ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG MÔN HỌC
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(Dành cho sinh viên khối không chuyên ngành Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh ĐHNNHN)
THÔNG TIN CHUNG VỀ MÔN HỌC
I. MỤC TIÊU CỦA MÔN HỌC
1. Kiến thức
(1). Nắm vững được điều kiện lịch sử, quá trình ra đời tất yếu của
Đảng – chủ thể hoạch định đường lối cách mạng Việt Nam.
(2.) Hiểu nội dung cơ bản của mỗi đường lối và một số chính sách của
Đảng trong quá trình cách mạng Việt Nam.
(3). Đánh giá đường lối và hiệu quả thực hiện đường lối.
2. Kỹ năng
(1). Rèn luyện năng lực tư duy độc lập trong nghiên cứu đường lối
cách mạng của Đảng.
(2). Hình thành duy phê phán, kỹ năng phân tích, tổng hợp và đánh
giá những vấn đề liên quan đến môn học. Từ đó, vận dụng kiến thức đã học
để chủ động, tích cực nhận thức những vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội theo đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
(3). Rèn luyện kỹ năng viết, có kỹ năng làm việc cá nhân, làm việc
nhóm và trình bày kết quả nghiên cứu.
3. Thái độ
(1) Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam.
(2) Quyết tâm phấn đấu thực hiện đường lối cách mạng của Đảng.
(3) Có thái độ nghiêm túc trong học tập, nghiên cứu khoa học, trong
nhận thức về cuộc sống, xã hội, tự rèn luyện bản thân trở thành người có
phẩm chất , bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trình độ chuyên môn tốt;
1
hình thành tình cảm, niềm tin vào con đường cách mạng mà dân tộc ta đã lựa
chọn.
II. THỜI LƯỢNG VÀ CÁC MÔN HỌC TIÊN QUYẾT
1. Thời lượng
Gồm 45 tiết (03 tín chỉ), thực hiện theo nguyên tắc chia tổng số tiết như
sau:
- Giảng lý thuyết: 35 tiết.
- Thảo luận trên lớp: 10 tiết.
2. Môn học tiên quyết
- Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
- Tư tưởng Hồ Chí Minh.
III. TÓM TẮT NỘI DUNG MÔN HỌC
Môn học bao gồm 8 chương, là một hệ thống tri thức về quá trình
hoạch định đường lối của Đảng, gắn liền với những hoạt động đa dạng,
phong phú, nhằm thực hiện đường lối của Đảng, thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời (1930) cho đến nay.
Môn học trình bày một cách khách quan, có hệ thống quá trình ra đời
của Đảng – chủ thể hoạch định đường lối cách mạng Việt Nam và đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam, các biện pháp, giải pháp trong tổ chức thực hiện. Trên
cơ sở đó, so sánh với yêu cầu thực tiễn, thông qua sự kiểm nghiệm của thực
tiễn để đánh giá đường lối của Đảng; khẳng định những thành công, chỉ ra
những hạn chế trong quá trình hoạch định, thực hiện đường lối, từ đó làm rõ
những nguyên tắc, những quy luật khách quan chi phối quá trình Đảng hoạch
định, thực hiện đường lối.
2
III. NỘI DUNG CHI TIẾT MÔN HỌC
Bài mở đầu
NHẬP MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
• Khái niệm “đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam”
- Là hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về mục
tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của cách mạng Việt Nam và các
biện pháp, giải pháp trong tổ chức thực hiện.
- Đường lối cách mạng của Đảng được thể hiện qua cương lĩnh, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng.
• Đối tượng nghiên cứu
- Hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng trong tiến
trình cách mạng Việt Nam, từ CMDTDCND đến CMXHCN.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ sự ra đời tất yếu của ĐCSVN - chủ thể hoạch định đường lối
cách mạng Việt Nam.
- Làm rõ quá trình hình thành, bổ sung, phát triển đường lối cách
mạng của Đảng.
- Làm rõ kết quả thực hiện đường lối cách mạng của Đảng trên một
số lĩnh vực cơ bản trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN
HỌC
1. Phương pháp nghiên cứu
• Cơ sở phương pháp luận
- Thế giới quan, Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, các
quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận của Hồ Chí Minh và các quan điểm
của Đảng
3
• Các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương
pháp lôgic, ngoài ra có sự kết hợp các phương pháp khác như phân tích, tổng
hợp, so sánh, quy nạp và diễn dịch, cụ thể hoá và trừu tượng hóa
2. Ý nghĩa của việc học tập môn học
- Trang bị cho sinh viên những hiểu biết cơ bản về sự ra đời của Đảng,
về đường lối của Đảng trong CMDTDCND và CMXHCN, chú trọng một số
đường lối, chủ trương quan trọng của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
- Bồi dưỡng cho sinh viên niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, định
hướng phấn đấu theo mục tiêu, lý tưởng và đường lối của Đảng; nâng cao ý
thức trách nhiệm công dân trước những nhiệm vụ trọng đại của đất nước.
- Sinh viên có cơ sở vận dụng kiến thức chuyên ngành để chủ động,
tích cực giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội… theo đường lối,
chính sách của Đảng.
4
Chương I
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNG
LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG (6 tiết)
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (SV tự
nghiên cứu tài liệu)
1. Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
• Sự chuyển biến của CNTB và hậu quả của nó
• Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin
• Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng
sản
2. Hoàn cảnh trong nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
• Chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam
Về chính trị
- Thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế.
Về kinh tế
- Thi hành chính sách kinh tế phản động, bóc lột nặng nề.
Về văn hoá
- Kìm hãm, nô dịch về văn hoá. Sử dụng chính sách “Ngu dân dễ trị”.
• Sự phân hóa xã hội và các mâu thuẫn trong xã hội thuộc địa Việt
Nam
Sự phân hóa xã hội
Xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc, kết cấu giai cấp thay
đổi, xuất hiện nhiều giai tầng mới; đồng thời ở một số giai tầng lại tiếp tục có sự
phân hóa:
- Giai cấp nông dân.
- Giai cấp địa chủ, phong kiến (chia làm hai bộ phận:Tầng lớp trên và
địa chủ vừa và nhỏ).
- Giai cấp tư sản (phân hóa thành tư sản dân tộc và tư sản mại bản).
- Tiểu tư sản.
- Giai cấp công nhân.
Tính chất và mâu thuẫn của xã hội thuộc địa Việt Nam
5
- Tính chất xã hội thay đổi:
+ Chính sách cai trị của thực dân Pháp đã làm thay đổi tính chất xã
hội Việt Nam.
+ Xã hội Việt Nam từ một xã hội phong kiến độc lập đã trở thành xã
hội thuộc địa nửa phong kiến.
- Mâu thuẫn xã hội thay đổi:
+ Mâu thuẫn cơ bản vốn có trong lòng xã hội Việt Nam phong kiến là
mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến không mất đi mà vẫn tiếp
tục tồn tại.
+ Hình thành mâu thuẫn mới: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp xâm lược.
+ Hai mâu thuẫn đó gắn chặt với nhau, trong đó mâu thuẫn bao trùm,
gay gắt, cơ bản, chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân
Pháp và tay sai. Thái độ, vị trí các giai cấp ở Việt Nam đều bị mâu thuẫn này
chi phối.
II. NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP ĐẢNG
1. Cuộc khủng hoảng con đường cứu nước (SV tự nghiên cứu tài
liệu)
• Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến
Phong trào Cần Vương (1885-1896):
Khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1884-1913):
- Kết luận: Mặc dù chiến đấu rất anh dũng, nhưng cuối cùng các
phong trào đều bị dập tắt. Sự thất bại này chứng tỏ hệ tư tưởng phong kiến
không thể giúp nhân dân ta thoát khỏi kiếp nô lệ và hoàn toàn bất lực trước
nhiệm vụ của lịch sử đề ra.
• Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918)
- Xu hướng bạo động:
+ Phong trào Đông Du (1906-1908):
Do Phan Bội Châu (1867-1940) khởi xướng và lãnh đạo.
6
Hạn chế lớn của ông là chủ trương dựa vào Nhật để đánh Pháp, chẳng
khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.
+ Việt Nam Quang phục Hội (1912):
Cách mạng Tân Hợi nổ ra, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn
ảnh hưởng đến Phan Bội Châu. Ông chuyển sang lập trường dân chủ tư sản,
lập ra Việt Nam Quang phục hội (5-1912) để chống Pháp.
- Xu hướng cải lương:
+ Phong trào Duy Tân (1906-1908):
Do Phan Châu Chinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đứng đầu,
giương cao ngọn cờ, dân chủ và cải cách văn hoá - xã hội, phản đối vũ trang
bạo động chống Pháp.
Hạn chế của ông là dựa vào Pháp chống chính quyền tay sai, kêu gọi
Pháp cho phép thực hiện những cải cách dân chủ, “chẳng khác nào xin giặc
rủ lòng thương”.
+ Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1907):
Do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền lãnh đạo.
Phong trào diễn ra khá sôi nổi, dưới các hình thức tuyên truyền cải
cách văn hoá - xã hội, bài trừ mê tín dị đoan, tuyên truyền cho việc học chữ
quốc ngữ.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1918 - 1930)
- Phong trào quốc gia cải lương của tầng lớp tiểu tư sản thành thị và
địa chủ lớp trên:
+ Năm 1919, phong trào tẩy chay Hoa kiều, bài trừ hàng hoá ngoại,
chấn hưng hàng nội hoá, với khẩu hiệu: “Người Việt Nam không mang vàng
đi đổ sông Ngô”, “ Người Việt Nam mua hàng Việt Nam”.
+ Năm 1923, phong trào chống độc quyền xuất khẩu gạo ở cảng Sài
Gòn của Pháp.
+ Cuộc đấu tranh chống độc quyền nước mắm (1920-1926).
+ Cuộc đấu tranh đòi mở rộng các quyền tự do, dân chủ, tham gia các
hoạt động chính trị. Tiêu biểu là Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu
(1923).
7
- Phong trào yêu nước dân chủ công khai:
+ Những phần tử tiểu tư sản yêu nước khác tập trung trong những tổ
chức như “Tâm Tâm xã” (1923), “ Việt Nam nghĩa hoà Đoàn” (1925), “Hội
phục Việt” (1925), “Đảng Thanh niên” ( 1926).
+ Họ xuất bản một số tờ báo tiến bộ như “Chuông rè”. “ L’ Annam”, “
Nước Annam trẻ”, với một loạt các nhà xuất bản như: Nam đồng thư xã,
Cường học thư xã…
- Phong trào cách mạng quốc gia tư sản:
+ Gắn liền với hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng.
+ Ra đời ngày 25-12-1927. Tiền thân là Nam đồng thư xã.
+ Lãnh tụ : Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài.
+ Thành phần: Công chức, hào lý, địa chủ, binh lính trong quân đội
+ Tư tưởng chính: Đánh đổ thực dân Pháp, phá bỏ ngôi vua, thành lập
chính quyền của người Việt Nam.
+ Địa bàn hoạt động: Đồng bằng, trung du Bắc Bộ.
+ Tiến hành các hoạt động ám sát và bị thực dân Pháp đàn áp.
+ Tổ chức khởi nghĩa Yên Bái vào ngày 9-2-1930 và nhanh chóng bị
thực dân Pháp đàn áp. Phong trào thất bại, chấm dứt vai trò của giai cấp tư
sản.
Ý nghĩa của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến
và dân chủ tư sản
2. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước
• Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
- 1911-1916: Nguyễn Tất Thành đi qua nhiều nước, qua nhiều thuộc
địa, với các châu lục khác nhau, khảo nghiệm cách mạng trên hai phương
diện lý luận và thực tiễn.
- 1917- 1920: Hoạt động trên nhiều địa bàn khác nhau, chịu ảnh
hưởng sâu sắc bởi tư tưởng của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, đọc Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
8
Lênin và lựa chọn con đường cứu nước và giải phóng dân tộc là con đường
cách mạng vô sản.
• Những bước phát triển nhận thức trong quá trình tìm đường
cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
- 1911- 1916: Ra đi với xuất phát điểm là chủ nghĩa yêu nước, qua
nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc rút ra những kết
luận mang tính nền tảng cho nhận thức và hành động:
+ Nhận thức rõ bạn – thù.
+ Nhận ra hạn chế của các nhà yêu nước đương thời ở Việt Nam.
+ Tìm ra hạn chế của cách mạng dân chủ tư sản là những cuộc cách
mạng không giải phóng được công nông và quần chúng lao động.
- 1917-1920: Dưới tác động của hàng loạt sự kiện (Cách mạng tháng
Mười Nga thắng lợi, Bản yêu sách 8 điểm bị từ chối, đọc được Luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin…), Nguyễn Ái Quốc tiếp
tục rút ra hàng loạt những kết luận quan trọng, mang tính đột phá về chất:
+ Cách mạng vô sản là là cuộc cách mạng triệt để nhất (1917).
+ Các dân tộc muốn được độc lập tự do thực sự phải trông cậy trước
hết vào lực lượng của bản thân mình, phải tự mình giải phóng mình (1919).
+ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác, ngoài con đường cách mạng vô sản (7-1920).
- 12-1920, khi bỏ phiếu tán thành thành lập ĐCS Pháp và gia nhập
Quốc tế III, Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản đầu tiên của dân tộc
Việt Nam.
3. Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối
giải phóng dân tộc vào Việt Nam
• Hệ thống quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của
Nguyễn Ái Quốc những năm 20 (XX)(SV tự xem lại môn Tư
tưởng HCM)
Hệ thống quan điểm và lý luận về “Đường cách mệnh” thể hiện khá
hoàn chỉnh qua các tác phẩm, bài viết của Người trong chặng đường hoạt
động từ năm 1921 đến 1927. Nội dung hệ thống quan điểm đó là:
9
- Vạch rõ bản chất phản động của chủ nghĩa thực dân. Từ đó xác định,
chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động toàn thế giới, là kẻ thù trực tiếp của nhân dân các nước thuộc địa.
- Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận cách mạng của thời
đại cách mạng vô sản. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân
dân lao động và giai cấp công nhân.
- Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng ở
“chính quốc” có quan hệ khăng khít với nhau. Phải thực hiện liên minh
chiến đấu giữa các lực lượng cách mạng ở thuộc địa và “chính quốc”. Cách
mạng thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở “chính quốc”, mà
có tính chủ động, độc lập và nó có thể thành công trước cách mạng ở “chính
quốc”.
- Cách mạng ở thuộc địa trước hết là giải phóng dân tộc, sau đó mở
đường tiến lên giải phóng hoàn toàn lao động, giải phóng con người, tức là
làm cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng XHCN.
- Về lực lượng cách mạng: “công nông là người chủ cách mệnh”, “là
gốc cách mệnh”; công nhân là giai cấp lãnh đạo, tiểu tư sản trí thức là bạn
đồng minh của cách mạng.
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Quần chúng cần được giác
ngộ và tổ chức lại thành đội ngũ vững bền; hiểu biết tình thế, “có mưu
chước”.
- Phải thực hiện liên minh, đoàn kết với các lực lượng cách mạng
quốc tế; phải nêu cao tính chủ động cách mạng, ý thức tự lực, tự cường.
- Cách mạng muốn thắng lợi phải có đảng lãnh đạo. Đảng muốn vững
phải có học thuyết cách mạng, đó là học thuyết Mác - Lênin, phải biết vận
dụng đúng đắn học thuyết đó vào cách mạng Việt Nam.
• Thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6-1925) và
phong trào “vô sản hóa” (1928)
- Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên, xuất bản báo Thanh niên làm cơ quan ngôn luận.
10
- Hội tiến hành đào tạo đội ngũ cán bộ cách mạng và xây dựng hệ
thống tổ chức trong nước, chuẩn bị tích cực cho việc thành lập ĐCS ở Việt
Nam.
- Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương "vô sản hoá" đưa hội viên của
mình vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền trong nước cùng sống và làm việc
với công nhân, truyền bá lý luận, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh giải
phóng dân tộc.
- Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nhanh chóng phát triển (năm
1928 có 300 hội viên, năm 1929 đã tăng tới 1.700 hội viên) và phát triển ở
nhiều trung tâm kinh tế - chính trị quan trọng.
- Hoạt động truyền bá chủ nghĩa chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
cách mạng Hồ Chí Minh của Hội đã có tác dụng tích cực, làm dấy lên một
phong trào đấu tranh ngày càng mạnh mẽ ở Việt Nam, đặc biệt là phong trào
công nhân.
4. Sự phát triển của phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô
sản và các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời
• Phong trào công nhân chuyển sang tự giác
- Từ năm 1920-1925, đã nổ ra 25 cuộc bãi công của công nhân, tiêu
biểu nhất là cuộc bãi công của 1000 công nhân xưởng Ba Son (Sài Gòn- 8-
1925).
- Trong hai năm 1926-1927, có 17 cuộc đấu tranh của công nhân trong
cả nước. Tiêu biểu là bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định (7-
1926), đồn điền Cam Tiên (12-1926), đồn điền Phú Riềng (tháng 8, 9-1927).
- Năm 1928-1929, các cuộc đấu tranh đã thể hiện rõ rệt tinh thần đoàn
kết giai cấp, ý thức tổ chức của công nhân.
- Phong trào nông dân đến năm 1927 đã phát triển khá mạnh ở nhiều
vùng trong cả nước.
- Phong trào công nhân và phong trào nông dân đã có tác dụng hỗ trợ lẫn
nhau.
• Sự ra đời của các tổ chức cộng sản
11
Phong trào công nhân cuối những năm 20 phát triển không đồng đều,
mạnh nhất là phong trào công nhân ở Bắc Kỳ. Nắm bắt được đòi hỏi của
phong trào, những người lãnh đạo trong kỳ bộ Bắc Kỳ nhận ra sự cấp thiết
phải thành lập một ĐCS thay cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, để
tiếp tục đưa phong trào giải phóng dân tộc tiến lên. Xu thế thành lập một
ĐCS đã chín muồi.
- Tháng 3-1929, một số hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách
mạng thanh niên họp tại số nhà 5D Hàm Long (Hà Nội) quyết định thành lập
chi bộ cộng sản đầu tiên bao gồm 7 đồng chí.
- Đầu tháng 5-1929, tại Đại hội I của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên, đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đưa ra đề nghị giải tán Hội Việt Nam cách
mạng Thanh niên và thành lập ĐCS. Nhưng đề nghị đó không được chấp
nhận, nên Đoàn đã bỏ đại hội ra về.
- Đêm 17-6-1929, một số đại biểu của Kỳ bộ Bắc Kỳ đã họp tại 312
phố Khâm Thiên tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản đảng. Hội nghị
đã thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm
cơ quan ngôn luận của Đảng.
- Trước ảnh hưởng sâu rộng của Đông Dương Cộng sản đảng, Tổng
bộ Thanh niên và Kỳ bộ Nam kỳ đã quyết định thành lập An Nam Cộng sản
đảng vào tháng 8-1929, xuất bản báo Đỏ làm cơ quan ngôn luận của mình.
- Tháng 1-1930, Đông Dương Cộng sản liên đoàn ra đời từ trong phái
cấp tiến của Đảng Tân Việt.
III. HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU
TIÊN CỦA ĐẢNG
1. Hội nghị thành lập Đảng và cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng
a.Hội nghị thành lập Đảng
- Thời gian : Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 6-1-1930
1
đến 7-2-1930.
- Địa điểm: Cửu Long – Hương Cảng – Trung Quốc.
- Nội dung:
1
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960), căn cứ vào những tài liệu hiện có, đã ra Nghị
quyết lấy ngày 3-2-1930 làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
12
+ Hội nghị thảo luận và nhất trí với năm điểm lớn theo đề nghị của
Nguyễn Ái Quốc và quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản lấy tên là
ĐCSVN.
+ Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt,
sách lược vắn tắt, điều lệ tóm tắt và chương trình tóm tắt của Đảng do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Những văn kiện này hợp thành cương lĩnh cách
mạng đầu tiên của Đảng - Cương lĩnh Hồ Chí Minh.
- Ngày 24-2-1930, Đông Dương cộng sản liên đoàn chính thức gia
nhập ĐCSVN. ĐCSVN đã hoàn tất việc hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở Việt
Nam.
b.Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng bao gồm: Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Chương trình tóm tắt; được thông qua tại Hội
nghị thành lập Đảng.
- Cương lĩnh xác định các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam:
+ Phương hướng chiến lược: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
+ Về nhiệm vụ cách mạng, Cương lĩnh xác định trên những lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa. Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung dân tộc,
dân chủ và XHCN. Song, nổi bật là nhiệm vụ ''đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập''.
+ Lực lượng cách mạng: đoàn kết tất cả các giai cấp cách mạng, các
lực lượng tiến bộ và cá nhân yêu nước, tập trung lực lượng đánh đổ kẻ thù
chủ yếu của dân tộc là CNĐQ Pháp và tay sai, mở đường cho cách mạng
phát triển đến thắng lợi hoàn toàn.
+ Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạngthế
giới: cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, đứng
trong mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân
thế giới, mà đội quân tiên phong của mặt trận này là Liên Xô.
+ Lãnh đạo cách mạng: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. ĐCSVN là đội tiên phong của giai cấp vô sản và là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
13
2. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng (SV tự nghiên cứu tài
liệu)
- Sự ra đời của Đảng chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng
thành và đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo của cách mạng Việt Nam
- ĐCSVN ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta,
chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước.
- Với sự ra đời của Đảng, cách mạng Việt Nam đã trở thành một bộ
phận của cách mạng thế giới.
● Kết luận
Năm 1930, ĐCSVN ra đời, cũng là lúc Việt Nam Quốc dân Đảng tan
rã. Cùng với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái, sứ mệnh lịch sử của
giai cấp tư sản kết thúc. Ngọn cờ phản đế, phản phong được chuyển qua tay giai
cấp công nhân.
- ĐCS ra đời là sản phẩm của lịch sử đấu tranh dân tộc và giải quyết
yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, là sản phẩm của sự kết
hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân, phong trào yêu nước
Việt Nam.
- ĐCS ra đời là sự kiện có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ quá
trình phát triển của lịch sử Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam dưới sự
lãnh đạo duy nhất của ĐCSVN - một Đảng mác-xít kiên cường, có đường lối
cách mạng khoa học và sáng tạo, đủ sức đương đầu với mọi kẻ thù và sẽ dẫn
dắt dân tộc giành những thắng lợi vẻ vang trong lịch sử dân tộc.
HỌC LIỆU
1. Nguyễn Đình Bài (2003), “Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về quy
luật hình thành ĐCSVN”, Tạp chí Nghệ thuật quân sự Việt Nam, số 1, tháng 1-2,
tr. 5-6.
2. Lê Mậu Hãn (2006), ĐCSVN, các Đại hội và Hội nghị Trung ương,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 9-28.
3. Lê Mậu Hãn (1990), “Hồ Chí Minh với ngọn cờ độc lập dân tộc
trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5, tr. 18.
14
4. Đinh Xuân Lâm (2001), “Về con đường cứu nước Hồ Chí Minh”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 7, tr. 10-13.
5. Trịnh Nhu (2000), “Nguyễn Ái Quốc với sự kiện thành lập
ĐCSVN”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3, tháng 3, tr. 30-34.
6. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), Bản án chế độ thực dân Pháp, Tập 2,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 21-128.
7. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), Đường cách mệnh, Tập 2, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 257-318.
8. Lê Ngọc (1997), “Đường cách mệnh”- tác phẩm đặt nền móng
đường lối cứu nước mới”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 6, tr. 10-13.
9. Song Thành (2000), “Những cống hiến lịch sử của Nguyễn Ái
Quốc vào quá trình thành lập ĐCSVN”, Tạp chí Cộng sản, số 3, tháng 2, tr.
22-25.
10. Phạm Xanh (1990), Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin ở Việt Nam (1921-1930), Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội.
15
Chương II
ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945) (4 tiết)
I. CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1939
1. Trong những năm1930-1935
a. Luận cương chính trị tháng 10-1930
Nội dung của Luận cương
- Luận cương chỉ rõ: mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt ở Đông
Dương.
- Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương:
+ Lúc đầu cách mạng Đông Dương là một cuộc cách mạng tư sản dân
quyền, có tính chất thổ địa và phản đế, tư sản dân quyền cách mạng là thời
kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng.
+ Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục phát triển,
bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
- Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: Đánh đổ phong kiến,
thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp,
làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
Trong hai nhiệm vụ này, Luận cương xác định: “Vấn đề thổ địa là cái
cốt của cách mạng tư sản dân quyền” và là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh
đạo dân cày.
- Về lực lượng cách mạng:
+ Giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân
quyền, vừa là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Dân cày (nông dân) là lực lượng
đông đảo nhất và là động lực mạnh của cách mạng.
+ Tư sản thương nghiệp thì đứng về phe đế quốc và địa chủ chống lại
cách mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và
khi cách mạng phát triển cao thì họ theo đế quốc.
+ Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do
dự; tiểu tư sản thương gia thì không tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức
thì có xu hướng quốc gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế
quốc trong thời kỳ đầu.
16
+ Chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị mới đi theo cách mạng mà thôi.
- Về phương pháp cách mạng: phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về
con đường “võ trang bạo động”. Võ trang bạo động để giành chính quyền là
một nghệ thuật, “phải tuân theo khuôn phép nhà binh”.
- Về quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: cách
mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai
cấp vô sản Đông Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới,
trước hết là giai cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết liên lạc với phong trào
cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nhằm mở rộng và tăng
cường lực lượng cho cuộc đấu tranh cách mạng ở Đông Dương.
- Về vai trò lãnh đạo của Đảng: sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là
điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng. Đảng phải có đường lối
chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập trung, liên hệ mật thiết với quần chúng.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm
nền tảng tư tưởng, đại biểu chung cho quyền lợi của giai cấp vô sản ở Đông
Dương, đấu tranh để đạt được mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Ý nghĩa của Luận cương
- Luận cương chính trị khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về
chiến lược cách mạng mà Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu
ra.
- Bên cạnh mặt thống nhất cơ bản giữa Luận cương chính trị với
Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt có mặt khác nhau:
+ Luận cương chính trị không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu
thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp, từ đó không đặt nhiệm vụ
chống đế quốc lên hàng đầu.
+ Đánh giá không đúng vai trò cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản,
phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc và chưa thấy được khả năng phân
hoá, lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng
dân tộc, từ đó Luận cương đã không đề ra được một chiến lược liên minh
dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và
tay sai.
- Nguyên nhân chủ yếu của những mặt khác nhau:
17
+ Luận cương chính trị chưa tìm ra và nắm vững những đặc điểm của
xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam.
+ Do nhận thức giáo điều, máy móc về vấn đề dân tộc và giai cấp
trong cách mạng ở thuộc địa, và lại chịu ảnh hưởng trực tiếp khuynh hướng
“tả” của Quốc tế Cộng sản và một số đảng cộng sản trong thời gian đó.
Chính vì vậy, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10-1930 đã không
chấp nhận những quan điểm mới, sáng tạo, độc lập tự chủ của Nguyễn Ái
Quốc được nêu trong Đường Cách mệnh, Chánh cương vắn tắt và Sách lược
vắn tắt.
b. Chủ trương khôi phục tổ chức đảng và phong trào cách mạng. (SV tự
nghiên cứu tài liệu)
- Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động được một phong trào cách mạng
rộng lớn, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Giữa lúc phong trào cách mạng
của quần chúng đang dâng cao, đế quốc Pháp và tay sai đã thẳng tay đàn áp,
khủng bố hòng dập tắt phong trào cách mạng Việt Nam và tiêu diệt Đảng
Cộng sản Đông Dương.
- Hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn quần chúng yêu nước bị
bắt, bị giết hoặc bị tù đầy. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương và
các địa phương lần lượt bị phá vỡ. Toàn bộ Ban Chấp hành Trung ương bị
bắt. Toà án của chính quyền thực dân Pháp mở các phiên toà đặc biệt để xét
xử những người cách mạng.
- Mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố tàn bạo, một số tổ chức đảng ở
Cao Bằng, Sơn Tây, Hà Nội, Hải phòng, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hoá,
Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi và nhiều nơi khác ở miền Nam vẫn
được duy trì và bám chắc quần chúng để hoạt động. Nhiều đảng viên vượt tù
đã tích cực tham gia khôi phục Đảng và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
- Các Xứ uỷ Bắc-Trung-Nam Kỳ bị thực dân Pháp phá vỡ nhiều lần,
đã lần lượt được lập lại trong năm 1931 và 1933. Nhiều tỉnh uỷ, huyện uỷ,
chi bộ lần lượt được phục hồi. Ở miền núi phía Bắc, một số tổ chức của
Đảng được thành lập.
- Đầu năm 1932, trước tình hình các Uỷ viên Ban Chấp hành Trung
ương Đảng và hầu hết Uỷ viên các Xứ uỷ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ bị
địch bắt và nhiều người đã hy sinh, theo Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng
18
chí Lê Hồng Phong cùng một số đồng chí chủ chốt ở trong và ngoài nước tổ
chức ra Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng. Tháng 6-1932, Ban lãnh đạo
Trung ương đã công bố Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông
Dương.
- Chương trình hành động của Đảng khẳng định: công nông Đông
Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản sẽ nổi lên võ trang bạo động
thực hiện những nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến và tiến lên thực
hiện chủ nghĩa xã hội. Để chuẩn bị cho cuộc võ trang bạo động sau này,
Đảng phải đề ra và lãnh đạo quần chúng đấu tranh giành những quyền lợi
thiết thực hàng ngày, rồi dần đưa quần chúng tiến lên đấu tranh cho những
yêu cầu chính trị cao hơn. Những yêu cầu chung trước mắt của đông đảo
quần chúng được nêu lên trong Chương trình hành động:
Thứ nhất, đòi các quyền tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, đi lại
trong nước và ra nước ngoài.
Thứ hai, bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả tự do
cho tù chính trị, bỏ ngay chính sách đàn áp, giải tán Hội đồng đề hình.
Thứ ba, bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các thứ thuế vô lý khác.
Thứ tư, bỏ các độc quyền về rượu, thuốc phiện và muối.
Ngoài ra Chương trình hành động của Đảng còn đề ra những yêu cầu
cụ thể riêng cho từng giai cấp và tầng lớp nhân dân.
Những yêu cầu chính trị trước mắt cùng với những biện pháp tổ chức
và đấu tranh do Đảng vạch ra trong Chương trình hành động năm 1932 phù
hợp với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ. Nhờ vậy, phong trào cách mạng của
quần chúng và hệ thống tổ chức của Đảng đã nhanh chóng được khôi phục.
- Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao
(Trung Quốc). Đại hội khẳng định thắng lợi của cuộc đấu tranh khôi phục
phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức Đảng. Đại hội đề ra ba nhiệm vụ
trước mắt là: củng cố và phát triển Đảng; đẩy mạnh cuộc vận động thu phục
quần chúng; mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ
Liên bang Xô viết, ủng hộ cách mạng Trung Quốc…
2. Trong những năm 1936-1939
a. Hoàn cảnh lịch sử (SV tự nghiên cứu tài liệu)
19
- Hậu quả trầm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm
1929-1933 và tình trạng tiêu điều tiếp theo trong các nước thuộc hệ thống tư
bản chủ nghĩa đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản thêm gay
gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao.
- Chủ nghĩa phátxít xuất hiện và thắng thế ở một số nơi đã và đang đe
doạ nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh quốc tế.
- Trước tình hình đó, Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản họp tại
Mátxcơva (tháng 7-1935) dưới sự chủ trì của G.Đimitơrốp. Đoàn đại biểu
Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu.
+ Đại hội xác định kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới
chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phátxít.
+ Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
thế giới lúc này chưa phải là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chủ
nghĩa xã hội, mà là chống chủ nghĩa phátxít, chống chiến tranh, bảo vệ dân
chủ và hòa bình.
+ Để thực hiện nhiệm vụ cấp bách đó, giai cấp công nhân các nước
trên thế giới phải thống nhất hàng ngũ của mình, lập mặt trận nhân dân rộng
rãi chống phátxít và chiến tranh phátxít.
Đại hội chỉ rõ đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, vấn đề lập
mặt trận thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt.
b. Chủ trương và nhận thức mới của Đảng
• Chủ trương đấu tranh dân sinh, dân chủ:
- Xuất phát từ đặc điểm tình hình Đông Dương và thế giới, vận dụng
Nghị quyết Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị 7/1936 của Đảng ta
xác định:
+ Yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân ta lúc này là tự do, dân
chủ, cải thiện đời sống. Đảng phải nắm lấy những yêu cầu đó để phát động
quần chúng đấu tranh, tạo tiền đề đưa cách mạng tiến lên bước cao hơn sau
này.
+ Kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương lúc này
là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
+ Nhiệm vụ trước mắt là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc,
chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa
20
bình; "lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi chính để bao gồm các giai
cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau,
các dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau tranh đấu để đòi những điều dân
chủ đơn sơ"
+ Phải chuyển hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang các hình thức
tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp,
nhằm làm cho Đảng mở rộng sự quan hệ với quần chúng, giáo dục, tổ chức
và lãnh đạo quần chúng đấu tranh bằng các hình thức và khẩu hiệu thích
hợp.
+ Phải nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ,
phản đế và điền địa trong cách mạng ở Đông Dương.
• Nhận thức mới của Đảng về nhiệm vụ dân tộc, dân chủ:
Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới công bố tháng
10-1936, Đảng nêu một quan điểm mới: "Cuộc dân tộc giải phóng không
nhất thiết phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói
rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn
giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ
không xác đáng". Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà
ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn
mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập
trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng. Đó là nhận
thức mới phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của
Đảng, bước đầu khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.
- Tiếp theo Hội nghị 7/1936, các Hội nghị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng họp trong năm 1937, 1938 và 1939 đã tiếp tục giải quyết mối
quan hệ giữa mục tiêu chiến lược với mục tiêu cụ thể trước mắt của cách
mạng, đã đặt ra nhiệm vụ chính trị cụ thể của cách mạng trong một hoàn
cảnh cụ thể, biết tập hợp rộng rãi những lực lượng chính trị dù là bé nhỏ, bấp
bênh, tạm thời, sử dụng các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt, phù
hợp với mục tiêu cụ thể nhằm động viên hàng triệu quần chúng lên trận
tuyến đấu tranh cách mạng, chuẩn bị tiến lên những trận chiến đấu cao hơn,
thực hiện mục tiêu chiến lược của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.
21
Có thể nói rằng, các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương trong
thời kỳ này đánh dấu bước trưởng thành của Đảng về chính trị và tư tưởng,
thể hiện bản lĩnh và tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của đảng, mở ra một
cao trào mới trong cả nước.
II. CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM 1939 ĐẾN NĂM 1945
1. Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
a. Tình hình thế giới và trong nước
- Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh và
Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ.
- Tháng 6-1940, Đức tấn công Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức.
- Ngày 22-6-1941, phát xít Đức xâm lược Liên Xô.
- Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên
truyền cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản
Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn
và tịch thu tài sản của các tổ chức đó, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản,
cấm hội họp và tụ tập đông người.
- Ở Việt Nam và Đông Dương lúc này, một số quyền tự do, dân chủ
của người dân đã bị thủ tiêu, thực dân Pháp đã ban bố lệnh tổng động viên,
ra sức vơ vét sức người, sức của để phục vụ cho cuộc chiến tranh đế quốc.
Hơn bảy vạn thanh niên bị bắt sang Pháp để làm “bia đỡ đạn”.
- Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22-9-1940, phát xít Nhật đã
tiến vào Lạng Sơn và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội,
Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật, đặt nhân dân ta dưới cảnh một cổ
hai tròng. Điều đó đã làm cho mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc,
phát xít Pháp-Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
b. Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
- Căn cứ vào tính chất cách mạng Đông Dương đã có sự thay đổi, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ sáu (11-1939), Hội
nghị lần thứ bảy (11-1940), và Hội nghị lần thứ tám (5-1941). Trên cơ sở
nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn cứ
vào tình hình cụ thể ở trong nước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:
22
+ Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Tạm gác lại
vấn đề “ruộng đất dân cày”
+ Hai là, tăng cường đoàn kết các lực lượng cho cuộc đấu tranh giải
phóng.
+ Ba là, thay đổi hình thức đấu tranh, quyết định xúc tiến chuẩn bị
khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta
trong giai đoạn hiện tại.
Bên cạnh đó, Ban Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng tới
công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của
Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ
công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần
chúng.
c. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
Đường lối gương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước
trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả
nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ
trang, là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong
sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho
nhân dân.
2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
a. Phát động Cao trào kháng Nhật, cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa
từng phần
Phát động Cao trào kháng Nhật, cứu nước
- Vào cuối 1944, đầu 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào
giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô quét sạch phát xít Đức ra khỏi lãnh
thổ của mình và tiến như vũ bão về Béclin. Phát xít Nhật lâm vào tình trạng
nguy khốn. Tại Đông Dương, mâu thuẫn Nhật-Pháp ngày càng diễn ra gay
gắt. Đêm ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương.
Quân Pháp đã nhanh chóng đầu hàng quân Nhật.
- Ngay đêm 9-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội
nghị mở rộng ở Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Ngày 12-3-1945, Ban
23
Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta”.
+ Chỉ thị nhận định: sự biến vào đêm 9-3-1945 đã tạo ra một cuộc
khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín
muồi. Tuy vậy, hiện đang có những cơ hội tốt làm cho những điều kiện tổng
khởi nghĩa nhanh chóng chin muồi.
+ Chỉ thị xác định: sau cuộc đảo chính, phát xít Nhật là kẻ thù chính,
kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương, vì vậy phải
thay khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật-Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi
phát xít nhật”.
+ Chỉ thị chủ trương: phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước
mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên
truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh lúc này phải thay đổi cho thích hợp với
thời kỳ tiền khởi nghĩa như tuyên truyền xung phong, biểu tình tuần hành,
bãi công chính trị, biểu tình phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói,
đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu quốc…
+ Chỉ thị nêu rõ phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến
tranh du kích, giải phóng từng phần, mở rộng căn cứ địa.
+ Chỉ thị dự kiến những điều kiện thuận lợi để thực hiện tổng khởi
nghĩa như khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật
kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ hở. Cũng có thể là
cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật
được thành lập, hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn
chinh Nhật mất tinh thần.
Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận (SV
tự nghiên cứu)
- Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn
ra rất sôi nổi, mạnh mẽ và phong phú cả về nội dung và hình thức.
+ Phong trào đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra
trong nhiều nơi ở vùng thượng du và trung du Bắc Kỳ. Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị
của quần chúng nhân dân giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các
tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.
24
+ Ở Bắc Giang, quần chúng nổi dậy thành lập Uỷ ban dân tộc giải
phóng ở nhiều làng. Đội du kích Bắc Giang được thành lập. Ở Quảng Ngãi,
cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Ba Tơ. Đội du kích Ba Tơ được thành lập.
- Giữa lúc Cao trào kháng Nhật cứu nước đang dâng lên mạnh mẽ,
ngày 15-4-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân
sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang). Hội nghị nhận định: tình
thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần
kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây
dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời
cơ. Hội nghị đã quyết định thống nhất các lực lượng vũ tranh sẵn có thành
Việt Nam giải phóng quân; quyết định xây dựng bảy chiến khu trong cả
nước và chủ trương phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang…
- Trong tháng 5, 6-1945, các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tục nổ ra
và nhiều chiến khu được thành lập ở cả ba miền. Ở khu giải phóng và một số
địa phương, chính quyền nhân dân đã hình thành, tồn tại song song với
chính quyền tay sai của phát xít Nhật.
- Ngày 4-6-1945, khu giải phóng chính thức được thành lập gồm hầu
hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà
Giang và một số vùng lân cận thuộc tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái,
Vĩnh Yên.
- Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước đang phát triển mạnh
mẽ ở cả nông thôn và thành thị, nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ do Nhật, Pháp đã vơ vét hàng triệu tấn lúa gạo
của nhân dân. Hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Xuất phát từ lợi
ích sống còn trước mắt của quần chúng, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu
“Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Chủ trương đó đã đáp ứng đúng
nguyện vọng cấp bách của nhân dân ta, vì vậy trong một thời gian ngắn,
Đảng đã động viên được hàng triệu quần chúng tiến lên trận tuyến cách
mạng.
b. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa (SV tự nghiên cứu)
- Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Ngày 2-
5-1945, Hồng quân Liên Xô chiếm Béclin, tiêu diệt phát xít Đức tận hang ổ
25