Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Nghiên cứu áp dụng phân loại thành phần kinh tế trong công tác thống kê Việt Nam Tổng cục Thống kê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 89 trang )


1

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
TỔNG CỤC THỐNG KÊ




B¸o c¸o tæng hîp
kÕt qu¶ nghiªn cøu khoa häc
Đề tài cấp Bộ

ĐỀ TÀI: “NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG PHÂN LOẠI THÀNH PHẦN
KINH TẾ TRONG CÔNG TÁC THỐNG KÊ VIỆT NAM”



Chủ nhiệm: TS. Đỗ Thức
Phó Chủ nhiệm: CN. Trần Tuấn Hưng
ThS. Đinh Thị Thúy Phương
Thư ký: CN. Nguyễn Thị Hà
ThS. Nguyễn Đình Khuyến



9510


Hà Nội, tháng 12 năm 2010


2
MỤC LỤC
Trang
Danh mục các bảng 4
Danh mục từ viết tắt 5
Đặt vấn đề 6

PHẦN I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÂN LOẠI
THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG CÔNG TÁC THỐNG KÊ
9

I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 9

II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ THÀNH
PHẦN KINH TẾ
11
1. Kinh tế nhà nước 14
2. Kinh tế tập thể 18
3. Kinh tế tư nhân 23

4. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 29
5. Kinh tế tư bản nhà nước 31

PHẦN II: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÂN LOẠI THÀNH PHẦN
KINH TẾ TRONG CÔNG TÁC THỐNG KÊ
34

I. TỔNG QUAN CÁC VĂN BẢN VỀ ÁP DỤNG PHÂN LOẠI TPKT
TRONG CÔNG TÁC THỐNG KÊ
34

1. Quyết định số 147 TCTK/QĐ ngày 27/12/1993 34
2. Công văn số 231 TCTK/PPCĐ ngày 17/4/2002 35

II. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÂN LOẠI TPKT TRONG CÔNG
TÁC THỐNG KÊ
36
1. Thực trạng áp dụng phân loại TPKT trong thu thậ
p số liệu 37
2. Thực trạng áp dụng phân loại TPKT trong tổng hợp, biên soạn và công
bố thông tin thống kê
43

III. ĐÁNH GIÁ CHUNG THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÂN LOẠI
TPKT TRONG CÔNG TÁC THỐNG KÊ
48
1. Kết quả đạt được 48
2. Một số vấn đề hạn chế và bất cập khi áp dụng phân loại TPKT trong
công tác thống kê
50

PHẦN III. ĐỀ XUẤT PHÂN LOẠI THỐNG KÊ THÀNH PHẦN
KINH TẾ
55

3
1. Nguyên tắc, căn cứ xác định nội dung phân loại thống kê theo TPKT 56
2. Tiêu thức phân loại 59
3. Đơn vị phân loại 60
4. Đề xuất phân loại thống kê theo TPKT và áp dụng thử nghiệm
64


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 83
Phụ lục: 1; 2 86-87
Danh mục tài liệu tham khảo 88

































4

DANH SÁCH CÁC BẢNG


Trang
Bảng 1: Quan hệ phân loại TPKT (Quan điểm của Đảng) và LHKT áp
dụng trong công tác thống kê
36
Bảng 2: Chỉ tiêu thống kê thu thập thông tin áp dụng phân loại theo 5
LHKT
42
Bảng 3: Chỉ tiêu thống kê tổng hợp, biên soạn và công bố thông tin áp
dụng phân loại theo 5 LHKT/TPKT
43
Bảng 4: Hiện trạng thông tin thống kê theo phân loại TPKT trong công tác
thống kê
51
Bảng 5: Ma trận xác định thành phần kinh tế 65
Bảng 6: Danh mục phân loại thống kê theo TPKT 66
Bảng 7: Tổng hợp sắ
p xếp các đơn vị, cá nhân pháp lý tham gia quá trình
sản xuất kinh doanh vào các TPKT
72

Bảng 8: Ma trận xác định TPKT 73
Bảng 9: Đề xuất phân loại thống kê TPKT 74
Bảng 10: Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia áp dụng theo LHKT/TPKT 77
Bảng 11: Kết quả thử nghiệm đề xuất phân loại thống kê TPKT trong điều
tra doanh nghiệp
82
Bảng 12: Áp dụng thống kê phân loại TPKT đối với doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp và dự án có vốn ĐTNN
84











5

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TCTK Tổng cục Thống kê
TPKT Thành phần kinh tế
LHKT Loại hình kinh tế
KTNN Kinh tế Nhà nước
KTNNN Kinh tế ngoài Nhà nước
KTTT Kinh tế tập thể

KTCT Kinh tế cá thể
KTTN Kinh tế tư nhân
KTCVĐTNN Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
DN Doanh nghiệp
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
PPCĐ&CNTT Phương pháp Chế độ và Công nghệ thông tin
NXB Nhà Xuất bản














6
ĐẶT VẤN ĐỀ

Xuất phát một trong các chức năng của Tổng cục Thống kê là tổ chức các hoạt động
thống kê và cung cấp thông tin thống kê kinh tế - xã hội cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân
theo quy định của pháp luật
1
, trong đó có các thông tin liên quan đến thống kê theo phân loại
thành phần kinh tế, đồng thời một trong những định hướng của sự phát triển thống kê trong

điều kiện hiện nay là phản ánh được các đặc điểm của nền kinh tế ở Việt Nam, mà Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991) đã xác
định: Phát triển một nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng
cố và mở rộng. Kinh tế cá thể còn có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào con đường
làm ăn hợp tác trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Tư bản tư nhân được kinh
doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy đị
nh. Phát triển kinh
tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển
mạnh, nhưng không phải là một thành phần kinh tế độc lập. Các hình thức sở hữu hỗn hợp
và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng. Các tổ chức kinh tế tự chủ và
liên kết, hợp tác và cạnh tranh trong sản xuất và kinh doanh”.
Dự thảo Cương lĩ
nh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011, dự thảo Cương lĩnh 2011) đã khẳng định lại và phát triển Cương
lĩnh 91 về thành phần kinh tế (TPKT), trong đó chỉ rõ “…Phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều TPKT, hình thức tổ ch
ức
kinh doanh và hình thức phân phối. Các TPKT hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp
thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng
được củng cố và mở rộng. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực
của nền kinh tế. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức
kinh tế đa dạng ngày càng phát triển ”
2

Trên cơ sở nghiên cứu nội hàm của các TPKT theo quan điểm của Đảng tại Cương

lĩnh 91 và Dự thảo Cương lĩnh 2011, đồng thời xuất phát từ vai trò cung cấp thông tin thống
kê kinh tế - xã hội cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của
pháp luật và để đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin phục vụ đánh giá thực hiện kế hoạch

1
Quyết định số 54/2010/QĐ-TTg ngày 24/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ;
2
Dự thảo Cương lĩnh 2011.

7
phát triển kinh tế - xã hội trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, như đánh giá tình hình thực
hiện kế hoạch 5 năm 2006-2010
3
“Những kết quả về tăng trưởng đi đôi với phát triển bền
vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu TPKT và xây dựng nội dung kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 về khuyến khích phát triển các TPKT ”, do vậy việc
“Nghiên cứu áp dụng phân loại TPKT trong công tác thống kê Việt Nam” là cần thiết.
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu áp dụng phân loại TPKT trong công tác thống kê
Ph
ương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như:
1. Phương pháp thu thập thông tin, nghiên cứu quan điểm của Đảng và một số tài liệu
khác liên quan đến phân loại TPKT;
2. Phương pháp phân tích thống kê: Phương pháp phân tổ thống kê;
3. Phương pháp thử nghiệm áp dụng đề xuất phân loại TPKT trong công tác thống kê
(điều tra thống kê);
4. Phương pháp chuyên gia.
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của

đề tài là: (i). Đề xuất bảng phân loại theo TPKT phù hợp
quan điểm của Đảng và có tính khả thi trong công tác thống kê; (ii). Đề xuất áp dụng phân
loại trong công tác thống kê Việt Nam.
Nội dung nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, nội dung chính nghiên cứu ĐTKH gồm:
i. Cơ sở lý luận và thực tiễn về áp dụng phân loại TPKT trong công tác thống kê;
ii. Thực trạng áp dụng phân loại TPKT trong công tác thống kê;
iii. Đề xuất phân loại và áp dụ
ng TPKT trong công tác thống kê Việt Nam.
Sau hai năm nghiên cứu với sự hợp tác của một số đơn vị trong và ngoài cơ quan
TCTK như: Văn Phòng Trung ương Đảng; Viện Khoa học Thống kê; Vụ Phương pháp Chế
độ Thống kê và Công nghệ thông tin; Vụ Thống kê Tổng hợp; Vụ Thống kê Thương mại,
Dịch vụ; Vụ Thống kê Công nghiệp; Vụ Hệ thống Tài khoản Quốc gia; Vụ Thống kê Nông,
Lâm nghiệp và Thủy s
ản; Vụ Thống kê Dân số và Lao động; Cục Thống kê Bắc Ninh và các

3
Chỉ thị số: 751/CT-TTg, ngày 03/06/2009 của Thủ tướng Chính phủ.

8
cộng tác viên tham gia nghiên cứu ĐTKH
4
, Đề tài đã hoàn thành nội dung nghiên cứu qua
17 chuyên đề khoa học
5
. Dựa vào các kết quả nghiên cứu, Ban Chủ nhiệm ĐTKH tổng hợp
và hệ thống hóa thành: Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu ĐTKH. Ngoài phần đặt vấn đề,
kết luận, kiến nghị và phụ lục, kết cấu ĐTKH gồm các phần chính như sau:
Phần I. “Cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng phân loại TPKT trong công tác thống kê”,
đề cập tới nội dung nghiên cứu khái niệm về

TPKT; Nội hàm khu vực thể chế (theo quan
điểm của Hệ thống tài khoản quốc gia 2003), quan điểm của Đảng về TPKT theo Cương
lĩnh 91 và những phát triển theo Dự thảo Cương lĩnh 2011.
Phần II. “Thực trạng áp dụng phân loại TPKT trong công tác thống kê”, đề cấp tới
nội dung nghiên cứu thực trạng áp dụng phân loại TPKT trong công tác thống kê theo hai
giai đoạn: (i). Thu thập số liệu thống kê (qua điều tra th
ống kê và báo cáo thống kê); (ii).
Tổng hợp, biên soạn và công bố thông tin thống kê.
Phần III. “Đề xuất phân loại thống kê thành phần kinh tế”, trên cơ sở đánh giá thực
trạng áp dụng phân loại TPKT trong công tác thống kê kết hợp với quan điểm của Đảng về
TPKT theo Dự thảo Cương lĩnh 2011, Đề tài đề xuất danh mục và nội dung năm phân loại
thống kê theo TPKT, gồm: (i). TPKT nhà nước; (ii). TPKT tập thể; (iii). TPKT tư nhân; (iv).
TPKT tư
bản nhà nước; (v). TPKT có vốn đầu tư nước ngoài và “Áp dụng thử nghiệm đề
xuất phân loại TPKT trong công tác thống kê”.
Việc nghiên cứu áp dụng phân loại TPKT trong công tác thống kê Việt Nam là một
vấn đề khó, nội dung nghiên cứu rộng, việc thể chế hoá các quan điểm của Đảng về TPKT
còn chậm, chưa chỉ rõ nội hàm các TPKT hay xác định rõ các tiêu chí đối với các TPKT,
đồng thời hạn chế nguồn tài liệu tham khảo về kinh nghi
ệm nước ngoài áp dụng phân loại
TPKT trong công tác thống kê. Do vậy trong phạm vi nghiên cứu đề tài, chắc chắn kết quả
đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, Ban Chủ nhiệm đề tài mong nhận được ý kiến góp ý
để chúng tôi hoàn thiện kết quả nghiên cứu.



Ban chủ nhiệm đề tài






4
Phụ lục 1. Danh sách cộng tác viên tham gia nghiên cứu đề tài;
5
Phụ lục 2: Danh sách các chuyên đề khoa học.

9
PHẦN I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÂN LOẠI
THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG CÔNG TÁC THỐNG KÊ


I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM

Trước khi tiến hành nghiên cứu quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về TPKT,
cần thiết phải tìm hiểu một số khái niệm có liên quan.

Về quan điểm
Theo Từ điển Tiếng Việt, quan điểm là điểm xuất phát quy định phương hướng suy
nghĩ, cách xem xét và hiểu các hiện tượng, vấn đề
6


Vấn đề sở hữu: xuất phát điểm của TPKT là vấn đề sở hữu. Đại hội X của Đảng đã
khẳng định “trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều
hình thức sở hữu và nhiều TPKT ”
7
.
Sở hữu là vấn đề hết sức cơ bản, có vị trí hết sức quan trọng trong lý luận cũng
như trong thực tiễn, hiện nay còn nhiều tranh luận. Tuy nhiên với góc độ nghiên cứu để

vận dụng trong công tác thống kê TPKT, xin được đề cập ở mức độ quan điểm của Đảng
ta về sở hữu.

C.Mác đã sử dụng quan niệm sở hữu, trong đó chủ yếu là sở hữu đối với tư liệu sản
xuất như một hòn đá tảng trong học thuyết cách mạng của mình. Ông đã viết: “Tất
cả những cuộc cách mạng gọi là những cuộc cách mạng chính trị, từ cuộc cách mạng đầu
tiên đến cuộc cách mạng cuối cùng, đều được tiến hành để
bảo hộ chế độ sở hữu thuộc
một loại nào đó”
8


Sở hữu là khái niệm ban đầu được sử dụng trong quan hệ pháp lý dùng để chỉ các
quan hệ tài sản, sau đó được các nhà khoa học kinh tế sử dụng như một phạm trù kinh
tế - chính trị, ám chỉ một nội hàm rộng lớn hơn, đó là quan hệ giữa người với người
trong tổ chức sản xuất xã hội.


Sở hữu có tính hai mặt, vừa là quan hệ pháp lý, vừa là quan hệ kinh tế. (1) Về mặt
pháp lý, sở hữu xác định quyền của người hoặc pháp nhân đối với tài sản, phân biệt các
chủ thể, đặt họ đối lập nhau về quyền đối với tài sản. Sở hữu về mặt pháp lý chính

6
Hoàng Phê -Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển ngôn ngữ Việt Nam, Hà Nội - 1992, tr. 788
7
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, HN, 2006, tr83;
8
C.Mac và Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 21, trang 173.



10
là điều kiện cần để các chủ thể thực hiện lợi ích kinh tế của mình thông qua việc khai
thác tài sản sở hữu. (2) Về mặt kinh tế, sở hữu được xác định thông qua lợi ích kinh
tế mà việc sử dụng quyền sở hữu mang lại cho chủ sở hữu, nghĩa là, về mặt kinh tế,
sở hữu được định nghĩa thông qua toàn bộ các quan hệ kinh tế được thự
c hiện trong
quá trình sử dụng tài sản để đạt lợi ích mong muốn.

Có thể nói rằng, hầu hết các nhà nghiên cứu đều thừa nhận vị trí trung tâm của
vấn đề sở hữu cả trong lý luận kinh tế cũng như trong thực tiễn. Rõ ràng là, sở hữu quy
định tính chất, mục đích của sản xuất; giữa quan hệ sở hữu với năng suất lao động
và sự phát triển kinh tế - xã hội có mối quan hệ nhân quả.

Trong điều kiện đổi mới về kinh tế hiện nay ở nước ta, mà thực chất là chuyển đổi từ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn
đề sở hữu đã được Đảng ta nhận thức đầy đủ hơn và vận dụng sáng tạo trong xây dựng
đường lối phát triển kinh tế c
ủa Cương lĩnh 1991, cũng như các nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc từ Đại hội VI (1986) đến nay
9

Về thành phần kinh tế
- Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “TPKT: bộ phận của nền kinh tế quốc dân,
mà đại biểu của nó là một kết cấu kinh tế đặc biệt dựa trên một chế độ sở hữu nhất định
về tư liệu sản xuất và lực lượng sản xuất tương ứng với nó; TPKT chỉ cách phân chia nền
kinh tế quốc dân theo hình thức sở hữu
, giúp ích cho việc hoạch định chính sách cụ thể,
sát đúng với mỗi thành phần và toàn bộ nền kinh tế ”
10
.

- Theo Hệ thống Tài khoản Quốc gia năm 2003 “TPKT là khu vực kinh tế
, là kiểu
quan hệ kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư liệu sản xuất. Từ các hình thức sở hữu cơ bản:
Sỡ hữu toàn dân, sở hữu tập thể hình thành nên nhiều TPKT với những hình thức tổ chức
kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Hiện nay TPKT nước ta gồm: (i). Kinh tế Nhà
nước: Dựa trên sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xu
ất; (ii). Kinh tế tập thể: Dựa trên sở
hữu tập thể về tư liệu sản xuất; (iii). Kinh tế tư bản nhà nước: Dựa trên cơ sở hợp tác liên
doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và tư bản tư nhân nước
ngoài; (iv). Cá thể tiểu chủ: Dựa trên sở hữu tư nhân quy mô nhỏ về tư liệu sản xuất; (v).
Kinh tế tư
bản tư nhân: Dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất;
(vi). Có vốn đầu tư nước ngoài”.

9
Phân tích chi tiết hơn trong phần sau;
10
Từ điển Bách khoa Việt Nam, quyển 4, trang 117, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2005;

11
- Khu vực thể chế: Tài khoản quốc gia 1993 chia nền kinh tế thành sáu khu vực
thể chế: (i). Khu vực Phi tài chính; (ii). Khu vực Tài chính; (iii). Khu vực Nhà nước; (iv).
Khu vực không vị lợi phục vụ hộ gia đình; (v). Khu vực hộ gia đình; (vi). Khu vực nước
ngoài. Nội hàm của từng khu vực thể chế áp dụng trong thống kê Tài khoản quốc gia
Việt Nam như sau:
(i). Khu vực Phi tài chính bao gồm: Các doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của Luậ
t
Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Hợp tác xã; Luật Doanh nghiệp; Luật đầu tư nước ngoài
không kể các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Ngân hàng, bảo hiểm, xổ số;
(ii). Khu vực Tài chính bao gồm: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các ngân hàng

thương mại, quỹ tín dụng nhân dân, các công ty tài chính và cho thuê tài chính, các
doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm, các công ty xổ số kiến thiết;
(iii). Khu vực Nhà nước bao gồm: Các cơ quan hành chính sự nghiệp, An ninh
quốc phòng, các tổ ch
ức chính trị - xã hội (Đảng cộng sản Việt Nam, Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam…);
(iv). Khu vực không vị lợi phục vụ hộ gia đình bao gồm: Các Hiệp hội Từ thiện,
Hữu ái, các tổ chức nhân đạo, các tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng;
(v). Khu vực hộ gia đình bao gồm: Các hộ gia đình thuần tuý tiêu dùng cuối cùng
và các hộ gia đình vừa sản xuất vừa tiêu dùng (TPKT cá thể tiểu chủ: nông, lâm nghiệp,
thuỷ sản, tiểu thủ công nghiệp, tiểu thương, dịch vụ cá thể…);
(vi). Khu vực nước ngoài bao gồm: Các đơn vị thể chế không thường trú.
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ THÀNH PHẦN KINH TẾ
Sau ngày hoà bình lập lại (1954), Đảng Lao động Việt Nam
11
(sau đây gọi tắt là
Đảng hoặc Đảng ta) đã chủ trương đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa để xây
dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và cho rằng quan hệ sản xuất phải đi
trước một bước để mở đường, thúc đẩy sức sản xuất phát triển (Đại hội III và các Đại
hộ
i IV, Đại hội V).

Bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta khẳng định
chủ trương phải không ngừng đổi mới, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện giải phóng sức sản xuất,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.


11
Sau này đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam.



12
Trong xây dựng quan hệ sản xuất, từ chỗ ban đầu chỉ chú trọng quan hệ sở hữu mà
mấu chốt là cải biến chế độ sở hữu cá thể và chế độ sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản
xuất thành các hình thức khác nhau của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa (Đại hội III),
tiến đến yêu cầu phải chú trọng cả
i tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất mới
bao gồm cả ba mặt: xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế
độ phân phối xã hội chủ nghĩa (Đại hội VI). Từ chỗ coi các hình thức sở hữu tồn tại biệt
lập trong từng TPKT đến chỗ xác định rõ có ba hình thức sở hữu cơ b
ản, hình thành
nhiều TPKT với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp nhiều
hình thức sở hữu.

Quan niệm về sở hữu của Đảng cũng có những đổi mới rất căn bản. Từ chỗ chỉ coi
trọng sở hữu bằng hiện vật, từng bước tiến đến chú trọng sở hữu về giá trị, tiến thêm một
bước về sở hữu trí tuệ; từ chỗ chỉ coi trọng quyền sở hữu, tiến đến có sự phân định trong
mối quan hệ giữa quyền chủ sở hữu và quyền tài sản tại doanh nghiệp nhà nước.
Trên cơ sở những đổi mới về tư duy lý luận - thực tiễn quan trọng về mối quan
hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, cũng như về bản thân nội dung quan
hệ sản xuất, đã từng bước hình thành những chủ trương, chính sách hết sức quan trọng
của Đảng về các TPKT.

Đổi mới tư duy lý luận - thực tiễn về chế độ sở hữu của Đảng
Về phân định chế độ sở hữu:
- Trước đổi mới: phân định rõ thành hai chế độ sở hữu tồn tại biệt lập và đối lập nhau
là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa và chế độ sở hữu phi xã hội chủ nghĩa. Từ đó Ðảng
chủ trương tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa triệt để chế độ sở hữu phi xã hội chủ nghĩa,
ch

ế độ sở hữu cá thể và chế độ sở hữu tư bản tư nhân thành các hình thức sở hữu khác
nhau của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa.

-Trong quá trình thực hiện đổi mới, đã phân định thành ba hình thức sở hữu
cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân (từ ba hình thức sở hữu cơ bản
hình thành nên các TPKT). Các hình thức sở hữu không tồn tại biệt lập, mà đan xen, hỗn
hợp trong các loại hình sản xuất kinh doanh.
Kế thừa các quan điểm về sở hữu và TPKT của các Đại hội IX, Đại hội X, trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn có đa dạng hình thức sở hữu, nên nền
kinh tế cũng bao gồm nhiều TPKT.


13
Trong Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XI Đảng ta tiếp tục phát triển hoàn thiện
thêm một số vấn đề về sở hữu: bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài
sản thuộc các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế; xây dựng,
hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các loại tài sản như sở hữu trí tuệ
, cổ phiếu, trái
phiếu, tài nguyên nước , quy định rõ quyền, trách nhiệm của các chủ sở hữu đối với
xã hội.

Đổi mới, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về sở hữu toàn dân mà Nhà nước
là đại diện đối với đất đai, tài nguyên, vốn và các loại tài sản công khác để tài nguyên,
vốn và các tài sản công được quản lý, sử dụng có hiệu quả, khắc phục tình trạng thất
thoát, lãng phí. Đất đai, tài nguyên, vốn, tài sản do Nhà nước đại diện chủ sở hữu được
giao cho các chủ thể thuộc mọi TPKT sử
dụng theo nguyên tắc hiệu quả, thông qua cơ
chế thị trường (cạnh tranh, đấu thầu, đấu giá ). Các chủ thể có quyền và nghĩa vụ như
nhau trong sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước. Tổng kết hoạt động của
Tổng công ty Đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước; nghiên cứu hình thành các tổ chức quản

lý đầu tư, kinh doanh có hiệu quả các nguồn vốn, tài sản của Nhà n
ước; khắc phục tình
trạng bộ máy quản lý hành chính tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh doanh thông
qua mệnh lệnh hành chính.

Đổi mới tư duy lý luận - thực tiễn của Đảng về các TPKT
Về phân định các TPKT
- Trước đổi mới: phân chia thành hai thành phần kinh tế có tính chất hai cực đối lập
rõ ràng, với chính sách khác hẳn nhau. Đó là: TPKT xã hội chủ nghĩa (bao gồm khu vực
kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể) được ưu tiên, khuyến khích phát triển, và TPKT
phi xã hội chủ nghĩa, vừa sử dụng vừa cải tạo, cải tạo để sử dụng, sử dụng để cải tạo tốt
hơn trở
thành kinh tế xã hội chủ nghĩa.
- Từ Đại hội VI đến nay: đã phân chia thành nhiều TPKT và từng bước xoá bỏ mọi
hình thức phân biệt đối xử giữa các TPKT, đó là: kinh tế nhà nước (có lúc gọi là kinh tế
quốc doanh, xí nghiệp quốc doanh); kinh tế tập thể (có lúc gọi là kinh tế hợp tác); kinh tế
cá thể, tiểu chủ (có lúc gọi là kinh tế của người sản xuất hàng hoá nhỏ); kinh tế tư bản tư
nhân; kinh tế tư bản nhà nướ
c (có lúc gọi là con đường phát triển của kinh tế tư bản tư
nhân, là chế độ hoặc chủ nghĩa tư bản nhà nước); kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (có
lúc xếp vào kinh tế tư bản nhà nước).

14
Trong quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện đường lối chiến lược của Cương lĩnh 1991,
trên cơ sở ba chế độ sở hữu, tuỳ thuộc vào nhiệm vụ trung tâm trong từng giai đoạn của
công cuộc đổi mới, Đảng đã có sự nhạy bén sách lược về tư duy kinh tế, vì vậy có thời
kỳ cần nhấn mạnh thành phần kinh tế này, lại có thời kỳ
cần tập trung vào thành phần
kinh tế khác, cho nên số lượng, phạm vi, tên gọi các thành phần kinh tế trong từng nhiệm
kỳ Đại hội Đảng có khác nhau, nhưng luôn nhất quán là nền kinh tế nhiều thành phần.

Đến Đại hội X, và trong Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XI, TPKT được tương đối ổn
định, thống nhất ở 5 TPKT: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu
chủ, t
ư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn ĐTNN.

Như vậy, những đổi mới tư duy lý luận - thực tiễn về các TPKT của Đảng thể hiện rõ
ràng từ quan điểm đến chính sách phát triển từng TPKT. Bên cạnh những điều chỉnh
chính sách về phát triển TPKT nhà nước, Đảng đã không ngừng đổi mới về chính sách
theo hướng ngày càng coi trọng và khuyến khích các TPKT khác phát triển, nhất là kinh
tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Vẫn coi kinh tế nhà nước (gồm tất cả các nguồn lực kinh tế của nhà nước) giữ vai trò
chủ đạo, trong đó doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt, mở đường, dẫn dắt, hỗ
trợ các TPKT khác cùng phát triển, nhưng đã có những đổi mới quan trọng đối với
TPKT này. Doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp, cơ cấu lại theo hướng tập trung vào
những ngành, lĩnh vực then ch
ốt của nền kinh tế quốc dân, phù hợp với quá trình cạnh
tranh và hội nhập; xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp, xoá bỏ mọi hình thức bao cấp đối với
doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
nhà nước, chuyển mạnh sang thực hiện chế độ công ty dưới hình thức công ty cổ phần
hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là nhà nước. Củ
ng cố các tổng công ty
lớn chuyển sang thực hiện theo mô hình “công ty mẹ - công ty con”, xây dựng một
số tập đoàn kinh tế mạnh do các tổng công ty nhà nước làm nòng cốt, có sự tham gia
rộng rãi của các TPKT trong và ngoài nước.

Đối với từng TPKT

1. Kinh tế nhà nước
- Trước đổi mới: kinh tế quốc doanh, xí nghiệp quốc doanh được coi là lực lượng

nòng cốt, lãnh đạo, là hình thức cao nhất, độc quyền và phát triển với tỷ trọng lớn trong
mọi ngành nghề, lĩnh vực, hạn chế sự phát triển của kinh tế tư nhân; trong cải tạo xã hội

15
chủ nghĩa đã có xu hướng quốc doanh hoá các xí nghiệp công tư hợp doanh và hợp tác
xã.

- Thời kỳ đổi mới: trong quá trình đổi mới, nội dung vai trò nòng cốt lãnh đạo,
chủ đạo của kinh tế quốc doanh, xí nghiệp quốc doanh dần được xác định sáng tỏ hơn.


Kinh tế nhà nước (bao gồm doanh nghiệp nhà nước và các nguồn tài nguyên, ngân
sách, quỹ và các lực lượng vật chất khác thuộc về nhà nước) được đổi mới khá mạnh.
Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và là công
cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước là lực
lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, có vai trò mở đường, d
ẫn dắt, hỗ trợ các TPKT
khác cùng phát triển.

Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khoá VI) xác định: “Kinh tế quốc doanh có vai
trò chủ đạo, cần có lực lượng đủ sức chi phối thị trường, song không nhất thiết chiếm
tỷ trọng lớn trong mọi ngành nghề”
12

Đại hội VIII xác định: “Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước
để làm tốt vai trò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết các
vấn đề xã hội; mở đường hướng dẫn, hỗ trợ các TPKT cùng phát triển; làm lực lượng
vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; t
ạo nền tảng cho
chế độ xã hội mới”

13

Đại hội IX xác định: “Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là
lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô
nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ
khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hộ
i và
chấp hành pháp luật”
14

Doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp, cơ cấu lại theo hướng tập trung vào những
ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Đã tiến hành cổ phần hoá một bộ phận doanh
nghiệp nhà nước, thực hiện giao cho người lao động, bán, khoán kinh doanh, cho thuê
một số doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ.


Doanh nghiệp nhà nước không chỉ bao gồm doanh nghiệp 100% vốn sở hữu nhà nước
mà cả doanh nghiệp có trên 50% vốn chủ sở hữu nhà nước. Tùy theo mô hình tổ chức

12
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khoá VI), trang 14;
13
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, tr. 21;
14
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, trang 96.


16
của doanh nghiệp nhà nước, chuyển mạnh sang thực hiện quyền tự chủ sản xuất, kinh
doanh theo chế độ công ty dưới hình thức công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu

hạn nhà nước; các tổng công ty và công ty lớn chuyển sang tổ chức và hoạt động theo
mô hình công ty mẹ - công ty con; xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh do tổng công
ty nhà nước làm nòng cốt, có sự tham gia rộng rãi của các TPKT trong và ngoài nước.

Hội nghị Trung ương khóa 6 (khóa VI) nói rõ, kinh tế quốc doanh “cần có lực lượng
đủ sức chi phối thị trường, song không nhất thiết chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành
nghề. Những ngành nghề, hoạt động nào mà kinh tế hợp tác, kinh tế gia đình, kinh tế tư
nhân có thể làm tốt, có lợi cho nền kinh tế thì nên tạo điều kiện cho các loại hình ấy phát
triển.”
15

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) đã xác định tập trung xây dựng
doanh nghiệp nhà nước ở những ngành, những lĩnh vực, những khâu như kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, một số cơ sở sản xuất và dịch
vụ trọng yếu, bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với hiệ
u quả cao. Trong các
lĩnh vực này, không loại trừ sự tham gia của các TPKT khác với hình thức và mức độ
khác nhau.
16

Đại hội IX xác định: “Trong 5 năm tới, cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều
chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước hiện
có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần
chi phối ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng một số
tập
đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các
TPKT”
17

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) xác định xóa bỏ dần có qua

làm thí điểm chế độ bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phân biệt xí nghiệp
trung ương và xí nghiệp địa phương
18

Đại hội IX xác định: “Phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của
doanh nghiệp”; “quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp” gắn với việc chuyển sang thực hiện chế độ quản lý công ty
đối với doanh nghiệp nhà nước.


15
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 53, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2007, tr;
16
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 53, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2007, tr 207;
17
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2001, tr 96;
18
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 53, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2007, tr 209.


17
Đại hội IX đánh giá 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
(1991 – 2000) đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng:…Kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hóa khan
hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu củ
a nhân dân và
nền kinh tế; từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp đã chuyển sang cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ chỗ chỉ có hai TPKT là kinh tế nhà nước và kinh
tế tập thể
đã chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ

vai trò chủ đạo.”
19

Đại hội X tiếp tục khẳng định:
“Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
Hoàn thiện cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp nhà nước thực sự hoạt động
trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả. Xoá bỏ độc
quyền và đặc quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà
nước có quyền tài sản, thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên thị trường và trước pháp
luật…

Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, trọng
tâm là cổ phần hoá. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung chủ yếu vào một số
lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế,
vào một số lĩnh vực công ích. Đẩy mạnh và mở r
ộng diện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước, kể cả các tổng công ty nhà nước…

Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực, có sự tham
gia cổ phần của Nhà nước, của tư nhân trong và ngoài nước, các công ty bảo hiểm, các
quỹ đầu tư , trong đó Nhà nước giữ cổ phần chi phối”
20
.
Đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước luôn là mối quan tâm lớn của Đảng
suốt từ Đại hội III đến Đại hội X và các Hội nghị Trung ương bàn về kinh tế - xã hội. Có
thể nói đó là quá trình Đảng ta tìm tòi rút kinh nghiệm từ thực tiễn để có những chủ
trương, giải pháp hết sức quan trọng nhằm phát huy tốt vai trò của kinh tế nhà nước,
doanh nghiệp nhà nước; đồng thời khuyến khích, thúc đẩy phát triể
n các TPKT khác
cùng phát triển với tốc độ cao, nâng cao khả năng cạnh tranh, cải thiện đời sống. Những

chủ trương, chính sách đúng đắn đó đã góp phần quyết định đưa kinh tế nước ta phát

19
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr 80;
20
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr 84-85.


18
triển liên tục suốt gần 20 năm đổi mới với tốc độ khá cao, làm thay đổi rất nhiều bộ mặt
kinh tế - xã hội.
Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XI trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi mới của
Trung ương Đảng đã tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền
kinh tế quốc dân cùng các giải pháp để tă
ng cường TPKT nhà nước. Dự thảo Báo cáo
chính trị Đại hội XI đã chỉ rõ:
Tổng kết hoạt động của Tổng công ty Đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước; nghiên
cứu hình thành các tổ chức quản lý đầu tư, kinh doanh có hiệu quả các nguồn vốn, tài sản
của Nhà nước; khắc phục tình trạng bộ máy quản lý hành chính tham gia trực tiếp vào
các hoạt động kinh doanh thông qua mệnh lệnh hành chính.

Đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước để giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khẩn trương cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh của
các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nước, tập trung vào một số ngành, lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế
. Từng bước xây dựng các doanh nghiệp mang tầm khu vực và
toàn cầu. Xác định đúng đắn, cụ thể hơn quyền hạn, trách nhiệm của hội đồng quản trị và
giám đốc doanh nghiệp đối với vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, vừa đảm bảo
quyền chủ động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vừa bảo toàn, nâng cao hiệu quả

sử dụng vốn và tài sản nhà n
ước.
Đẩy mạnh đổi mới tổ chức, cơ chế hoạt động của các đơn vị dịch vụ công phù hợp
với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các đơn vị này có quyền chủ động
và được khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để tham gia thị trường, cung cấp ngày
càng nhiều và tốt hơn dịch vụ công cho xã hội, nhất là d
ịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo,
khoa học, công nghệ


2. Kinh tế tập thể

- Trước đổi mới: Nghị quyết số 16-NQ/TW tháng 4/1959 nhận định: “Còn chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất và lối làm ăn cá thể thì vẫn còn cơ sở vật chất và điều kiện cho
khuynh hướng tư bản chủ nghĩa phát triển”. Từ quan điểm này, Nghị quyết 16 Trung
ương quyết định: “Cần phải cải tạo sản xu
ất cá thể thành nền sản xuất tập thể, chặn
đứng con đường tư bản chủ nghĩa ở nông thôn, cứu nông dân khỏi nanh vuốt của chủ
nghĩa tư bản, góp phần củng cố liên minh công nông… Ưu tiên kết nạp xã viên là bần cố

19
nông, trung nông lớp dưới, sau đó mới kết nạp trung nông, không bố trí trung nông vào
vị trí chủ chốt”
21

Nghị quyết 10 - NQ/TW được coi là một mốc quan trọng mở đầu thời kỳ đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp với mục tiêu là phát triển sản xuất, quan tâm đến
lợi ích chính đáng của xã viên, nên đã lôi cuốn được hàng chục triệu nông dân cả nước
hăng hái lao động sản xuất, tạo nên những thành tựu có tính đột phá trong sản xuất nông
nghiệp và xây dựng nông thôn trong những năm đầu c

ủa thập kỷ 90.
Gắn với đổi mới quan điểm về mục tiêu phát triển, quan niệm về vai trò của kinh
tế tập thể cũng dần được đổi mới căn bản.

- Thời kỳ đổi mới: Quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của kinh tế tập thể đã được Đảng
ta khẳng định với mức độ khác nhau tùy thuộc vào tình hình thực tiễn của từng thời kỳ,
nhằm đảm bảo sự phù hợp với tính chất và trình độ phát triển l
ực lượng sản xuất. Đảng
đã xác định trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với 3 thành phần (quốc doanh, tập
thể và cá thể), thì chủ thể chính là quốc doanh và tập thể, trong đó kinh tế tập thể có vai
trò bổ sung; trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành
phần, thì vai trò của kinh tế tập thể ngày càng được chú trọng. Hội nghị
đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới xác định
vai trò của kinh tế tập thể như sau: “Kinh tế hợp tác với nhiều hình thức phong phú và đa
dạng từ thấp đến cao, phù hợp với nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ,
kết hợp sức mạnh của tập thể và sức mạnh c
ủa hộ xã viên, làm cho kinh tế hợp tác trở
thành một TPKT vững mạnh, cùng với kinh tế quốc doanh trở thành xương sống của nền
kinh tế quốc dân”


Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế tập thể và chủ
trương:
“Tiếp tục đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể.” đồng thời đề ra
phương hướng, giải pháp để thực hiện chủ trương đó:
“Tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể khuyến khích phát triển mạnh
hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản


21
Lịch sử Đảng, tập 10, NXB Sự thật, Hà Nội 1960, trang 87.


20
xuất kinh doanh, bao gồm các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới. Chú trọng phát triển và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cổ phần.

Khuyến khích việc tăng vốn góp và các nguồn vốn huy động từ thành viên để tăng
nguồn vốn hoạt động của hợp tác xã, tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và
quỹ không chia trong hợp tác xã.

Hợp tác xã và các loại hình kinh tế hợp tác hoạt động theo các nguyên tắc: hợp tác
tự nguyện; dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có
lợi; hợp tác và phát triển cộng đồng.”
22

Có thể nói rằng quá trình đổi mới về tư duy và nhận thức đối với kinh tế tập thể
mà nòng cốt là các hợp tác xã đều bắt nguồn từ tổng kết thực tiễn, tôn trọng quy luật phát
triển khách quan của sự vật, vì lợi ích thiết thực của đông đảo nhân dân lao động, nên
ngày càng xác định rõ hơn vai trò của hợp tác xã trong các TPKT và vì vậy TPKT này có
điều kiện khách quan và chủ quan để phát triển.

- Đổi mới về sở hữu tư liệu sản xuất trong hợp tác xã
Mối quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất trong hợp tác xã đã được Đảng ta nhận thức
ngày càng rõ hơn và có những đổi mới quan trọng. Từ chỗ tập thể hóa triệt để các tư liệu
sản xuất chủ yếu trong hợp tác xã nông nghiệp, đã chuyển sang giao ruộng đất ổn định
lâu dài cho hộ nông dân, khuyến khích xã viên tự bỏ vốn mua sắm công cụ sản xuấ
t,
trong hợp tác xã đồng thời có nhiều loại hình sở hữu đối với tư liệu sản xuất: sở hữu của

xã viên (sử dụng riêng), vốn góp cổ phần của xã viên, sở hữu tập thể (quỹ không chia).
Đại hội VII khẳng định chủ trương giao ruộng đất cho nông dân sử dụng ổn định lâu
dài, và xác định rõ hợp tác xã chỉ giữ lại một phần ruộng đất để dùng chung trong hợp
tác xã. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, năm 1993 Luật Đất đai được ban hành, trong
đó quy định hộ xã viên được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp ổn
định lâu dài và đượ
c hưởng 5 quyền về sử dụng đất nông nghiệp: chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp. Dưới tác động của quan điểm của Đảng đổi mới
về chế độ sở hữu trong các hợp tác xã, các hợp tác xã không còn quản lý tập trung các tư
liệu sản xuất như trước. Ruộng đất và các tư liệu sản xuất quan trọng khác trước đ
ây
thuộc sở hữu tập thể của hợp tác xã, đến nay đã được chuyển giao về cho xã viên quản

22
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr 85-86.


21
lý, sử dụng và một số công trình phúc lợi trước đây coi như hợp tác xã sở hữu, nay được
chuyển giao cho Uỷ ban nhân dân xã quản lý, sử dụng.

Tiếp đến Đại hội IX và các Nghị quyết của Trung ương, quan điểm đổi mới của Đảng
về sở hữu của hợp tác xã đã tiếp tục mở rộng phạm vi và đối tượng tham gia: sở hữu của
hợp tác xã bao gồm sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể. Sở hữu của các thành
viên được xác định là vốn góp cổ phần vào hợp tác xã, kể
cả góp vốn bằng giá trị quyền
sử dụng đất; còn sở hữu tập thể gồm chủ yếu là vốn không chia trong hợp tác xã, do để
các quỹ, do tích lũy tái sản xuất, do Nhà nước, các tổ chức hỗ trợ. Ngoài ra, còn cho các
pháp nhân góp vốn tham gia hợp tác xã (Nghị quyết số 13 - NQ/TW Hội nghị Trung
ương 5, khóa IX).


Như vậy, sở hữu tư liệu sản xuất trong hợp tác xã không còn đơn thuần là sở hữu của
tập thể, mà còn có sở hữu của xã viên và các thành phần kinh tế khác là các doanh
nghiệp nhỏ và vừa (đa sở hữu, hay sở hữu hỗn hợp) mà hợp tác xã được quyền quản lý,
sử dụng. Chính vì đổi mới về sở hữu và kết hợp được giữa quyền sở hữ
u và quyền
sử dụng như trên, mà vốn, quỹ của hợp tác xã cũng như hiệu quả quản lý và sử dụng
tư liệu sản xuất trong hợp tác xã được nâng lên.
- Đổi mới về mô hình hợp tác xã
Về quy mô và hình thức tổ chức: Từ chỗ chủ trương hợp tác xã bậc thấp sẽ được
chuyển lên hợp tác xã bậc cao, từ hợp tác xã quy mô nhỏ chuyển lên hợp tác xã quy mô
lớn (tùy theo mức độ, quy mô tập thể hóa tư liệu sản xuất và hình thức phân phối),
chuyển sang không phân biệt hợp tác xã bậc thấp, bậc cao, phát triển các hình thức đa
dạng bao gồm các hợp tác xã và các tổ chức hợp tác giản
đơn, điều chỉnh quy mô thích
hợp; và mạnh hơn là đối với vùng cao, chỉ giữ lại những hợp tác xã làm ăn có hiệu quả,
chuyển các hợp tác xã chỉ có hình thức sang các tổ vần công, đổi công hoặc sản xuất
cá thể (Nghị quyết 10-NQ/TW).


Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã:
Từ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã là dân chủ, bình đẳng, cùng có
lợi chuyển sang mở rộng và thiết thực hơn: “tự nguyện; dân chủ, bình đẳng và công
khai; tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; hợp tác và phát triển cộng đồng.”
23


23
Nghị quyết số 13-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX).



22
Từ đối tượng tham gia hợp tác xã chỉ là thể nhân (người lao động, hộ gia đình);
chuyển sang bao gồm cả pháp nhân (các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham
gia hợp tác xã); từ hợp tác xã nhất thiết phải bầu chủ nhiệm hợp tác xã, sang hợp tác
xã có thể thuê chủ nhiệm điều hành (chủ nhiệm có thể không phải là xã viên hoặc thành
viên Ban quản trị).

Từ hợp tác xã chỉ tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh, phục vụ xã viên trong hợp
tác xã chuyển sang hợp tác xã có các đại lý, tổ, đội làm sản xuất, kinh doanh ngoài hợp
tác xã như các doanh nghiệp khác và hợp tác xã được quyền liên kết, liên doanh với các
thành phần kinh tế khác. Hợp tác xã được thành lập doanh nghiệp trực thuộc theo
mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo quy định của Luật Doanh
nghiệp, hợp tác xã là chủ sở hữu công ty trách nhiệ
m hữu hạn một thành viên.

Về quản lý:
Từ quản lý, điều hành tập trung thống nhất sản xuất trong hợp tác xã, chuyển sang
hợp tác xã chỉ điều hành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của hợp tác xã, không điều hành
sản xuất, kinh doanh của các thành viên; hợp tác xã chỉ quản lý tài sản, vật tư, tiền
vốn…của hợp tác xã, quản lý số lao động làm việc cho hợp tác xã.

Về phân phối: Từ hợp tác xã bậc thấp, xã viên được hưởng một phần hoa lợi nhất
định về ruộng đất, nhưng phần hoa lợi chia cho ruộng đất phải thấp hơn phần chia cho
lao động; chuyển lên hợp tác xã bậc cao, hợp tác xã phân phối chủ yếu theo lao động và
bằng hiện vật trên cơ sở định mức công điểm hàng ngày; thu nhập của xã viên hoàn toàn
phụ thuộc vào quyế
t định của ban quản trị hợp tác xã. Nay chuyển sang “phân phối chủ
yếu theo lao động làm việc trong hợp tác xã và theo vốn đóng góp của xã viên, phần
phân phối cho xã viên chỉ căn cứ vào vào mức độ xã viên sử dụng dịch vụ của hợp tác

xã”
24
.

Trên cơ sở báo cáo của Trung ương về tổng kết 20 năm đổi mới, Dự thảo Báo cáo
chính trị Đại hội XI của Đảng về phần kinh tế tập thể đã nêu lên:
Chăm lo phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà nòng cốt là hợp
tác xã. Tổng kết tình hình phát triển các hợp tác xã và thực hiện Luật Hợp tác xã. Khẩn
trương hoàn thiện hệ thống lu
ật pháp, cơ chế, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc
ra đời, phát triển các hợp tác xã, các tổ hợp tác kiểu mới và các mô hình kinh tế tập

24
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) và Điều 37, Luật Hợp tác xã năm 2003.


23
thể khác theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi. Đổi mới các hợp tác xã theo hướng thực
sự là các đơn vị kinh doanh, có chức năng kinh tế và xã hội. Tạo điều kiện phát triển các
trang trại ở nông thôn và hình thành hợp tác xã của các chủ trang trại.
Cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể được dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội
XI tập trung xây dựng chủ trương đổi mới các hợp tác xã theo hướng thực sự là các đơn
vị kinh doanh, nhưng vẫn có chức năng kinh tế và xã hội. Để mở rộng kinh tế tập thể,
cần tạo điều kiện để hình thành hợp tác xã của các chủ trang trại
. Đó là bước cần thiết
để có thể hiện thực hoá việc mở rộng kinh tế tập thể theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương 5 khoá IX, các hợp tác xã liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế, nhất là với các doanh nghiệp nhà nước. Khi hợp tác xã phát triển đến trình
độ cao hơn thì sẽ hình thành các doanh nghiệp của hợp tác xã, các liên hiệp hợp tác xã.
Đây chính là hai vấn đề mới đối với kinh tế tập thể trong d

ự thảo Báo cáo chính trị
Đại hội XI.

3. Kinh tế tư nhân
- Trước đổi mới: Kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân được coi là đối tượng phải
cải tạo xã hội chủ nghĩa, sử dụng để cải tạo và cải tạo để sử dụng tốt hơn. Kinh tế cá
thể được cải tạo thông qua hợp tác hóa, kinh tế tư bản tư nhân được cải tạo thông qua
công tư hợp doanh; kinh tế tậ
p thể và công tư hợp doanh rồi cũng tiến lên quốc doanh.
Thời kỳ trước đổi mới, Đảng cho rằng kinh tế tư nhân là đối tượng phải cải tạo. Tuy
vậy, trong thời kỳ này kinh tế tư nhân vẫn còn một bộ phận tồn tại và có những đóng góp
quan trọng vào nền kinh tế quốc dân.

- Sau đổi mới: Từ Đại hội VI (1986) tới nay, quan điểm của Đảng về kinh tế tư nhân
có chuyển biến mạnh mẽ, rất cơ bản. Trong suốt quá trình đổi mới, Đảng ta ngày càng
khẳng định rõ vị trí, vai trò quan trọng và sự phát triển, tồn tại lâu dài của kinh tế tư nhân
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo v
ệ tổ quốc; chủ trương phát triển mạnh kinh tế tư nhân gắn với dân chủ hoá nền kinh
tế, phát huy cao độ nội lực của đất nước, tạo cơ sở kinh tế cho thực hiện chính sách đại
đoàn kết dân tộc.


Từ chỗ thực hiện chính sách sử dụng hạn chế, cải tạo, tiến tới thừa nhận sự tồn tại và
quản lý, tạo điều kiện phát triển, kinh tế cá thể có thể hợp tác tự nguyện hoặc tồn tại độc
lập, hoặc liên kết với các loại hình doanh nghiệp. Từ chủ trương chỉ cho phép tư sản
nhỏ hoạt động ở
một số ngành nghề có giới hạn, xoá bỏ tư bản tư nhân trong lĩnh vực lưu

24

thông, tiến đến thừa nhận và cho phép kinh doanh, được phát triển không hạn chế về quy
mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; từ chỗ được
phát triển nhưng không được hỗ trợ, giúp đỡ, tiến tới được Nhà nước hỗ trợ, giúp đỡ,
khuyến khích, cổ vũ và tôn vinh; từ chỗ có những lĩnh vực chỉ có kinh tế nhà nước độc
quyền đầu tư, thì nay chủ tr
ương khuyến khích các thành phần kinh tế (trong đó có kinh
tế tư nhân) được tham gia đầu tư phát triển.

Điểm “đột phá” đổi mới tư duy lý luận - thực tiễn của Đảng ta về kinh tế tư nhân là từ
chỗ không thừa nhận đến chỗ thừa nhận sự tồn tại và quản lý, đến tạo điều kiện và
khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân.

Đại hội lần thứ VI của Đảng khẳng định cần thiết phải chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá
tập trung, quan liêu, bao cấp sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với những hình
thức kinh doanh phù hợp và nhấn mạnh: “…đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm
vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình
thức và b
ước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất.”
25

Nghị quyết Trung ương 6 (khoá VI) đã nêu rõ quan điểm “Thực hiện nhất quán chính
sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản xuất”
26
. Nội dung
chủ yếu là chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính qui
luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế, bảo
đảm cho mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật; các đơn vị sản xuất kinh doanh
thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với

nhau trên cơ sở bình
đẳng trước pháp luật; cần xoá bỏ những định kiến, phân biệt đối xử
không đúng và các hình thức độc quyền kìm hãm xu thế ấy; các hình thức kinh tế tư
nhân, cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong
cơ cấu nền kinh tế hàng hoá đi lên chủ nghĩa xã hội.

Nghị quyết Trung ương 6 (khoá VI) chỉ rõ: “Các hình thức kinh tế tư nhân, cá thể,
tiểu chủ, tư bản tư nhân vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu của
nền kinh tế hàng hoá đi lên chủ nghĩa xã hội”
27
, tức là coi kinh tế tư nhân là một bộ phận
của nền kinh tế hàng hoá.


25
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, Nxb St, Hà Nội 1987, tr.58;
26
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI), tr.15;
27
Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ 6 (khoá VI) Ban Chấp hành Trung ương Đảng,NXB Sự thật, HàNội, 1988, trang 16;

25
Đại hội VII xác định: “Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản
xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của nhà nước; trong đó, kinh tế cá thể và tiểu chủ có
phạm vi hoạt động tương đối rộng ở những nơi chưa có điều kiện tổ chức kinh tế tập thể,
hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con đườ
ng tư bản nhà nước …”
28
. Hội nghị
đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII) tiếp tục khẳng định kinh tế cá thể, tiểu chủ

là một bộ phận đông đảo, có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng lâu dài; kinh tế tư bản
tư nhân ngày càng phát triển và có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng đất
nước.

Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan
trọng lâu dài. Giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa
học và công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ, vì
lợi ích thiết thân và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bước đ
i vào làm ăn hợp tác
một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã.

Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước, khuyến khích tư
bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài; bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích
hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng
pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh”
29
.
Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng lại một lần nữa khẳng định “Thực hiện
nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các TPKT kinh doanh
theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng v
ới kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.


Kinh tế cá thể, tiểu chủ ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài, Nhà
nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển; khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác
tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn”.
30



“Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành, nghề
sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về
chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên

28
Văn kiện Đại hội VI đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB ST, Hà Nội, 1992, tr. 69;
29
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.96;
30
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.96;

×