người( liên hệ :cần nâng cao nhận thức của
con người về thế giới vật chất)

CÂU 10: phân tích nguyên lí về mối liên
hệ phổ biến và ý nghĩa phương pháp luận
của nguyên lí ấy?
1.Quan điểm siêu hình về thế giới; xem
sự vật hiện tượng trên thế giới tồn tại tác rời
nhau, giữa chúng không có mối liên hệ ràng
buộc và chuyển hóa cho nhau, nếu có chỉ là
những liên hệ ngẫu nhiên, hời hợt bên ngoài
(ví dụ như: tự nhiên-xã hội, vô cơ-hữu cơ);
phương pháp siêu hình không có khả năng
phát hiện ra cái chung, cái bản chất và quy
luật của sự vận động và phát triển, nguyên
nhân là do trình độ khoa học tự nhiên thời

bấy giờ còn hạn chế.
Quan điểm duy tâm tôn giáo về thế giới:
cố gắng đi tìm cơ sở của sự liên hệ ,sự tác
động qua lại của sự vật hiện tượng ở các lực
lượng siêu tự nhiên, ở ý niệm tuyệt đối
(Heghen) hay ở ý thức, ở cảm giác con
người.
Những người theo quan điểm duy vật
biện chứng thì khẳng định rằng cơ sở của sự
liên hệ qua lại giữa các sự vật hiện tượng
chính là mối liên hệ phổ biến và coi đây là
đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy
vật.
2.mối liên hệ phổ biến mang tính khách
quan, thể hiện ở chỗ các sự vật hiện tượng
tuy đa dạng về hình thức,nhưng tồn tại trong
thể thống nhất của thế giới vật chất, tác động
nhau ràng buộc nhau, quy định và chuyển
hóa cho nhau.
Mối liên hệ phổ biến chẳng những diễn
ra ở mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên,xã
hội và tư duy, mà còn diễn ra đối với các
mặt, các yếu tố ,các quá trình của mọi sự vật
hiện tượng (trong tự nhiên: giữa đọng thực
vật trong xã hội ,giữa cá nhân tập đoàn
người,các quốc qia; trong tư duy: giữa các
hình thức các giai đoạn nhận thức).
Mối liên hệ phổ biến mang tính đa
dạng,bao gồm mối liên hệ bên trong và mối
liên hệ tác động lẫn nhau giữa các bộ phận,

giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác
nhau của sự vật, hiện tượng, nó giữ vai trò
quyết định đối với sự tồn tại, vận đọng và
phát triển của sự vật hiện tượng, mối liên hệ
bên ngoài với các sự vật hiện tượng khác,
mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, mối liên hệ
bản chất và không bản chất, mối liên hệ tất
yếu và ngẫu nhiên, trong đó phép biện
chứng duy vật tập trung ngiên cứu các mối
quan hệ chung, mang tính phổ biến nhất
trong sự vận động của thế giới tự nhiên, xã
hội và tư duy.
3.ý nghĩa phương pháp luận của nguyên
lí về mối liên hệ phổ biến:
Nghiên cứu nguyên lí này cho phép thừa
nhận tính khách quan của tiến trình biện
chứng của thế giới, củng số cơ sở lí luận cho
việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Nó định hướng cho quá trình nhận thức
và hoạt động thực tiễn một cách toàn diện,
khách quan,lịch sử, cụ thể, khắc phục những
sai lầm của tư duy như thiếu khách quan,
phiến diện và duy ý chí khi đánh giá một sự
vật hiên tượng cụ thể.

CÂU 11:phân tích cơ sở lí luận của quan
điểm toàn diện, quan điểm lịch sử, quan
điểm cụ thể?
Quan điểm toàn diện, lịch sử, cụ thể đều
dựa trên nguyên lí về mối liên hệ phổ biến

của thế giới vật chất.Những người theo quan
điểm duy vật biện chứng khẳng định rằng cơ
sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật hiện
tượng là mối liên hệ phổ biến và coi dây là
đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy
vật.
.mối liên hệ phổ biến mang tính khách
quan, thể hiện ở chỗ các sự vật hiện tượng
tuy đa dạng về hình thức,nhưng tồn tại trong
thể thống nhất của thế giới vật chất, tác động
nhau ràng buộc nhau, quy định và chuyển
hóa cho nhau.
Mối liên hệ phổ biến chẳng những diễn
ra ở mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên,xã
hội và tư duy, mà còn diễn ra đối với các
mặt, các yếu tố ,các quá trình của mọi sự vật
hiện tượng (trong tự nhiên: giữa đọng thực
vật trong xã hội ,giữa cá nhân tập đoàn
người,các quốc qia; trong tư duy: giữa các
hình thức các giai đoạn nhận thức).
Mối liên hệ phổ biến mang tính đa
dạng,bao gồm mối liên hệ bên trong và mối
liên hệ tác động lẫn nhau giữa các bộ phận,
giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác
nhau của sự vật, hiện tượng, nó giữ vai trò
quyết định đối với sự tồn tại, vận đọng và
phát triển của sự vật hiện tượng, mối liên hệ
bên ngoài với các sự vật hiện tượng khác,
mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, mối liên hệ
bản chất và không bản chất, mối liên hệ tất

yếu và ngẫu nhiên, trong đó phép biện
chứng duy vật tập trung ngiên cứu các mối
quan hệ chung, mang tính phổ biến nhất
trong sự vận động của thế giới tự nhiên, xã
hội và tư duy.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta
khi xem xét đánh giá một sự vật hiện tượng
phải đặt chúng trong mối quan hệ với các sự
vật hiện tượng khác, phải xem xét tất cả các
mặt. các yếu tố các khâu trug gian, gián tiếp
của chúng, tuy nhiên quan điểm toàn diện
không có nghĩa là xem xét cào bằng, tràn lan
mà phải thấy được từng mối liên hệ, từng
mặt từng yếu tố trong tổng thể của chúng,
vai trò vị trí của từng mối liên hệ…có như
thế ta mới nắm được bản chất của sự vật. Và
vì vậy quan điểm toàn diện bản thân nó bao
hàm cả quân điểm lịch sử, cụ thể.
Chú ý kết hợp quan điểm toàn diện với
xác định trọng tâm, trọng điểm trong chỉ đạo
và điều hành, tạo ra động lực cho sự vận
động và phát triển.

4
CÂU12: phân tích nội dung nguyên lí của
sự phát triển và ý nghĩa thực tiễn của nó?
1.quan điểm siêu hình về thế giới: tuyệt
đối hóa mặt ổn định của sự vật hiện tượng,
phủ nhận sự phát triển; nếu có nói đến sự
phát triển cũng chỉ là quá trình tiến lên liên

tục, không có những bước quanh co phức
tạp, chỉ là sự tăng lên hoặc giảm đi đơn
thuần về mặt số lượng, là sự tuần hoàn, sự
lặp lại chứ không có sự thay đổi về chất,
không có sự ra đời của cái mới và nguồn
gốc của chúng nằm bên ngoài sự vật hiện
tượng.
Quan điểm duy tâm tôn giáo về thế giới:
thừa nhận thế giới vận động và phát triển
nhưng bị chi phối bởi lực lượng bên ngoài,
của năng lực siêu tự nhiên, của ý niệm tuyệt
đối.
Những người theo quan điểm duy vật
biện chứng thì khẳng định ‘phát triển là
phạm trù triết học dùng để chỉ khái quát quá
trình vận động tiến lên từ thấp tới cao, từ
đơn giản đến phức tạp ,từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn” theo quan điểm đó phát
triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận
động.
2. Vận động bao hàm toàn bộ những sự
biến đổi nói chung, là phương thức tồn tại
của vật chất, là thuộc tính vốn có và không
thể tách rời của vật chất;điều này cũng có
nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động
và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn
tại của mình, không thể có vật chất mà
không vận động và ngược lại.
Theo quan điểm duy vật biện chứng
,vận động của vật chất là sự tự thân vận

động,là sự tác động qua lại giũa các yếu tố,
các mặt,các quá trình đang tồn tại bên trong
sự vật hiện tượng ; quan niệm này hoàn toàn
đối lập với quan điểm duy tâm và siêu hình
về vận động ,cho rằng vận động có nguồn
gốc và chịu sự tác động từ bên ngoài chứ
không phải xuất phát từ bên trong của sự vật
hiện tượng.
Dựa vào những thành tựu của khoa học
tự nhiên và triết học,Anghen đã phân loại
các hình thức vận động cơ bản của vật
chất,bao gồm: vận động cơ giới(sự di
chuyển vị trí của các vật thể),vận động vật lí
(sự vận động của các hạt cơ bản),vận động
hóa học(các quá trình phân giải,hóa hợp các
chất),vận động sinh học(sự trao đổi chất
giữa cơ thể sống với môi trường),vận động
xã hội(là quá trình biến đổi, thay thế các
hình thái kinh tế-xã hội)
Mỗi dạng vật chất cụ thể bao giờ cũng
được đặc trưng bởi một hình thức vận động
cơ bản xác định ; dạng vận động sau cao
hơn dạng vận động trước.Tuy có sự khác
nhau về chất, nhưng giữa các hình thức vận
động có liên hệ, tác động, chuyển hóa qua
lại, và đây cũng là sự thể hiện sự phát triển
của thế giới vật chất từ hình thức thấp đến
hình thức cao.
Đứng im là trạng thái vận động trong
cân bằng,chỉ mang tính tương đối;nếu

không có đứng im tương đối thì không có sự
phân hóa thế giới vật chất thành các sự vật
hiện tượng phong phú đa dạng.
3.khái niệm phát triển không bao quát
mọi sự vận đọng nói chung nó chỉ khái quát
xu hướng chung của vận động, xu hướng
vận động đi lên, cái mới thay thế cái cũ.
Trong giới vô cơ, sự phát triển biểu hiện
dưới hình thức biến đổi của các yếu tố làm
xuất hiện những hợp chất phức tạp (nguyên
tử với phân tử tạo nên hợp chất mới), trong
sinh vật sự phát triển thể hiện ở khả năng
thích nghi trước sự biến đổi phức tạp của
môi trường, ở sự hoàn thiện không ngừng
quá trình trao đổi chất, trong đời sống xã
hội, sự phát triển thể hiện ở sự thay thế nhau
ngày càng cao hơn các phương thức sản
xuất xã hội, trong tư duy, thể hiện ở khả
năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ
và đúng đắn hơn về hiện thực tự nhiên và xã
hội.
Quan điểm duy vật biện chứng về sự
phát triển thừa nhận tính khách quan của sự
phát triển, và cho rằng nguồn gốc của sự
phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật
hiện tượng,do mâu thuẫn các mặt bên trong
sự vật quy định, quá trình phát triển thể hiện
sự quanh co và phức tạp, trong đó có thể có
bước thụt lùi tương đối, là kết quả của quá
trình thay đổi về lượng dẫn đến thay đối về

chất.
Quan điểm duy vật biện chứng của sự
phát triển thừa nhận tính phổ biến của sự
phát triển, và cho rằng sự phát triển diễn ra
trên tất cả mọi lĩnh vực từ thế giới tự nhiên,
xã hội và tư duy, từ hiện thực khách quan
đến những khái niệm ,những phạm trù phản
ánh hiện thực ấy…
4.ý nghĩa thực tiễn của nguyên lí về sự
phát triển:
Bản chất khách quan của quá trình vận
động và phát triển đòi hỏi chúng ta trong quá
trình xem xét sự vật hiện tượng cần phải có
quan điểm phát triển, phải đặt chúng trong
sự vận động phát triển,phải phát hiện ra các
xu hướng biến đổi,chuyển hóa và khuynh
hướng phát triển trong tương của chúng, từ
đó có biện pháp thích hợp.
Sự phát triển của sự vật hiện tượng trong
thực tế là quá trình biến chứng đầy những
mâu thuẫn, do vậy trong qua trình nhận thức
đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ tính quanh co,
phức tạp của quá trình như là một hiện
tượng phổ biến,phải đi tìm nguyên nhân bên
trong của sự vật hiện tượng,của tiến trình
vận động, thiếu quan điểm khoa học này
người ta dễ bi quan dao động khi tiến trình
vận động tạm thời gặp khó khăn,trắc trở,
chống tư tưởng bảo thủ,trì trệ và định kiến.


CÂU 13: phân tích nội dung “quy luật
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập” ,ý nghĩa của nó đối với quan điểm vừa
hợp tác vừa đấu tranh trong giai đoạn hiện
nay?
Quy luật thống nhát và đấu tranh giữa các
mặt đối lập, còn gọi là quy luật mâu thuẫn,
là hạt nhân của phép biện chứng,nó vạch ra
nguồn gốc bên trong sự vận động và phát
triển của sự vật hiện tượng
1.khái niệm:
a.Đối lập,mặt đối lập là phạm trù triết
học dùng để chỉ những mặt có những đặc
điểm, những thuộc tính ,những khuynh
hướng,biến đổi trái ngược nhau,tồn tại một
cách khách quan trong tự nhiên,xã hội và tư
duy; chính những mặt đối lập này nằm trong
sự liên hệ tác động qua lại với nhau tạo
thành mâu thuẫn biện chứng.
b.Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là
sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của
các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này làm
tiền đề cho sự tồn tại của mặt kia; chúng
luôn tác động qua lại và đấu tranh lẫn nhau
theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau
giữa các mặt đối lập.
2. Nội dung quy luật: trong mỗi sự vật
hiện tượng hay quá trình nào đó luôn chứa
đựng những mặt, những khuynh hướng đối
lập nhau tạo thành những mâu thuẫn trong

bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập tạo thành xung lực nội
tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự
mất đi của cái cũ và nhường chỗ cho sự ra
đời của cái mới.
3. phân tích nội dung quy luật:
a. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và
mang tính phổ biến, là nguồn gốc của sự vận
động và phát triển :
những nhà triết học theo quan điểm siêu
hình phủ nhận mâu thuẫn bên trong của sự
vật hiện tượng, chỉ thừa nhận có sự đối
kháng, sự xung đột bên ngoài giữa các sự
vật hiện tượng với nhau, nhưng không cho
đó là có tính quy luật.
Phép biện nhứng duy vật khẳng định
rằng, mọi sự vật hiện tượng trong thế giới
đều tồn tại mâu thuẫn bên trong, mỗi sự vật
hiện tượng đều là một thể thống nhất giữa
các mặt ,các thuộc tính, các khuynh hướng
đối lập nhau, những mặt đối lập nhau nhưng
ràng buộc nhau nên nó tạo thành mâu thuẫn.
Mâu thuẫn chẳng những là hiện tượng
khách quan mà còn là hiện tượng phổ biến,
mâu thuẫn tồn tại khách quan trong thế giới
tự nhiên, xã hội và tư duy con người; tồn tại
phổ biến chẳng những ở mọi sự vật hiện
tượng mà còn phổ biến ở mọi sự vận động
và phát triển của chúng, mâu thuẫn này mất
đi thì mâu thuẫn khác lại được hình thành.

b.Sự thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập:
khái niệm ‘thống nhất” trong quy luật
mâu thuẫn có nghĩa là 2 mặt đối lập nhau,
ràng buộc nhau và quy định lẫn nhau, mặt
này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn tại và phát
triển. (ví dụ: đồng hóa và dị hóa, giai cấp vô
sản và giai cấp tư sản trong xã hội tư bản
chủ nghĩa).
5
Khái niệm” thống nhất” trong quy luật
mâu thuẫn còn đồng nghĩa với khái niệm
“đồng nhất’, đó là sự thừa nhận những
khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau
trong tất cả các hiện tượng, các quá trình của
tự nhiên ,xã hội và tư duy,song “đồng nhất
“còn có ý nghĩa khác, đó là sự chuyển hóa
lẫn nhau giữa các mặt đối lập; và như vậy sự
“đồng nhất “ là không tách rời với sự khác
nhau và đối lập,( ví dụ liên hệ: một vật vừa
là nó vừa không phải là nó, quan điểm này
hoàn toàn đối lập với quan điểm siêu hình,
phiến diện, xem sự vật mang tính đồng nhất
thuần túy khong có đối lập, không có sự
chuyển hóa.
Trong một mâu thuẫn ,sự thống nhất
của các mặt đối lập không thể tách rời sự
đấu tranh bài trừ nhau, phủ định nhau giữa
chúng, hình thức đấu tranh được thể hiện
trong thế giới vật chất là rất đa dạng, từ thấp

tới cao, từ đơn giản đến phức tạp (ví dụ:
trong thế giới tự nhiên chỉ là những tác động
ảnh hưởng lẫn nhau, trong xã hội đó là
những xung đột gay gắt, quyết liệt bằng bạo
lực cách mạng mới có thể giải quyết căn bản
các mâu thuẫn).
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là một
quá trình phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn
với những đặc điểm riêng của nó, khi mới
xuất hiện, mâu thuẫn thường được thể hiện
ở sự khác nhau của 2 mặt có khuynh hướng
trái ngược nhau, trong quá trình phát triển
của mâu thuẫn, sự khác nhau đó biến thành
sự đối lập, khi 2 mặt đối lập xung đột nhau
gay gắt, nếu có điều kiện chín muồi sẽ
chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải
quyết; kết quả là sự thống nhất giữa 2 mặt
đối lập cũ bị phá hủy, sự thống nhất của 2
mặt đối lập mới được hình thành cùng với
mâu thuẫn mới.
Bất cứ sự thống nhất của các mặt đối
lập cụ thể nào cũng đều có tính chất tạm thời
tương đối, nghĩa là nó tồn tại trong trạng thái
đứng im tương đối của sự vật hiện tượng,
còn sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là có
tính chất tuyệt đối, nghĩa là nó phá vỡ sự ỗn
định dẫn đến sự chuyễn hóa về chất của các
sự vật hiện tượng, làm cho vật chất luôn tồn
tại và phát triển.
3.Các loại mâu thuẫn: mâu thuẫn trong

tự nhiên ,xã hội và tư duy tồn tại rất đa dạng,
tính đa dạng được quy định bởi đặc điểm
của các mặt đối lập, diều kiện thực hiện sự
tác động qua lại giữa các mặt đối lập, bởi
trình độ tổ chức của hệ thống mà trong đó
mâu thuẫn tồn tại.
Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập,
người ta phân loại thành mâu thuẫn bên
trong và mâu thuẫn bên ngoài, trong đó,
mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại
giữa các mặt, các khuynh hương đối lập của
cùng một sự vật hiện tượng, mâu thuẫn bên
ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan
hệ với sự vật hiện tượng khác, (ví dụ; đồng
hóa-dị hóa: bên trong; cơ thể-môi trường:
bên ngoài); cách phân loại này chỉ mang tính
tương đối, các mâu thuẫn tác động lẫn nhau
và mâu thuẫn bên trong giữ vai trò quyết
định trực tiếp đến sự vận động và phát triển
của sự vật hiện tượng (ví dụ:chính sách đối
nội-đối ngoại).
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tòn tại và
phát triển của toàn bộ sự vật ,hiện tượng,
người ta phân thành mâu thuẫn cơ bản và
mâu thuẫn không cơ bản; mâu thuẫn cơ bản
là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật
hiện tượng, quy định sự phát triển ở tất cả
các giai đoạn của sự vật hiện tượng; mâu
thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng
cho một phương diện nào đó của sự vật ,nó

quy định sự vận động phát triển một mặt nào
đó của sự vật (liên hệ: mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất trong xã
hội tư bản chủ nghĩa).
Căn cứ vào vai trò mâu thuẫn được chia
thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ
yếu, mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi
lên hàng đầu trong 1 giai đoạn phát triển
nhất định của sự vật hiện tượng, giải quyết
nó tạo điều kiện giải quyết các mâu thuẫn
thứ yếu, phân biệt các mâu thuẫn chủ yếu
với mâu thuẫn thứ yếu chỉ mang tinh tương
đối, trong cùng 1 sự vật trong điều kiện này
là mâu thuẫn thứ yếu, trong điều kiện khác
là mâu thuẫn chủ yếu.
Căn cứ vào tính chất các lợi ích đối lập
trong xã hội, người ta phân chia thành mâu
thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối
kháng, mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn
giữa những giai cấp, những tập đoàn người,
những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối
lập nhau(ví dụ) ,mâu thuẫn không đối kháng
là mâu thuẫn giữa những lực lượng, những
khuynh hướng xã hội có đối lập về lợi ích
nhưng mang tính cục bộ, tạm thời (ví dụ:
mâu thuẫn trong các bộ phận công nhân,
giữa thành thị-nông thôn). Phân biệt được
các loại mâu thuẫn trên sẽ góp phần xác
định chính xác phương pháp giải quyết phù
hợp: bằng bạo lực cách mạng hay bằng giáo

dục thuyết phục.
4.ý nghĩa phương pháp luận:
Phải thừa nhận tính khách quan của mâu
thuẫn, yêu cầu này đồi hỏi chúng ta phải biết
phân tích các mặt đối lập của mâu thuẫn,
nắm được bản chất của sự vật, khuynh
hướng vận đọng và phát triển của chúng.
Hoạt động thực tiễn nhằm biến đối sự vật
là quá trình giải quyết mâu thuẫn của nó,
muốn vậy phải xác định đúng trạnh thái chín
muồi của mâu thuẫn, tìm ra phương thức,
phương tiện và lực lượng có khả năng giải
quyết mâu thuẫn; không nên giải quyết mâu
thuẫn 1 cách vội vàng khi chưa đủ điều kiện.
Mâu thuẫn phải được giải quyết bằng con
đường đấu tranh dưới nhiều hình thức khác
nhau,tùy loại mâu thuẫn mà có phương pháp
giải quyết cụ thể.

CÂU 14: Phân tích nội dung của quy
luật:”từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất và ngược lại”, ý nghĩa
phương pháp luân của quy luật này trong
hoạt động thực tiễn?
1.khái niệm:
a.Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ
tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng,
là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính,
những yếu tố cấu thành sự vật, phân biệt sự
vật này với sự vật khác (ví dụ :cách mạng vô

sản và cách mạng tư sản khác nhau về chất)
khái niệm về chất không đồng nhất với
khái niệm thuộc tính, mỗi sự vật có nhiều
thuộc tính, có thuộc tính cơ bản và thuộc
tính không cơ bản, những thuộc tính này
không tham gia vào việc quy định chất như
nhau, chỉ có những thuộc tính cơ bản mới
nói lên chất của sự vật, bởi vì trong quá trình
vận động và phát triển của sự vật những
thuộc tính không cơ bản có thể thay đổi hoặc
mất đi, còn những thuộc tính cơ bản quy
định về chất chưa thay đổi, chỉ khi nào thuộc
tính cơ bản thay đổi thì chất mới thật sự thay
đổi.
Các nhà triết học duy tâm cho rằng chất
chỉ là cảm giác chủ quan của con người, các
nhà triết học theo quan điểm siêu hình thì
coi chất là những gì tồn tại thuần túy tách
khỏi sự vật; chỉ có phép biện chứng duy vật
khẳng định chất là cái vốn có của sự vật, nó
tồn tại khách quan cùng sự vật, không tách
rời sự vật.
b.Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ
tính quy định vốn có của sự vật biểu thị số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự
vận động và phát triển của sự vật cũng như
các thuộc tính của nó.
Sự vật hiện tượng càng phức tạp thì
những thông số về lượng càng phức tạp,
trong tự nhiên và xã hội có những lượng

được diễn tả bằng những con số chính xác,
nhưng cũng có những lượng khó diễn tả
bằng những số liệu cụ thể, mà chỉ có thể
nhận thức bằng khả năng trừu tượng hóa (ví
dụ: nhận thức của con người về thế giới); có
những lượng là nhân tố quy định bên trong
sự vật (ví dụ: số lượng nguyên tử hợp thành
nguyên tố hóa học), nhưng cũng có những
lượng chỉ nói lên nhân tố bên ngoài của sự
vật (ví dụ: chiều cao, cân nặng…).
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ
mang tính tương đói, tùy thuộc vào từng
mối quan hệ của sự vật, có cái trong mối
quan hệ này là chất, trong mối quan hệ khác
là lượng.
2.Nội dung quy luật: quy luật lượng chất
là quy luật về sự tác động biện chứng giữa
lượng và chất; những thay đổi về lượng dẫn
đến những thay đổi về chất và ngược lại;
chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt
biến đối hơn, lượng biến đổi mâu thuẫn với
chất cũ, phá vỡ chất cũ, chất mới được hình
thành với lượng mới,quá trình tác động lẫn
nhau giữa lượng và chất làm cho sự vật
không ngừng vận động và phát triển.
Bất cứ sự vật hiện tượng nào tồn tại trong
sự thống nhất giữa chất và lượng, 2 mặt đó
không tách rời nhau mà tác động nhau 1
cách biện chứng, trong sự vật hiện tính quy
6

định chất không tồn tại nếu không có tính
quy định về lượng, khi sự vật đang tồn
tại,chất và lượng thống nhất với nhau ở 1 độ
nhất định.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự
thống nhất giữa lượng và chất, nó là khoảng
giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng
chưa làm thay đổi căn bản về chất. (ví dụ:
nước tùy theo độ cao mà có trạng thái khác
nhau).
Trong phạm vi một độ nhất định,2 mặt
chất và lượng tác động qua lại với nhau làm
cho sự vật và hiện tượng vận động và biến
đổi, sự vận động và biến đổi của sự vật bao
giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng,
quá trình này diễn ra một cách từ từ theo
cách thức tăng dần hoặc giảm dần; khi
lượng thay đổi đến 1 giới hạn nhất định dẫn
đến sự thay đổi về chất, giới hạn đó phụ
thuộc vào từng sự vật hiện tượng cụ thể.
Sự thay đổi về chất được coi là bước
nhảy, nó là bước ngoặt cơ bản trong sự biến
đổi dần dần về lượng, là sự kết thúc một giai
đoạn biến đổi về lượng, nó là sự gián đoạn
trong quá trình vận động liên tục của sự vật,
nhưng nó không chấm dứt sự vận động nói
chung, mà chỉ chấm dứt 1 dạng tồn tại của
sự vật; kết quả sự vật cũ mất đi, sự vật mới
ra đời với sự thống nhất của chất và lượng
mới (ví dụ: lực lượng sản xuất phát triển đến

1 trình độ nhất định xảy ra xung đột với
quan hệ sản xuất hiện có đòi hỏi phải có sự
thay đổi bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp
hơn).
Tính chất của bước nhảy được quyết định
bởi tính chất của từng sự vật, bởi mâu thuẫn
vốn có và bởi điều kiện trong đó diễn ra sự
thay đỏi về chất; có các loại bước nhảy như:
Bước nhảy đột biến khi chất của sự vật
biến đổi nhanh chóng ở tất cả các bộ phận
cấu thành nên nó (ví dụ ;cách mạng tháng
8), bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi
về chất diễn ra bằng con đường tích lũy dần
những nhân tố của chất mới và mất đi dần
những nhân tố của chất cũ (ví dụ: cách mạng
XHCN nước ta đi từ nền kinh tế lạc hậu
từng bước quá độ lên CNXH).
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm
thay đổi về chất tất cả mọi mặt, các bộ phận,
các yếu tố cấu thành sự vật; bước nhảy cục
bộ là bước nhảy làm thay đổi về 1 số mặt, 1
số yếu tố của sự vật (ví dụ: hình thái kinh tế
xã hội).
3.Ý nghĩa phương pháp luận:
Tránh quan niệm sai lầm chỉ cần phát
triển về lượng, rơi vào chủ nghĩa hữu
khuynh, bảo thủ, sợ đổi mới, sợ cách mạng,
sợ nhảy vọt.
Tránh tư tưởng tả khuynh ,gượng ép cách
mạng, gượng ép sự nhảy vọt về chất mà

không có sự chuẩn bị chu đáo, thực chất đó
là căn bệnh chủ quan, nóng vội,duy ý chí
,không tính đến sự tích lũy, sự chuẩn bị chu
đáo.
Phải có thái độ khách quan khoa học và
có quyết tâm cao trong việc thực hiện các
bước nhảy khi điều kiện cho phép.

CÂU 15: phân tích nội dung của quy
luật :”phủ định của phủ định’; ‘ý nghĩa
phương pháp luận của quy luật này trong
hoạt động thực tiễn’?
1.Khái niệm:
Phủ định: thế giới vật chất vận động và
phát triển không ngừng; một dạng vật chất
nào đó sinh ra; tồn tại, mất đi được thay thế
bằng 1 dạng vật chất khác,triết học gọi sự
thay thế đó là phủ định, là 1 yếu tố phải có
trong quá trình vận động và phát triển của
vật chất.
Phép biện chứng duy vật không đề cập
đến sự phủ định chung, mà chỉ nói đến sự
phủ định làm tiền đề,tạo điều kiện cho sự
phát triển, cho cái mới ra đời thay thế cái cũ,
đó là sự phủ định biện chứng.
Phủ định biện chứng có những đặc điểm
sau:
-Tính khách quan: những nhà triết học
theo quan điểm siêu hình cho rằng phủ định
là nguyên nhân bên ngoài đưa lại, xem sự

vật hiện tượng là cái bị cô lập, tách rời
nhau,phép biện chứng duy vật khẳng định
nguyên nhân của phủ định để cái mới ra đời
thay thế cái cũ chính là kết quả giải quyết
những mâu thuẫn bên trong sự vật, vì vậy
phủ định có tính khách quan, là yếu tố tất
yếu của sự phát triển (ví dụ: CNXH phủ
định chủ nghĩa tư bản chính là kết quả của
việc giải quyết mâu thuẫn cơ bản, vốn có,
khách quan trong lòng xã hội tư bản, đó là
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan
hệ sản xuất).
-tính kế thừa: những nhà triết học theo
quan điểm siêu hình, coi phủ định là xóa bỏ
hoàn toàn cái cũ, chấm dứt sự liên hệ,sự vận
động và sự phát triển của bản thân sự vật;
còn quan điểm của những nhà triết học biện
chứng duy vật thì phủ định biện chứng là kết
quả của sự tự thân phát triển để tạo cái mới,
ko thể là 1 sự phủ định tuyệt đối, PĐ sạch
trơn mà là sự PĐ có kế thừa, cái mới ra đời
trên cơ sở chọn lọc giữ lại và cải tạo những
mặt còn thích hợp của cái cũ, nó chỉ gạt bỏ
đi những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu, gây
cản trở cho sự phất triển( ví dụ: sự duy
truyền của sinh vật; các hình thái kinh tế xã
hội, trong xã hội loài người trong tư duy
nhận thức của con người)
2. Nội dung quy luật: Thế giới vận động ko
ngwngf thông qua quá trình phủ định của

phủ định; tức là sự vật mới ra đồi như là kết
quả của sự phủ định biện chứng cái cũ, rồi
đến lược nó bị cái mới hơn phủ định, cứ thế
tạo ra khuynh hướng vận động và phát triển
của sự vật từ thấp đến cao 1 cách vô tận theo
hình xoắn ốc; sau mỗi chu kỳ của sự phát
triển, sự vật lại trở lại cái ban đầu nhưng trên
cơ sở mới, cao hơn.
Sự phát triển theo khuynh hướng phủ định
của phủ đinh đã từng được các nhà biện
chứng tự phát nêu ra, song do chưa nhận
thức sâu sắc tính biện chứng của quá trình
phát triển nên đã tuyệt đối hóa tính ;lặp lại
sau 1 chu kỳ phát triển, coi đó như là 1 quá
trình diễn ra theo vòng tròn khép kín.
Những nhà triết học duy vật biện chứng thì
cho rằng sự vận động diễn ra theo nhiều xu
hướng, tính vô cùng vô tận của thế giới vật
chất cũng được biểu hiện trong tính vô cùng
vô tận của các khuynh hướng vận động;
theo đó sự vận động theo vòng tròn khép kín
chỉ là 1 trong những khuynh hướng có thể,
đó ko phải là khuynh hướng duy nhất.
Sự phát triển biện chứng thông qua nhiều
lần phủ định biện chứng, chính là sự thống
nhất loại bỏ, kế thừa và phát triển; mỗi lần
phủ định biện chứng sẽ mang ;lại những
nhân tố tích cực mới; do đó sự phát triển
thông qua những lần phủ định biện chứng sẽ
tạo ra xu hướng tiến lên ko ngừng; sự phát

triển tiến lên ko ngừng đó, ko phái diển ra
theo đường thẳng mà theo đường xoắn ốc,
mỗi vòn xoáy biểu hiện một trình độ cao
hơn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự
phát triển do mâu thuẩn; mỗi lần phủ định là
kết quả đấu tranh chuyển hóa các mặt đối
lập trong bản thân sự vật, sự phủ định lần
thứ nhất được thực hiện một cách căn bản sẽ
làm cho sự vật cũ trở thành cái đối lập của
mình; lần phủ định tiêp theo dẫn đến sự ra
đời của sự vật mới mang nhiều đặc trưng đối
lập với cái trung gian, như vậy về hình thức
sẽ trở lại cái xuất phát nhưng về thực chất ko
phải giống nguyên cái cũ, mà dường như lặp
lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Số lượng các lần phủ định trong 1 chu kỳ
phát triển cụ thể, trong thực tế có thể nhiều
hơn hay tùy theo tính chất của 1 quá trình
phát triển cụ thể. (ví dụ: hạt lúa: 2, tơ tằm: 4)
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu
biết 1 cách đúng đắn về xu hướng của sự
phát triển và được diển ra trong quá trình
quanh co, phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh
vực đời sống xã hội.
Quyluật phủ định của phủ định giúp ta có
cái nhìn về xu thế của thời đại mà ta đang
sống, mặc dù hệ thống XHCN đã tan rã, qua
đó xây dựng niềm tin tất thắng của CNXH

đối với CNTB.
Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu
biết đầy đủ hơn về cái mới, cái mới là cái ra
đời phù hợp với quy luật phát triển của sự
vật, nó luôn biểu hiện là giai đoạn cao về
chất trong sự phát triển, trong lĩnh vực tự
nhiên cái mới ra đời mang tính tự phát, trong
lĩnh vực xã hội cái mới xuất hiện gắn liền
với sự nhận thức và hoạt động có ý thức của
con người, qua đó xây dựng thái độ ủng hộ
cái mới, đấu tranh loại trừ cái cũ trong đời
sống xã hội.
7
Câu 16: Phân tích nội dung cơ bản của cặp
phạm trù” Cái chung và cái riêng”; Ý nghĩa
phương pháp luận của nó trong hoạt động
thực tiển?
1. Một số khái niệm:
-Cái riêng là phạm trù triết học được dùng
đẻ chỉ 1 sự vật hiện tượng, 1 quá trình riêng
lẻ nhất định (ví dụ: 1 hành tinh,1 cuộc cách
mang,1 con người,)
-Cái chung là 1 phạm trù triết học được
dùng đẻ chỉ những mặt ,những thuộc tính
chung không những có ở1 kết cấu vật chất
nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều
sự vật ,hiện tượng,hay quá trình riêng lẽ
khác(vd; vận động, mâu thuẫn, lượng, chất).
-Cái đơn nhất là 1 phạm trù triết học dùng
đẻ chỉ những nét những mặt ,những thuộc

tính chỉ có ở 1 kết cấu vật chất cố định và
không được lặp lại ở bất cứ kết cấu vật chất
nào khác (vd: giai cấp công nhân VN trong
những năm trước cách mạng tháng 8)’
2.Mối liên hệ biện chứng:
- Cái riêng và cái chung đều tồn tại khách
quan: trong lịch sử triết học tồn tại 2 quan
điểm đối lập nhau về mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng; phái duy thực cho rằng
cái chung mới tồn tại khách quan ,độc lập
với ý thức con người, không phụ thuộc vào
Cái riêng,sinh ra cái riêng; phái duy danh
thì cho rằng chỉ có cái riêng mới tồn tại
khách quan, cái chung là những khái niệm
do con người sáng tạo ra.
Phép biện chứng duy vật khẳng định cả
cái riêng và cái chung đêu tồn tại 1 cách
khách quan, chúng có mối quan hệ hữu cơ
với nhau; thể hiện ở chỗ :cái chung tồn tại
trong cái riêng và thông qua cai riêng mà
biểu hiện sự tồn tại của mình; cái riêng ko
tồn tại 1 cách độc lập mà chỉ tồn tại trong
MQH với cái chung (vd: các phương thức
SX trong XH loài người là những cái riêng
về trình độ ,dân số…nhưng chúng có cái
chung là do 2 yếu tố hợp thành: QHSX,
LLSX,và quy luật về sự phù hợp giữa
QHSX với tính chất và trình độ của LLSX ).
-Cái riêng là cái toàn bộ phong phú hơn
cái chung, cái chung là cái bộ phận nhưng

sâu sắc hơn,bản chất hơn cái riêng:
Cái riêng phong phú hơn cái chung bởi vì
ngoài những đặ điểm gia nhập vào cái
chung, cái riêng còn có những đặc điểm
riêng biệt mà chỉ có nó có (vd: Giai cấp TS
Việt Nam ngoài đặc điểm chung như gc TS
là áp bức, bóc lột gcVS, nó còn có đặc điểm
riêng là ra đời sau gcVS Việt Nam)
Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng, bởi
vì nó phản ánh những mặt, những thuộc
tính, những mối kiên hệ bên trong, tất nhiên,
ổn định và phổ biến tồn tại trong cái riêng
cùng loại, vì vậy cái chung là cái bản chất,
quy định phương hướng tồn tại và phát triển
của sự vật.
-Trong những đ.kiện nhất định, cái đơn nhất
và cái chung có thể chuyển hóa cho nhau; sự
chuyển hóa cái đơn nhất thành cái chung là
biểu hiện của tiến trình phát triển đi lên, cái
mới ra đời thay thế cái cũ, cái lỗi thời đã bị
phủ định( vd: trong điều kiện sống bị thay
đổi, 1 số cá có thể thay đổi cách sống để
thích nghi và dần thành cái chung cho cả
loài, đó là quá trình cái đơn nhất chuyển
thành cái chung ; ngược lại, những đặc điểm
chung của loài ko còn thích nghi, sẽ bị mất
dần trong từng cá thể thì đó là quá trình
chuyển hóa cái chung thành cái đơn nhất).
3.Ý nghĩa phương pháp luận:
-Chỉ có thể tìm cái chung thông qua khái

quát hàng loạt cái riêng, tùy thuộc vào năng
lực khái quát của từng con người, trong thực
tiễn phái cần chú ý phát hiện cái riêng điển
hình để khái quát thành cái chung (vd: nhân
điển hình tiên tiến).
-Cái chung chỉ tồn tại thông qua cái
riêng,cho nên khi áp dụng cái riêng không
được rập khuôn, máy móc ,mà phải biết cụ
thể hóa, cá biệt hóa, thích nghi hóa tùy theo
điều kiện cụ thể (vd;CMVN thắng lợi là 1
vd điển hình về sự vận động sáng tạo, gắn
giải phóng dân tộc với CNXH và tinh thần
đoàn kết tát cả các lực lượng nhằm đánh đổ
thực dân và phong kiến)
-Quan hệ giữa cái chung và cái riêng là rất
mật thiết, cho nên ko được giải quyết 2 vấn
đề trên 1 cách biệt lập, tách rời nhau.
- Nâng nhận thức lên cái chung, cái khái
quát, cái bản chất, cái quy luật nhằm định
hướng hoạt động thực tiễn có hiệu quả cao
hơn( vd: tổng kết,rút kinh nghiệm trong
công tác chỉ đạo và điều hành).
-Phải xây dựng tính tích cực tác động
theo 2 hướng, thúc đẩy cái đơn nhất thành
cái chung, nếu cái đơn nhất là tích cực và
tiến bộ; hạn chế mặt tiêu cực, trái quy luật
khách quan của cái chung, chuyển hóa dần
trở thành cái đơn nhất.

CÂU 17: phân tích nội dung cơ bản của

cặp trù “Tất nhiên và ngẫu nhiên” ý nghĩa
pháp luận của nó trong hoạt động thực tiển?
1. một số khái niệm:
Tất nhiên là cái do bản chất, do những
nguyên nhân cơ bản bên trong của sự vật
hiện tượng quyết định và trong những điều
kiện nhất định nó phải xảy ra như thế chứ
không thể khác.
Ngẫu nhiên là cái không do mối quan hệ
bản chất, bên trong quyết định mà nó là do
sự ngẫu hợp của những hoàn cảnh bên ngoài
quyết định,do đó nó có thể xuất hiện như thế
này hay thế khác(ví dụ: giai cấp tư sản bốc
lột công nhân lao động là tất nhiên,còn sản
xuất ra cái gì đó là ngẫu nhiên).
Cần chú ý rằng,cả cái tất nhiên và cái
ngẫu nhiên tồn tại đều có nghiên nhân,
nhưng không phải mọi hiện tượng đều tất
nhiên xuất hiện.
2. mối quan hệ biện chứng:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng : tất
nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại một cách
khách quan , ở bên ngoài và độc lập với ý
thức con người. Trong quá trình phát triển
của sự vật , không chỉ có cái tất nhiên mới
đong vai trò quan trọng ,mà ngay cả cái
ngẫu nhiên cũng có vai trò của nó; nếu tất
nhiên chi phối sự phát triển của sự vật ,lam
cho sự vật diễn ra nhanh hơn hoặc chậm
hơn.

Tuy tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại ,
nhưng chúng không tồn tại một cách độc lập
nhau dưới dạng thuần túy ;nghĩa là không có
tất nhiên thuần túy ngẫu nhiên thuần túy;
chúng tồn tại trong sự thông nhất hữu cơ, thể
hiện ở chổ cái tất nhiên bao giờ cũng vạch
đường đi cho mình qua vô số cái ngẫu nhiên
;còn ngẫu nhiên là hình thúc biểu hiện của
tất nhiên, đồng thời bổ sung cho cái tất nhiên
; điều này cho thấy rằng cái tất nhiên bao giờ
cũng là khuynh hướng của sự phát triển,
nhưng khuynh hướng ấy mỗi khi bộc lộ thì
bộc lộ dưới một trong nhưng hình thức của
cái ngẫu nhiên(Ví dụ :sự xuất hiện anh hùng
là tất nhiên, song là ai thì đó là ngẫu nhiên).
Ranh giớ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ
mang tính tương đối, bởi vì chúng không
phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà
thường xuyên thay đổi, phát triển và trong
những điều kiện xác định chúng chuyển hóa
lẫn nhau, tất nhiên trở thành ngẫu nhiên và
ngược lại (vd:trong xã hội cộng sản nguyên
thủy việc trao đổi hàng hóa là ngẫu nhiên,
song về sau do sản xuất phát triển xã hội có
nhiều hàng hóa hơn nên việc trao đổi trở
thành cái tất nhiên.
3.Ý nghĩa phương pháp luận:
Nếu như cái tất nhiên là cái nhất định xảy ra
theo quy luật nội tại của nó, còn cái ngẫu
nhiên có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện,

xuất hiện như thế này hoặc như thế khác,
cho nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta
cần căn cứ vào cái tất nhiên chứ không dựa
vào cái ngẫu nhiên, dừng lại ở cái ngẫu
nhiên, nhưng không vì thế mà bỏ qua cái
ngẫu nhiên; cần có phương án dự phòng cho
trường hợp các sự biến ngẫu nhiên bất ngờ
xuất hiện, có như vậy mới tránh được những
bị động trong trong hoạt động thực tiễn.
8
Vì cái tất nhiên bao giờ cũng biểu lộ ra bên
ngoài bằng cái ngẫu nhiên và cũng vạch ra
con đường đi của mình qua vô số cái ngẫu
nhiên, vì vậy muốn nhận thức được cái tất
nhiên phải bắt đầu bằng cái ngẫu nhiên và
phải thông qua vô số cái ngẫu nhiên.
Vì cái ngẫu nhiên cũng không tồn tại 1 cách
thuần túy mà bao giờ cũng là hình thức
trong đó ẩn nấp cái tất nhiên,cho nên trong
hoạt động thục tiễn không nên bỏ qua cái
ngẫu nhiên ,mà bao giờ cũng phãi chú ý tìm
ra cái tất nhiên đang ẩn dấu đàng sau cái
ngẫu nhiên đó .
Trong những điều kiện nhất định cái tất
nhiên có thể trở thành cái ngẫu nhiên và
ngược lại, cho nên cần chú ý tạo điều kiện
cần thiết hoặc để ngăn trở hoặc để sự chuyển
hóa đó diễn ra tùy theo yêu cầu của hoạt
động thực tiễn .
Câu 18:Phân tích nội dung cơ bản của cặp

phạm trù “ Nguyên nhân và kết quả’’; ý
nghĩa phương pháp luận của nó trong hoạt
động thực tiễn ?
1.Một số khái niệm:
_ Nguyên nhân la sự tác động lẫn nhau giữa
các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự
vật với nhau gây ra sự biến đổi nhất định.
-Kết quả là sự biến đổi xuất hiện do tác động
lẫn nhau của các mặt trong 1 sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau (vd: cuộc đấu tranh
giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản là
nguyên nhân của cách mạng vô sản và
ngược lại.
2.Tính chất của mối liên hệ nhân quả: theo
quan điểm của phép biện chứng duy vật thì
mối quan hệ nhân quả có tính khách quan,
phổ biến và tất yếu.
Tính khách quan:chủ nghĩa duy tâm khách
quan và tôn giáo không thừa nhận mối liên
hệ nhân quả không tồn tại ngay trong sự vật
hiện tượng và cho rằng mối liên hệ ấy chỉ
tồn tại ở 1 lực lượng siêu nhiên hoặc ở
thượng đế; chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi
khái niệm nguyên nhân và kết qua chỉ là
những kí hiệu mà con người dùng để ghi
những cảm giác của mình, sự phát triển của
khoa học và thực tiễn đã bác bỏ những quan
điểm sai lầm trên, những nhà duy vật biện
chứng khẳng định rằng mối quan hệ nhân
quả là mối quan hệ khách quan của bản thân

sự vật, nó tồn tại ngoài ý muốn của con
người, ko phụ thuộc vào việc con người có
nhận thức được nó hay ko, con người chỉ có
thể tìm ra mối quan hệ ấy trong giới tự nhiên
khách quan chứ ko phải trong tư duy của
mình.
-Tính phổ biến: tất cả các hiện tượng trong
tự nhiên và trong xã hội đều được gây nên
bởi những nguyên nhân nhất định, ko có
hiện tượng nào ko có nguyên nhân cả, chỉ có
điều nguyên nhân dó có được phát hiện hay
là chưa mà thôi.
-Tính tất yếu: kết quả do nguyên nhân gây ra
phụ thuộc vào những điều kiện nhất định,
những điều kiện này là cần thiết cho 1 biến
cố có thể xảy ra, thực tiễn cho thấy rằng 1
nguyên nhân nhất định, trong những điều
kiện nhất định chỉcó thể gây ra kết quả nhất
định (vd: nước từ chất lỏng thành chất khí
trong điều kiện 100 độ C và các vd khác
trong xã hội và trong tư duy).
3.Mối quan hệ biện chứng nhân quả:
a.Nguyên nhân sản sinh ra kết quả:
Nguyên nhân là cái sản sinh ra kết quả nên
nguyên nhân luôn có trước kết quả, còn kết
quả chỉ xuất hiện ngay sau khi nguyên nhân
xuất hiện và bắt đầu tác động; tuy nhiên sự
sắp xếp này chỉ mang tính tương đối, bởi và
có cái là nguyên nhân của quá trình này
nhưng lại là kết quả của quá trình trước đó

và cứ như thế tạo nên một chuỗi nhân quả
vô cùng vô tận.
-Cùng 1 nguyên nhân có thể gây nên nhiều
kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh
cụ thể, ngược lại 1 kết quả có thể được gây
nên bởi nhiều nguyên nhân khác nhau tác
động riêng lẽ hay tác động cùng 1 lúc.
-Căn cứ vào tính chất và vai trò của từng
nguyên nhân đôis với sự hình thành kết quả
có thể phân chia nguyên nhân ra thành các
loại sau:
Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ
yếu: những nguyên nhân nào mà thiếu
chúng thì kết quả sẽ ko xảy ra gọi là nguyên
nhân chủ yếu, những nguyên nhân nào mà
sự có mặt của nó chỉ quyết định những đặc
điểm nhất thời, ko ổn định, cá biệt của hiện
tượng thì gọi là nguyên nhân thứ yếu(vd:
nguyên nhân chủ yếu của khủng hoảnh kinh
tế trong chế độ tư bản chủ nghĩa là mâu
thuẫn giữa lao động có tính chất xã hội với
chiếm hữu có tính chất cá nhân, còn nguyên
nhân thứ yếu là sự giảm nhu cầu đối với mặt
hàng nào đó,sự phá sản của 1 ngân hàng nào
đó ảnh hưởng dây chuyền toàn bộ nền kinh
tế)
Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân
bên ngoài: nguyên nhân bên trong là sự tác
động lẫn nhau giữa những mặt hay những
yếu tố của cùng 1 kết cấu vật chất nào đó và

gây ra những biến đổi nhất định, nguyên
nhân bên ngoài là sự tác động lẫn nhau giữa
những kết cấu vật chất khác nhau và gây ra
những biến đổi thích hợp trong những kết
cấu vật chất ấy.Nguyên nhân bên trong bao
giờ cũng quyết định sự hình thành, tồn tại và
phát triển của các kết cấu vật chất, còn
nguyên nhân bên ngoài chỉ phát huy được
tác dụng thông qua những nguyên nhân bên
trong (vd: sự tiến bộ tronh học tập của mọi
cá nhân).
Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân
chủ quan: nguyên nhân khách quan là
nguyên nhân xuất hiện và tác động độc lập
đối với ý thức của con người, của các giai
cấp,các chính đảng, nguyên nhân chủ quan
là nguyên nhân xuất hiện và tác động phụ
thuộc vào ý thức con người, trong lĩnh cực
hoạt động của các cá nhân, các giai cấp và
các chính đảng nhằm thúc đẩy hay kìm hãm
sự xuất hiện, phát triển các quá trình xã hội.
b.Sự tác động trở lại của kết quả đối với
nguyên nhân: nguyên nhân sản sinh ra kết
quả, nhưng sau khi ra đời kết quả ko giữ vau
trò thụ động đối với nguyên nhân, trái lại nó
có ảnh hươnhr tích cực đối với nguyên
nhân(vd: thanh sắt đỏ nhúng vào nước làm
cho nước nóng lên, từ sự nóng lên của nước
đã kìm hãm tốc độ tỏa nhiệt của sắt)
4.Ý nghĩa phương pháp luận;

Mối liên hệ nhânh quả có tính khách quan,
ko có sự vật hiện tượng nào tồn mà ko có
nguyên nhân, có những nguyên nhân hiện
nay con người chưa khám phá nhưng rồi
dần dần con người cũng phát hiện được, đây
chính là nhận thức khoa học của phép biện
chứng duy vật.
Một sự vật hiện tượng có thể do nhiều
nguyên nhân sinh ra,những nguyên nhân
này có vị trí vai trò khác nhau trong việc
hình thành nên kết quả, vì vậy trong hoạt
động thực tiễn chúng ta cần phân tích thân
trọng các nguyên nhân, xác định nguyên
nhân chủ yếu, nguyên nhân bên trong để có
cách xử lí cho phù hợp mang lại hiệu quả
cao nhất.
Kết quả do nguyên nhân sinh ra,nhưnh kết
quả ko tồn tại một cách thụ động, vì vậy
trong thực tiễn chúng ta phải biết khai thác,
9
tận dụng các kết quả đạt được để nâng cao
nhận thức và thúc đẩy sự vật tiếp tục phát
triển đi lên, muốn loại bỏ hiện tượng nào thì
loại bỏ nguyên nhân nảy sinh ra nó và
ngược lại muốn cho hiên tượng ấy xất hiện
cần tạo ra những nguyên nhân và điều kiện
cần thiết, để đẩy nhanh quá trình kìm hãm
hay loại trừ sự biến đổi của 1 hiện tượng xã
hội nào đó cần làm cho nguyên nhân chủ
quan tác động cùng chiều (hoặc ngược

chiều),với chiều vận động của mối quan hệ
nhân quả khách quan.

CÂU 19: Phân tích nội dung cơ bản của cặp
phạm trù”Bản chất và hiện tượng”; ý nghũa
phương phấp luận của nó trong hoạt động
thực tiễn?
1. Một số khái niệm:
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt,
những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn
định ở bên sự vật, quy định sự vận động và
phát triển của sự vật đó. Hiện tượng là cái
biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
Phạm trù bản chất gắn liền với phạm trù
cái chung, cái tạo nên bản chất của sự vật
đồng thời cũng là cái chung của sự vật đó
(vd: bản chất con người là tổng hòa các
mối quan hệ của xã hội, đúng cho mọi
người chứ ko riêng 1 người nào, do vậy nó
vừa thể hiện cái bản chất vừa thể hiện cái
chung).
Cái bản chất đồng thời có tính quy luật,
nói đến bản chất là nói đến tổng hợp các
quy luật quyết định sự tồn tại, vận động và
phát triển của sự vật, vì vậy phạm trù vật
chất là phạm trù cùng bậc, cung loại với
phạm trù quy luật (vd: quy luật giá trị thặng
dư và bản chất của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa).
Tuy nhiên chúng hoàn toàn ko đồng nhất

nhau, quy luật là mối liên hệ tất nhiên phổ
biến, dược lặp đi lặp lạ và ổn định giữa các
hiện tượng, giữa các mặt của chúng, còn
bản chất là tổng hợp các mối liên hệ phổ
biến chung cho nhiề hiện tượng, do vậy
phạm trù vật chất rộng hơn, phong phú hơn
phạm trù quy luật.
2.Mối quan hện biện chứng:
-Bản chất và hiện tượng là những phạm trù
triết học tồn tại khách quan; những người
duy tâm chủ quan cho rằng bản chất ko thật
sự tồn tại, còn hiện tượng chỉ là tổng hòa
các cảm giác, nghĩa là chỉ tồn tại trong ý
chí chủ quan của con người, những người
theo chủ nghĩa duy tâm khách quan tuy
thừa nhận sự tồn tại của bản chất nhưng lại
xem đó là cái tinh thần.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng
định :cả bản chất và hiện tượng tồn tại 1
cách khách quan; bởi và bất cứ sự vật hiện
tượng nào củng được tạo nên từ những yếu
tố nhất định có mối quan hệ gắn bó với các
yếu tố khác, tạo nên những mối liên hệ tất
nhiên, tương đối ổn định và đó là bản chất
của sự vật, sự vật tồn tại khách quan, nên
những mối liên hệ này cũng tồn tại khách
quan, tức bản chất là khách quan và kết
luận này cũng đúng cho hiện tượng vì hiện
tượng là cái phản ánh bản chất ra bên
ngoài.

-Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản
chất và hiện tượng ; sự thống nhất đó thể
hiện trước hết ở chổ bản chất bao giờ cũng
bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng
bao giờ cũng biểu hiện của bản chất; không
có bản chất nào tồn tại một cách thuần túy
mà không biểu hiện qua hiện tượng, ngược
lại không có hiện tượng nào lại không phải
là sự thể hiện của một bản chất nào đó.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện
tượng là sự thống nhất biện chứng giữa 2
mặt đói lập; mâu thuẫn giữa bản chất và
hiện tượng thể hiện ở chổ: bản chất phản
ánh cái chung, cái bên trong của sự vật, còn
hiện tượng phản ánh cái riêng ,cái biểu hiện
ra bên ngoài của bản chất; đó là sự đối lập
giữa cái tương đối ổn định và cái thường
xuyên biến đổi; hiện tượng phong phú hơn
bản chất còn bản chất thì sâu sắc hơn hiện
tượng.
3. ý nghĩa phương pháp luận;
Phải nhận thức bản chất thông qua các
hiện tượng nhưng không dừng lại ở hiện
tượng; nhận thức được bản chất là nâng
cao khả năng tư duy, góp phần ứng dụng
một cách rộng rãi bản chất cho hiện tượng
khác nhau.
Vì bản chất tồn tại khách quan ở ngay
trong bản thân sự vật, nên chỉ có thể tìm ra
bản chất của sự vật ở trong chính sự vật

không thể ở ngoài nó , khi kết luận bản chất
sự vạt cần tránh những nhận định chủ
quan, tùy tiện.
Những hiện tượng bao giờ cũng biểu hiện
bản chất dưới dạng đã cải biến nhiều khi
xuyên tạc bản chất, cho nên trong quá trình
nhận thức bản chất của sự vật cần phải xem
xét nhiều hiện tượng khác nhau và từ nhiều
góc độ khác nhau và cần thận trọng khi
xem xét đánh giá.

10
Câu 20: phân tích nội dung cơ bản của cặp
phạm trù “Nội dung và hình thức” ; ý nghĩa
phương pháp luận của nó trong hoạt động
thực tiển?
1.một số khái niệm :
Nội dung là phạm trù triết học dùng để chỉ
tổng hợp tất cả các mặt, những yếu tố nhũng
quá trình tạo nên sự vật ; hình thức là phạm
trù triết học dùng để chỉ phương pháp tồn tại
và phát triển sự vật, là hệ thống các mối
quan hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố
của nó.
Bất kì sự vật nào cũng có hình thức bên
ngoài của nó, nhưng hình thức trong phép
biện chứng duy vật là hình thức bên trong,
tức là cấu trúc bên trong của sự vật( ví dụ
:một tác phẩm văn học ,hinh thức bên ngoài
chính là độ dầy, kích thước … còn hình thức

bên trong chính là bố cục, hinh tượng ngệ
thuật, ngôn ngữ, bút pháp….)
2. mối quan hệ biện chứng:
-Nội dung và hình thức bao giờ cũng là 1 thể
thống nhất, gắn bó nhau, ko có 1 hình thức
nào lại ko chứa đựng 1 nội dung và ko 1 nội
dung nào lại ko tồn tại trong 1 hình thức
nhất định.
Tuy nhiên, ko phải lúc nào nội dung và hình
thức phù hợp với nhau, ko phải nội dung
nào chỉ được thể hiện bằng 1 hình thức nhất
định và cũng ko phải 1 hình thức chỉ chứa
đựng 1 nội dung cụ thể, trong thực tế, tùy
theo tình hình mà 1 nội dung có thể được thể
hiện thông qua nhiều hình thức và 1 hình
thức có thể chứa đựng nhiều nội dung khác
nhau.
-So với hình thức, nội dung bao giờ cũng
giữ vai trò quyết định, khuynh hướng chủ
đạo của nội dung là khuynh hướng biến đổi,
còn hình thức là mặt tương đối ổn định của
sự vật, vì vậy sự phát triển và biến đổi của
sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ nội dung, còn
hình thức cũng biến đổi nhưng chậm hơn và
dựa vào sự biến đổi của nội dung (vd: nội
dung giai cấp quyết định đến hình thức nhà
nước cho phù hợp).
Hình thức do nội dung quyết định, nhưng
hình thức luôn có tính độc lập tương đối và
tác động trở lại với nội dung, khi phù hợp nó

sẽ mở đường và thức đẩy sự phát triển nội
dung và ngược lại ho phù hợp nó sẽ kìm
hãm sự vận động và phát triển của nội dung.
-Sự tác động qua lại giữa nội dung và hình
thức diễn ra trong suốt quá trình phát triển
của sự vật, lúc đầu là những biến đổi về nội
dung, tác động ảnh hưởng đến mối liên hệ
tương đối bền vững của hình thức, khi
những biến đổi ấy tiếp tục diễn ra thì hình
thức củ trở nên qua chật hẹp, ko còn phù
hợp với nội dung mới và bắt đầu kìm hãm
sự phát triển của nội dung, sự ko phù hợp
tiếp tục phát triển và tới lúc nào đó xảy ra
xảy ra xung đột, hình thức cũ bị phá bỏ, tạo
ra hình thức mới phù hợp với nội dung mới
và sự vật chuyển sang trạng thái mới về chất
(vd: quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
trong các hình thái kinh tế xã hội).
3.ý nghĩa phương pháp luận:
Nếu nội dung và hình thức luôn gắn bó mật
thiết với nhau thì trong hoạt động thực tiễn
cần tránh sự tách rời giữa chúng hoặc tuyệt
đối hóa vai trò của 1 trong 2 mặt vốn có của
sự vật, nhất là trong lĩnh vực văn hóa, nghệ
thuật (vd: chủ nghĩa hình thức trong các hoạt
động lễ hội, trong tổ chức đại hội).
Cùng 1 nội dung, trong tình hình phát triển
khác nhau có thể có nhiều hình thức và
ngược lại, vì vậy trong hoạt động thực tiễn
cải tạo xã hội phải biết sử dụng mọi hình

thức có thể có để phục vụ cho những nhiệm
vụ cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng
(vd: cần chống 2 căn bệnh phổ biến hiện nay
đó là bệnh bảo thủ ko chịu thay đổi hình
thức, muốn ổn định, ko muốn rủi ro hoặc
bênh đả phá cái cũ, phủ nhận sạch trơn
những hình thức cũ ,xem cái cũ là cái xấu).
Vì nội dung quyết định hình thức, cho nên
khi xem xét sự vật trước hết phải căn cứ vào
nội dung; đồng thời phải thường xuyên theo
dõi mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
để có sự điều chỉnh cho phù hợp, tác động
thúc đẩy các hoạt động thực tiễn đi đúng
hướng.

CÂU 21:Phân tích nội dung cơ bản của cặp
phạm trù”khả năng và hiện thực”; ý nghĩa
phương pháp luận của nó trong hoạt động
thực tiễn?
1. Một số khái niệm:
Khả năng là cái hiện thực chưa có, chưa tới
nhưng sẽ có, sẽ tới trong những điều kiện
thích hợp, hiện thực là tất cả những gì hiện
có, hiện dang tồn tại thật sự.
Hiện thực bao gồm những sự vật hiện tượng
đang tồn tại 1 cách khách quan trong thực tế
và cả những gì đang tồn tại 1 cách chủ quan
trong ý thức con người.
Mọi khả năng đều là khả năng thực tế, đều
tồn tại thực sự do hiện tại sinh ra( vd: hạt

thóc có khả năng trở thành cây lúa khi có
những điều kiện thích hợp).
Tuy mọi khả năng đều là khả năng thực tế
song sự hình thành của chúng ko hoàn toàn
như nhau: có khả năng được hình thành 1
cách tất nhiên do quy luật vận động nội tại
của sự vật gọi là khả năng tất nhiên, có khả
năng hình thành 1 cách ngẫu nhiên gọi là
khả năng ngẫu nhiên(vd: khi gieo đồng tiền,
thì khả năng xuất hiện 1 trong 2 đồng tiền là
tất nhiên, còn xuất hiện mặt nào đó là khả
năng ngẫu nhiên); khả năng tất nhiên bao
gồm: khả năng gần tức là khả năng đã có đủ
những điều kiện cần thiết để biến thành hiện
thực, khả năng xa nghĩa là phải trải qua
nhiều giai đoạn phát triển quá độ mới đủ
điều kiện biến thành hiện thực( vd: sản xuất
10 tấn lúa/ha/năm là khả năng gần, thực hiện
nguyên tắc “làm theo năng lực hưởng theo
nhu cầu là khă năng xa”).
Ngoài những dạng khả năng chính trên đây
còn có thể phân khả năng thành khả năng
chủ yếu, khả năng thứ yếu; khả năng tốt, khả
năng xấu, khả năng cùng tồn tại ,khả năng
loại trừ nhau…
2.Mối quan hệ biện chứng:
-Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối
liên hệ chặt chẽ nhau, ko tách rời nhau, luôn
chuyển hóa nhau; trong thực tế quá trình
phát triển của sự vật chính là quá trình mà

trong đó khả năng biến thành hiện thực, còn
hiện thực này vì quá trình phát triển nội tại
của mình lại sản sinh ra khả năng mới, các
khả năng mới ấy trong những điều kiện
thích hợp lại biến thành hiện thực mới, tạo
thành 1 quá trình vận động liên tục, ko
ngừng phát triển của sự vật.
-Trong cùng1 điều kiện nhất định, ở cùng 1
sự vật có thể tồn tại 1 số khả năng chứ ko
phải chỉ có 1 khả năng (vd: 1 học sinh đang
học trong các trường đại học có nhiều khả
năng trở thành kĩ sư, bác sĩ ,giáo viên…)
-Để khả năng biến thành hiện thực thường
cần ko chỉ 1 điều kiện mà là tập họp những
điều kiện, tập họp đó gọi là điều kiện cần và
đủ, nếu có nó thì khả năng nhất định trở
thành hiện thực, sự biến nhất định sẽ xuất
hiện (vd: để cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ
ra cần có các điều kiện như: giai cấp thóng
trị ko thể giữ nguyên sự thống trị của mình
dưới dạng cũ nữa, giai cấp bị trị bị bần cùng
hóa, tính tích cực của quần chúng tăng lên,
giai cấp cách mạng có đủ năng lực tiến hành
những hành động mạnh mẽ, thiếu 1 trong
những điều kiện đó thì cách mạng ko nổ ra)
11
-Khả năng có thể trở thành hiện thực theo 1
số con đường chủ yếu như: thuần túy tự
nhiên, do các quy luật khách quan chi phối
(vd: các quá trình vũ trụ địa chất); sự chuyển

hóa mang tính tự nhiên, nhưng có sự tác
động của con người (vd: đột biến gen, lai
giống nhân tạo), sự chuyển hóa thuần túy do
tác động của con người (vd: sản xuất vật liệu
mới).
-Hoạt động của ý thức con người trong đời
sống xã hội có ý nghĩa hết sức to lớn trong
việc biến khả năng thành hiện thực, nó có
thể làm cho quá trình chuyển hóa diễn ra
nhanh hơn hoặc chậm hơn, có thể điều khiển
cho khả năng phát triển theo hướng này hay
hướng khác phục vụ cho chính lợi ích của
con người bằng cách tạo ra những điều kiện
thích ứng.
3.Ý nghĩa phương pháp luận:
-Vì hiện thực là cái tồn tại thật sự ,khả năng
là cái chưa có, nên trong thực tiễn phải dựa
vào hiện thực hơn là dựa vào khả năng, tuy
nhiên nói như thế ko có nghĩa là xem
thường khả năng, vì khả năng biểu thị
khuynh hướng phát triển sự vật trong tương
lai, nên tuy ko dựa vào khả năng nhưng
chúng ta phải tính đến các khả năng có thể
có để đề ra các chủ trương, kế hoạch hành
động cho sát ,đúng.
-Khi xác định các khả năng cần chú ý: vì
khả năng do sự vật sinh ra và tồn tại trong
chính sự vật, nên chỉ có thể tìm các khả năng
của sự vật ở ngay trong chính khả năng nó
chứ ko thể ở nơi khác, khă năng tồn tại ngay

trong hiện thực, gắn bó chặt chẽ với hiện
thực nên sẽ sai lầm nếu tach rời chúng để
xem xét, sai lầm ấy được biểu hiện ở chỗ ko
thấy khả năng tiềm tàng của sự vật do đó ko
xác định được tương lai phát triển của nó
hoặc khả năng có thể biến thành hiện thực
do đó ko tạo ra những điều kiện cần thiết để
thúc đẩy sự chuyển biến này theo yêu cầu
của mình.
-Sau khi xác định được khả năng phát triển
của sự vật, nhiệm vụ của hoạt động thực tiễn
là phải tiến hành lựa chọn và thực hiện khả
năng; trong quá trính ấy cần chú ý: phải tính
toán đến mọi khả năng có thể có, tốt cũng
như xấu, tiến bộ cũng như lạc hậu, trên cơ sở
đó dự kiến chương trình hành động phù hợp,
cần đặc biệt chú ý đến khả năng tất nhiên,
khả năng gần,đặc biệt trong đời sống xã hội,
khả năng ko thể trở thành hiện thực nếu như
ko có sự tác động của con người, vì vậy tùy
theo điều kiện cụ thể mà có biện pháp phát
huy nhân tố chủ quan của con người tham
gia tích cực vào quá trình biến đổi hoặc ngăn
cản khả năng thành hiện thực, cần tránh cả 2
khuynh hướng hoặc tuyệt đối hóa hoặc xem
thường nhân tố chủ quan.
CÂU 22:Bản chất của nhận thức thực tiễn
và vai trò thực tiễn đối với nhận thức, con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lí?
1.Bản chất của nhận thức: nhận thức là gì?

Con người có thể nhận thức được thế giới
hay ko? Đây là 1 trong những vấn đề cơ
bản, các trường phái triết học tranh luận và
có những câu trả lời khác nhau.
Các nhà triết học duy tâm ko thừa nhận thế
giới vật chất tòn tại độc lập với ý thức con
người, do đó ko thứa nhận nhận thức là sự
phản ánh hiện thực khách quan, các nhà duy
tâm chủ quan cho rằng tất cả mọi cái đang
tồn tại đều là phức hợp của cảm giác con
người, do đó nhận thức chẳng qua là nhận
thức của cảm giác và biểu tượng của con
người, các nhà duy tâm khách quan, mặc dù
ko phủ nhận khả năng nhận thức thế giới,
song coi đó như là sự tự nhận thức của ý
niệm, tư tưởng tồn tại bên ngoài con người.
Những nhà theo thuyết hoài nghi thì nghi
ngờ tính xác thực của tri thức, nghi ngờ sự
tồn tại của bản thân thế giới bên ngoài,
những người theo thuyết ko thể biết lại phủ
nhận khả năng nhận thức thế giới, đối với họ
thế giới là ko thể biết được, lí trí của con
ngưới rất hạn chế và ngoài giới hạn của cảm
giác ra con người ko thể biết được điều gì
nữa.
Khác với những quan điểm trên đây, chủ
nghĩa duy vật thừa nhận con người có khả
năng nhận thức thế giới và coi nhận thức là
sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc
con người, tuy nhiên do hạn chế bởi tính

siêu hình, máy móc nên chủ nghĩa duy vật
trước Mác ko giải quyết 1 cách khoa học
những vấn đề về lí luận nhận thức, chưa
thấy đầy đủ vai trò của thực tiễn đối với
nhận thức.
Chủ nghĩa Mác Lênin đã kế thừa những
thành tựu khoa học, kĩ thuật và thực tiễn xã
hội đã xây dựng nên lí luận nhận thức của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, theo đó:
-Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách
quan, ở ngoài con người, độc lập với cảm
giác, tư duy và ý thức con người.
-Thừa nhận năng lực nhận thức thế giới của
con người, ko có cái gì con người ko thể biết
, chỉ có cái chưa biết và hy vọng trong tương
lai với sự phát triển của khoa học kĩ thuật,
con người sẽ biết được.
Nhận thức ko phải là hành động tức thời,
giản đơn ,máy móc và thụ động mà là 1 quá
trình biện chứng, tích cực ,sáng tạo, quá
trình ấy đi từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn, là quá trình đi từ hiện thực đến bản
chất, từ kém sâu sắc hơn đến sâu sắc hơn.
-Cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận
thức là thực tiễn, thực tiễn vừa là mục đích
nhận thức vừa là tiêu chuẩn để kiểm tra chân
lí của nhận thức, nhận thức là quá trình con
người phản ánh 1 cách biện chứng, năng
động sáng tạo thế giới khách quan trên co sở

thực tiễn lịch sử-xã hội.
Con người là sản vật của tự nhiên, song với
hoạt động có ý thức nó tự tách mình ra khỏi
tự nhiên và coi thế giới bên ngoài là khách
thể của nhận thức và thực tiễn, chủ thể nhận
thức như vậy ko chỉ là cá nhân mà còn là 1
tập thể, 1 cộng đồng người và cả loài người,
khách thể nhận thức chính là các sự vật hiện
tượng trong phạm vi tác động của hoạt động
nhận thức của chủ thể, như vậy hiện thực
khách quan vốn đã tồn tại, còn khách thể của
nhận thức lại ko ngừng tăng lên cả về bề
rộng lẫn chiều sâu trong quan hệ với sự phát
triến nhận thức của chủ thể.
2.thực tiễn và vai trò thực tiễn đối với nhận
thức:
a. Thực tiễn là phạm trù triêtf học phản ánh
những hoạt động vật chất có mục đích mang
tính lịch sử, xã hội của con người nhằm cải
tạo thiên nhiên và xã hội .
Thực tiễn là hoạt động đặc trưng bản chất
con người và không ngừng phát triển bởi
các thế hệ loài người; khác với hoạt động tư
duy, trong hoạt động thực tiển con người sử
dụng những công cụ vật chất tác động vào
những đối tượng vật chất làm biến đổi
chúng theo mục đích của mình; những hoạt
động như vậy được thực hiện một cách
khách quan.
Tuy trình độ và hình thức hoạt động thực

tiễn có thay đổi qua các giai đoạn lịch sử
khác nhau của xã hội, nhưng thực tiển luôn
luôn là một dạng hoạt động cơ bản và phổ
biến của xã hội loài người, hoạt động đó chỉ
có thể tiến hành thông qua các quan hệ xã
hội; thực tiển cũng có quá trình vận động và
phát triển, trình độ phát triển của thực tiễn
nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên và
làm chủ xã hội của con người, do đó về nội
dung và phương thức thực hiện, thực tiễn
bao giờ cũng mang tính lịch sử xã hội.
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng, với những
hình thức ngày càng phong phú; hình thức
cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động
sản xuất vật chất,đây là hình thức nguyên
thủy nhất và cơ bản nhất vì nó tạo ra cơ sở
cho các hình thức hoạt động khác của con
người và cho sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài người; một dạng cơ bản khác của
thực tiễn là hoạt động chính trị Xã hội nhằm
biến đổi các quan hệ xã hội,chế độ xã
hội;thực nghiệm khoa học là hình thức đặc
biệt của thực tiễn ,hình thức này ngày càng
đóng vai trò quan trọng và trực tiếp đối với
sự phát triển của nhận thức khoa học nói
riêng, nhận thức về sự phát triển của xã hội
nói chung .
b. vai trò thực tiển đối với nhận thức. Thực
tiển và nhận thức không ngừng pháp triển
trong sự tác động lẫn nhau ,trong đó thực

tiển đóng vai trò cơ sở ,là động lực, là mục
đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân
lí.
Con người quan hệ với thế giới ko phải bắt
đầu bằng lí luận mà bằng thực tiễn, chính từ
trong hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà
nhận thức con người được hình thành và
phát triển, bằng hoạt động thực tiễn con
người tác động vào thế giới buộc thế giới
phải bộc lộ những thuộc tính, những quy
luật để con người nhận biết chúng, ban đầu
con người thu nhận mang tính cảm tính, sau
đó so sánh, phân tích ,tổng hợp, khái quát
hóa, trừu tượng hóa để phản ánh bản chất,
quy luật vận động của sự vật.
12
Trong quá trình hoạt động thực tiễn biến đổi
thế giới, con người biến đổi luôn cả bản thân
mình, phát triển năng lực bản chất và năng
lực trí tuệ của mình, thực tiễn đề ra nhu cầu,
nhiệm vụ và phương hướng phát triển của
nhận thức, con người càng đi sâu khám phá
thế giới càng làm phong phú và sâu sắc
thêm trí tuệ của mình.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức, nhận
thức phải quay về phục vụ thực tiễn, kết quả
nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn,
lí luận khoa học chí có ý nghĩa thật sự khi
chúng được vận dụng vào thực tiễn và cải
tạo thực tiễn, ngày nay công cuộc đổi mới ở

nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẽ,
phức tạp đòi hỏi lí luận phải đi sâu nghiên
cứu như: vấn đề chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề kinh
tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa…
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn
thể hiện ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn của
chân lí, tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối
vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để
kiểm nghiệm chân lí, nhưng thực tiễn có cả
tính tương đối vì thực tiễn luôn thay đổi và
là quá trình được thực hiện bởi con người
nên ko thể tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan.
Cần xây dựng quan điểm thực tiễn khi xem
xét vấn đề, cần chống tư tưởng giáo điều,
bảo thủ ,chủ quan ,duy ý chí.
3.Con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lí: nhận thức dựa trên cơ sở thực tiễn
nhưng nhận thức diễn ra như thế nào? Vấn
đề này được Lenin diễn tả 1 cách khái quát
như sau: “từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn-đó là con đường biện chứng của nhận
thức chân lí, của sự nhận thức thực tại khách
quan”.
a.Trực quan sinh động (nhận thức cảm
tính) là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận
thức, nó thể hiện dưới 3 hình thức: cảm giác,
tri giác và biểu tượng.

cảm giác là hình thức đầu tiên của quá trình
nhận thức và là nguồn gốc của mọi hiểu biết
của con người, cảm giác là sự phản ánh từng
mặt, từng thuộc tính bên ngoài của sự vật
vào các giác quan của con người (vd; màu
sắc ,âm thanh, ánh sáng ,nhiệt độ) theo
Lenin thì cảm giác chính là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan.
Tri giác là sự tổng hợp nhiều cảm giác, nó
đem lại hình ảnh hoàn chỉnh hơn về sự vật,
tri giác nảy sinh trên cơ sở cảm giác và là sự
kết hợp các cảm giác, so với cảm giác thì tri
thức là hình thức cao hơn của nhận thức cảm
tính.
Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ
lại trong trí nhớ, sự tiếp xúc trực tiếp nhiều
lần với sự vật sẽ để lại trong chúng ta những
ấn tượng và hình ảnh về sự vật, biểu tượng
chỉ để lại những nét chủ yếu, nổi bật nhất
của sự vật và thường được xuất hiện trở lại
khi có những tác nhân tác động kích thích
đến trí nhớ của con người.
b.Tư duy trừu tượng( nhận thức lí tính) là
giai đoạn tiếp theo và cao hơn về chất của
quá trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở
của nhận thức cảm tính, là sự phản ảnh khái
quát và gián tiếp hiện thực khách quan, tư
duy có tính năng động sáng tạo, nó có thể
phản ánh được những mối quan hệ bản chất,
tất nhiên, bên trong sự vật và do đó phản ánh

sâu sắc hơn và đầy đủ hơn về sự vật, nhận
thức lí tính hay tư duy trừu tượng được thể
hiện ở các hình thức khác nhau như: khái
niệm,phán đoán, suy lí.
Khái niệm: là hình thức tư duy trừu tượng,
phản ánh những mối liên hệ và thuộc tính
bản chất, phổ biến của 1 tập hợp các sự vật
hiện tượng nào đó (vd: cái nhà, con người,
giai cấp) và do đó có tính khách quan, khái
niệm đóng vai trò quan trọng trong tư duy
khoa học, là phương tiện để con người tích
lũy thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức
với nhau. Nội hàm của khái niệm ko phải là
bất biến mà luôn vận động và phát triển
cùng với sự vận động và phát triển của hiện
thực khách quan và khả năng nhận thức của
con người.
Phán đoán: là hình thức của tư duy trừu
tượng, vận dụng các khái niệm để khẳng
định hoặc phủ định thuộc tính, 1 mối liên hệ
giữa các khái niệm, phản ánh mối liên hệ
giữa các sự vật hiện tượng trong ý thức con
người, phán đoán được biểu hiện dưới hình
thức con người, phán đoán dược biểu hiện
dưới hình thức ngôn ngữ là các mệnh đề
theo những quy tắc văn phạm nhất định.
Suy lí là hình thức của tư duy trừu tượng,
trong đó xuất phát từ 1 hay nhiều phán đoán
làm tiền đề đẻ rút ra phán đoán mới làm kết
luận (vd: mọi kim loại đều dẫn điện, sắt là

kim loại do đó sắt dẫn điện), suy lí là công
cụ quan trọng của tư duy trừu tượng, thể
hiện quá trình vận động của tư duy đi từ cái
đã biết nhận thức cái chưa biết 1 cách gián
tiếp.
c.Sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức
cảm tính và nhận thức li tính:
theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng thì nhận thức cảm tính và nhận thức lí
tính là 2 giai đoạn khác nhau trong việc nhận
thức sự vật, nhận thức cảm tính là sự phản
ánh trực tiếp, cụ thể,nhưng chưa sâu sắc về
sự vật, còn nhận thức lí tính thì phản ánh
gián tiếp, mang tính trừu tượng, khái quát
những mối liên hệ bên trong, bản chất, phổ
biến, tất yếu của sự vật.
Tuy nhiên, nhận thức cảm tính và nhận thức
lí tính lại thống nhất biện chứng với nhau,
liên hệ tác động lẫn nhau, bổ sung hổ trợ
nhau, ko tách rời nhau, chúng đều phản ánh
thế giới vật chất, có cùng 1 cơ sở sinh lí và
hệ thần kinh con người và đều cùng chịu chị
phối bởi thực tiễn lịch sử xã hội.
Nhận thức cảm tính là cơ sở nhận thức lí
tính, ko có nhận thức cảm tính thì ko thể có
nhận thức lí tính, ngược lại nhận thức cảm
tính mà ko có nhận thức lí tính thì ko thể
nắm bắt được bản chất và quy luật vận động
của sự vật, trong thực tế chúng thường diễn
ra đan xen nhau trong mỗi quá trình nhận

thức.
Trong hoạt động thực tiễn ko nên tuyệt đối
hóa 1 trong 2 giai đoạn của quá trình nhận
thức, tránh xem xét nó trong sự biệt lập của
từng giai đoạn, đánh giá đúng mức vai trò
của từng giai đoạn.
4.Vấn đề chân lí:
Vấn đề chân lí là 1 trong những vấn đề cơ
bản của lí luận nhận thức, nhiệm vụ của
nhận thức là đạt kết quả chân lí, chân lí là tri
thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh
và được thực tế kiểm nghiệm, mọi chân lí
đều có tính khách quan, tính cụ thể, tính
tuyệt đối và tính tương đối.
Tính khách quan của chân lí, nghĩa là tuy
chân lý là nhận thức của con người nhưng
nội dung của nó không phụ thuộc vào con
người mà lệ thuộc vào sự khách quan được
chân lý phản ánh; chủ nghĩa duy vật hệ chặc
chẽ với việc thừa nhận chân lí khách quan
nếu không thì nhất định sẽ dẫn tới thuyết ko
thể biết và chủ nghĩa chủ quan (quan điểm
khách quan khi xem xét giải quyết vấn đề).
Tính cụ thể của chân lí, nghĩa là ko có chân
lí trừu tượng, chân lí bao giờ cũng gắn với 1
sự vật, 1 lĩnh vực cụ thể của hiện thực và
được phát triển trong những điều kiện hoàn
cảnh cụ thể đó, nếu thoát khỏi điều kiện lịch
sử-xã hội cụ thể thì cái vốn là chân lí sẽ ko
còn là chân lí nữa (quan điểm lịch sử cụ thể

khi xem xét giải quyết vấn đề).
Tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lí:
chân lí ko phải là sản phẩm có sẵn mà là 1
quá trình, chân lí được hình thành và phát
triển dần dần, từng bước phụ thuộc vào
những điều kiện lịch sử cụ thể của chủ thể
trong hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận
thức về thế giới khách quan.
Chân lí tương đối là những tri thức phản
ánh hiện thực khách quan nhưng chưa đầy
đủ, chưa hoàn thiện cần phải được bổ sung,
điều chỉnh trong quá trình phát triển tiếp
theo của nhận thức, chân lí tuyệt đối là tri
thức hoàn toàn đầy đủ, hoàn chỉnh về thế
giới khách quan, sở dĩ như vậy là do thế giới
vật chất là vô cùng vô tận, nó biến đổi ko
ngừng và ko có giới hạn tận cùng, còn nhận
thức luôn bị hạn chế bởi năng lực cá nhân và
điều kiện lịch sử cụ thể.
Giữa chân lí tương đối và chân lí tuyệt đối
có quan hệ hữu cơ lẫn nhau, chân lí tương
đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố
của chân lí tuyệt đối, chân lí tuyệt đối bao
gồm những chân lí tượng đối đang phát
triển, trong thực tiễn cần tránh tương đối hóa
cả 2 loại chân lí trên, nếu cường điệu hóa
chân lí tuyệt đối, xem nhẹ chân lí tuyệt đối
dễ rơi vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa
giáo điều, bệnh bảo thủ trì truệ, ngược lại
nếu cường điệu hóa chân lí tương đối, hạ

thấp chân lí tuyệt đối sẽ rơi vào chủ nghĩa
tương đối, chủ nghĩa xét lại ,ngụy biện, hoài
nghi, ko thể biết.
13
CÂU 23; Sản xuất vật chất và vai trò của nó
đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội,
liên hệ trong điều kiện Việt nam:
1.Khái niệm:
Các nhà triết học duy tâm giải thích nguyên
nhân, động lực phát triển của xã hội là từ ý
thức tư tưởng của con người hay từ lực
lượng siêu nhiên nào đó, các nhà duy vật
trước Mác cũng giải thích 1 cách duy tâm về
sự phát triển của xã hội.
Riêng Mác thì cho rằng sản xuất là hoạt
động đặc trưng riêng có của con người và
của xã hội loài người, đó là quá trình hoạt
động có mục đích và ko ngừng sáng tạo của
con người, sự sản xuất xã hội bao gồm :sản
xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất
ra bản thân con người, 3 quá trình này ko
tách rời nhau, trong đó sản xuất vật chất giữ
vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã
hội và xét đến cùng quyết định đến cùng
toàn bộ sự vận động đời sống xã hội.
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử
dụng công cụ lao động tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các
dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của
cải xã hội, nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và

phát triển của con người.
2. Vai trò của sản xuất
vật chất:
Sản xuất vật chất bao giờ cũng dựa vào các
nhân tố cơ bản như; điều kiện tự nhiên, dân
số và phương thức xã hội, trong đó phương
thức sản xuất giữ vai trò chủ đạo.
Sản xuất vật chất ko những cơ sở cho sự
sinh tồn của xã hội, mà còn là cơ sở để hình
thành nên tất cả các hình thức quan hệ xã
hội khác như: nhà nước, pháp quyền, đạo
đức, nghệ thuật…
Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ
xã hội, ko phải lúc nào sản xuất cũng ở trong
trình độ cũ mà nói chung là ko ngừng tiến
lên từ thấp tới cao, mỗi khi sản xuất đến 1
giai đoạn mới, cách thức sản xuất cũng thay
đổi theo, kĩ thuật được cải tiến, năng xuất lao
động được nâng cao, các quan hệ sản xuất
đều biến đổi theo.
Tóm lại ,dù được xét trong toàn bộ lịch sử
của sự hình thành và phát triển của xã hội
loài người hay trong 1 giai đoạn lịch sử cụ
thể thì sản xuất vật chất vẫn luôn đóng vai
trò là cơ sở, là nền tảng của sự tồn tại và phát
triển của xã hội.
ở Việt Nam ta, do đặc điểm đi lên chủ nghĩa
xã hội từ 1 nước nông nghiệp lạc hậu, ko
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, cơ
sở vật chất còn thiếu thốn nghèo nàn,

phương tiện sản xuất còn thô sơ, trình độ sản
xuất còn thấp kém, muốn xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ văn minh, cần phải tiến hành
đổi mới nhiều mặt, trong đó có đổi mới về
kinh tế, đổi mới cơ chế quản lí, phát huy nội
lực, thu hút ngoại lực, từng bước đưa nền
kinh tế tăng trưởng bền vững, tạo ra nguồn
của cải vật chất dồi dào, ko chỉ đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng trong nước mà còn phục vụ
cho xuất khẩu, đầu tư trang thiết bị hiện đại,
đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế mũi
nhọn, kết hợp phát triển kinh tế với các vấn
đè xã hội…
CÂU 24: Hãy trình bày mối quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, liên hệ thực tiễn Việt Nam?
1. Khái niệm:
a. Phương thức sản xuất là phạm
trù triết học dùng để chỉ cách thức
con người thực hiện quá trình sản
xuất vật chất ở những giai đoạn lịch
sử nhất định của xã hội loài người, là
nhân tố quyết định tính chất, kết cấu
xã hội, quyết định sự vận động và
phát triển xã hội.
Tính chất ,kết cấu xã hội bao gồm: giai cấp,
kết cấu giai cấp, quan hệ giữa các giai cấp,
quan điểm chính trị, pháp quyền, đạo đức

,triết học ko phải do nguyện vọng và ý chí
con người, ko phải do tư tưởng và lí luận,
cũng ko phải do hình thức và tư nhà nước và
pháp quyền quyết định, 1 khi phương thức
sản xuất mới ra đời thay thế phương thức
sản xuất cũ lạc hậu thì mọi mặt đời sống xã
hội cũng thay đổi căn bản.
b. Lực lượng sản xuất là phạm trù
triết học biểu diễn mối liên hệ giữa
con người với tự nhiên, trình độ của
lưccj lượng sản xuất thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của con người,
đó chính là kết quả của năng lực thực
tiễn của con người trong quá trình tác
động vào tự nhiên tạo ra của cải vật
chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội loài người.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao
đọng với kĩ năng lao động của họ và tư liệu
sản xuất, trước hết là công cụ lao động, con
người trong lực lượng sản xuất luôn luôn
vận động và phát triển cùng với sự phát
triển của khoa học công nghệ, đi từ lao
động chân tay sang lao động trí óc, công cụ
lao động là 1 thành tố cơ bản của lực lượng
sản xuất, là sức mạnh của tri tuệ được vật
thể hóa, trong mọi thời đại công cụ luôn là
yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất,
chính sự biến đổi, cải tiến và hoàn thiện ko
ngừng của nó đã gây nên những biến đổi

sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất.
c. Quan hệ sản xuất là phạm trù
triết học dùng để chỉ mối quan hệ
giữa con người với con người trong
quá trình sản xuất, cũng như lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, nó tồn
tại khách quan, độc lập với ý thức
con người.
Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản
của 1 hình thái kinh tế xã hội, nó tiêu biểu
cho bản chất kinh tế của 1 hình thái kinh tế
xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ
bản sau: quan hệ giữa người với người đối
với sở hữu về tư liệu sản xuất, đối với việc
tổ chức quản lí và đối với quá trình phân
phối sản phẩm lao động, các mặt này có mối
quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ
đối với sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa
quyết định với những quan hệ khác, là quan
hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung
tâm của quan hệ sản xuất, ngược lại quan hệ
về tổ chức quản lí và quan hệ về phân phối
cũng có vai trò quan trọng, nó quyết định
trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu
hướng phát triển của mỗi nền sản xuất, nó
góp phần củng cố quan hệ sở hữu hoặc làm
biến dạng quan hệ sở hữu.
Trong xã hội có 2 hình thức sở hửu về tư

liệu sản xuất đó là sở hữu tư nhân và sở hữu
xã hội.
2. Quy luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
2 mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn
tại ko tách rời nhau, mà tác động biện
chứng vào nhau hình thành nên quy luật
phổ biến của lịch sử phát triển xã hội loài
người, đó là quy luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất, quy luật này đã chỉ
rõ tính phụ thuộc khách quan của quan hệ
sản xuất váo sự phát triển của lực lượng
sản xuất, đến lượt mình quan hệ sản xuất
tác động tích cực trở lại lực lượng sản xuất.
Tính chất của lực lượng sản xuất và tính
chất của quá trình sản xuất ra sản phẩm,
quá trình này phụ thuộc vào tính chất của
tư liệu sản xuất và lao động, lực lượng sản
xuất có tính chất cá nhân thì tư liệu sản
xuất mang tính thủ công, tính chất lao động
là lao đông riêng rẽ, khi máy móc ra đời
đòi hỏi phải có nhiều người cùng hợp tác
mới tạo ra sản phẩm thì lực lượng sản xuất
phát triển và mang tính xã hội hóa.
Trình độ của lực lượng sản xuất là trình
độ phát triển của công cụ lao động, của kĩ
thuật, kinh nghiệm,kĩ năng của người lao

động, quy mô sản xuất,trình độ phân công
lao động, trình độ sản xuất càng cao thì sự
phân công lao động càng tỉ mỉ .
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến
đổi, phát triển do lực lượng sản xuất quyết
định, trong quá trình sản xuất con người
luôn cải tiến ,hoàn thiện công cụ lao động
ngày càng cao hơn và vì vậy thói quen,
kinh nghiệm, kiến thức khoa học của con
người cũng tiến bộ hơn, lực lượng sản xuất
trở thành yếu tố động nhất, cách mạng
nhất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương
đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn
so với sự phát triển của lực lượng sản
xuất ,lực lượng sản xuất là nội dung của
phương thức sản xuất, còn quan hệ sản
xuất là hình thức xã hội của nó, trong quan
hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung
quyết định hình thức, hình thức tác động
trở lại nội dung .
Cùng với sự hình thành và phát triển của
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng
hình thành và biến đổi cho phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, sự phù hợp đó tạo động lực cho lực
lượng sản xuất phát triển, khi đạt đến 1
trình độ nhất định mà quan hệ sản xuất ko
còn phù hợp sẽ phát sinh mâu thuẫn gây
gắt giữa 2 mặt của phương thức sản xuất,
tất yếu sẽ dẫn đến việc xóa bỏ quan hệ sản

xuất cũ, thay thế bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp hơn, mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển.
14
Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ thay thế
bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa
là xóa bỏ 1 phương thức sản xuất đã lỗi
thời thay bằng 1 phương thức sản xuất tiến
bộ hơn, trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất là cơ sở khách quan của cuộc đấu
tranh giai cấp, tất yếu dẫn đến cách mạng
xã hội, làm cho xã hội chuyển từ hình thái
kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã
hội khác cao hơn.
Sự tác động trớ lại của quan hệ sản xuất
đối với lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản
xuất dựa vào đó để phát triển, nó tác động
trở lại lực lượng sản xuất theo hướng thúc
đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất, nếu quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất sẽ trở thành động lực thúc đẩy mở
đường cho lực lượng sản xuất phát triển,
ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời, ko còn
phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất nó có tác dụng kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất, sự kìm
hãm này chỉ mang tính tạm thời, tất yếu sẽ

được thay thế bằng 1 quan hệ sản xuất mới
phù hợp hơn.
Sở dĩ QHSX có thể tác động mạnh mẽ đối
với lực lượng sản xuất, vì nó quy định mục
đích sản xuất, quy định hệ thống tổ chức
quản lí, quy định phương thức phân phối
sản phẩm lao động, nó ảnh hưởng đến
đông đảo người lao động lực lượng sản
xuất chủ yếu của xã hội.
Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất và quy luật chung nhất của sự phát
trienr xã hội, qua sự thay thế kế tiếp nhau 5
phương thức sản xuất từ thấp tới cao, tuy
nhiên ở từng quốc gia khác nhau, do điều
kiện lịch sử khác nhau có thể ko phải tuần
tự trãi qua các phương thức trên (vd: Việt
Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội ko qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa và
công cuộc đổi mới hiện nay).

CÂU 25; Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng:
1. Một số khái niệm:
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản
xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của 1 hình thái
kinh tế xã hội , cơ sở hạ tầng bao gồm các
quan hệ sản xuất thống trị, các quan hệ sản
xuất tàn dư của xã hộ cũ và các quan hệ sản
xuất mầm mống của xã hội sau; đặc trưng

của cơ sở hạ tầng do quan hệ sản xuất thống
trị quy định, chi phối, nó quy định và tác
động trực tiếp đến xu hướng chung của toàn
bộ đời sống kinh tế xã hội.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì tính
chất giai cấp của cơ sơ hạ tầng là do kiểu
quan hệ sản xuất quy định, tính chất đối
kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt
nguồn ngay trong cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những
quan điểm tư tưởng xã hội, những thiết chế
tương ứng và những quan hệ nội tại của
chúng được hình thành trên cơ sở hạ tầng
nhất định.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có
đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng,
nhưng ko tồn tại tách rời nhau mà liên hệ tác
động qua lại nhau, đều nảy sinh trên cơ sở
hạ tầng và phản ánh cơ sở hạ tầng, trong đó
có những yếu tố liên hệ trực tiếp với cơ sở
hạ tầng như tổ chức chính trị, pháp luật, có
những yếu tố liên hệ gián tiếp cơ sở hạ tầng
như :triết học, nghệ thuật ,tôn giáo…
Kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai
cấp đối kháng bao gồm: tư tưởng và thiết
chế của giai cấp thống trị, tàn dư các quan
điểm tư tưởng của xã hội cũ, quan điểm tư
tưởng của giai cấp mới ra đời, quan điểm tư
tưởng các tầng lớp trung gian, song đặc
trưng chính là sự thống trị về chính trị và tư

tưởng của giai cấp thống trị.
Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến
trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp đối
kháng là nhà nước, chính nhờ có nhà nước
mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống
trị được toàn bộ đời sống xã hội.
2.Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng:
a. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng: vai trò ấy thể hiện ở chỗ cơ sở
hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy,
giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế
thì cũng chiếm địa vị thống trị về đời sống
tinh thần, quan hệ sản xuất nào thống trị thì
cũng tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị
tương ứng, mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế
quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh
vực tư tưởng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối
với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ,
những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng
sớm hay muộn sẽ dẫn tới sự biến đổi căn
bản trong kiến trúc thượng tầng, sự biến đổi
đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế xã hội
cũng như khi chuyển từ 1 hình thái kinh tế
xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội
khác.
Khi cơ sơ hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc
thượng tầng mà nó sinh ra cũng mất theo,
song những nhân tố riêng rẽ của kiến trúc

thượng tầng cũ vẫn còn tồn tại trong thời
gian dài ; khi cơ sở hạ tầng mới ra đời thì
kiến trúc thượng tầng mới phù hợp cũng
xuất hiện; trong xã hội có giai cấp đối
khoáng, sự biến đổi đó diễn ra thông qua
cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp mà
đỉnh cao là cách mạng xã hội nhằm chuyển
từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái
KTXH khác cao hơn
b.Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng
tầng đối với cơ sở hạ tầng
KTTT luôn là lực lượng tác động mạnh mẽ
đến toàn bộ các mặt của đời sống xã hội và
tác động tích cực trở lại cơ sở hạ tầng đã
sinh ra nó; sự tác động ấy được thể hiện ở
chức năng xã hội của KTTT là bảo vệ, duy
trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng đã
sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng cũ
Trong xã hội có gai cấp đối khoáng,
KTTT bảo đảm sự thống trị về giai cấp
thống trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị
thống trị trong kinh tế; nếu giai cấp thống trị
ko xác lập sự thống trị của mình về chính trị
tư tưởng thì cơ sở kinh tế ko thể đứng vững
được
Trong các bộ phận của KTTT thì nhà
nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng và có
tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng; nhà
nước ko chỉ dựa vào tư tưởng mà còn dựa

vào hệ thống pháp luật, các công cụ bạo lực
khác như quân đội, cảnh sát để củng cố địa
vị thống trị của mình.
Các bộ phận khác của KTTT như: triết
học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng đều
tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng bằng
những hình thức khác nhau, song thường
những tác động đó phải thông qua nhà nước,
pháp luật và các thể chế tương ứng.
Trong bản thân kiến trúc thượng tầng cũng
diễn ra quá trình biến đổi, phát triển có tính
độc lập tương đối, quấ trình đó càng phù
hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác dụng của nó
càng có hiệu quả, như vậy kiến trúc thượng
tầng có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng
khi nó tác dụng cùng chiều với quy luật vận
động của cơ sở hạ tầng, ngược lại, nó sẽ cản
trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
3.Quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng trong quá trình đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay.
Trong quá trình đổi mới, xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng
cho chủ nghĩa xã hội. Cơ sở hạ tầng trong
thời kì quá độ ở nước ta chính là 1 cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần (vd) trong đó kinh

tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; các thành
phần kinh tế vừa khác nhau về vai trò, chức
năng , tính chất, song vừa thống nhất với
nhau trong 1 cơ cấu nền kinh tế quốc dân
thống nhất, chúng vừa cạnh tranh vừa liên
kết, bổ sung cho nhau.
Các thành phần kinh tế đó vận hành theo
cơ chế thị trường ,song bản thân cơ chế thị
trường có tính 2 mặt: vừa tích cực, vừa tiêu
cực, do đó cần phải tăng cường sự quản lí
của nhà nước để phát huy mặt tích cực, hạn
15
chế mặt tiêu cực và đảm bảo hoạt động theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việt đổi mới KT, XD nền KT hàng hóa
nhiều thành phần ở nước ta ko thể tách rời
những vấn đề chính trị , văn hóa, xã hội,
những vấn đề thuộc kiến trúc thượng tầng.
Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc đã
khẳng định, trong công cuộc đổi mới đất
nước phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội , phải kien trì với chủ
nghĩa Mác Lenin và tư tưởng Hồ chí Minh,
làm cho chủ nghĩa mác lenin và tư tưởng
HCM giữ vai trò chi phối trong đời sống của
nhân dân ta.
Phải kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế
với đổi mơi chính trị, lấy đổi mới kinh tế
làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới
về chính trị, trong đổi mới chính trị phải đổi

mới từng bước, phù hợp với đổi mới kinh tế,
đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế, mục
tiêu chủ yếu của đổi mới chính trị nhằm mục
tiêu thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân
dân, dân chủ phải đi đôi với kĩ luật, kĩ cương
,chống cực đoan, quá khích, lợi dụng dân
chủ, nhân quyền nhằm gây rối trật tự, làm
mất ổn định chính trị .
Để thực hiện điều đó, chúng ta phải xây
dựng nhà máy pháp quyền XHCN, nhà
nước của dân do dân và vì dân, phải ko
ngừng đổi mới và nâng cao năng lực lãnh
đạo, scws chiến đấu của Đảng cả về chính
trị, tư tưởng ,tổ chức và cán bộ.
Đổi mới về kinh tế phải gắn liền với phát
triển các lĩnh vực khoa học, công nghệ, giáo
dục và đào tạo, nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phải gắn
với phát triển văn hóa và thực hiện ccong
bằng xã hội.

CÂU 26: Phân tích định nghĩa giai cấp của
lenin, ý nghĩa của vấn đề
1.Giai cấp là gì?
Giai cấp là 1 trong những vấn đề quan
trọng của triết học, vấn đề giai cấp đã được
các nhà triết học đưa ra nhiều cách giải
quyết khác nhau, tùy thuộc vào địa vị, quan
điểm của từng hệ thống triết học.

Nhiều nhà triết học của giai cấp bốc lột thì
cho rằng sự khác nhau về giai cấp là do có
sự khác nhau về chủng tộc, màu da ,về tài
năng, về địa vị xã hội, các nhà triết hoc theo
thiết tự nhiên thì giải thích rằng giai cấp là
những tập đoàn người khác nhau về chủng
tộc và tâm lí.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng, các
giai cấp trong xã hội hình thành 1 cách
khách quan, gắn liền với những giai đoạn
lịch sử nhất định của quá trính sản xuất vật
chất.
Lênin dưa ra nhận định:”giai cấp là những
tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị
trong 1 hệ thống sản xuất nhất định trong
lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ trong 1
tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ
chức lao động xã hội và như vậy là khác
nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của
cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng”.
Qua định nghĩa trên cho thấy, nói đến giai
cấp là nói đến 1 hệ thống các tập đoàn người
trong một chế độ KTXH nhất định, do chế
độ ấy sản sinh ra; mỗi giai cấp trong lịch sử
đều có đặc điểm riêng, tuy nhiên định nghĩa
của Lê Nin cho phép ta nắm được dấu hiệu
đặc trưng chung nhất, cơ bản nhất, những
dấu hiệu phổ biến và ổn định nhất của giai
cấp.
Giai cấp là phạm trù KTXH có tính lịch

sử ; giai cấp ko phải là sản phẩm của sản
xuất nói chung mà là sản phẩm của hệ thống
sản xuất XH nhất định trong lịch sử; một hệ
thống gc tương ứng với một hệ thống sx
XH, do đó ko thể hiểu đặc trưng của từng gc
cụ theneeus ko đặt nó trong mqh với các gc
đối lập khác (vd:gc tư sản và gc vô sản)
Nói đến gc là nói đến sự khác nhau của
các tập đoàn người về địa vị trong một hệ
thống KTXH nhất định, trong đó tập đoàn
người này là thống trị, còn tập đoàn người
kia là bị trị; sự khác nhau ấy thể hiện ở chỗ:
Khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sx;
đây là sự khác nhau cơ ản nhất, qui định sự
khác nhau về địa vị của các gc trong XH(vd)
Khác nhau về vai trò trong tổ chức lao
động XH, trong tổ chức quản lí SX; tập
đoàn nào chiếm hữu tư liệu SX đương nhiên
giữ vai trò lãnh đạo. chỉ huy hoạt động SX
và lưu thông hàng hóa tại từng đơn vị kinh
tế và trên quy mô toàng xã hội.
Khác nhau về phương thức thu nhận của
cải XH; các gc thống trị chiếm đoạt gía trị
thặng dư của các gc bị trị; chế độ phân phối
trong XH có gc đối kháng là chế độ phân
phối bất công vì phần lớn của cải nằm trong
tay gc thống trị, phần ít ỏi còn lại thuộc về
lực lượng đông đảo trong XH đó là những
người lao động
2.Nguồn gốc và kết cấu gc:

Về nguồn gốc gc: trong XH có nhiều
nhóm người, tập đoàn người được phân biệt
bằng những đặc trưng khác nhau:tuổi tác,
giới tính, dân tộc, chủng tộc, quốc gia, nghề
nghiệp…trong những sự khác nhau đó có
một số là do nguyên nhân tự nhiên, một số
khác là do nguyên nhân XH; những sự khác
biệt đó tự nó ko sản sinh ra sự đối lập về
XH; chỉ có trong những điều kiện nhất định
mới dẫn đến sự phân chia XH thành nhưng
gc khác nhau
CN duy vật lịch sử khẳng định sự phân
chia XH thành những gc là do nguyên nhân
KT; trong XH cộng sản nguyên thủy, trình
độ lực lượng SX thấp kém, năng suất lao
động chưa cao, XH chưa có sp dư thừa, con
người phải nương tựa vào nhau để sống; gc
chưa thể xuất hiện
SX XH dần dần được phát triển, việc sử
dụng công cụ bằng kim loại làm cho năng
suất lao động tăng lên; đã dẫn tới sự phân
công lao động trong XH, chăn nuôi tách ra
khỏi trồng trọt, sx thủ công dần trở thành
ngành tương đối độc lập với nông nghiệp,
lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay;
sx mang tính cá thể, gia đình tỏ ra có hiệu
quả hơn, chế độ tư hữu ra đời; XH phân hóa
thành các gc khác nhau, hình thành gc thống
trị và gc bị trị
Như vậy, sự hình thành gc diễn ra theo 2

con đường: thứ nhất là sự phân hóa bên
trong nội bộ công xã thành kẻ bóc lột và
người bị bóc lột; thứ hai là những tù binh bị
bắt trong chiến tranh giữa các bộ lạc; chế độ
có gc đầu tiên trong lịch sử phát triển của
XH loài người đó là chế độ chiếm hữu nô lệ,
tiếp theo là chế độ phong kiến, chế độ tư bản
chủ nghĩa là bước phát triển cuối cùng và
cao nhất của XH có gc
Về kết cấu gc trong XH: trong XH có gc,
mỗi hình thái KTXH có một kết cấu gc nhất
định; khi hình thái KTXH này thay thế hình
thái KTXH khác thì kết cấu gc cũng thay
đổi
Mỗi kết cấu gc trong XH có gc đều có
các gc cơ bản, gc ko cơ bản và tầng lớp
trung gian; những gc cơ bản là những gc gắn
liền với sự xuất hiện và tồn tại của phương
thức sx thống trị trong XH: sự đối kháng và
cuộc đấu tranh của các gc đó biểu hiện mâu
thuẩn cơ bản của phương thức sx đã sinh ra
chúng; những gc ko cơ bản đó là những
người nông dân tự do có ít ruộng đất trong
chế độ chiếm hưu nô lệ, đó là gc nô lệ, chủ
nô với tư cách là tàn dư của chế độ cũ, gc tư
sản với tư cách là mầm móng của XH mới
trong Xh phong kiến…; tầng lớp trung gian
là sp của chính phương thức đang thống trị,
là kết quả của quá trình phân hóa XH diễn ra
ko ngừng trong XH, đó là tầng lớp bình dân

trong XH nô lệ, là tầng lớp tri thức, tiểu tư
sản trong XH tư bản…
Cùng với sự phát triển của sx, mỗi gc
trong 1 kết cấu gc cũng có 1 biến đổi nhất
định, những biến đổi ấy dẫn đến những thay
đổi địa vị của các gc đó trong hệ thống sx
XH
3.Ý nghĩa: Phân tích gc và kết cấu gc cùng
với những biến đổi của nó giúp ta hiểu được
địa vị vai trò và thái độ chính trị của mỗi gc
đối với mỗi cuộc vận động lịch sử, đạc biệt
là cuộc đấu tranh gc trong thời đại ngày nay
16
Câu 27: Đấu trnh gc là j?Phân tích nội
dung cơ bản của cuộc đấu tranh gc ở nước ta
hiện nay ?
1.Gc và kết cấu gc : như câu26
2.Đấu tranh gc : là 1 trong những động lực
phát triển của XH có gc đối kháng ; thực
chất là cuộc đấu trnh của nững gc có lợi ích
căn bản đối lập nhau, biểu hiện thông qua
xung đột giữa lực lượng sx mới với quan hệ
sx già cỗi được giải quyết, bước quá độ
chuyển từ chế độ XH này sang chế độ XH
khác cao hơn
Đấu trnh gc là qui luật chung của XH có
gc, song quy luật ấy có những biểu hiện đặc
thù trong từng XH cụ thể, điều đó do kết cấu
gc của mỗi XH, do địa vị lịch sử của mỗi gc
CM trong từng phương thức sx, do tương

quan lực lượng của các giai cấp trong XH
quy định
Đấu tranh gc ko chỉ thẻ hiện trong thời kỳ
CMXH mà còn trong thời kỳ hòa bình;
trong thời kỳ này, đấu tranh gc ảnh hưởng
lớn đến sự phát triển của lực lượng sx, chẳng
những có tác dụng cải tạo XH, xóa bỏ các
lực lượng XH phản động mà nó còn có tác
dụng cải tạo bản thân các gc CM(ví dụ)
Những cải cách tiến bộ nhất định của 1
quốc gia đó là kết quả của đấu tranh gc trong
nước và áp lực của cuộc đấu tranh gc ở các
nước trên TG(ví dụ)
Trong XH có gc, sự phát triến của các mặt
văn hóa, nghệ thuật, ko thể ko mang dấu
ấn của đấu tranh gc và do cuộc đấu tranh gc
thúc đẩy(ví dụ)
Ngày nay có 3 hình thức đấu tranh cùa
gccn trong XHTB, đó là: đấu tranh KT, đấu
tranh tư tưởng và đấu tranh chính tri; cả 3
hình thức đấu tranh trên đều wan trọng, mục
tiêu cuối cùng của đấu tranh kinh tế, đtranh
tư tưởng chính là tiến lên đtranh ch.trị, giành
lại các quyền tự do dân chủ và cuối cùng là
giành lấy chính quyền về tay nhân dân.
Chỉ có bạo lực CM mới chống lại bạo lực
phản CM
3.Nội dung đấu tranh gc ở nước ta hiện nay.
Trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước
ta XH vẫn tồn tại lâu dài các gc, các mâu

thuẩn gc ; dấu tranh gc là 1 thực tế khách
quan và được diễn ra vô cùng gay go phức
tạp trong điều kiện mới :
- Đảng của gc công nhân giành lấy chính
quyền.
Mục tiêu đấu tranh trực tiếp của gc công
nhân đã thay đổi từ mục tiêu giành chính
quyền sang mục tiêu cơ bản và chủ yếu là
củng cố chính quyền của nhân dân lao động,
xây dựng thành công CNXH mà trọng tâm
là xây dựng kinh tế.
Do vậy, GCCN dưới sự lảnh đạo của Đảng
phải sử dụng tổng hợp, linh hoạt các hình
thức đấu tranh mới, trong đó có đấu tranh
bằng bạo lực và bằng hòa bình, bằng giáo
dục thuyết phục và bằng hành chính, pháp
chế, bằng chính trị, quân sự với kinh tế,
bằng cải tạo quan hệ củ lỗi thời xây dựng
quan hệ mới tiến bộ, bằng liên minh giữa
GCCN với các gc và tầng lớp khác.
Mặc khác, để thực hiện mục tiêu dân giàu
nước mạnh XH công bằng, dân chủ văn
minh, vấn đề cơ bản là phải phát triển mạnh
mẽ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản
lý của nhà nước theo định hướng XHCN ;
thực hiện CNH-HĐH đất nước, xây dựng
CNXH đi đôi với bảo vệ tổ quốc XHCN.
Toàn bộ sự nghiệp trên đây là lợi ích căn
bản của dân tộc và nhân dân lao động, tất cả

các gc và tầng lớp trong XH đều tán đồng,
tuy nhiên củng còn 1 bộ phận nhỏ vì quyền
lợi ích kỉ, vì hận thù gc, đã và đang liên kết
với các thể lực phản động quốc tế chống lại
sự nghiệp CM của nd ta. Vì vậy, đấu tranh
gc trong thời kỳ quá độ ở nước ta, trước hết
là cuộc đấu tranh giữa 1 bên là quần chúng
nd lao động, các lực lượng XH đi theo con
đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, với
1 bên là các thế lực, tổ chức , phần tử chống
độc lập dân tộc và CNXH, chống Đảng,
Nhà Nước và pháp luật, phá hoại trật tự XH
và an ninh quốc gia.
Các thế lực phản động trong và ngoài
nước chống đối con đường CM của nd ta
chủ yếu thông qua âm mưu diễn biễn hòa
bình nhằm thủ tiêu sự lảnh đạo của Đảng,
làm tan rã hệ tư tưởng, tiến tới lật đổ chính
quyền nhân dân.
Cuộc đấu tranh của 2 con đường XHCN
và TBCN củng là biểu hiện của đấu tranh gc
trong thời kì quá độ ở nước ta, đây là cuộc
đấu tranh giữa nhân tố thúc đẩy đất nước
phát triển theo định hươngs XHCN với các
nhân tố thúc đẩy đất nước dịch chuyển theo
hươngs TBCN; cuộc đấu tranh này diễn ra
hăngf ngày, hangf giờ trên tâts cả kĩnh vực
của đời sống XH.
Trong cơ cấu giai cấp ở nước ta hiện nay,
ngoài công nhân, nông dân, trí thức và các

tầng lớp nd lao động khác, còn có tầng lớp
tư sản, tầng lớp này có điề kiện phát triển
trong nền kt thị trường; x.hiện m.thuẩn giữa
GCCN và NDLĐ với t.lớp tư sản, đây là
mâu thuẫn giữa l,động và bóc lột l.động
song trong thời kỳ quá độ đó chỉ là mâu
thuẫn trong nội bộ n.dân
KT tư bản tư nhân là một bộ pận ko thể
thiếu của nền KT nhiều thành phần và tầng
lớp tư sản có vai trò tích cực trong sự nghiệp
p.triển KT, có khả năng t.gia CNH-HĐH
ĐN trong XH hiện nay, lợi ích căn bản của
các nhà tư sản thống nhất với lợi ích chung
cộng đồng; q.hệ giữa GCCN va NDLĐ với
tầng lớp tư sản là q.hệ vừa hợp tác vừa đấu
tranh, đ.tranh chống nhưngx khuynh hướng
tiêu cực, phi XHCN để t.hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ và văn minh

Câu 30. Tồn tại xh là gì? Những yếu tố cơ
bản của tồn tại XH và vai trò củ nó trong đời
sống XH?
1. Khái niệm: TTXH là sinh
hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt
vật chất của xhl bao gồm các yếu tố chính
như p.thức sx vật chất, đ.kiện tự nhiên( hoàn
cảnh địa lý, dân số và mật độ d.số…) trong
đó phương thức sx vật chất là yếu tố cơ bản
nhất.
2. Vai trò của TTXH :

- TTXH quyết định ý thức XH.
Mỗi khi tồn tại XH thay đổi nhất là p.thức sx
biến đổi thì những vấn đề thuộc về ý thức xh
cũng biến đổi theo( tư tưởng, lý luận, quan
điểm, triết học, pháp luật , đạo đức…)
- Tồn tại XH quyết
định ý thức xh ko phải 1 cách
giản đơn trực tiếp mà thường
thông qua các khâu trung
gian.
Câu 31. Ý thức XH là gì? Phân tich vai trò
của ý thức pháp quyền đối với các hình thái
ý thức xh
1. Khái niệm: Ý thức xh là mặt
tinh thần của đời sống xã hội,
bao gồm những quan điểm, tư
tưởng, tình cảm, tâm lý tryền
thống… nảy sinh từ tồn tại xh và
phản ánh tồn tại xh trong những
giai đoạn phát triển nhất định.
Ý thức xh và ý thức cá nhân tồn tại trong
mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với nhau,
thâm nhập vào nhau và làm phong phú cho
nhau; trong đó ý thức cá nhân là thế giới tinh
thần của 1 con người riêng biệt, cụ thể, ý
thức cá nhân cũng phản ánh tồn tại xh
nhưng ko thể mang tính chất xh, ko thể là
quan điểm, tư tưởng tình cảm của cả 1 cộng
đồng, 1 tập đoàn xh, 1 thời đại xh nhất định.
Tùy theo góc độ xem xét, người ta có thể

phân loại ý thức xh theo các dạng sau:
- Ý thức xh thông
thường và ý thức lý luận:
Ý thức xh thông thường là những tri thức,
những quan điểm của con người hình thành
1 cách trực tiếp trong hoạt động thực tiển
hằng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái
quát hóa.
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm
được hệ thống hóa, khái quát hóa thành các
học thuyết xh,được trình bày dưới dạng
những khái niệm, phạm trù quy luật.
Ý thức xh thông thường phản ánh sinh
động, trực tiếp nhiều mặt đời sống xh của
con người, tuy trình độ ý thức xh thông
thường thấp hơn trình độ ý thức lý luận
nhưng những tri thức , kinh nghiệm phong
phú của nó là tiền đề quan trọng cho việc
hình thành các lý thuyết khoa học. Ngược
lại, ý thức lý luận có khả năng phản ánh hiện
thực khách quan 1 cách khái quát sâu sác và
chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất
của sự vật hiện tượng.
- Tâm lý xh và hệ tư tưởng xh:
Tâm lý xh bao gồm toàn bộ tình cảm, ước
muốn thói quen, tập quán … của con người,
của 1 bộ phận xh hoặc của toàn xh, hình
thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống
hằng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.
17

Đặc điểm của tâm lý xh là phản ánh 1 cách
trực tiếp điều kiện sống hằng ngaỳ của con
người, là sự phản ánh có tính chất tự phát,
thường ghi lại những mặt bề ngoài của tồn
tại xh, nó ko có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ
ràng và sâu sắc bản chất các mối quan hệ xh.
Hệ tư tưởng là trình độ cao của ý thức xh ,
nó được hình thành khi con người nhận thức
sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật
chất của mình; hệ tư tưởng là nhận thức về
sự tồn tại , là hệ thống những quan điểm tư
tưởng , là kết quả của sự khái quát hóa
những kinh nghiệm xh, hệ tư tưởng được
hình thành 1 cách tự giác do các nhà tư
tưởng của 1 gc nhất định tạo ra và được
truyền bá rộng rãi trong xh.
Tâm lý xh và hệ tư tưởng xh tuy là 2 trình
độ, 2 phương thức phản ánh khác nhau của
ý thức xh nhưng chúng có mqh qua lại với
nhau, chúng có cùng 1 nguồn gốc là tồn tại
xh, đều phản ánh tồn tại xã hội, tâm lí xã hội
tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây cản trở cho
sự hình thành, truyền bá, tiếp thu của con
người đối với 1 hệ tư tưởng nhất định,
ngược lại hệ tư tưởng khoa học sẽ thúc đẩy
tâm lí xã hội phát triển theo chiều hướng
đúng đắn, lành mạnh, có lợi cho xã hội, tuy
nhiên, hệ tư tưởng ko ra đời trực tiếp từ tâm
lí xã hội mà từ bắt nguồn từ những học
thuyết, tư tưởng, quan điểm đã tồn tại trước

đó.
2.Tính giai cấp của ý thức xã hội:
Ý thức xh phản ánh điều kiện sinh hoạt vật
chất của xh, trong xh có giai cấp, mỗi giai
cấp có điều kiện sinh hoạt vật chất riêng, có
địa vị và lợi ích ko giống nhau, do đó ý thức
của giai cấp cũng khác nhau, thậm chí đối
lập nhau, tạo thành tính giai cấp của ý thức
xh.
Tính giai cấp của ý thức xh biểu hiện ở mọi
mặt đời sống tinh thần của xh, ở ý thức
thông thường, ở ý thức lí luận, ở tâm lí xh và
ở hệ tư tưởng xh.
Trong xh có giai cấp đối kháng thì tư
tưởng thống trị của mọi thời đại bao giờ
cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về
kinh tế và chính trị, các giai cấp bị trị thường
chịu ảnh hưởng của tư tưởng này, tuy nhiên
mức độ ảnh hưởng tùy thuộc vào trình độ
phát triển ý thức cách mạng của giai cấp bị
trị.
Việc khẳng định tính giai cấp của ý thức
xh ko phủ nhận vai trò và đặc điểm ý thức
cá nhân, ý thức cá nhân là ý thức mỗi con
người trong xh, về bản chất và sự biểu hiện
của ý thức giai cấp, do những điều kiện sinh
hoạt chung quyết định, song xuất phát từ
những hoàn cảnh sống khác nhau, khả năng
khác nhau nên nó cũng mang những đặc
điểm riêng, tạo thành những cá tính, nhân

cách riêng, làm cho thế giới tinh thần của cá
nhân này khác với thế giới tinh thần của cá
nhân khác cùng giai cấp.
2. các hình thái của ý thức xh;
a. Ý thức chính trị: xuất hiện
trong xh có giai cấp và nhà nước, nó
phản ánh các mối quan hệ chính trị,
kinh tế ,xh giữa các giai cấp, các dân
tộc, các quốc gia, cũng như thái độ
của giai cấp đối với quyền lực nhà
nước, đặc trưng của ý thức chính trị
là thể hiện trực tiếp và tập trung nhất
lợi ích giai cấp, hệ tư tưởng chính trị
thể hiện ngay trong đường lối cương
lĩnh chính trị của các chính đảng,
cũng như trong luật pháp, chính
sách nhà nước, hệ tư tưởng chính trị
hình thành 1 cách tự giác nó được
các nhà tư tưởng của giai cấp xây
dựng và truyền bá.
Ý thức chính trị có vai trò quan trọng đối
với sự phát triển của xh, nó tác động trực
tiếp trở lại cơ sở kinh tế và thúc đẩy kinh tế
phát triển, tác động tích cực hay tiêu cực của
ý thức chính trị tùy thuộc vào tính chất tiến
bộ, cách mạng hay lạc hậu, phản cách mạng
của giai cấp mang hệ tư tưởng đó. Chủ
nghĩa Mác-lênin mang hệ tư tưởng củ giai
cấp công nhân là hệ tư tưởng triệt để cách
mạng và thật sự khoa học, nó dẫn dắt giai

cấp công nhân và nhân dân lao động tiến
hành cuộc đấu tranh 1 cách tự giác nhằm
xóa bỏ chế độ người bốc lột người, xây
dựng 1 xh mới tốt đẹp, công bằng, xã hội xã
hội chủ nghĩa.
b. Ý thức pháp quyền: là toàn bộ các tư
tưởng và quan điểm của 1 giai cấp về bản
chất và vai trò của pháp luật, về quyền và
nghĩa vụ của nhà nước, các tở chức xh và
công dân, về tính hợp pháp và ko hợp pháp
của hành vi con người trong xh, cũng như ý
thức chính trị, ý thức pháp luật ra đời cùng
với nhà nước, nó phản ánh trực tiếp các
quan hệ kinh tế của xh thông qua những văn
bản luật.
pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị
được thể hiện thành luật, mỗi chế độ xh, mỗi
nhà nước chỉ có 1 hệ thống pháp luật của
giai cấp nắm chính quyền, nhưng trong xh
có giai cấp đối kháng, các giai cấp khác
nhau có ý thức khác nhau về luật, phản ánh
lợi ích của giai cấp mình.
Ra đời và tồn tại trong xh có giai cấp và
nhà nước, nên ý thức pháp quyền luôn mang
tính chất giai cấp, giai cấp thống trị cũng cố
địa vị của mình ko chỉ bằng pháp luật mà
còn dựa trên hệ tư tưởng pháp quyền để lập
luận về sự cần thiết và tính hợp lí của pháp
luật do mình đặt ra.
Pháp luật và hệ tư tưởng pháp quyền xh

chủ nghĩa lấy chủ nghĩa Mác –lênin –hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng,
phản ánh lợi ích của toàn thể nhân dân lao
động, bảo vệ cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xh
và trật tự xh chủ nghĩa, để pháp luật xh chủ
nghĩa trở thành công cụ sắc bén báo vệ chế
độ và trở thành ý chí chung của mọi người,
được mọi người chấp hành 1 cách tự giác,
nhà nước xh chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng cần ko ngừng đẩy mạnh công tác giáo
dục ý thức chính trị và ý thức pháp luật cho
nhân dân .
b. ý thức đạo đức: là toàn bộ những
quan điểm về thiện và ác, tốt và xấu,
lương tâm và tách nhiệm, hạnh phúc
và công bằng…và về những quy tắc
đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử
giữa cá nhân với xh, giữa cá nhân
với cá nhân trong xh.
Những quan điểm về đạo đức được hình
thành rất sớm trong xh cộng sản nguyên
thủy, khi xh có giai cấp ra đời, ý thức đạo
đức được hình thành và phát triển như 1
hình thái ý nghĩa xh riêng.
Ý thức đạo đức và đạo đức phát triển ko
tách rời với sự phát triển của xh, ý thức đạo
đức phản ánh tồn tại xh dưới dạng quy tắc
điều chỉnh hành vi con người bằng dư luận
xh, nó bao gồm hệ thống tri thức về giá trị
và định hướng giá trị đạo đức, tình cảm và lí

tưởng đạo đức, trong đó tình cảm đạo đức
có ý nghĩa quan trọng nhất, nếu thiếu nó thì
những khái niệm, phạm trù về đạo đức ko
thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức.
Sự ý thức về lương tâm ,vinh dự và trách
nhiệm…phản ánh khả năng tự chủ của con
người, là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là
nét cơ bản quy định gương mặt đạo đức con
người, là biểu hiện bản chất xh con người.
Trong xh có giai cấp những nội dung chủ
yếu của ý thức đạo đức mang tính giai cấp,
nó phản ánh các mối liên hệ giữa các giai
cấp trong xh, đạo đức cộng sản được hình
thành trong cuộc đấu tranh cách mạng của
giai cấp công nhân, bắt nguồn từ đạo đức
cách mạng của giai cấp công nhân, đạo đức
cộng sản kế thừa và phát huy những giá trị
đạo đức của loài người, trước hết là của
nhân dân lao động, phản ánh các mối liên hệ
kinh tế trong xh ko còn giai cấp, ko còn
người bốc lột người, nó đòi hỏi phải hài hòa
trong sự phát triển giữa cá nhân và tập thể,
coi trọng sự phát triển toàn diện cá nhân,
đồng thời chống mọi biểu hiện của chủ
nghĩa cá nhân.
Đạo đức cộng sản thể hiện chủ nghĩa nhân
đạo cao nhất, phản ánh bản chất của xh mới,
lấy hạnh phúc con người làm mục đích của
sự phát triển, nội dung của đạo đức cộng sản
còn bao gồm chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa

quốc tế vô sản, sự hình thành đạo đức cộng
sản là kết quả quá trình giáo dục, đấu tranh
lâu dài, bền bỉ, loại bỏ dần tàn dư xh cũ.
c. Ý thức tôn giáo: theo Ănghen
“tất cả mọi tôn giáo chỉ là sự phản
ánh hư ảo vào trong đầu óc người
của những lực lượng bên ngoài chi
phối cuộc sống hằng ngày của họ,
chỉ là sự phản ánh trong đó những
lực lượng trần thế đã mang hình
thức của những lực lượng siêu trần
thế”.
18

×