ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC T ự NHIÊN
NGHIÊN CỨU Sự PHÂN B ố, HOẠT ĐỘNG VÀ VAI
TRÒ CỦA MỘT SỐ NHÓM VI SINH VẬT THAM GIA
VÀO CÁC CHƯ TRÌNH CHUYỂN HOÁ v ậ t CHÂT
CỦA HỆ SINH THÁI NƯỚC H ổ TÂY
Mã số: QT. 02. 25
Chủ trì đề tài: Ths. Phạm Thị Mai
Cán bộ phối hợp: CN. Trần Tuyết Thu
Ths. Nguyễn Kiều Băng Tâm
đ a i h o c Q u o ” S i,, HA ~ o i '
TRUNG TAM rHÔN(r N V J I V - r\’
DT / 3 0 6 " '
HÀ NỘI - 20ơr
t C \ L l
BÁO CÁO TÓM TẮT
Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU S ự PHÂN B ố , HOẠT ĐỘNG VÀ VAI TRÒ CỦA MỘT s ố
NHÓM VI SINH VẬT THAM GIA VÀO CÁC CHU TRÌNH CHUYỂN
HOÁ VẬT CHẤT CỦA HỆ SINH THÁI NƯỚC H ổ TÂY
Mã số: QT.02. 25
Chủ trì đề tài: Ths. Phạm Thị Mai
Cán bộ phối hợp: CN. Trần Tuyết Thu
Ths. Nguyễn Kiều Bâng Tâm
I. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Hồ Tây là một hệ sinh thái đất ngập nước lớn nhất và có tính đa dạng sinh học
cao của khu vực đồng bằng Bắc bộ.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội thì hệ sinh thái
hồ cũng đang ngày càng bị biến đổi. Hồ Tây đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều tác giả nhưng những nghiên cứu về các nhóm vi sinh vật tham gia phân huỷ vát
chất trong hồ còn rất ít. Trong đề tài này chúng tôi tiến hành nghiên cứu sự phân bố
của một số nhóm vi sinh vật tham gia vào các quá trình phân huỷ vật chất ở Hồ Tây.
qua đó đánh giá vai trò làm sạch nước của chúng trong hệ sinh thái hổ.
II. NỘI DƯNG NGHIÊN CỨU:
* Xác định các chỉ tiêu thuỷ lý hoá của hồ
* Xác định số lượng nhóm vi sinh vật amôn hoá
* Xác định số lượng nhóm vi sinh vật phản nitrat hoá
* Xác định số lượng nhóm vi sinh vật phân huỷ xenluloza kỵ khí.
* Xác định số lượng nhóm vi sinh vật phân huỷ xenluloza hiếu khí.
* Xác định số lượng nhóm vi sinh vật sulphat hoá.
* Xác định số lượng nhóm vi sinh vật chuyển hoá phốt pho.
Số lượng các nhóm vi sinh vật nói trên được xác định theo các mùa, theo các
tầng nước khác nhau tại một số điểm lấy mẫu.
ra. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
* Phương pháp lấy mẫu nước:
- Mẫu nước được lấy vào hai mùa trong năm là xuân - hè và thu - đông.
- Mẫu nước tầng mặt lấy cách mặt nước 25 cm mẫu nước tầng đáy được lấy sát lớp
bùn. Mẫu nước được lấy cách bờ khoảng 50m.
* Phương pháp phân tích số lượng vi sinh vật:
Số lượng vi sinh vật được phân tích trên các môi trường đặc hiệu của từng nhóm
và sử đụng hai phương pháp chính sau:
- Phương pháp pha loãng tìm giới hạn phát triển
- Phương pháp Koch.
VI. KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC:
- Phân tích các chỉ tiêu thuỷ lý hoá của hồ, qua đó cho thấy chất lượng nước hồ được
đánh giá là ô nhiễm nhẹ.
- Số lượng các nhóm vi sinh vật ở các điểm lấy mẫu khác rất phong phú theo mùa và
theo các tầng nước. Điều đó cho thấy chúng có vai trò to lớn đối với khả nãng tự làm
sạch của hệ sinh thái hổ.
- Số lượng tất cả các nhóm vi sinh vật ở khu vực gần cống thải đều cao hơn khu vực
giữa hồ thể hiện mối tương quan giữa số lượng vi sinh vật và lượng chất hữu cơ gây ô
V. TÌNH HÌNH KINH PHÍ ĐỂ TÀI: 8.000.000Đ (TÁM TRIỆU ĐỔNG CHẴN)
Đã chi theo dự toán và đã quyết toán xong với Phòng Tài vụ của Trường đại học
Khoa học Tự nhiên.
nhiễm.
CHỦ TRÌ ĐỂ TÀI
(Ký và ghi rõ họ tên)
Tỉ ilátiu
J J
;^ V H Ó HIỆU ĨHUÉMSPHAM THI MAI
ịịf] TRƯỜNG
I ' k h c a
V HKiÊriị iSvlflw
ABSTRACT
Title:
THE DISTRIBUTION,ACTYVITY AND ROLE OF SOME
MICROORGANISM GROUP IN MATERIALS CYCLES IN WEST LAKE.
Code: QT. 02. 25
Team leader: MSc. Pham Thi Mai
Menber: MSc. Nguyen Kieu Bang Tam
BSc. Tran Thi Tuyet Thu
1. Object
Hotay, were the most typically greater and fresh water lake belonged to the delta of
North Vietnam. They had a great value aspect. However, in recent years their water
quality were gradually decreased day by day,
Microoganism was a living too small to be seen orgnism, but they have a important
role in metabolic cycle of the nature. They decomposed organic compouds. lo C 02,
H20 in preferable conditions. In this subject we reseach in to the disribution and role of
some microorganism in materials cycles.
2. Contens
- Indicates of balneology and liquefy,
- Determinate the number of ammonification microorganism.
- Determinate the number of denitrification
- Determinate the number of xenluloza dencomposing
- Determinate ihe number of sulfhur and phospho tranMnuiaiion.
3. Methode
The number of mierooganisin are determinate! by koch method and mthod of limits.
The number of ammonificator, denitrificator and xenlluloza decomposing
microorganisms was quantified at 5 points of surface and bottom layes of the lake in
sumer and winter.
4. Results
The number of ammonificator, dcnitrificator and xenlluloza decomposing
microorganisms was quantified at 5 points of surface and bottom layers of the lake.
The result shows that these microorganissm distributed in all tested points. Theữ
number in waste discharged points was much higher than in the center of the lake.
There is a dứect ratio between concentration of organic polluted water and number of
microorganism living in this water. However, if water are polluted by chemical toxic
substances, the growth of microorganism in these places is inhibited so they are in a
small quantity.
From mentioned above, we may concluded
The presence of various microorganisms group resulted in their playing role in
the self - cleaned process of the water lake.
- The quantity of the five groups was positively proportinal with the water lake
quality (otherwise, the quality of the five groups observed in the lake center was
less than in the sewer).
The quality of the five groups was the higher in summer than that of winter
MụC LụC
■ ■
M ờ đ ầ u : 1
C hương I: TổNG QUAN TÀI LIỆU
2
1.1. Giới thiệu chung về hồ Tây
2
1.1.1.Vị trí địa lý và đặc điểm của hồ Tây
2
1.1.2. Điều kiện khí hậu thủy văn 2
1.1.3. đặc điểm hệ sinh thái hồ táy
3
1.1.4. Điều kiện kinh tê xã hội 3
1.1.4.1. Dán số và phán bố dân cư 3
ỉ. 1.4.2. Cơ sỏ hạ tầng 4
1.2. Vai trò của vi sinh vật trong các quá trình chuyển hoá vật chất 6
1.2.1. Quá trình amôn ho á 6
1.2.2. Quá trình phản nitrat hoá 7
1.2.3.Quá trình phân hủy xenluloza 8
1.2.4. Quá trình sulphat hoá 9
CHƯƠNG II: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u 11
2.1. Đỏi tượng nghiên cứu: 11
2.2. Phương pháp nghiên cứu : 11
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN c ứ u 13
3.1. Kết quả phân tích một sô chỉ tiêu thuỷ lí, thuỷ hoá 13
3.2. Sự phân bỏ của nhóm vi sinh vật amôn hoá 14
3.3. Sự phân bô của nhóm vi sinh vật phản nitrat hoá
15
3.4. Sự phân bô của nhóm vi sinh vật phân huỷ xenluloza
16
3.5. Sự phân bỏ của nhóm vi sinh vật phân huỷ phốt pho và lưu hu ỳnh
18
KẾT L UẬN 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
MỞ ĐẦU
Thế giới vi sinh vật bao gồm những vi sinh vật nhỏ bé mà mắt thường không thể
nhận thấy nhưng đó lại là một thế giới vô cùng đa dạng và phong phú. Chúng sinh sôi
nảy nở vô cùng nhanh chóng và có vai trò rất quan trọng trong các chu ưình chuyển
hoá vật chất nói chung.
Trong các hệ sinh thái nước, sự tồn tại, hoạt động của vi sinh vật liên quan chặt
chẽ với yếu tố môi trường như nhiệt độ, pH, ánh sáng, hàm lượng các chất hữu cơ,
Cùng với các nhóm sinh vật khác trong nước, vi sinh vật tham gia vào các quá trình
chuyển hoá và khép kín vòng tuần hoàn vật chất, giúp cho hệ sinh thái tồn tại. Hơn nữa
khả nãng phân huỷ vật chất trong các hệ sinh thái nước thể hiện khả nãng tự làm sạch
của mình. Thêm vào đó, dựa vào sự có mặt, đặc điểm phân bố của các nhóm vi sinh vật
mà chúng ta có thể đánh giá được hiện trạng chất lượng nước của thuỷ vực. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu sự phân bố và hoạt động của vi sinh vật trong các hệ sinh thái
nước có một ý nghĩa thực tiễn to lớn, đặc biệt là vói hồ Tây một hồ nước ngọt tự nhiên
có giá trị về nhiều phương diện của thủ đô.
1
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu chung về hồ Tây
1.1.1.Vị trí địa lý và đặc điểm của hồ Tây.
Hồ Tây nằm ở phía tây bắc nội thành Hà Nội, thuộc quận Tây Hồ, có hình
móng ngựa. Tọa độ địa lý : 20°04’ vĩ độ Bắc, 105°50’ kinh độ Đông, mặt nước hồ cao
hơn so với mực nước biển là 6m. Phía Bắc giáp đê Yên Phụ - Từ Liêm, phía Nam giáp
đường Thụy Khuê, phía Đông giáp đường Thanh niên, phía Tây giáp đường lạc Long
Quân. Hổ giáp ranh vợi các phường Yên Phụ, Thụy Khê, Bưởi, Xuân La, Nhật Tân,
Quảng An và phường Quán Thánh. Hồ có diện tích mặt nước khoảng 516 ha (năm
2001) với chiều dài gần 3 km, chiều rộng đã bị thu hẹp lại từ 3 m đến 20 m (so với
1960), độ sâu trung bình 2 m, nơi sâu nhất đạt từ 2 - 3 m. Trước kia hổ vốn là một đoạn
sông tàn của sông Hồng.
1.1.2. Điều kiện khí hậu thủy văn.
Hồ Tây nằm trong khu vực Hà Nội có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm. Mùa
hè nóng ẩm và mưa nhiều từ tháng 4 đến tháng 10, hướng gió thịnh hành nhất là hướng
gió Đông Nam, tháng 6 và tháng 7 có nhiệt độ cao nhất. Khu vực này thường có gió
bão vào đầu mùa hè. Mùa đông khô lạnh và ít mưa, hướng gió thịnh hành là Đông Bắc,
tháng 1 có nhiệt độ trung binh thấp nhất, tháng 4 và tháng 10 được coi là 2 tháng
chuyển tiếp tạo cho hồ Tây có 4 mùa phong phú. Mặt khác, hồ Tây nằm trong khu vực
gần xích đạo nên có lượng bức xạ mặt trời dồi dào, tổng lượng bức xạ trung bình từ
111,5 Kcal/cm2 đến 122,8 Kcal/cm2. Nhiệt độ trung bình của nước trong khoảng từ
10
°c đến 30°c.
Vào mùa mưa (tháng 5 đến tháng 10) tổng lượng mưa chiếm 85% lượng mưa cả
năm (lượng mưa trung bình năm là 1870 mm), mưa lớn nhất vào tháng 7 và thường có
bão lớn, 16 ngày đến 18 ngày mưa với lượng trung bình 300 mm -> 350 mm. Hồ Tây
là nơi chứa đựng lượng nước mưa giúp cho việc thoát nước của cả khu vực xung quanh,
nhưng chính lượng mưa chảy tràn này kéo theo rất nhiều chất ô nhiễm đậc biệt là nước
chảy qua các vùng trổng cây còn mang theo dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật và phân
bón đổ xuống hồ. Ngoài ra hồ là nơi chứa và xử lý một phần nước thải bằng cơ chế tự
làm sạch.
2
1.1.3. đặc điểm hệ sinh thái
Qua kết quả nghiên cứu điều tra năm 1997 của Khoa Sinh học - Trường Đại học
Khoa học Tự Nhiên thì quanh vùng hồ Tây có tính đa dạng sinh học khá cao.
- Thực vật\ Gồm có 214 loài cây cho bóng mát, hoa và cây cảnh, thuộc 97 chi
của 50 họ nằm trong 4 ngành thực vật.
- Thực vật phù du: Ở hồ Tây đã xác định được 106 loại thuộc 6 ngành tảo và
ngành vi khuẩn lam vào mùa mưa, trong đó ngành tảo lục chiếm đại đa số (58 loài), rồi
đến tảo silic, tảo mắt, tảo roi Vào mùa khô, số lượng loài tảo ít hơn mùa mưa song vi
khuẩn lam nhiều hơn một loài.
- Động vật không xương sống: Hồ Tây trong mùa mưa, trung bình có 19 loài
động vật nổi và mùa khô có 25 loài động vật nổi. Động vật đáy tại hồ vào mùa mưa chỉ
có 11 loài (6 loài ốc, 2 loài trai, 1 loài ấu trùng và 2 loài giun tơ); Vào mùa khô, có
khoảng 16 loài.
- Các loài thủy sản: Theo thống kê thì ở hồ Tây và hồ Trúc Bạch có 35 loài cá
thuộc 12 họ, trong đó họ cá chép chiếm ưu thế gồm 21 loài (61 %), cá nuôi có 8 loài.
Hầu hết các loài cá tự nhiên ở hồ Tây đều gặp ở sông Hồng. Ngoài ra trong hồ còn các
loài ốc, trai, trùng trục Sản lượng đánh bắt bình quân nãm là 600 tấn/năm (1996 -
1997).
- Các loài chim: Hổ Tây hiện có 58 loài chim thuộc 17 họ, trong đó có 23 loài
thường trú, 25 loài làm tổ, 2 loài bay qua và 7 loài chim di cư chỉ thấy xuất hiện vào
mùa Đông.
Nhìn chung, hồ Tây là một hệ sinh thái có đa dạng sinh học cao, có nhiều loài
quý hiếm đã được ghi trong sách đỏ. Tuy nhiên, hệ sinh thái hồ cũng lâm vào tình
trạng chung như nhiểu hồ trong cả nước là thành phần chim, cá bị giảm đi cả về loài và
số lượng do tác động tiêu cực của con người.
1.1.4. Điều kiện kinh tế xã hội
1. 1.4.1. Dân số và phân b ố dân cư
Theo tài liệu UBND Quận Tây Hổ (2003) dân cư tại khu vực Hồ Tây khoảng
97.317 người, trong đó > 1/3 số dân sống giáp hồ. So với Hà Nội thì mật độ dân số
vùng này chưa phải là cao, nhưng phân bố dân số không đều. Dân cư tập trung ở phía
3
Nam và Đông Nam của hồ Tây gồm các phường như Quán Thánh, Trúc Bạch, Bưởi,
Yên phụ còn phía Bắc dân cư tập trung với mật độ thưa thớt hơn nhiều. Nhưng hiện
nay do quá trình đô thị hóa nên ở phía Bắc dân cư tập trung ngày càng đông. Diện tích
sử dụng quanh hổ là 78,72ha, trong đó diện tích khu dân cư là 52,48ha, phần còn lại là
diện tích đất nông nghiệp chủ yếu trồng rau màu và cây cảnh, vì vậy hàng năm có một
lượng khá lớn phân hoá học và thuốc bảo vệ thực vật được thải vào hồ.
1.1.4.2. Cơ sỏ hạ tầng
- Khu vực Đông Nam hổ thuộc phường Trúc Bạch và một phần phường Quán
Thánh quận Ba Đình. Khu vực này có hạ tầng kỹ thuật tương đối hoàn thiện. Phần lớn
hệ thống cống thoát nước được xây dựng từ thời Pháp và thông qua hệ thống cống
chính, sau đó đổ vào hồ Trúc Bạch qua cống Nguyễn Trường Tộ và cống Phạm Hồng
Thái. Nhìn chung hệ thống cống do xây dựng từ lâu, lại ít được nâng cấp nên khả nãng
tiêu thoát nước kém, vào mùa mưa cống thường xuyên bị tắc gây nên tình trạng úng
ngập cục bộ.
- Khu vực phía Tây Nam thuộc phường Thụy Khê và phường Bưởi: Hệ thống cơ
sở hạ tầng như điện, nước, thoát nước đã có nhưng chưa đồng bộ. Riêng khu vực Thụy
Khê, cống thoát nước và cấp nước sạch chưa đáp ứng đủ nhu cầu của nhân dân, các
cống nhỏ và tiêu thoát nước kém. Cống Tàu Bay, mương Đõ là cống thoát nước lớn
nhất trong khu vực.
- Khu vực Bưởi đang trong quá trình đô thị hóa, hệ thống thoát nước chưa đồng
bộ, không thông thoát thường xuyên nên luôn xảy ra ngập úng cục bộ vào những ngày
mưa, gây ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân trong khu vực. Trong khu vực này có
cống Trích Sài là lớn nhất. Các hệ thống cống rãnh thuộc hai phường Bưởi và Thụy
Khê được thiết kế một phần chảy ra hồ Tây và một phần chảy ra sông Tồ Lịch.
- Khu vực phía Tây Bắc của hồ Tây bao gồm địa phận phường xuân La, Nhật
Tân. Đây là khu vực mới được nâng cấp thành phường nên so với các khu vực khác
quanh hổ thì hệ thống đường xá và thoát nước chưa hoàn thiện. Ngoài hệ thống trong
phường vẫn chưa đáp ứng được xu thế phát triển chung.
- Cống Xuân La là cống xả lớn nhất của hồ Tây nên mỗi khi mưa to, hổ nhiều
nước thì Xuân la trở thành túi nước thải của hổ. Hầu hết các hộ gia đinh sống cạnh hồ
cũng xả thải trực tiếp xuống hổ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng môi
trường chung khu vực.
4
- Khu vực phía Đông của hồ Tây thuộc địa phận phường Quảng An. Khu vực
này có địa thế cao, thoáng gió. Từ lâu khu vực này đã được đầu tư mạnh mẽ, trở thành
trung tâm vui chơi giải trí của người dân Hà Nội (nhà nghỉ Quảng Bá, khách sạn Thắng
Lợi). So với các khu vực khác thì nơi đây tập trung đầy đủ các điều kiền về cơ sở hạ
tầng như giao thông, công trình, điện nước, bể bơi, nhà vãn hóa
Theo thống kê năm 1998, hồ Tây có 22 cống thải lớn nhỏ với đường kính miệng
cống từ 0,3m đến 3,5 m và cống thoát nước Xuân La. Hiện các cống này vẫn tồn tại và
hoạt động ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào khẩu độ và sự thông thoáng của cống.
- Khu vực Đông Nam hồ thuộc phường Trúc Bạch và một phần phường Quán
Thánh quận Ba Đình. Khu vực này có hạ tầng kỹ thuật tương đối hoàn thiện. Phần lớn
hệ thống cống thoát nước được xây đựng từ thời Pháp và thông qua hệ thống cống
chính, sau đó đổ vào hồ Trúc Bạch qua cống Nguyễn Trường Tộ và cống Phạm Hồng
Thái. Nhìn chung hệ thống cống do xây dựng từ lâu, lại ít được nâng cấp nên khả năng
tiêu thoát nước kém, vào mùa mưa cống thường xuyên bị tắc gây nên tình trạng ngập
úng cục bộ.
- Khu vực phía Tây Nam thuộc phường Thụy Khê và phường Bưởi: Hệ thống cơ
sở hạ tầng như điện nước, cống thoát nước đã có nhưng chưa đồng bộ. Riêng khu vực
Thụy Khuê, cống thoát nước và cấp nước sạch chưa đáp ứng đủ nhu cầu của nhân dân,
các cống nhỏ và tiêu thoát nước kém. Cống Tàu Bay, mương Đõ là cống thoát nước lớn
nhất trong khu vực.
- Khu vực Bưởi đang trong quá trình đô thị hóa, hộ thống thoát nước chưa đồng
bộ, không thông thoát thường xuyên nên luôn xảy ra ngập úng cục bộ vào những ngày
mưa, gây ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân trong khu vực. Trong khu vực này có
cống Trích Sài là lớn nhất. Các hệ thống cống rãnh thuộc hai phường Bưởi và Thụy
Khê được thiết kế một phần chảy ra hồ Tây và một phần chảy ra sông Tó Lịch.
- Khu vực phía Tây Bắc của hồ Tây bao gồm địa phận phường xuân La, Nhât
Tân. Đây là khu vực mới được nâng cấp thành phường nên so với các khu vực khác
quanh hồ thì hộ thống đường xá và thoát nước chưa hoàn thiện. Ngoài hệ thống trong
phường vẫn chưa đáp ứng được xu thế phát triển chung.
- Cống Xuân La là cống xả lớn nhất của hồ Tây nên mỗi khi mưa to, hồ nhiều
nước thì Xuân la trở thành túi nước thải của hồ. Hầu hết các hộ gia đình sống cạnh hồ
5
cũng xả thải trực tiếp xuống hổ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng môi
trường chung khu vực.
- Khu vực phía Đông của hồ Tây thuộc địa phận phường Quảng An. Khu vực
này có địa thế cao, thoáng gió. Từ lâu khu vực này đã được đầu tư mạnh mẽ, trở thành
trung tâm vui chơi giải trí của người dân Hà Nội (nhà nghỉ Quảng Bá, khách sạn Thắng
Lợi). So với các khu vực khác thì nơi đây tập trung đầy đủ các điều kiền về cơ sở hạ
tầng như giao thông, công trình, điện nước, bể bơi, nhà văn hóa
Theo thống kê năm 1998, hồ Tây có 22 cống thải lớn nhỏ với đường kính miệng
cống từ 0,3m đến 3,5 m và cống thoát nước Xuân La. Hiện các cống này vẫn tồn tại và
hoạt động ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào khẩu độ và sự thông thoáng của cống.
1.2. Vai trò của vi sinh vật trong các quá trình chuyển hoá vật chất.
Trong các hệ sinh thái, vật chất luồn luôn biến đổi từ dạng này sang dạng khác
thông qua các xích thức ãn. Trong quá trình biến đổi đó, các nhóm vi sinh vật luôn
luôn có vai trò quan trọng. Chúng có thể tham gia vào các hình thức sau:
- Vô cơ hoá các chất hữu cơ. Các chất hữu cơ có cấu trúc phức tạp, bị nghiền vụn
trong cơ quan tiêu hoá của sinh vật tiêu thụ, một phần bị đào thải dưới dạng bài
tiết. Chất này cùng với xác chết của sinh vật bị phân huỷ bởi nhiều công đoạn
đo các nhóm vi sinh vật thực hiện. Do vậy các hợp chất như Protit, lipit,
xenluloza có cấu trúc phức tạp bị phân huỷ, chuyển hoá thành các hợp chất
đơn giản và cuối cùng đến các dạng muối khoáng cùng các sản phẩm khác như
CH4, H2S, C 02, H20 Các muối khoáng tạo ra sẽ được thực vật sử đụng một
phần cho quá trình sống. Nhờ quá trình này mà các thuỷ vực bị ô nhiễm chất
hữu cơ sẽ có khả năng tự làm sạch.
- Chuyển hoá các chất vô cơ từ dạng này sang dạng khác. Các hợp chất vô cơ có
trong nước thải chảy vào hoặc được tạo ra ngay tại các thuỷ vực, cũng được các
nhóm vi sinh vật chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác. Quá trình này có tác
dụng khép kín vòng tuần hoàn vật chất, chuyển hoá, phân huỷ các chất vô cơ
độc sang dạng ít hoặc không độc. Nhờ quá trình này sẽ làm giảm nồng độ các
chất mà những chất này nếu có nồng độ cao sẽ gây ô nhiễm cho thuỷ vực.
1.2.1. Quá trình amôn hoá:
Với tư cách là hợp phần của protein, nitơ là một trong những nguyên tố quan
trọng cho sự sống, nó được thực vật xanh hấp thụ trước hết ở dạng amôniãc và nitrat.
Tuy nhiên những chất này chỉ có rất ít trong các thuỷ vực. Mặt khác trong môi trường
6
giầu chất dinh dưỡng hầu như toàn bộ nitơ được liên kết trong các Protein của cơ thể
sống. Tuy vậy, do hoạt động sống tnrớc hết của vi khuẩn gây thối mà amôniăc luôn
được giải phóng trở lại thành nguổn nitơ cho cây xanh.
Amôn hoá là quá trình phân giải các hợp chất nitơ hữu cơ như Prôtêin, axit
amin, ure thành dạng amôni (NH4+, NH3). Tất cả các vi sinh vật amôn hoá đều tiết ra
men phân giải protêin vào môi trường. Dưới tác dụng của men này, Protein được phân
giải thành aminoaxit. Các aminoaxit sinh ra được vi sinh vật amôn hoá sử dụng trong
quá trình kiến tạo và nãng lượng. Các sản phẩm đặc trưng của quá trình phân giải
protêin là NH3, H2S.
Amoniãc được giải phóng trong quá trình làm thối rữa Protein được dùng làm
nguồn Nitơ cho nhiều thực vật, kể cả dị dưỡng cacbon lẫn tự dưỡng. Nhưng nó cũng là
chất cung cấp năng lượng cho vi khuẩn nitrat hoá, là bọn oxy hoá amoniãc thành nitrit
khi có mặt oxy, chất này sau đó thường bị oxy hoá tiếp thành nitrat nhờ vi khuẩn nitrat
NH4+ + 3/202 NCV + H20 + 2H+ + 76 Kcal
N 02- + 1/2 0 2 NCV + 24 Kcal
Quá trình amôn hoá có tầm quan trọng đặc biệt đối với các hoạt động sống
trong các thủy vực, bởi vì quá trình này mà trong vòng tuần hoàn vật chất, chất
amoniăc luôn luồn được phục hổi. Mặt khác nó có ý nghĩa trong việc tự làm sạch của
nước. Đó là việc phân giải các hợp chất nitơ vô cơ cung cấp cho thực vật thủv sinh.
Quá trình này sẽ là giảm ô nhiễm các thủy vực bởi các hợp chất đạm hữu cơ. Khắp nơi
cứ ở đàu Protein được đưa vào thì ở đó vi sinh vật amôn hoá có thể sinh sản rất nhanh,
vì thời gian thế hệ của đa số vi khuẩn gây thối là tương đối ngắn.
1.2.2. Quá trình phản nitrat hoá
Là quá trình khử nitrat thành nitơ phân tử, đồng thời gắn liền với việc oxy hoá
các hợp chất hữu cơ như đường, rượu, axit hữu cơ thành C 02, H20 . Chất nhận
hydrogen cuối cùng là nitrat. Năng lượng sinh ra khi oxy hoá cơ chất được vi sinh vật
sử dụng trong quá trình hoạt động sống của mình. Quá trình phản nitrat hoá có thể xảy
ra cả trong điểu kiện hiếu khí lẫn kỵ khí nhưng đặc biệt mạnh trong điều kiện thiếu
Trong môi trường yếm khí, với sự có mặt của chất cho hydro hữu cơ, xảy ra quá
trình gọi là sự phản nitrat hoá, nghĩa là xảy ra sự khử dị hoá nitrat qua nitrit thành nitơ
oxit (NO, N20 ) và Nitơ phân tử. Khả năng này có ở nhiều vi khuẩn kỵ khí không bắt
7
buộc. Nhờ quá trình này sẽ làm giảm hợp chất đạmdạng nitrat trong thuỷ vực, đồng
nghĩa với viộc giảm độ phú dưỡng cho thuỷ vực do tạo thành nitơ phân tử thoát vào khí
quyển. Mặt khác chuyển nitrit thành nitơ phân tử sẽ làm cho nước không độc.
Các vi sinh vât có khả năng phản nitrat hoá, thực tế có thể phát hiện đuợc ở
mọi thuỷ vực. Bởi vì đó là những cơ thể kỵ khí không bắt buộc cho nên chúng tổn tại
cả trong thuỷ vực giàu oxy và tại đây chúng hô hấp bằng oxy chỉ khi nào thiếu oxy thì
hệ enzym mới chyển sang sự hô hấp nitrat.
1.2.3.Quá trình phân hủy xenlulotâ
Xenluloza là phần cấu tạo cơ bản của tế bào thực vật. Việc tổng xenluloza có
quy mô vượt quá quy mồ của việc tổng hợp các chất thiên nhiên khác. Vì vậy các sinh
vật phân giải xenluloza có vai trò đặc biệt quan trọng trong vòng tuần hoàn cacbon.
Chúng thực hiện cả trong điều kiện kỵ khí lẫn hiếu khí. Hơn nữa sự phân giải xenluloza
được thực hiện trong cả môi trường kiềm hay axit, độ ẩm cao hay thấp và cả ở các nhiệt
độ khác nhau. Tất cả vi sinh vật tham gia vào việc vô cơ hoá xenluloza đều thuộc loại
dị dưỡng hoá năng hữu cơ. Chúng hình thành men xenlulaza xúc tác việc phân giải
xenluloza tự nhiên thành glucoza. Xenluloza là chất cơ bản của đa số thực vật, đăc biệt
có nhiều trong các thuỷ vực nội địa, có ở phần lắng đọng trong các đầm ao hồ.
Xenluloza là cơ chất không hoà tan, khó phân giải. Bởi vậy vi sinh vật phân
huỷ xenluloza phải có hệ enzymgoi là hệ enzym xenluloza bao gồm các enzym khác
nhau:
- Enzym Q có tác dụng cắt đứt liên kết hydro, biến dạng xenluloza tự nhiên có
cấu hình không gian thành dạng xenluloza vô định hình, enzym này gọi là
Xenlobio hydrolaza.
- Enzym thứ hai gọi là Endo - gluconaza có khả năng cắt đứt liên kết [3- 1,4 bên
trong phân tử tạo thành nhiều chuỗi dài.
- Enzym Exo - gluconaza tiến hành phân giải các chuỗi trên thành disaccarit gọi
là xenlobioza. Cả hai loại enzym Endo và Exo được gọi là Cx.
- Enzym thứ tư gọi là [3- glucosidaza tiến hành phàn giải các chuỗi trên thành
glucoza.
8
Xenluloza c, Xenluloza Cx p-glucosidaza
tự nhiên * vô định hình Xenlobioza * Glucoza
Hàng ngày rất nhiều rác ruởi, cành lá cây rori rụng hoặc theo dòng chảy vào môi
trường nước, gây cản trở dòng chảy, mất mĩ quan và ô nhiễm cho thuỷ vực. Mặt khác
xenluloza là cơ chất khó phân giải thường hay lắng đọng xuống các thuỷ vực đặc biệt
là hổ, ao, đầm do chúng là thuỷ vực nước đứng. Quá trình này dễ làm cho hồ trở thành
đầm lầy, gây mất hệ sinh thái hồ. Chính vì vậy nhóm vi sinh vật phân huỷ xenluloza có
vai trò rất quan trọng trong sự tồn tại của hồ.
Sự phân huỷ xenluloza yếm khí có vai trò quan trọng trước hết ở trong bùn.
Trong sự lên men xenluloza yếm khí có tạo thành etanol, axit phocmic, axit axetic, axit
lactic, hydro và cacbondioxy. Trong điều kiện việc xâm nhập không khí bị hạn chế, các
ỉoài vi khuẩn ưa ẩm hoặc ưa nóng thuộc giống Clostridium và Bacillus tiến hành phân
giải xenluloza. Chúng phát triển yếu trên môi trường chứa các loại đường đơn. Khi
thuỷ phân xenluloza chúng tạo thành xenluloza và glucoza. Các đường này được vi
khuẩn sử dụng như nguồn cacbon và nguồn năng lượng. Khí phân giải xenluloza trong
điều kiện kỵ khí kèm theo việc tạo thành axit axentic, butyric, focmic, C 02. H2 , đôi
khi cả axit lactic, axit sucxinic, etanol để làm nguồn nitrogen. Các vi khuẩn này có thể
sử đụng aminoaxit, muối amon và nitrat.
Các vi sinh vật phân giải xenluloza trong điều kiện hiếu khí gồm có niêm vi
khuẩn, một số đại diện của các vi khuẩn không sinh bào tử và sinh bào tử, xạ khuẩn,
nấm. Trong số này thì các loài niêm vi khuẩn là quan trọng hơn cả. Trên bề mặt các vật
liệu chứa xenluloza niêm vi khuẩn phát triển ở dạng các thể nhầy không có hình dạng
xác định, lan rộng, không màu, màu vàng, da cam hay đỏ thường tương ứng với chỗ
xenluloza bị phân giải nhiều hay ít. Khuẩn lạc của niêm vi khuẩn được tạo thành trên
các môi trường thạch.
1.2.4. Quá trình sulphat hoá
Trong cơ thể sinh vật, lưu huỳnh nằm trong thành phần của một số axit amin và
nhiều loại enzym quan trọng. Khi xác các sinh vật rơi vào thuỷ vực sẽ bị một số nhóm
vi sinh vật phân huỷ tạo thành H2S. Đây là một chất độc đối với các sinh vật, gây ô
nhiễm môi trường. Sau đó H2S sẽ bị oxy hoá bằng con đường hoá học hoặc nhờ mót số
vi sinh vật tạo thành S042'. Quá trình này có ý nghĩa lớn đối với các thuỷ vực, nhất là
9
các thủy vực có chứa nước thải sinh hoạt. Nhờ quá trình này mà môi trường nước được
giải độc, nhất là các tầng đáy của thuỷ vực.
Trong việc làm thối rữa protein, bên cạnh amoniac còn có một lượng nhỏ
sunphua hydro (H2S) giải phóng, nguồn gốc từ axit amin chứa lưu huỳnh như xystin
(hoặc xystein) và metionin. H2S là chất khí không bên trong môi trường thoáng, khí và
bị oxy hoá bằng con đường hoá học hoặc nhờ một số vi khuẩn và nấm.
2H2S + 0 2 -> & + 2 H20 + 80 Kcal
S2 + 3 02 + 2 H20 -> 2H2S04 + 240Kcal
Sự oxy hoá nhờ vi sinh vật diễn ra qua nhiều sản phẩm trung gian rồi tới sulphat
là chất cuối cùng bền vững của sự khoáng hoá các hợp chất hữu cơ chứa lưu huỳnh và
đối với thực vật là nguồn thức ăn quan trọng nhất. Vi khuẩn thuộc giống Thiobacillus,
vi khuẩn lưu huỳnh dạng sợi thuộc giống Beggiatoa và Thiothrix. Ngoài ra các hợp
chất lưu huỳnh khử cũng được oxy hoá nhờ vi khuẩn mầu lục hoặc vi khuẩn lưu huỳnh
màu tía quang tự dưỡng để tạo thành lưu huỳnh hoặc sulphát nhằm thu nhận hydro cho
quá trình khử C 02.
10
CHƯƠNG n
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứ u
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Trong khuôn khổ báo cáo này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là hệ sinh
thái nước hổ Tây. Những vấn đề cụ thể được xem xét là:
- Chất lượng nước hổ Tây thông qua một số chỉ tiêu li, hoá học
- Nhóm vi sinh vật tham gia quá trình amôn hoá
- Nhóm vi sinh vật phản nitrat hoá,
- Nhóm vi sinh vật phân huỷ xenluloza
- Nhóm vi sinh vật sunphát hoá
- Nhóm vi sinh vật chuyển hoá các hợp chất chứa phốt pho.
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
* Phương pháp lấy mẫu nước:
- Mẫu nước được lấy vào hai mùa trong nãm là xuân - hè và thu - đông.
- Mẫu nước tầng mặt lấy cách mặt nước 25 cm mẫu nước tầng đáy được lấy sát lớp
bùn. Mẫu nước lấy cách xa bờ khoảng 50m.
* Phương pháp phân tích số lượng vi sinh vật:
Số lượng vi sinh vật được phân tích trên các môi trường đặc hiệu của từng nhóm
và sử dụng hai phương pháp chính sau:
- Phương pháp pha loãng tìm giới hạn phát triển
- Phương pháp Koch.
- Mẫu nước được lấy ở 5 điểm đặc trưng cho các khu vực khác nhau của hồ Tây.
Điểm 1: Khu vực cống Tầu Bay, nơi tiếp nhận nước thải chủ vếu của thành phố.
Điểm 2: Khu vực làng văn hoá Việt Nhật.
Điểm 3: Khu vực cống thải của nhà máy giấy Trúc Bạch
Điểm 4: Khu vực giữa hồ
Điểm5: Khu vực cống cây Si
11
* Các chỉ tiêu thuỷ lí, thuỷ hoá:
Một số chỉ tiêu thuỷ lí, thuỷ hoá được đo trực tiếp tại hiện trường bằng máy
TOA. Các chỉ tiêu khác được phân tích trong phòng thí nghiệm. Phân tích chỉ tiêu
BOD, mẫu được ù trong 5 ngày ở nhiệt độ 20° c. Chỉ tiêu COD được phân tích theo
phương pháp chuẩn độ Bicromat Kali (K2Cr20 7).
12
CHƯƠNG m
KẾT QUẢ NGHIÊN c ứ u
3.1. Kết quả phân tích một số chỉ tiêu thuỷ lí, thuỷ hoá: Kết quả phân tích một số
chỉ tiêu thuỷ lí tại các điểm lấy mẫu được thể hiện trong bảng 1
Bảngl: Kết quả phân tích một số chỉ tiêu thuỷ lí của Hồ Tây:
Mẫu số
Nhiệt độ (°C)
DO (mg/1)
pH
ss (mg/1)
NaCl (%)
1
21,5
1,4 7,3 44
0,03
2
22,2
3,6
7,6
31 0,02
3
21,4
4,2
7,7
39 0,02
4
20,9
7,9
7,9 24
0,04
5
21,2
1,9
7,0
36 0,04
Kết quả phân tích một số chỉ tiêu thuỷ hoá tại các điểm lấy mẫu được thể hiện
trong bảng 2
Bảng2: Kết quả phân tích một số chỉ tiêu thuỷ hoá của Hồ Tây:
Mẫu sỏ
BOD5 mg/1
COD mg/1 N 0 3'mg/1 NH4+mg/l
P 0 43- mg/l
1 65,0 112,0 1,6
3,7
1,9
2
30,0 65,0 0,5
1,0
0,68
3 32,5 70,0
0,72
1,15 0,53
4 18,3 45,5 0,25 0,53 0,45
5
41,0 68,0 1,45
3,0
1,1
TCVN
5942/1995
<25 <35
13
Qua các bảng trên ta thấy tại các khu vực gần nguồn thải các chỉ tiêu thuỷ lí,
thuỷ hoá đều cao hơn tiêu chuẩn nước mặt Việt Nam. Chỉ có khu vực giữa hổ chỉ tiêu
BOD đạt tiêu chuẩn cho phép. Chất lượng nước hồ Tây nhìn chung được xếp vào loại ô
nhiễm nhẹ. Ở một số khu vực cống thải, như cống Tầu Bay (vị trí số 1), cống cây Si (vị
trí số 5), nước có mầu xám đen mùi hôi thể hiện mức độ ô nhiễm cục bộ.
3.2. Sự phân bố của nhóm sinh vật amôn hoá.
Nước thải sinh hoạt đổ vào hồ thường có hàm lượng Protein, Urea và acid Uric
cao. Quá trình Amon hoá các hợp chất trên của vi sinh vật đóng vai trò quan trọng
trong sự khoáng hoá chất hữu cơ giảm thiểu ô nhiễm chất hữu cơ chứa Nitơ cho thuỷ
vực. Kết quả của quá trình này một phần thành NH3 bay lên khỏi thuỷ vực, phần khác
sẽ hình thành muối Amôn hoặc NH4OH là những hợp chất tan trong nước, thực vật
thuỷ sinh có thể hấp thụ dễ dàng. Phần còn lại sẽ tạo thành NO3 do hoạt động của
nhóm vi sinh vật NO3' hoá. Hàm lượng NO3' trong nớc cao sẽ gây ô nhiễm NCV đối với
các thực vật thuỷ sinh và gây ra hiện tượng phú dưỡng. Dấu hiệu của sự có mặt các
nhóm amôn hoá làm môi trường bị đục, giấy quỳ chuyển sang màu xanh. Số lượng vi
sinh vật amôn hoá tại các điểm lấy mẫu khác nhau được trình bầy trong bảng 2.
Bảng 3: Số lượng vi sinh vật tham gia quá trình amôn hoá.
Mẫu
Mùa
Sô lượng vi sinh vật (*104CFU/lml)
1
2
3
4
5
Xuân
hè
Tầng mặt
17,00 2,20
0,38
0,21
1,10
Tầng đáy
17,00 2,00
0,30
0,18 1,00
Thu
đông
Tầng mặt
6,50
1,75 0,20 0,40
1,30
Tầng đáy
6,00
1,68 0,20 0,30
1,15
Các hợp chất chứa nitơ tồn tại trong hồ VỚI nồng độ cao là nguy cơ gây nên quá
trình phú dưỡng của nước hổ. Một số nhóm vi sinh vật có khả nãng chuyển hoá các
dạng đạm hữu cơ gây ô nhiễm nớc hổ thành dạng đạm vô cơ mà thực vật thuỷ sinh có
thể hấp thụ được, làm giảm mức độ ô nhiễm.
14
Kết quả ở bảng 3 cho thấy sự phân bố rộng rãi của nhóm sinh vật amôn hoá cả ở
tầng mặt lẫn tầng đáy. Tuy nhiên có sự khác nhau rõ rệt ờ các điểm lấy mẫu có đặc
trưng khác nhau. Ở khu vực gần cống thải, số lượng vi sinh vật amôn hoá nhiều hơn
khu vực giữa hồ. Đạc biệt ở khu vực cống Tầu Bay và khu dân cư ven hổ, số lượng vi
sinh vật amôn hoá cao hơn nhiều lần so với khu vực giữa hồ. Nguyên nhân là do ở các
nguồn thải, hàm lượng các hợp chất chứa nitơ rất nhiều. Đến khu vực giữa hồ chất
lượng nước đã được cải thiện hơn rất nhiều nhờ cơ chế tự làm sạch. Tại điểm số 3 khu
vực này nước tương đối đỏ nhưng số lượng vi sinh vật lại ít do hoá chất độc hại từ nước
thải nhà máy giấy đã hạn chế quá trình phát triển của các vi sinh vật. Vì vậy việc quản
lí các nguồn thải độc hại để không gây ảnh hưởng xấu tới hệ sinh thái hồ là vô cùng
quan trọng, về mùa hè số lượng nhóm vi sinh vật này cũng cao hơn mùa đông vì có thể
do yếu tố nhiệt độ đã thúc đẩy quá trình sinh trưởng và phát triển của vi sinh vật.
3.3. Sự phân bô của nhóm vi sinh vật phản nỉtrat:
Phản nitrat là quá trình vi sinh vật chuyển hoá nitrat thành khí nitơ bay lên. Kết
quả của quá trình này là hàm lượng nitrat giảm xuống, ngăn chặn nguy cơ phú dưỡng
của thuỷ vực. Dấu hiệu sự có mặt của nhóm vi sinh vật phản nitrat làm môi trường bị
đục và tạo thành bọt khí sau khi nuôi cấy ở nhiệt độ 30°c trong năm ngày. Quá trình
này có thể xảy ra trong điều kiện hiếu khí và kị khí, nhưng nó xảy ra đặc biệt mạnh mẽ
trong điệu kiện thiếu oxy. Sự phân bố của nhóm vi sinh vật phản nitrat hoá thể hiện
trong bảng 4.
Bảng 4: sỏ lượng nhóm vi sinh vật tham gia quá trình phản nitrat.
Mâu
Mùa
Số lượng vi sinh vật (*104CFU/lml)
1
2
3 4
5
Xuân hè
Tầng mặt
13.50 2.50 0.32 0.17
1.70
Tầng đáy
14.00 3.00 0.32 0.17
1.50
Thu đông
Tầng mặt
8,55 2,25 0,25 0,30
1,55
Tầng đáy
10,55 2,50 0,25
0,37 1,90
15
Cũng như số lượng nhóm vi sinh vật amôn hoá, số lượng vi sinh vật phản nitrat
ở điểm 1 tầng đáy lớn hơn hẳn so với các khu vực khác. Điều này được giải thích là do
ở đây nhận nước thải của thành phố nên hàm lượng các chất hữu cơ chứa nitơ rất lớn,
nước có màu đen. Mặt khác ở tầng đáy là nơi có điểu kiện thuận lợi cho các nhóm vi
sinh vật kị khí phát triển nên số lượng nhóm vi sinh vật này ở tầng đáy cao hơn tầng
mặt khá nhiều, ở điểm số 2 và số 5 số lượng nhóm vi sinh vật này cao hơn các khu vực
còn lại vì những khu vực này nhận nước thải của các hộ dân quanh hổ và ở khu vực hồ
Trúc Bạch chuyển sang. Tại điểm 3, khu vực gần nhà máy giấy tuy nước bị ố nhiễm
nhưng số lượng vi sinh vật lại giảm mạnh vì ở đây nước thải có một lượng lớn hoá chất
độc hại đã ức chế sự phát triển của vi sinh vật. ở tầng đáy số lượng vi sinh vật nhiều
hem ở tầng mặt một chút vì quá trình phản nitrat là quá trình xảy ra trong điều kiện kỵ
khí. Vào mùa hè, số lượng vi sinh vật ở tất cả các điểm đều cao hơn vào mùa đông.
Điều đó được giải thích là vào mùa hè nhiệt độ nước cao hơn đã thúc quá trình phát
triển của các vi sinh vật. Hơn nữa, nhiệt độ cao làm cho hàm lượng oxy hoà tan giảm
đi. Đây là điều kiện thuận lợi cho vỉ sinh vật phản nitrat phát triển mạnh mẽ.
3.4. Sự phân bô của nhóm vi sinh vật phân huỷ xenluloza:
Hàng ngày, Một lượng lớn rác rởi được thải xuống hồ, bên cạnh đó còn có xác
các thuỷ sinh vật gây ô nhiễm nước hồ. Nếu không có nhóm vi sinh vật phân huỷ
xenluloza thì các thuỷ vực sẽ nhanh chóng bị lấp đầy. Chính vì vậy nhóm vi sinh vật
phân huỷ xenluloza có vai trò rất quan trọng trong quá trinh tự làm sạch nước hổ.
Nhóm vi sinh vật phân huỷ xenluloza trong điều kiện hiếu khí lẫn kị khí. Dấu hiệu của
sự có mặt của nhóm này là các khuẩn lạc mọc trên bền mặt giấy lọc, làm giấy ngả màu
vàng và sau đó sẽ bị mủn nát. Sự phân bố của nhóm vi sinh vật phân huỷ xenluloza thể
hiện trong bảng sau:
16
Bảng 5: Số lượng vỉ sinh vật tham gia quá trình phân huỷ xenluloza hiếu khí.
Mẩu
Mùa
Số lượng vi sinh vật (*104CFƯ/lml)
1
2 3
4
5
Xuân
hè
Tầng mật 3,2
1,7 0,8
1,0 1,7
Tầng đáy
1,3
1,0
0,0
0,5 1,2
Thu
đông
Tầng mặt 2,7
1,2
0,7
0,8
1,5
Tầng đáy
2,0
1,0 0,0 0,0
1,2
Bảng 6: Số lượng vi sinh vật tham gia quá trình phân huỷ xenluloza kị khí.
Mẫu
Mùa
Số lượng vi sinh vật (*104CFU/lml)
1 2 3 4
5
Xuân
hè
Tầng mặt 2,0
1,5
0,0 0,4
1,5
Tầng đáy 3,2 2,0 0,0 0,7 2,2
Thu
đông
Tầng mặt
1,5 1,2
0,0
0,3
1.0
Tầng đáy
1,7 1,5
0,0 0,5
1.2
Qua các bảng trên chúng tôi thấy nhóm vi sinh vật phân huỷ xenluloza phân bố
khá rộng rãi tại hầu hết các điểm lấy mẫu, Riêng nhóm vi sinh vật phân huỷ xenluloza
hiếu khí ở tầng đáy tại vị trí số 3 và số 4 không phát hiện thấy nhóm hiếu khí xuất hiện,
ở tẩng mặt nhiều hơn nhóm kỵ khí và ngược lại ở tầng đáy nhóm phân huỷ xenluloza
kị khí lại có số lượng cao hơn nhiều so với nhóm hiếu khí. Cũng ở các khu vực gần
nguồn thải, số lượng vi sinh vật phân huỷ xenluloza cao hơn các khu vực khác. Cũng
tại điểm số 3 là khu vực nhà máy giấy Trúc Bạch, nước thải chứa nhiều các hợp chất
chứa cacbon nhưng số lượng vi sinh vật rất ít vì nước thải ở đây có nhiều hoá chất độc
hại ngăn cản sự phát triển của các vi sinh vật. Số lượng các vi sinh vật phân huỷ
xenluloza về mùa hè cũng cao hơn mùa đông.
—
7
,
ĐAI H O C Q U Ố C G IA HẢ NQ|
'RUNG TÁM THQNG TIN THU’ V ẺN
17 p T / . 3 q f ~
3.5. Sự phân bố của nhóm vi sinh vật phản huỷ phốt pho và lưu huỳnh:
* Sự phân bố của nhóm vi sinh vật phân hũy phốt pho vô cơ:
Nhóm vi sinh vật phân giải phốt pho vồ cơ là những nhóm có khả năng chuyển
hoá các hợp chất phốt pho vô cơ khó tan như Ca3(P04)2 để cho thực vật thuỷ sinh có thể
hấp thụ được và khép kín chu trình phốt pho trong hồ. Sự phân bố của chúng được thể
hiện trong bảng7
Bảng 7: Số lượng vi sinh vật tham gia quá trình phản huỷ phôt pho vô cơ.
Mẫu
Mùa
Số lượng vi sinh vật (*104CFU/lml)
1 2
3
4
5
Xuân
hè
Tầng mặt 5,00 2,40
0,25
0,37 3,25
Tầng đáy 5,75
2,17 0,17 0,53 2,72
Thu
đông
Tầng mặt 2,50 1,40 0,20
0,26 2,93
Tầng đáy
2,35
1,75 0,15
0,36
3,25
* Sự phân bố của nhóm vi sinh vật sunphất hoá:
Quá trình sunphat hoá là quá trình oxy hoá H2S. Tiosunphat và sulphit
thành
dạng muối S042' cung cấp cho thược vật thuỷ sinh. Nhờ quá trình này mà các dạng chất
độc với sinh vật trong hệ sinh thái như H2S được chuyển thành dạng muối cung cấp cho
thực vật thuỷ sinh, khép kín chu trình lưu huỳnh của hệ sinh thái hồ. Sự phân bố của
nhóm vi sinh vật sunlphat hoá được ghi trong bảng 8
Bảng 8: Sô lượng vi sinh vật tham gia quá trình sunphat hoá
Mầu
Mùa
Sô lượng vi sinh vật (*104CFU/lml)
1
2
3
4
5
Xuân
hè
Tầng măt
25,15
17,50
2,50 1,75
5,73
Tầng đáy
17,30
12,41
1,25
1,17
2,57
Thu
đông
Tầng măt
15,00
11,50
1,75
1,37
2,90
Tầng đáy
1,17
8,73
1,00
0,95 1,28
Qua số liệu các bảng trên cho thấy các nhóm vi sinh vật này phân bố rất rộng rãi
trong hổ ở cả tầng đáy và tầng mặt. Cũng tại các vị trí gần nguồn thải thì số lương của
chúng cao hơn khu vực giữa hổ. Về mùa hè, số lượng các vi sinh vật này tăng lên. Tai
nguồn thải nhà máy Giấy Trúc Bạch số lượng các vi sinh vật giảm đáng kể do tác động
của hoá chất độc hại trong nước thải của nhà máy Giấy thải ra.
18
KẾT LUẬN
Qua các kết quả nghiên cứu ở trên, chúng tôi đã rút ra một số kết luận sau:
- Chất lượng nước hồ Tây nhìn chung được xếp vào mức độ ô nhiễm nhẹ. ở một
số khu vực gần cống thải có hiện tượng phú dưỡng cục bộ.
- Sự phân bố của các nhóm vi sinh vật phụ thuộc vào chất lượng nước ở các điểm
lấy mẫu khác nhau. Nhìn chung số lượng vi sinh vật ở khu vực gần cống thải
luôn luôn cao hơn khu vực giữa hồ. v ề mùa hè số lượng các nhóm vi sinh vật
cao hơn mùa đông.
- Sự có mặt phong phú của các nhóm vi sinh vật thể hiện vai trò to lớn trong các
chu trình chuyển hóa vật chất, góp phần thúc đẩy quá trình tự làm sạch 'của hồ.
19