Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ: Chính sách lãi suất trong giai đoạn hiện nay của NHNN Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.29 KB, 34 trang )

Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NHNN VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH
LÃI SUẤT 2
1.NHNN Việt Nam 2
1.1. Sự ra đời và phát triển 2
1.2 Mô hình tổ chức 3
2. Tổng quan về lãi suất và chính sách lãi suất 5
2.1 Lãi suất 5
2.1.1 Khái niệm lãi suất 5
2.1.2 Các loại lãi suất cơ bản 5
2.1.5 Các lãi suất chính thức của NHTW 7
2.2 Chính sách lãi suất 7
2.2.1 Khái niệm 7
2.2.2 Nội dung của chính sách lãi suất 7
2.2.3 Một số nguyên tắc 8
2.2.4 Cơ chế điều hành và kiểm soát lãi suất TTTT của NHTW 8
CHƯƠNG II: CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI
ĐOẠN 2000-2010 9
1.Thực trạng nền kinh tế giai đoạn 2000-2010 9
1.1 Tăng trưởng kinh tế 9
1.2 Chuyển đổi cơ cấu kinh tế 10
1.4 Thu chi ngân sách 11
2.2 Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6/2002 đến tháng 05/2008) 13
2.2.2 Nội dung 14
2.3 Điều hành lãi suất theo điều 476 Bộ luật dân sự 2005 kể từ tháng
06/2008 14
2.3.1 Nguyên nhân hình thành cơ chế 14
2.4.2 Quan hệ giữa chính sách lãi suất với cung cầu vốn trên TTTT 17
2.4.3 Điều hành lãi suất để kiểm soát lạm phát 18


2.4.4 Điều hành lãi suất ổn định tỷ giá hối đoái 20
3. Hạn chế và kiến nghị 21
3.1 Mặt tích cực 21
3.2 Những hạn chế, tồn tại 22
3.4.Giải pháp điều hành chính sách lãi suất với mục tiêu tăng trưởng
kinh tế 26
3.4.1 Giải pháp trước mắt, điều hành chính sách tiền tệ thời kỳ khôi
phục kinh tế sau giai đoạn khủng hoảng 26
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
3.4.2 Nhóm giải pháp điều hành chính sách lãi suất ổn định và có tính
dài hạn 26
3.4.3 Nhóm giải pháp nhằm đảm bảo điều hành chính sách lãi suất
linh hoạt và kịp thời 27
3.4.4 Nhóm giải pháp thúc đẩy quan hệ vay vốn tín dụng ngân hàng và
kiểm soát sử dụng vốn vay hiệu quả của các doanh nghiệp 27
KẾT LUẬN 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TTTT Thị trường tiền tệ
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTW Ngân hàng trung ương
TCTD Tổ chức tín dụng
DTBB Dự trữ bắt buộc
NHTM Ngân hàng thương mại
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
NSNN Ngân sách nhà nước
TTCK Thị trường chứng khoán
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất được hiểu chung nhất là giá cả của tín dụng - giá cả của quan hệ vay
mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn. Ở tầm vĩ mô, lãi suất là công cụ điều
tiết cho vay kinh tế nhạy bén và hiệu quả: thông qua việc thay đổi và cơ cấu lãi suất
trong từng thời kì nhất định mà chính phủ có thể tác động đến quy mô và tỷ trọng
các loại vốn đầu tư, do vậy mà có thể tác động đến quá trình điều chỉnh cơ cấu; đến
tốc độ tăng trưởng, sản lượng, thất nghiệp và tình trạng lạm phát trong nước. Hơn
thế nữa, trong những điều kiện nhất định của nền kinh tế mở, chính sách lãi suất
còn được sử dụng như là một công cụ góp phần điều tiết đối với luồng vốn đi vào
hay đi ra, tác động đến tỷ giá và điều tiết sự ổn định của tỷ giá.
Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, toàn bộ hệ thống ngân
hàng tài chính đã có nhiều cải cách quan trọng, chính sách lãi suất đang được
sửa đổi để có thể theo đuổi chính sách tự do hóa tài chính. Trong quá trình này
việc nhận thức lại những vấn đề cơ bản về lãi suất cũng như việc học tập kinh
nghiệm quản lý và điều hành chính sách lãi suất của các nước phát triển là rất
cần thiết. Điều này không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng
và điều hành một chính sách lãi suất phù hợp với cơ chế quản lý hiện nay, mà
còn rất quan trọng đối với quá trình hình thành và hoạt động một cách có hiệu
quả của hệ thống thị trường tài chính ở Việt Nam.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của chính sách lãi suất trong nền kinh tế
và đặc biệt là thị trường tài chính Việt Nam em chọn đề tài: “Chính sách lãi
suất trong giai đoạn hiện nay của NHNN Việt Nam”.
Đề án gồm có hai chương: Chương một là Tổng quan về NHNN Việt
Nam và chính sách lãi suất. Chương này sẽ là lý thuyết chung về chính sách lãi
suất của NHNN cụ thể là sẽ tìm hiểu về hoạt động của NHNN với trọng tâm là
chính sách lãi suất, lý thuyết chung về lãi suất và chính sách lãi suất qua đó ta
có thể thấy tầm quan trọng của chính sách lãi suất tác động tới nền kinh tế.
Chương hai là Chính sách lãi suất của Việt Nam trong giai đoạn 2000-
2010.Trong giai đoạn này sẽ phân ra làm ba thời kì:


Thời kỳ từ tháng 8/2000
đến tháng 5/2002;

Thời kỳ từ tháng 6/2002 đến 6/2008; Thời kì từ tháng
7/2008 đến nay. Chính sách lãi suất của từng thời kỳ là khác nhau và cơ sở của
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
1
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
nó. Tương ứng với nó là tình hình kinh tế xã hội trong các thời kỳ, rút ra ưu
điểm và hạn chế của từng chính sách.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NHNN VIỆT NAM VÀ CHÍNH
SÁCH LÃI SUẤT
1.NHNN Việt Nam
1.1. Sự ra đời và phát triển
Ngày 6/5/1951- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh số 15/SL thành lập
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và đồng thời kí sắc lệnh 17/SL quy định: “Mọi
công việc của Nha khố và Nha tín dụng sản xuất được giao cho Ngân hàng
Quốc gia phụ trách”. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra đời là một bước ngoặt
lịch sử trong lĩnh vực tiền tệ- tín dụng ở nước ta.
Quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam có thể được chia
làm 4 thời kỳ như sau:
Thời kỳ 1951 - 1954: Ngân hàng quốc gia Việt thực hiện chức năng: Phát
hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc tài chính; Thực hiện quản lý Kho
bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân
sách;Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, tăng
cường lực lượng kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch.
Thời kỳ 1955 - 1975: Ngân hàng Quốc gia đã thực hiện những nhiệm vụ
cơ bản: Củng cố TTTT, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá, tạo
điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế. Phát triển công tác tín
dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi phục và phát triển

nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây
dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Miền Bắc và giải phóng Miền Nam.
Thời kỳ 1975 - 1985: Là giai đoạn 10 năm khôi phục kinh tế sau chiến
tranh giải phóng và thống nhất nước nhà, là thời kỳ xây dựng hệ thống ngân
hàng mới của chính quyền cách mạng; tiến hành thiết lập hệ thống ngân hàng
thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở miền
Nam.
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
2
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
Từ năm 1986 đến nay đã diễn ra nhiều sự kiện quan trọng, đánh dấu sự
chuyển biến căn bản của hệ thống Ngân hàng Việt Nam thể hiện qua một số
"cột mốc" có tính đột phá sau đây:
+ Từ năm 1986 đến năm 1990: Thực hiện tách dần chức năng quản lý
Nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động
ngân hàng sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
+ NHNN thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh
tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; Thực thi nhiệm vụ của
một NHTW - là ngân hàng duy nhất được phát hành tiền; Là ngân hàng của các
ngân hàng và là Ngân hàng của Nhà nước; NHTW là cơ quan tổ chức việc điều
hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu
chủ yếu và chi phối căn bản các chính sách điều hành cụ thể đối với hệ thống
các ngân hàng cấp 2.
+ Cấp Ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng,
thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do
các định chế tài chính Ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện.
+ Từ năm 1991 đến nay: Thực hiện chủ trương đường lối chính sách của
Đảng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hệ thống ngân hàng Việt
Nam không ngừng đổi mới và lớn mạnh, đảm bảo thực hiện được trọng trách
của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước trong thiên

niên kỷ mới.
1.2 Mô hình tổ chức
NHNN Việt Nam được tổ chức theo mô hình NHTW trực thuộc Chính
phủ. Điều1, Luật NHNN Việt Nam quy định: “NHNN Việt Nam là cơ quan
của Chính phủ và là NHTW của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Như vậy, NHNN Việt Nam là cơ quan ngang Bộ, Thống đốc NHNN Việt Nam
là thành viên của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Chính phủ, trước Quốc
Hội về lĩnh vực được giao.
Về cơ cấu tổ chức NHNN được tổ chức thành một hệ thống tập trung
thống nhất gồm bộ máy điêu hành và hoạt động nghiệp vụ tại trụ sở chính và
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
3
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
mạng lưới chi nhánh tại các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, các văn
phòng đại diện ở nước ngoài và các đơn vị trực thuộc. Điều hành NHNN được
đặt dưới quyền của Thống đốc. Giúp việc cho Thống Đốc có các Phó Thống
đốc trong đó có một Phó thống đốc thường trực. Tham mưu cho Ban thống đốc
là các vụ, cục chức năng.
1.3. Các nghiệp vụ cơ bản
Nghiệp vụ Điều hành chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ được coi là linh hồn toàn bộ hoạt động của NHTW.
Chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu ổn định giá trị tiền tệ, góp phần thực hiện các
mục tiêu của chính sách kinh tế; chính sách tiền tệ là một bộ phận của tổng thể
các chính sách kinh tế của nhà nước để thực hiện vai trò quản lý vĩ mô đối với
nền kinh tế. Các công cụ của chính sách tiền tệ là: công cụ tái cấp vốn, tỷ lệ
DTBB, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tín dụng,hạn mức tín dụng,tỷ giá hối
đoái. Chính sách lãi suất chính đang nghiên cứu là một công cụ quan trọng của
chính sách tiền tệ.
Nghiệp vụ Phát hành tiền và điều hòa tiền
NHNN Việt Nam là cơ quan duy nhất phát hành đồng tiền của Việt Nam

và là tổ chức điều hòa tiền mặt trong toàn bộ hệ thống ngân hàng nhằm mục
đích cung cấp phương tiện thanh toán cho nền kinh tế.
Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ
quốc gia. Tùy từng mức độ phát triển của nền kinh tế và trình đọ công nghệ
của hệ thống ngân hàng…mà vị trí Nghiệp vụ thị trường mở trong hệ thống các
công cụ điều tiết lượng tiền cung ứng được xác định.
Nghiệp vụ tín dụng
NHNN chỉ cho vay đối với các TCTD nhằm điều tiết vốn khả dụng và
đảm bảo khả năng thanh toán của các TCTD. NHNN còn là ngân hàng của
Chính phủ thế nên trong các trường hợp cần thiết, NHNN phải cho Chính phủ
vay. Trong quan hệ vay mượn nước ngoài, NHNN còn đứng ra bảo lãnh, tái
bảo lãnh cho các TCTD, doanh nghiệp.
Nghiệp vụ thanh toán
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
4
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
NHNN là ngân hàng của Chính phủ, là ngân hàng của các ngân hàng.Vì
vậy một trong những hoạt động quan trọng của NHNN là thực hiện chức năng
thanh toán cho các giao dịch tiền tệ của Chính phủ và toàn bộ hệ thống ngân
hàng.
Nghiệp vụ quản lý ngoại hối
Đối với một quốc gia thì ngoại hối có vai trò vô cùng quan trọng: là
phương tiện thanh toán mậu dịch quốc tế, trả nợ cho các quốc gia khác. Điều
này càng có ý nghĩa hơn trong giai đoạn hội nhập hiện nay. Mặt khác, dự trữ
ngoại hối còn là cơ sở để nhà nước can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm
điều tiết thị trường, giá cả, NHNN là cơ quan thay mặt Nhà nước thực hiện
chức năng thực hiện các chức năng đó.
Nghiệp vụ thanh tra ngân hàng
Để đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng, NHTW phải sử dụng nhiều

công cụ để kiểm tra, kiểm soát, phân tích đánh giá, để tìm ra những điểm bất
hợp lý hay sai phạm, kịp thời đưa ra các giải pháp khắc phục.
Nghiệp vụ kiểm soát, kiểm toán nội bộ
Đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng, vấn đề an toàn cho hệ thống
là đặc biệt quan trọng. Vì vậy, NHNN cần phải biết dự đoán, đo lường các rủi
ro có thể xảy ra và có các giải pháp để chế ngự sự xuất hiện hay tác động của
chúng.
2. Tổng quan về lãi suất và chính sách lãi suất
2.1 Lãi suất
2.1.1 Khái niệm lãi suất
Lãi suất là giá cả của tín dụng- giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho
thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các dạng tài sản khác
nhau. Khi đến hạn người đi vay phải trả cho người cho vay một khoản tiền dôi
ra ngoài số tiền vốn gọi là tiền tài lãi, tỉ lệ phần trăm của tiền lãi trên vốn được
gọi là lãi suất.
2.1.2 Các loại lãi suất cơ bản
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
5
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
Lãi suất đơn: đối với những khoản tín dụng được thực hiện dưới hình
thức vay đơn, người vay tiền sẽ trả cho người vay vào ngày đến hạn cả vốn và
khoản phụ thêm chính là lãi.
Lãi suất tích họp: l khoản tiền vay sẽ có các chu kỳ, từ chu kỳ thứ hai trở
đi, lãi được tính trên cả lãi và gốc của chu kỳ trước.
Lãi suất hoàn vốn: Đây là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền
thanh toán nhận được từ một khoản tín dụng với giá trị hôm nay của khoản tín
dụng đó. Nó có hai hình thức là lãi suất hoàn vốn hiện hành và lãi suất hoàn vốn
trên cơ sở tính giảm.
2.1.3 Vai trò của lãi suất
Lãi suất là đòn bẩy kích thích sự tăng trưởng kinh tế, góp phần thực hiện

mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Chính sách lãi suất, nếu tạo ra được
mức lãi suất cho vay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân sẽ có tác động thúc
đẩy các doanh nghiệp tăng nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị,
trang bị công nghệ sản xuất hiện đại… Hiệu quả cuối cùng sẽ tạo ra một nguồn
vốn của cải cho xã hội, tổng thu nhập quốc dân sẽ tăng lên rất nhiều.
Lãi suất là công cụ thúc đẩy sức cạnh tranh giữa các NHTM, lãi suất là
giá cả của vốn, để thu hút được nhiều vốn, các NHTM sẽ phải tăng lãi suất huy
động, đồng thời giảm chi phí cho vay để cạnh tranh. Điều này dẫn tới các ngân
hàng sẽ phải quản lý các doanh nghiệp vay vốn chặt chẽ hơn, chọn những dự án
tốt hơn để cho vay, cắt giảm chi phí quản lý, sử dụng nhân lực có hiệu quả hơn,
tăng hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.
Lãi suất còn là công cụ kiềm chế lạm phát hữu hiệu thông qua chính sách
tiền tệ của NHTW. Trong trường hợp nền kinh tế có mức lạm phát đáng lo ngại,
NHTW sẽ sử dụng cách chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất để thu hút tiền
nhàn rỗi trong lưu thông về, nhằm điều hòa lượng tiền trong lưu thông, cân đối
với khối lượng hàng hóa.
Hơn thế nữa, lãi suất còn làm ảnh hưởng tới luồng ngoại tệ đi vào hay ra
của một đất nước, tác động đến tỉ giá và sự ổn định của tỉ giá, điều này có ảnh
hưởng lớn đến cán cân thanh toán và các quan hệ thương mại quốc tế.
2.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất
Ảnh hưởng của cung cầu của quỹ cho vay: bất kỳ sự thay đổi nào của cung
hay cầu của quỹ cho vay sẽ làm thay đổi mức lãi suất trên thị trường. Từ đó cho
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
6
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
thấy chúng ta có thể tác động vào cung cầu trên thị trường vốn để thay đổi lãi suất
trong nền kinh tế cho phù hợp mục tiêu chiến lược trong từng thời kỳ.
Ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng: Khi mức lạm phát kỳ vọng tăng thì lãi
suất sẽ có xu hướng tăng và ngược lại. Điều này có thể được giải thích bằng cả
hai hướng tiếp cận. Thứ nhất, xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi

suất danh nghĩa cho thấy, để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng
đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải tăng tương ứng. Thứ hai, công chúng dự đoán
lạm phát tăng sẽ dành phần tiết kiệm của mình vào dự trữ hàng hóa hoặc những
tài sản phi tài chính. Do đó làm giảm cung quỹ cho vay dẫn đến lãi suất tăng.
Ảnh hưởng của bội chi ngân sách. Bội chi làm cầu của quỹ cho vay
tăng,ảnh hưởng tâm lý công chúng về gia tăng mức lạm phát, tăng phát hành trái
phiếu. Do đó bội chi làm lãi suất tăng.
Những thay đổi về thuế. Thuế thu nhập tăng có nghĩa là điều tiết đi một
phần thu nhập của cá nhân hay tổ chức. Để duy trì một mức lợi nhuận thực tế
nhất định họ phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những thay đổi của thuế
Những thay đổi trong đời sống xã hội ví dụ như sự phát triển của hệ thống
tài chính, công cụ tài chính, hiệu suất sử dụng vốn, tình hình kinh tế, chính trị,…
đều có tác động đến lãi suất.
2.1.5 Các lãi suất chính thức của NHTW
Một số lãi suất chính thức của NHTW như là lãi suất tái cấp vốn, lãi suất
chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất tiền gửi của NHTM, lãi suất sàn
tiền gửi, lãi suất trần cho vay, lãi suất cơ bản, lãi suất repo …
2.2 Chính sách lãi suất
2.2.1 Khái niệm
Chính sách lãi suất là một bộ phận của chính sách tiền tệ của Chính phủ,
là cách thức quản lý và điều tiết lãi suất thị trường nhằm kiểm soát lượng tiền
cung ứng, kiểm soát lạm phát để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn
định giá cả, nhiều việc làm và tỷ giá hối đoái ổn định.
2.2.2 Nội dung của chính sách lãi suất
Chính sách lãi suất là bộ phận của chính sách tiền tệ, việc hoạch định và
thực thi chính sách lãi suất phải thống nhất với mục tiêu và nội dung của chính
sách tiền tệ theo hướng “thắt chặt hay nới lỏng” tiền tệ. Theo đó nội dung là:
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
7
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ

- Mục tiêu hoạt động là kiểm soát về mức và chiều hướng biến động của
lãi suất TTTT thứ cấp và sơ cấp, góp phần kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh
tế và ổn định sức mua đồng nội tệ.
- Các quan điểm, nguyên tắc và định hướng điều hành: Căn cứ vào mục
tiêu, vai trò và hiệu lực tác động của chính sách lãi suất đối với điều tiết lãi suất
và khối lượng tiền, NHTW xác định chiều hướng biến động và phương pháp
điều hành lãi suất tăng hay giảm và biên độ điều chỉnh rộng hay hẹp. Việc điều
hành công cụ lãi suất phải phù hợp linh hoạt đồng bộ với các công cụ khác của
chính sách tiền tệ như nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn, DTBB.
- Các giải pháp hỗ trợ đồng bộ, tạo điều kiện cho việc vận hành cơ chế
kiểm soát lãi suất TTTT như phát triển quy mô và nâng cao chất lượng thi
trường tiền tệ, xác định các mức lãi suất chuẩn trên TTTT, nâng cao khả năng
dự báo và điều tiết của NHTW.
2.2.3 Một số nguyên tắc
- Lãi suất thực về nguyên tắc phải gần bằng tỷ suất lợi nhuận bình quân.
- Lãi suất danh nghĩa phải bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát dự kiến.
- Lãi suất huy động vốn danh nghĩa phải cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến
(dương) để khuyến khích tiết kiệm, tránh tích lũy vàng, ngoại tệ
- Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn bằng lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn.
- Lãi suất cho vay bình quân phải cao hơn lãi suất huy động bình quân.
- Lãi suất ngắn hạn phải thấp hơn lãi suất dài hạn.
- Lãi suất nội tệ phải tương đương lãi suất ngoại tệ (sau khi điều chỉnh
theo tỷ lệ lạm phát mỗi đồng tiền).
- Lãi suất phải bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
2.2.4 Cơ chế điều hành và kiểm soát lãi suất TTTT của NHTW
Các cơ chế điều hành và kiểm soát lãi suất TTTT
NHTW áp dụng hai cơ chế chủ yếu: Cơ chế điều hành và kiểm soát lãi
suất trực tiếp mà theo đó, NHTW quy định các mức lãi suất cụ thể cho hoạt
động kinh doanh của NHTM; cơ chế điều hành và kiểm soát lãi suất gián tiếp là
việc NHTW sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp để kiểm soát lãi

suất thị trường biến động phù hợp với lãi suất mục tiêu.
Các mô hình điều hành và kiểm soát lãi suất TTTT
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
8
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
Mô hình hành lang hay khung lãi suất mà theo đó, NHTW thiết lập và
kiểm soát lãi suất thị trường liên ngân hàng trong hành lang mà lãi suất cho vay
qua đêm là “trần”, lãi suất chiết khấu hoặc lãi suất tiền gửi của NHTM là “sàn”.
Mô hình giới hạn trên chỉ sử dụng “trần” là lãi suất cho vay qua đêm của thị
trường liên ngân hàng. Mô hình giới hạn dưới, sử dụng “sàn” là lãi suất tiền gửi
của NHTM hoặc lãi suất chiết khấu.
Cơ sở để xây dựng cơ chế:
+ Cấu trúc và mức độ phát triển của TTTT.
+ Năng lực và tính minh bạch về tài chính của NHTW.
+ Năng lực hoạt động của NHTW.
CHƯƠNG II: CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN 2000-2010
1.Thực trạng nền kinh tế giai đoạn 2000-2010
1.1 Tăng trưởng kinh tế
Trong 6 năm 2000-2005, trong bối cảnh hết sức khó khăn nhưng nền
kinh tế nước ta vẫn duy trì được mức tăng trưởng cao và tương đối bền vững.
Tốc độ GDP bình quân 6 năm tăng 7,4%.
Năm 2006,2007 nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao. Tăng trưởng kinh tế năm 2008 đạt 6,23%, không đạt được mục
tiêu đề ra (7%) và thấp nhất so với tốc độ tăng trưởng của tám năm trước đó
nhưng đây được coi là kết quả đáng ghi nhận vì Việt Nam không bị cuốn hút
vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Tốc độ tăng trưởng kinh
tế 2009 là 5,32%, cao hơn kế hoạch đề ra là 5%.
Cùng với sự tăng trưởng, thu nhập bình quân đầu người của người dân

cũng ngày một được cải thiện theo hướng thoát dần ra khỏi ngưỡng nghèo của
thế giới. GDP bình quân đầu người tăng từ 402 USD năm 2000 lên 835 USD
năm 2007. Năm 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao nhưng tốc độ tăng
tỷ giá VND/USD thấp và tốc độ tăng dân số chậm lại nên GDP bình quân đầu
người tính bằng USD đã cao hơn nhiều so với các năm trước, đạt 1024 USD.
Như vậy, Việt Nam đã về trước hai năm so với mục tiêu đến năm 2010.
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
9
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
1.2 Chuyển đổi cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế luôn là mục tiêu hàng đầu và quan trọng. Xu
hướng chuyển dịch là tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp-xây dựng và dịch
vụ, giảm tỷ trọng các ngành nông-lâm-ngư nghiệp. Trong những năm gần đây,
cơ cấu chuyển dịch chậm. Năm 2009, cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo
giá thực tế của 3 khu vực:
Nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp và xây
dựng; dịch vụ lần lượt là 20,66%; 40,24%; 39,10%; không khác nhiều so với năm
2008 và những năm gần đây. Cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu sản phẩm còn
bất hợp lý, chưa phát huy đầy đủ khả năng thế mạnh của mỗi địa phương, mỗi
vùng và cả nước.
Song song với sự chuyển dịch về cơ cấu giữa các ngành còn có sự
chuyển dịch đáng kể về thành phần kinh tế. Số lượng DNNN giảm từ hơn
12.000 năm 1992 xuống còn 1471 vào tháng 12/2009. Việc tổ chức lại khu vực
DNNN hình thành nên các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế lớn, đã hướng các
doanh nghiệp tập trung đầu tư vào những lĩnh vực then chốt. Từ năm 2003-
2007, DNNN đạt mức tăng trưởng từ 13%-16%, đóng góp khoảng 36%-39%
GDP. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp vai trò
quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa -
hiện đại hóa, nâng cao trình độ sản xuất. Với việc duy trì nhịp độ tăng trưởng
cao, giai đoạn 2003- 2007 tỷ trọng đóng góp của khu vực này trong GDP là

14%-18%.
1.3 Xuất khẩu - nhập khẩu
Giai đoạn 2001-2005, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt lên mức 111 tỷ
USD, tăng trưởng bình quân là 17,5% (kế hoạch là 16%). Năm 2006, tổng kim
ngạch xuất khẩu lên tới 39,8 tỷ USD và đã có 9 mặt hàng có kim ngạch xuất
khẩu đạt trên 1 tỷ USD. Năm 2007, năm đầu tiên Việt Nam là thành viên chính
thức của WTO, kinh tế Việt Nam hội nhập một bước sâu hơn vào nền kinh tế
thế giới, kim ngạch xuất khẩu đạt 48,4 tỷ USD, tốc độ tăng là 21,9% so năm
2006. Năm 2008, mặc dù bị tác động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính
và suy thoái toàn cầu nhưng lĩnh vực xuất khẩu đạt được những thành tựu rất
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
10
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
cao, xuất khẩu năm 2008 đạt 62,9 tỷ USD, lớn gấp 1,9 lần năm 2005. Tuy
nhiên năm 2009 chỉ đạt
56,6 tỷ USD,giảm 9,7% so với năm 2008
Giai đoạn 2001-2005, tổng kim ngạch nhập khẩu nước ta đạt 130 tỷ
USD. Năm 2006, kim ngạch nhập khẩu lên tới 44,9 tỷ USD, năm 2007 là 62,9
tỷ USD và năm 2008 đạt 80,4 tỷ USD,tuy nhiên
năm 2009 chỉ đạt 68,8 tỷ USD
.
Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng nhập khẩu
máy móc, thiết bị và phụ tùng, giảm tỷ trọng nhập khẩu nguyên vật liệu và
hàng tiêu dùng.
Nhập siêu hàng hóa được kiềm chế và nằm trong tầm kiểm soát. Mặc dù
thời kỳ 2001-2005, nhập siêu cao nhất, lên tới 19,1 tỷ USD, bằng 17,2% tổng
kim ngạch xuất khẩu, tuy nhiên việc nhập siêu với cơ cấu hàng nhập khẩu đã
được thay đổi, chủ yếu là máy móc thiết bị, nguyên vật liệu đi theo các công
trình dự án đầu tư FDI là điều cần thiết trong thời kỳ công nghiệp hóa ở nước
ta. Đến năm 2006, tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu 12,7%, tăng lên đến 29,1%

năm 2007 và 27,8% năm 2008.Tuy nhiên năm 2009 giảm còn 21,6%.
1.4 Thu chi ngân sách
Với mục tiêu cân đối ngân sách một cách tích cực, giữ bội chi ở mức
hợp lý, tăng dần dự trữ, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và phù hợp với lộ trình
hội nhập quốc tế, dự kiến tổng thu ngân sách trong 5 năm 2006-2010 đạt
khoảng 1.437 nghìn tỷ đồng, bằng 193% tổng thu ngân sách 5 năm 2001-2005
và bằng khoảng 23%/GDP. Tốc độ tăng thu ngân sách bình quân hàng năm đạt
12,9%. Riêng năm 2008, theo báo cáo của Bộ Tài chính, tổng thu NSNN ước
tính tăng 26,3% so với năm 2007 và bằng 123,8% dự toán năm. Cơ cấu thu
chuyển dịch theo hướng tỷ trọng các nguồn thu nội địa tăng lên, tỷ trọng thu từ
dầu thô sẽ giảm xuống.
Đối với chi NSNN, qui mô chi vẫn còn đạt ở mức cao, bình quân trên
28%/GDP trong giai đoạn 2003-2006. Năm 2007 tổng chi NSNN đạt
34,91%/GDP. Tổng chi NSNN năm 2008 ước tính tăng 22,3% so với năm
2007 và bằng 118,9% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng
118,3%, bội chi NSNN năm 2008 ước tính bằng 13,7%. Giai đoạn 2006-2010,
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
11
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
cơ cấu chi NSNN dự kiến sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng chi trả nợ,
viện trợ, đảm bảo tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển chiếm khoảng 28-
29%/GDP tổng chi NSNN.
2.Chính sách của NHNN
2.1 Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (8/2000-5/2002)
2.1.1. Nguyên nhân hình thành cơ chế
Trước tháng 8/2000 NHNN sử dụng
cơ chế điều hành lãi suất trần (1996-
7/2000). Tuy nhiên, cơ chế này có nhiều hạn chế:
- Lãi suất thị trường vẫn bị khống chế bằng biện pháp hành chính của nhà
nước, không phản ánh đúng cung- cầu vốn thị trường, làm hạn chế cạnh tranh

trên TTTT; việc huy động vốn và phân bổ các nguồn tín dụng theo lĩnh vực kinh
tế và địa bàn lãnh thổ gặp khó khăn; hạn chế sự phát triển các công cụ tài chính.
- Trần lãi suất cho vay được điều chỉnh giảm biên độ lớn hơn so với mức
giảm c ủa lãi suất tiền gửi, làm cho chênh lệch lãi suất của TCTD bị giảm thấp,
gây khó khăn cho TCTD.
- Tác động của lãi suất chính do NHNN công bố đối với lãi suất thị trường
rất hạn chế do TCTD dư thừa vốn khả dụng, cơ chế tái cấp vốn còn nhiều vướng
mắc.
Đây là giai đoạn kinh tế gặp nhiều khó khăn, lạm phát thấp. Để thực hiện
chủ trương kích cầu của chính phủ, NHNN cần nới lỏng tiền tệ bằng cơ chế lãi
suất linh hoạt hơn bên cạnh các công cụ tài chính khác.
2.1.2 Nội dung
Từ tháng 8/2000, NHNN đưa ra một cơ chế lãi suất mới, trong đó lãi
suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản của
NHNN. Tuy nhiên, các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá
lãi suất cơ bản +0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và + 0,5%/tháng đối với vốn
trung, dài hạn.
Cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với lãi suất cơ bản về bản chất không
khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế mức trần
được định ở mức cao hơn trần lãi suất theo cơ chế cũ. Đồ thị bên dưới cho thấy
lãi suất cho vay của ngân hàng luôn thấp hơn giới hạn biên độ cho phép.
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
12
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
Hình 1.1: Trần lãi suất, lãi suất cơ bản, tự do hóa lãi suất 1998-2002
Nguồn: Tính toán từ cơ sở dữ liệu tài chính quốc tế IFS của IMF.
Nhìn chung, về cơ chế điều hành lãi suất bằng lãi suất cơ bản của NHNN
có nhiều ý kiến nhấn mạnh tính tích cực của cơ chế lãi suất cơ bản. Trong
phạm vi biên độ cho phép, các ngân hàng giờ đây có thể định mức lãi suất khác
nhau tùy theo mức độ rủi ro, chứ không còn áp dụng một mức chung cho tất cả

các khách hàng như trước đây. Như vậy, cạnh tranh trong hệ thống các TCTD
sẽ gia tăng và hiệu quả phân bổ vốn cũng sẽ được cải thiện. Hơn thế nữa, lãi
suất cho vay thực tế của ngân hàng mặc dù không đụng giới hạn biên độ nhưng
có xu hướng thay đổi cùng với lãi suất cơ bản.
2.2 Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6/2002 đến tháng 05/2008)
2.2.1 Nguyên nhân hình thành cơ chế
Chính sách lãi suất áp dụng trong giai đoạn trước 6/2002 có những hạn
chế như:
- Cơ chế lãi suất cơ bản vẫn còn sự can thiệp hành chính của nhà nước
đối với lãi suất thị trường và điều hành chưa linh hoạt.
- Việc điều chỉnh các mức lãi suất chính thức của NHNN có tác động
hạn chế và có độ trễ khá lớn với lãi suất thị trường.
Năm 2002 và những năm tiếp theo, nền kinh tế được dự báo là tiếp tục
ổn định và phát triển, NHNN có khả năng điều tiết và kiểm soát lãi suất thị
trường bằng công cụ gián tiếp, hệ thống NHTM đang tiến hành cơ cấu lại; lãi
suất cho vay bằng ngoại tệ đã được tự do hóa từ tháng 6/2001. Do đó cần có sự
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
13
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
cởi trói cho các TCTD trong hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện cho các
TCTD chủ động trong hoạt động huy động vốn và cho vay đối với khách hàng.
Cần tạo ra sự sôi động trong hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của các
TCTD. Theo đó, NHNN đã thực hiện chính sách lãi suất thích hợp nhằm góp
phần kiểm soát lạm phát và thúc đẩy kinh tế ở mức cao, bền vững.
2.2.2 Nội dung
Từ ngày 1/6/2002 NHNN quyết định chuyển sang cơ chế lãi suất thoả
thuận đồng Việt Nam của các TCTD đối với khách hàng. Nếu như với cơ chế
lãi suất cơ bản, trong các tháng đầu năm của năm 2002, lãi suất huy động vốn
dừng lại ở mức 0,6%/tháng, lãi suất cho vay bình quân là 0,7%/tháng, thì từ
khi áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận từ tháng 6/2002 và nhất là trong các

tháng 8/2002 và 9/2002 lãi suất huy động vốn cao nhất của các NHTM lên tới
0,7%/tháng, thậm chí 0,72%/tháng.
Trong thực tế, mặc dù NHNN công bố lãi suất cơ bản nhưng nó ít tác
động đến lãi suất thị trường bởi vì nhu cầu vay vốn là rất lớn, khách hàng chấp
nhận vay vốn với lãi suất cao, các TCTD đua nhau tăng lãi suất huy động vốn
để cho vay, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng tham gia cạnh tranh tích
cực trên thị trường vốn, lãi suất trái phiếu kho bạc được đẩy lên cao, lãi suất
trái phiếu địa phương tăng vọt…điều đó làm cho TTTT nóng lên NHNN khó
kiểm soát được lãi suất thị trường.
2.3 Điều hành lãi suất theo điều 476 Bộ luật dân sự 2005 kể từ tháng
06/2008
2.3.1 Nguyên nhân hình thành cơ chế
Sau nhiều năm liên tục đạt mức tăng trưởng kinh tế cao từ 7%-8%, năm
2007 đạt 8,48%, nhưng chỉ số giá tiêu dùng đã tăng lên 2 chữ số 12,63%, do
nới lỏng chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và đầu tư công kém hiệu quả.
Bội chi NSNN từ năm 2001-2007 bình quân là 4,95%/GDP. Bước sang năm
2008, nền kinh tế Việt Nam không những phải đối mặt với những diễn biến
khó lường của nền kinh tế thế giới, mà còn phải đối mặt với nhiều khó khăn
nội tại như lạm phát tăng mạnh, thâm hụt cán cân thương mại đạt mức kỷ lục
(hơn 14% GDP), TTCK liên tục sụt giảm. Trước bối cảnh trên, chính phủ đã
điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng cao sang mục tiêu kiềm chế lạm phát là ưu
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
14
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
tiên hàng đầu và tăng trưởng duy trì ở mức độ hợp lý. Thực hiện chỉ đạo của
chính phủ, NHNN đã chủ động triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm kiềm
chế có hiệu quả lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
2.3.2 Nội dung
Từ việc cạnh tranh huy động vốn không lành mạnh giữa các TCTD,
NHNN đã qui định trần lãi suất huy động VND ở mức 12%/năm kể từ ngày

26/2/2008 đến 18/5/2008. Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số
16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng
Đồng Việt Nam.
Nội dung Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN:
Thứ nhất, các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động vốn,
lãi suất cho vay) bằng Đồng Việt Nam đối với khách hàng theo nguyên tắc lãi
suất kinh doanh không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố
áp dụng trong từng thời kỳ. Định kỳ hàng tháng, NHNN công bố lãi suất cơ
bản.
Thứ hai, quyết định này có hiệu lực thi hành từ ngày 19 tháng 5 năm
2008. Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc
thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng
đồng Việt Nam của TCTD đối với khách hàng hết hiệu lực thi hành. Theo đó,
việc huy động vốn bằng VND của các TCTD phù hợp với quy định về cơ chế
điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động 12%/năm theo công điện
số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 hết hiệu lực thi hành.
Trước những tín hiệu khả quan về kinh tế vĩ mô và kết quả kiềm chế
lạm phát của nước ta từ tháng 7/2008, NHNN đã từng bước nới lỏng CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ bằng các giải pháp linh hoạt. Cụ thể điều chỉnh giảm dần các
mức lãi suất chỉ đạo như lãi suất cơ bản giảm từ 14% xuống 13% và
8,5%/năm; lãi suất tái cấp vốn giảm từ 15% xuống 14%; lãi suất tái chiết khấu
giảm từ 13% xuống 12%; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử
liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ giảm từ
15% xuống còn 14%/năm; và tiếp tục giảm các mức lãi suất trên trong tháng
12/2008 ở mức hợp lý. Tăng lãi suất tiền gửi DTBB bằng đồng Việt Nam đối
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
15
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
với các TCTD từ 5% lên 10%/năm; giảm 1% tỷ lệ DTBB tiền nội tệ và 2%
DTBB tiền gửi ngoại tệ áp dụng cho các TCTD. Đến tháng 11/2008 giảm lãi

suất tiền gửi DTBB xuống 7% và hạ tỷ lệ DTBB xuống còn mức 5% đối với
VND.
Lãi suất cơ bản từ tháng 2/2009 ổn định ở mức 7%/năm.
2.4 Ảnh hưởng của chính sách tới các yếu tố vĩ mô
2.4.1 Tác động của lãi suất đến đầu tư và tăng trưởng
Trong tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế, yếu tố số lượng vốn đã đóng góp
tới 57,5%, yếu tố số lượng lao động đóng góp 20%, còn yếu tố năng suất các
nhân tố tổng hợp đóng góp 22,5%. Như vậy, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
chủ yếu vẫn là số lượng, theo chiều rộng và chủ yếu là do vốn đầu tư. Có thể
nói vốn đầu tư là yếu tố vật chất quyết định đến sự tăng trưởng của Việt Nam
thời gian qua. Do đó, để tăng trưởng kinh tế phải gia tăng số lượng vốn đầu tư.
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
16
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
Hình 2.3: Mối liên hệ lãi suất thực dài hạn và tốc độ tăng đầu tư 1999-2008
Qua đồ thị, có thể thấy lãi suất đã tác động đến đầu tư và tăng trưởng
trong nền kinh tế giai đoạn 1999-2008.
Mặc dù lãi suất giảm thấp nhưng sự tác động của nó đến đầu tư và tăng
trưởng không nhiều, thậm chí suy giảm do nền kinh tế lạm phát cao và suy
thoái, sức cầu giảm mạnh từ đó ảnh hưởng đến giảm mức cung của các doanh
nghiệp, từ đó giảm đầu tư và ảnh hưởng đến mức độ tăng trưởng. Do đó, để
chính sách lãi suất tác động đến đầu tư và tăng trưởng thì phải gắn với nền
kinh tế trong tình trạng ổn định, kích thích tiêu dùng, tạo ra nhu cầu đầu tư
phát triển sản xuất cho các doanh nghiệp.
2.4.2 Quan hệ giữa chính sách lãi suất với cung cầu vốn trên TTTT
Lãi suất được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn tín dụng. Tuy
nhiên, diễn biến lãi suất trong 6 năm qua, rõ nét nhất là biến động lãi suất 6
tháng đầu năm 2003, đó có thể coi là điểm nóng của TTTT năm 2003. Trong 6
tháng này sự biến lãi suất có phần không phù hợp với những thay đổi của yếu
tố thị trường, như lạm phát kỳ vọng trong thời gian này khoảng 5%, không

tăng so với mức lạm phát năm 2002, cung về vốn lớn hơn cầu. Song từ tháng
1/2003-6/2003 lãi suất huy động tăng liên tục, chủ yếu là các kỳ hạn từ 6 tháng
và 12 tháng, mức tăng khoảng 0,24- 0,6%/năm, trong khi đó lãi suất cho vay
nhìn chung ổn định, từ tháng 7/2003 lãi suất giảm 0,6-1%/năm. Và 6 tháng đầu
năm 2006 cũng như vậy, các yếu tố làm giảm nhiều hơn các yếu tố tác động
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
17
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
tăng lãi suất, như kỳ vọng lạm phát 7,5-8% thấp hơn năm 2005, mức độ tăng
trưởng kinh tế thấp hơn. Mặc dù xu hướng lãi suất trên thị trường quốc tế vẫn
tăng, cung về vốn VND ngắn hạn tăng hơn cầu, nhưng lãi suất vẫn có xu
hướng tăng.
2.4.3 Điều hành lãi suất để kiểm soát lạm phát
Trong giai đoạn 2001-2007, chính sách lãi suất đã từng bước được điều
chỉnh. Tuy nhiên, năm 2001, lãi suất thực dương quá cao nên đã đưa đến lạm
phát thấp, lãi suất thực dương lớn gấp 5,75 lần tỷ lệ lạm phát. Năm 2002 lãi
suất thực dương có giảm xuống, chỉ lớn bằng 0,5 lần tỷ lệ lạm phát nên lạm
phát đã nhích lên ở mức hợp lý là 4,0%. Năm 2007, lãi suất thực dương là âm
nên tỷ lệ lạm phát tăng cao.
Năm 2007, lạm phát ở Việt Nam lại tăng cao lên 12,63%, đó là hậu quả
của CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ nới lỏng và tăng trưởng nóng trong hai năm
2006-2007. Đến hết tháng 06/2008, lạm phát đã là 18,44% so với 31/12/2007
và 24,8% so với cùng kỳ năm trước. Xuất phát từ bối cảnh trên, các quyết sách
lớn từ phía Chính phủ và NHNN đã được triển khai. Ban đầu sử dụng công cụ
DTBB theo quyết định số 187/QĐ-NHNN ngày 16/1/2008 và phát hành tín
phiếu bắt buộc theo quyết định số 346/QĐ-NHNN ngày 13/2/2008 để rút bớt
tiền từ lưu thông về, việc này đã có hiệu quả rõ rệt, bước đầu đã làm giảm bớt
một phần lượng tiền từ các NHTM, giảm đáng kể hệ số nhân tiền, nhưng lại
nẩy sinh tình trạng khó khăn thanh khoản cho các NHTM. Từ đó, làn sóng tăng
lãi suất trong huy động dấy lên, từ tháng 2/2008 lãi suất huy động trên thị

trường đã biến động mạnh do các NHTM liên tục tăng lãi suất huy động VND
lên mức 13-14%/năm và đã đẩy lãi suất cho vay lên đến mức trên 20%/năm.
Cũng trong thời gian này, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng bắt đầu
nóng lên, đến giữa tháng 2/2008 đã lên đến 30%, có ngân hàng đặt thầu lên đến
40%/năm .Trong khi đó lãi suất cơ bản của NHNN chỉ mức 8,75%/năm và lãi
suất tái chiết khấu cấp vốn với mức 7,5%/năm, lãi suất chiết khấu với mức
6%/năm theo quyết định 306/QĐ-NHNN ngày 30/1/2008 vẫn không có tác
dụng hướng dẫn thị trường.Ngày 16/5/2008, NHNN đã ban hành quyết định số
16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam,
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
18
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
theo đó qui định việc các TCTD ấn định lãi suất huy động và cho vay bằng
đồng Việt Nam đối với khách hàng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản
do NHNN công bố.Cùng ngày 16/5/2008, NHNN qui định mức lãi suất cơ bản
bằng đồng Việt Nam là 12%/năm.Sau quyết định tăng lãi suất cơ bản lên
12%/năm, lãi suất huy động của các NHTM điều chỉnh lên 16-17%/năm. Từ
khi NHNN tiếp tục tăng lãi suất cơ bản lên 14%/năm thì lãi suất huy động lại
đẩy lên theo, thường ở mức 17-18%/năm. Đến hết tháng 06/2008, khi GDP
tăng khoảng 6,8% thì tốc độ tăng M2 chỉ tăng 6% so với đầu năm và mức độ
tăng trưởng tín dụng chỉ ở mức 12%/năm, nguy cơ thiếu thanh khoản của các
NHTM đã được giải tỏa.
Quý 3/2008, cuộc đua lãi suất bắt đầu có dấu hiệu chững lại sau một loạt
các quyết định của NHNN: lãi suất cơ bản giảm xuống từ 14% còn 8,5%; lãi
suất trả cho dự trữ bắt buộc thì lần lượt tăng lên 3,5%/năm, 5%/năm, 10%/năm
sau đó giảm nhưng với tốc độ giảm chậm; tín phiếu bắt buộc được thanh toán
trước hạn; giảm tỷ lệ DTBB từ 10% xuống đến 5%.Chỉ số lạm phát ở tháng
7/2008 được công bố ở mức 1,13% làm tình hình dịu đi, tháng 8/2008 là
1,56%, đến tháng 9/2008 chỉ còn 0,18%, tháng 10/2008 giá cả bắt đầu có xu
hướng giảm (âm 0,19%), sang tháng 11/2008 chỉ số giá giảm với mức độ sâu

hơn (âm 0,76%) và tháng 12/2008 chỉ số giá cả vẫn tiếp tục giảm còn 0,68%,
cả năm 2008 mức lạm phát là 19,98%. Như vậy, NHNN đã điều hành chính
sách lãi suất kiềm chế lạm phát một cách hiệu quả.
Hình 2.4 : Lãi suất cơ bản và lạm phát năm 2008
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
19
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2008-2009
2.4.4 Điều hành lãi suất ổn định tỷ giá hối đoái
Từ năm 2000, NHNN đã bắt đầu thực thi một chính sách tỷ giá ổn định
tương đối cho đến giữa năm 2008, theo đó, trong vòng gần 10 năm liền, về mặt
danh nghĩa chỉ mất giá hơn 20% so với USD. Tức khoảng 2%/năm. Chính sách
duy trì ổn định tỷ giá một cách tương đối từ năm 1998 đã góp phần duy trì một
môi trường kinh tế ổn định cho các hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư của
Việt Nam.Tuy nhiên, những nền tảng kinh tế cơ bản cho việc duy trì sự ổn định
của tỷ giá hối đoái đã bắt đầu xói mòn kể từ năm 2004, khi lạm phát bắt đầu
gia tăng (là hệ quả của chính sách tiền tệ mở rộng nhằm kích cầu nội địa).
Sau khi gia nhập WTO năm 2007, sức ép đối với tỷ giá VND/USD gia
tăng mạnh mẽ hơn khi NHNN bơm một lượng lớn vào thị trường để mua 10 tỷ
USD của các nhà đầu tư nước ngoài, trong khi chính sách trung hòa không
thực hiện được kịp thời. Tốc độ tăng trưởng tín dụng khủng khiếp trong năm
2007 cũng tạo một sức ép vô cùng lớn lên tỷ giá (tính đến ngày 31/12/2007,
tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế năm 2007 tăng 58% so với năm 2006). Đến
giữa năm 2008 sức ép lên tỷ giá VND/USD đã gia tăng mạnh mẽ.
Lạm phát và nhập siêu gia tăng đã thúc đẩy người dân và doanh nghiệp
chuyển tài sản từ sang USD làm cho tỷ giá hối đoái năm 2008 có lúc lên đến
mức 19.500 VND/USD. Do đó, NHNN buộc phải thi hành một loạt các biện
pháp thắt chặt tiền tệ. Kết quả là động thái dứt khoát của NHNN đã đưa tỷ giá
VND/USD trên thị trường tự do về xung quanh mức 16.600 VND/USD.
Sau khi NHNN liên tục hạ lãi suất, tỷ giá VND/USD đã liên tục gia tăng.

Cho đến khi NHNN hạ lãi suất cơ bản xuống còn 8,5% thì tỷ giá VND/USD
trên thị trường tự do có lúc đạt mức 17.400 VND/USD. Chính điều này khiến
NHNN sau đó phải điều chỉnh tỷ giá lên mức 16.989 VND/USD vào ngày
24/12/2008. Tuy nhiên, việc NHNN chậm trễ trong việc chấp nhận điều chỉnh
tỷ giá VND/USD đã khiến lãi suất được chậm giảm xuống. Điều này gây nên
một hệ quả khác: do mức giảm lãi suất và tỷ giá chưa đạt đến mức kỳ vọng của
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
20
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
thị trường, tâm lý chờ đợi của các doanh nghiệp làm cho hoạt động kinh doanh
bị gián đoạn.
Hình 2.5: Tỷ giá hối đoái giữa VND và USD năm 2008 và đầu năm 2009
3. Hạn chế và kiến nghị
3.1 Mặt tích cực
Việc áp dụng cơ chế lãi suất thực dương đã xóa bỏ tình trạng bao cấp
trong đầu tư tín dụng đối với nền kinh tế. Cơ chế lãi suất thực dương có vai trò
quyết định ổn định dần sức mua VND. Chính vì vậy, ngay sau khi cơ chế lãi
suất thực dương được áp dụng, tình trạng lạm phát phi mã đã bị chặn đứng.
Về cơ chế lãi suất thỏa thuận, những bất hợp lý trong các quan hệ huy
động vốn, vay mượn trong nền kinh tế dần dần đã bị loại bỏ. Ưu điểm lớn nhất
của cơ chế này là tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng mạng lưới để huy động
cho vay vốn với mức lãi suất phù hợp và thúc đẩy việc cải cách hệ thống ngân
hàng theo định hướng thị trường.
Việc điều hành lãi suất trong năm 2008 đã góp phần kiềm chế lạm phát,
ổn định tỷ giá, giữ vững mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Năm 2009,2010 Chính
phủ tiếp tục điều hành lãi suất linh hoạt hạn chế suy giảm kinh tế. Về CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ, Chính phủ chỉ đạo vẫn là kiềm chế lạm phát với giải pháp nới
lỏng CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ có kiểm soát, giảm lãi suất để kích thích đầu tư
để góp phần ngăn ngừa suy giảm, kích cầu kinh tế. Ngày 23/01/2009, NHNN
quyết định hạ lãi suất cơ bản từ 8,5% xuống còn 7%/năm, lãi suất cho vay

giảm chỉ còn 10,5%/năm có hiệu lực kể từ ngày 10/02/2009.
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
21
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
3.2 Những hạn chế, tồn tại
- Lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu chưa thực sự
phát huy được vai trò định hướng thị trường, mối quan hệ giữa các lãi suất của
NHNN và lãi suất thị trường còn chưa thật gắn kết chặt chẽ.
Lãi suất cơ bản cùng với lãi suất tái cấp vốn và chiết khấu được đưa vào
luật NHNN năm 1997 cũng như luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật về
NHNN năm 2003. Theo đó lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ
sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh. Tuy nhiên, hơn 10 năm qua, điều
dễ dàng nhận thấy là vai trò thực tiễn của lãi suất cơ bản khá mờ nhạt, nếu
không có điều 476 của bộ Luật Dân sự năm 2005 thì rất ít người biết đến sự
tồn tại của lãi suất cơ bản. Trong năm 2008, khi cuộc đua lãi suất diễn ra, Hiệp
hội Ngân hàng đề nghị lên chính phủ xin sửa 150% trong điều 476 Bộ luật dân
sự lên thành 300% và đề nghị này bị từ chối thì dường như những người điều
hành chính sách mới nhớ đến vai trò của lãi suất cơ bản. Ngay sau đó lãi suất
cơ bản mới được điều chỉnh từ 8,75% lên 12% và cơ chế mới điều hành lãi suất
được công bố.
- NHNN còn sử dụng nhiều biện pháp hành chính can thiệp trực tiếp vào
điều hành chính sách lãi suất.
Mặc dù trong điều hành chính sách lãi suất, NHNN đã thay dần các công
cụ chính sách tiền tệ mang tính hành chính như hạn mức tín dụng, kiểm soát
trực tiếp lãi suất. Song khi hệ thống thể chế hỗ trợ thị trường còn yếu kém và
thiếu đồng bộ thì việc chuyển sang sử dụng các công cụ kiểm soát gián tiếp đã
làm cho NHNN bị hụt tay. Khi đó, NHNN chỉ có một con đường là lại tìm về
các công cụ hành chính. Quyết định 306 về việc buộc các NHTM phải mua tín
phiếu và phân bổ chỉ tiêu cho từng NHTM là minh chứng rõ nét nhất.
Tiếp đến, ngày 26/2/2008, NHNN đã có công điện gửi các chi nhánh

NHNN, NHTM trong đó yêu cầu các ngân hàng phải thực hiện việc huy động
vốn theo nguyên tắc lãi suất không âm và không được vượt quá 12%/năm.
Điều này rõ ràng không phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số
02/2008/NQ-CP ngày 09/01/2008 về những giải pháp chủ yếu thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 và văn bản số 75/TTg-KTTH ngày
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
22
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ
15/01/2008 về biện pháp kiềm chế lạm phát, kiểm soát tăng giá năm 2008. Bởi
theo các quy định này, Chính phủ chỉ đạo NHNN thực hiện chính sách tiền tệ
một cách chặt chẽ, thận trọng và chỉ động, sử dụng linh hoạt và có hiệu quả các
công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường đảm bảo mục tiêu kiềm
chế lạm phát dưới mức tăng trưởng kinh tế.
- Trong thực thi chính sách lãi suất do chưa lường trước được phản ứng
của thị trường, nên các biện pháp chính sách tiền tệ gây sốc thị trường, góp
phần tạo nên cuộc đua tăng lãi suất.
Bên cạnh đó, việc đẩy lãi suất huy động lên cao khiến khoản lãi suất
chênh lệch giữa huy động và cho vay bị thu hẹp mạnh, chỉ còn khoảng 2 -
4%/năm, không đủ bù đắp chi phí DTBB, bảo hiểm tiền gửi, chi phí quản lý.
Tình trạng này khiến không ít ngân hàng rơi vào tình trạng càng cho vay càng
lỗ. Khó khăn này chỉ dần được khắc phục khi hầu hết ngân hàng bắt đầu giảm
lãi suất huy động trong điều kiện kinh tế vĩ mô diễn biến khá tích cực.
- Chính sách lãi suất luôn phản ứng chậm so với diễn biến của thị trường
Nếu phân đoạn riêng năm 2007 và 10 tháng đầu năm 2008 thì có thể
thấy lạm phát và lãi suất cơ bản ở hai cung bậc khác nhau. Đó là, trong năm
2007, trong khi mục tiêu là kiềm chế lạm phát thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh
tế (mục tiêu là 8,5%, thực hiện 8,48%), còn thực tế là 12,63%, nhưng lãi suất
cơ bản vẫn chỉ duy trì ở mức 8,25%/năm giống như năm 2006. Rõ ràng, xét
trên lý thuyết, với biên độ giao dịch không vượt 150% lãi suất cơ bản, lãi suất
cho vay tối đa có thể lên tới 12,375%/năm, nếu trừ lùi tối thiểu 3,0%/năm chi

phí và lợi nhuận của các TCTD, thì lãi suất huy động tối đa của các tổ chức
này cũng chỉ có thể là 9,375%/năm, cho nên thấp rất xa so với lạm phát thực tế.
Đây là điều hết sức phi lý, bởi lạm phát năm 2006 chỉ 6,6%, trong khi các mức
lãi suất này thì vẫn giữ nguyên.
- Chính sách lãi suất không ổn định đã tác động tiêu cực đến đầu tư và
hiệu quả sản xuất.
Xu hướng tăng lãi suất ngân hàng sẽ luôn đi liền với xu hướng cắt giảm,
thu hẹp quy mô và phạm vi của các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền
Nguyễn Thanh Huyền Tài chính doanh nghiệp 49A
23

×