Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Khảo sát tình hình nhiễm Chloramphenicol trên hải sản khai thác tại Khánh Hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 112 trang )






BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
KHOA CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
o0o


VÕ THỊ HỒNG


KHẢO SÁT TÌNH HÌNH NHIỄM
CHLORAMPHENICOL TRÊN HẢI SẢN KHAI THÁC
TẠI KHÁNH HÒA


ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM



GVHD:TS. NGUYỄN THUẦN ANH




KHÁNH HÒA - 2014





LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện đề tài của mình, em không
chỉ nhận được quan tâm giúp đỡ từ các thầy cô mà còn nhận được sự động viên và
giúp đỡ từ phía gia đình và bạn bè. Trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
công lao nuôi dạy của cha và mẹ, những người thân trong gia đình đã luôn yêu
thương, ủng hộ cho em và luôn tạo điều kiện để em hoàn thành tốt chương trình học
tại trường và trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám Hiệu trường, Ban chủ
nhiệm Khoa Công Nghệ Thực Phẩm và toàn thể quý thầy cô Khoa Công Nghệ Thực
Phẩm trường Đại học Nha Trang đã tận tình giảng dạy, truyền đạt những kiến thức
quý báu cho em trong suốt quá trình học tập.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thuần Anh là giảng viên
trực tiếp hướng dẫn và tạo mọi điều kiện để em hoàn thành đồ án này. Cô không
những đã hướng dẫn tận tình về chuyên môn cũng như cách làm việc một cách khoa
học để em có thể hoàn thành tốt đồ án của mình.
Cảm ơn bạn bè đã luôn bên cạnh động viên cũng như giúp đỡ mình trong
suốt thời gian qua.
Em xin gửi lời chúc sức khỏe, thành công và hạnh phúc đến quý thầy cô, gia
đình và bạn bè.
Do kiến thức còn nhiều hạn chế nên đồ án của em còn nhiều sai sót. Vì vậy,
em rất mong nhận được ý kiến của quý thầy cô.
Nha Trang, tháng 6 năm 2014
Sinh viên thực hiện


Võ Thị Hồng


i


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT iv
DANH MỤC BẢNG vii
DANH MỤC HÌNH viii
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN 3
1.1 Tìm hiểu về hoạt động cung cấp hải sản khai thác tại khánh hòa 3
1.1.1. Tổng quan về các loại hình khai thác hải sản tại Khánh Hòa 3
1.1.2. Hoạt động cung cấp hải sản ở Khánh Hòa 8
1.1.3. Thực trạng bảo quản hải sản khai thác hiện nay 22
1.2. Tổng quan về kháng sinh chloramphenicol 26
1.2.1. Nguồn gốc 26
1.2.2. Tính chất 26
1.2.3. Cơ chế kháng khuẩn 27
1.2.4. Tác dụng và tác hại 28
1.2.5. Các quy định có liên quan 30
1.2.6. Tình hình nhiễm Chloramphenicol trong hải sản khai thác 31
1.2.7. Phương pháp xác định Chloramphenicol trong thủy sản 35
1.3. Quản lý chất lượng bằng biểu đồ xương cá 42
1.3.1. Định nghĩa 42
1.3.2. Mục đích 43
1.3.3. Cách thức xây dựng biểu đồ xương cá 44
1.3.4. Ứng dụng của biểu đồ xương cá 45
CHƢƠNG 2
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 47

2.1. Đối tượng và sơ đồ nội dung thực hiện 47
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 47
ii


2.1.2. Sơ đồ nội dung thực hiện đề tài 47
2.2. Phương pháp nghiên cứu 49
2.2.1. Đánh giá tình hình nhiễm Chloramphenicol trên hải sản khai thác tại
Khánh Hoà 49
2.2.2. Xác định nguyên nhân nhiễm Chloramphenicol trên hải sản khai thác tại
Khánh Hòa 51
CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 53
3.1. Đánh giá tình hình nhiễm Chloramphenicol trong hải sản khai thác tại Khánh
Hòa 53
3.1.1. Tình hình nhiễm CAP trong hải sản khai thác được lấy mẫu tại cảng,
chợ, cơ sở thu mua 53
3.1.2. Tình hình nhiễm CAP trong các loài hải sản khác nhau (cá Nục, cá Ngừ,
cá Đổng, Mực, cá Cờ, cá Nục) 55
3.1.3. So sánh với hàm lượng CAP với các nghiên cứu khác và quy định có liên
quan 58
3.1.3.1. So sánh hàm lượng CAP trung bình của nghiên cứu này với các
nghiên cứu khác 58
3.1.3.2. So sánh với các quy định liên quan 60
3.2. Nguyên nhân nhiễm Chloramphenicol trên hải sản khai thác tại Khánh Hòa 60
3.2.1. Nguyên nhân từ trang thiết bị bảo quản hải sản 63
3.2.2. Nguyên nhân từ những người tham gia chuỗi cung cấp hải sản 67
3.2.3. Nguyên nhân từ môi trường sống 75
3.2.4. Nguyên nhân từ kỹ thuật khai thác 76
3.2.5. Nguyên nhân từ công tác quản lý 78

3.3. Đề xuất biện pháp bảo đảm ATVSTP tại Khánh Hòa 83
3.3.1. Trang thiết bị bảo quản 83
3.3.2. Những người tham gia cung cấp hải sản 83
3.3.3. Môi trường 84
iii


3.3.4. Kỹ thuật khai thác 84
3.3.5. Công tác quản lý 84
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 86
Kết Luận 86
Đề xuất 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
PHỤ LỤC




















iv


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ATTP
An toàn thực phẩm
BNN
Bộ nông nghiệp
BNNPTNT
Bộ Nông nghiệp Phát triển nông thôn
BTS
Bộ thủy sản
KT&BVNL
Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi
CCQLCL BVNLTS
Chi cục Quản lý chất lượng Bảo vệ Nông lâm Thủy sản
CP
Chính phủ
CT
Chỉ thị
CV
Mã lực
FDA
Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ
MRPL
Giới hạn phân tích tối thiểu của phương pháp


Nghị Định
NN & PTNT
Nông nghiệp và Phát Triển nông thôn
QCVN
Quy chuẩn Việt Nam

Quyết định
QLCL – ATVS &TY
TS
Quản lý chất lượng – An toàn vệ sinh và Thú y Thủy
sản
KT&BVNL
Khai thác và bảo vệ nguồn lợi
QLCLNLTS
Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản
TT
Thông tư
TTXVN
Thông tấn xã Việt Nam
UBND
Ủy ban nhân dân


vii


DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Đặc điểm của từng loại hình khai thác 4
Bảng 1.2. Số lượng tàu thuyền hoạt động đánh bắt xa bờ 9

Bảng 1.3. Năng lực tàu thuyền theo nhóm công suất và nghề năm 2013 10
Bảng 1.4: Hàm lượng CAP (µg/kg) trong hải sản ở Việt Nam 32
Bảng 1.5: Hàm lượng CAP (µg/kg) trong hải sản ở của một số nước khác 35
Bảng 3.1. Sự sai khác có ý nghĩa thống kê về hàm lượng CAP trung bình giữa 5 loại
hải sản (cá Nục, cá Ngừ, cá Đổng, Mực, cá Cờ, cá Nục) tại Khánh Hòa. 57
Bảng 3.2: Hàm lượng CAP (µg/kg) trong hải sản ở nghiên cứu này và các nghiên cứu
khác 59

















viii


DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1. Sơ đồ chuỗi cung cấp hải sản tại Khánh Hòa 8

Hình 1.2. Cấu trúc phân tử của CAP 27
Hình 2.1. Sơ đồ nội dung thực hiên của đề tài 48
Hình 3.1. Tỷ lệ mẫu nhiễm CAP trong hải sản khai thác được lấy mẫu tại cảng, chợ,
cơ sở thu mua 53
Hình 3.2. Hàm lượng CAP trung bình (µg/kg) trong hải sản khai thác được lấy mẫu
tại cảng, chợ, cơ sở thu mua. 54
Hình 3.3. Tỷ lệ mẫu nhiễm CAP trong các loài hải sản khác nhau (cá Nục, cá Ngừ,
cá Đổng, Mực, cá Cờ, cá Nục) tại Khánh Hòa. 56
Hình 3.4 Hàm lượng CAP trung bình của các hải sản (cá Nục, cá Ngừ, cá Đổng,
Mực, cá Cờ, cá Nục) tại Khánh Hòa. 57
Hình 3.5. Sơ đồ khung xương cá xác định chi tiết các nguyên nhân hải sản khai thác
tại Khánh Hòa bị nhiễm Chloramphenicol. 62
1


MỞ ĐẦU
Dư lượng kháng sinh trong thực phẩm hiện là vấn đề quan ngại của hầu hết
các cơ quan kiểm soát thực phẩm trên thế giới bởi những tác hại mà nó gây ra trong
đó có Chloramphenicol. Chloramphenicol là một kháng sinh được liệt vào danh
sách cấm sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh thủy sản do các tác hại mãn
tính của nó đối với sức khỏe của con người. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng ở
Việt Nam quy định này chỉ khắt khe cho sản phẩm thủy sản nuôi. Đối với nguyên
liệu nguồn như từ khâu khai thác, thu mua và bảo quản thì việc kiểm tra vẫn còn bỏ
ngỏ. Hải sản có nguy cơ bị nhiễm kháng sinh Chloramphenicol từ khâu khai thác,
thu mua và bảo quản là rất cao.
Hải sản bị nhiễm hóa chất kháng sinh cấm sử dụng không chỉ ảnh hưởng tới
sức khỏe người tiêu dùng mà còn gây thiệt hại lớn cho ngành thủy sản xuất khẩu
của đất nước. Thực trạng hải sản bị nhiễm hóa chất kháng sinh cấm sử dụng đang là
mối quan tâm lo lắng của nhiều cấp, nhiều ngành và của người dân trong cả nước
nói chung và tỉnh Khánh Hòa nói riêng.

Được sự phân công của Khoa Công Nghệ Thực Phẩm, tôi thực hiện đề tài:
“Khảo sát tình hình nhiễm Chloramphenicol trên hải sản khai thác tại Khánh Hòa”
Nội dung đề tài bao gồm:
- Tìm hiểu các loại hình khai thác hải sản tại Khánh Hòa (05 loại hải sản đại
diện cho các loại hình nghề khai thác: nghề chụp, nghề lưới kéo, nghề lưới rê, nghề
lưới vậy, nghề câu).
- Tổng quan về Chloramphenicol.
- Khải sát tình hình nhiễm Chloramphenicol trên hải sản khai thác tại Khánh Hoà.
- Xác định nguyên nhân gây nhiễm Chloramphenicol trên hải sản khai thác
tại Khánh Hòa và đề xuất biện pháp.
Đề tài được thực hiện nhằm đánh giá được tình hình nhiễm Chloramphenicol
hiện nay và xác định được nguyên nhân nhiễm Chloramphenicol trên hải sản khai
thác tại Khánh Hòa. Từ đó đưa ra những đề xuất các biện pháp giảm nguy cơ hải
sản khai thác trên địa bàn tỉnh nhiễm Chloramphenicol.
2


Từ kết quả của đề tài, các cơ quan chức năng có thể nhìn thấy được thực
trạng hải sản khai thác bị nhiễm Chloramphenicol. Đề tài thực hiện thành công cũng
sẽ làm cơ sở cho các cơ quản quản lý chất lượng thực phẩm có những biện pháp
tuyên truyền, giáo dục cũng như công tác quản lý phù hợp nhằm giảm thiểu nguy cơ
hải sản khai thác nhiễm Chloramphenicol.
























3


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Tìm hiểu về hoạt động cung cấp hải sản khai thác tại khánh hòa
1.1.1. Tổng quan về các loại hình khai thác hải sản tại Khánh Hòa
Nghề khai thác hải sản ở nước ta rất đa dạng và phong phú về quy mô cũng
như tên gọi. Hiện có 40 loại nghề khác nhau, được xếp vào 7 họ nghề chủ yếu: nghề
lưới kéo, nghề lưới vây, nghề lưới rê, nghề câu, nghề lưới vó, mành và nghề cố
định. Tính đến năm 2010, nghề lưới kéo chiếm 17% cơ cấu nghề khai thác ở nước
ta, nghề lưới rê 36%, nghề câu 17%, nghề lưới vây trên 4%, nghề cố định 3% và
các nghề khác chiếm trên 12% (BNN & PTNT, 2012).
Trong những năm qua, Khánh Hòa là một tỉnh có năng lực nghề khai thác
đứng trong nhóm 5 tỉnh có nghề khai thác phát triển mạnh trong cả nước. Nghề khai

thác chủ lực là nghề câu cá ngừ đại dương, nghề lưới vây, nghề lưới rê. Trong đó,
nghề câu cá ngừ đại dương phát triển mạnh nhất, rồi đến nghề lưới rê và cuối cùng
là nghề lưới vây; nghề chụp mực kết hợp câu cá ngừ đã mang lại hiệu quả kinh tế
cao cho ngư dân, được nhiều ngư dân đầu tư phương tiện, mở rộng ngư trường hoạt
động trong thời gian qua và cho hiệu quả cao. Đặc điểm của 5 loại hình khai thác
chủ yếu: Nghề chụp, nghề lưới kéo, nghề lưới rê, nghề câu, nghề lưới vây của
Khánh Hòa được thể hiện qua bảng 1.1 sau:

4


Đặc
điểm


Loại
hình
Phƣơng tiện
Đối tƣợng
khai thác
Ngƣ trƣờng
đánh bắt
Quy trình khai thác
Dụng cụ chứa đựng/ bảo
quản
Thời gian
Quy mô
Dấu hiệu
Nghề
Chụp

Tàu 45
≤250 CV.
Có dàn đèn
thu hút mực
được lắp đặt
ở hai bên
mạn trái và
phải ca bin
của tàu.
Mực ống và
một số loài
cá nổi khác.
Đánh bắt xa
bờ.
Tàu sử dụng các bóng đèn cao
áp lôi cuốn mực đến gần tàu,
sau đó tắt dần hết các bóng, chỉ
sử dụng đèn gom mực để lôi
cuốn mực lên mặt nước và tập
trung ở vùng dưới thân tàu và
tiến hành tháo các liên kết góc
lưới, lưới tự động xuống bao
phủ không gian nước chứa dàn
mực. Khi thu lưới, miệng lưới
thắt lại nhờ hệ thống vòng
khuyên và mực dồn vào đụt
lưới.
Bảo quản chủ yếu bằng khay
nhựa, có trang bị dự phòng túi
PE để sử dụng khi thiếu khay

nhựa. Số lượng khay trang bị
trên tàu lớn, dao động từ 200-
900 cái/tàu.
Khai thác
quanh năm,
mùa khai
thác chính
từ tháng 11
đến tháng 4
năm sau.
Bảng 1.1. Đặc điểm của từng loại hình khai thác
(Nguyễn Văn Thắng và cs, 2007)
5


Nghề
lƣới
kéo
Tàu :
≥155CV


Lưới kéo
được bố
trí ở trước
cabin hoặc
sau cabin
Các loài hải
sản sống ở
tầng trên,

tầng đáy và
gần như cá
bơn, cá
lượng, mực,
cá ngừ, cá
trích, cá nục

Từ vùng ven
biển đến vùng
khơi nơi có
nền đáy biển
tương đối bằng
phẳng, độ sâu
thường từ 20-
100m.
Lưới có dạng hình côn. Miệng
lưới được mở bằng 2 tấm ván
phẳng, ván mở được cột chặt
bằng dây vào 2 bên miệng
lưới, giữa viền phao và viền
đáy. Lưới được kéo dọc dưới
đáy biển, miệng lưới mở ra
trong suốt quá trình hoạt động.
Sử dụng khay nhựa kết hợp
với túi PE để đựng cá trong
hầm bảo quản. Khay
nhựa chủ yếu được sử dụng
để bảo quản các đối tượng
khai thác có giá trị kinh tế
cao, các đối tượng có giá trị

kinh tế thấp được bao bọc bởi
túi PE hoặc muối xá.
Tháng 1 đến
tháng 5
hàng năm
Nghề
lƣới rê
Tàu công
suất ≤
155CV

Có nhiều cờ,
lưới đánh
bắt thường
sử dụng
bằng ni lông
và đặt trước
boong tàu.

Cá tầng nổi
như cá ngừ
bò, cá nục
lớn, cá song,
cá chim, cá
dưa.
Từ vùng ven
biển đến vùng
khơi.
Chủ yếu hải
phận Khánh

Hòa - Ninh
Thuận, vùng
biển Đông -
Tây Nam bộ.
Lưới có cỡ mắt lưới phù hợp
với loại cá muốn bắt, được đặt
ở các độ sâu khác nhau. Khi cá
lội ngang qua, mang của chúng
sẽ bị vướng mắc vào lưới
Dụng cụ chủ yếu để đựng cá
là khay nhựa. Đối với các cá
thể cá có kích thước lớn và
giá trị kinh tế cao (chủ yếu cá
là cá thu), ngư dân sử dụng túi
PE để bọc cá, còn các đối
tượng khác ngư dân sử dụng
phương thức muối xá.
Tháng 1 đến
tháng 5
hàng năm.

6



Nghề
lƣới
vây
Tàu: ≤
155CV

Thường
trước tàu có
trụ bằng gỗ
hình vuông,
có hình chữ
thập, thường
tô màu trắng
hoặc xanh.
Các loài cá
tầng nổi hoặc
tầng giữa như
cá nục, cá
ngừ, cá cơm,
cá ngân
Nơi có các loài
cá đi thành
đàn lớn với
kích thước
tương đối
đồng đều và
thuần loài.
Khi phát hiện thấy đàn cá,
người ta sẽ bủa lưới, dùng tàu
chạy kiểu vòng tròn, kéo lưới
bao quanh đàn cá. Khi đã khép
kín hai đầu lưới, người ta rút
hệ thống dây dưới lưới viền
đáy, đáy lưới túm kín lại, cả hệ
thống lưới đánh bắt lúc này sẽ
có sẽ có hình dạng một chảo

to, cá không bị đóng vào lưới
mà chỉ bị nhốt trong chảo.
Người ta kéo lưới áp mạng tàu,
dồn cá tập trung về một chỗ, cá
được đặt vào vị trí khoang tàu.
- Nghề lưới vây cá cơm đều
trang bị khay, giỏ và thùng
chứa cá.
- Khay nhựa chủ yếu được sử
dụng để chứa đựng các loài cá
lớn và mực.
Mùa vụ
đánh bắt
chính từ
tháng 2 đến
tháng 5
hàng năm,
lưới vây cá
cơm có thể
đánh bắt đến
tháng 9.
7


Nghề
câu
Tàu công
suất ≤
155CV,
kết cấu

vững chãi
đủ cho
chuyến
biển có khi
kéo dài tới
2 - 3 tuần.
Tàu câu
mực
thường
chở theo
15 - 20
chiếc
thuyền
thúng và
đèn.
Có các giỏ
đựng lưỡi
câu, dây câu
đặt trước
boong tàu,
thường có 2
cánh làm
bằng gỗ ở
hai bên
hông tàu


Cá ngừ đại
dương, cá
nhám, cá cờ,

cá thu, cá
kiếm
Ngư trường
hoạt động
phần lớn là
vùng biển
khơi, có khi
cách xa bờ
hàng trăm hải
lý.
Hệ thống dây câu được trải dài
dưới đáy biển, với nhiều lưỡi
câu và mồi được mắc vào lưỡi
có thể kéo dài hàng km.
- Túi PE hoặc túi vải để bọc cá,
tránh sự tiếp xúc trực tiếp
giữa đá và cá nhằm tránh trầy
xước cá.
- Nghề câu mực đại dương chủ
yếu sử dụng túi PE để bảo
quản sản phẩm.
- Nghề câu cá vàng đáy sử dụng
dụng cụ bảo quản chủ yếu là
bao PE.
Từ tháng 1
đến tháng 7
âm lịch
8



1.1.2. Hoạt động cung cấp hải sản ở Khánh Hòa
Trong chuỗi cung ứng thì mỗi thành viên của chuỗi là người mua hàng của
người trước và là nhà cung cấp cho người sau. Sản phẩm hải sản từ khâu đánh bắt
đến tận tay người tiêu dùng trải qua nhiều khâu trung gian. Những người trung gian
cũng đa chức năng và qua rất nhiều cấp. Để thấy rõ các bên liên quan trong hoạt
động cung cấp hải sản tại Khánh Hòa ta cần xác định được một số hình thức tổ chức
khai thác hải sản cụ thể và giảm bớt sự phức tạp của chuỗi cung cấp hải sản khai
thác cũng như các bên liên quan, ta có thể xác định con đường đi chính của chuỗi
cung ứng hải sản thông qua sơ đồ 1.1 sau:











Hình 1.1. Sơ đồ chuỗi cung cấp hải sản tại Khánh Hòa
Trong hoạt động cung cấp hải sản tại Khánh Hòa bao gồm nhiều mắt xích,
các mắt có thể độc lập với nhau, nhưng lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động cung cấp
hải sản tại Khánh Hòa bắt đầu từ tàu cá, hải sản được các tàu cá khai thác và tập
trung về cảng. Tại cảng diễn ra các hoạt động cung cấp sản phẩm khai thác giữa ngư
dân và người mua bán hải sản. Hải sản từ cảng sau đó phải trải qua nhiều khâu trung
gian như chợ cá, cở sở thu mua, cơ sở chế biến rối mới đến tận tay người tiêu dùng
và chỉ một số ít hải sản mới trực tiếp từ cảng đến được tận tay người tiêu dùng. Các
cơ sở thu mua là một mắt xích quan trọng trong hoạt động cung cấp hải sản tại
Chợ

Siêu
thị
Nhà hàng
Cơ sở chế
biến hải sản
Người tiêu dùng
Tàu cá
Cơ sở thu
mua/bán hải sản
Cảng cá
Chợ
Siêu thị
Nhà hàng
Cơ sở chế biến
hải sản
Người tiêu dùng
Tàu cá
Cơ sở thu mua/bán

Cảng cá
9


Khánh Hòa, có quan hệ mua hàng trực tiếp với ngư dân, sau đó phân phối cho tất cả
mắt xích khác gồm chợ cá, cơ sở chế biến, nhà hàng, siêu thị và các đối tượng mua
hàng nhỏ, lẻ khác. Người buôn bán quy mô nhỏ sẽ thu mua và bày bán tại chợ cá
đây là địa điểm thông dụng nhất cho người tiêu dùng Khánh Hòa nói riêng và trong
cả nước nói chung lựa chọn để mua hải sản. Mỗi mắt xích đều có chức năng và hoạt
động cung cấp hải sản đến người tiêu dùng cuối cùng. Trong phạm vi đề tài chỉ tìm
xét đến các mắt xích cung ứng hải sản chính đó là: Tàu cá, cảng cá, chợ cá và cơ sở

thu mua.
1.1.2.1. Hoạt động ở tàu cá
Tàu cá là mắt xích trực tiếp khai thác hải sản và bán hải sản cho các mắt xích
khác trong chuỗi cung cấp. Thông thường mỗi chuyến tàu khai thác kéo dài từ 3 đến 15
ngày có khi 20 ngày. Hải sản sau thu hoạch được lưu trữ và bảo quản đầu tiên trên tàu
với thời gian khá dài nên ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hải sản sau thu hoạch.
Theo thống kê của Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi (KT&BVNL) thủy
sản Khánh Hòa, đến tháng 12 năm 2013, Khánh Hòa có 9818 chiếc tàu thuyền với
tổng công suất 500.686 CV, hoạt động bằng nghề xa bờ như lưới rê, lưới chuồn,
lưới vây, câu cá ngừ đại dương, và bằng các nghề ven bờ như nghề mành, nghề trũ,
lưới quét, câu mực, câu mồi, lưới kéo, lưới vây…Số lượng tàu thuyền hoạt động
đánh bắt xa bờ của Khánh Hòa những năm qua được thể hiện ở bảng 1.2 sau:
Bảng 1.2. Số lƣợng tàu thuyền hoạt động đánh bắt xa bờ
Năm
ĐVT
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
Tàu
thuyền
máy
Chiếc
6.6362
8.988
13.038
10.542

9.703
9.782
9818
( Nguồn: Chi cục KT&BVNL thủy sản Khánh Hòa, năm 2013)
Số lượng tàu khai thác hải sản ở Khánh Hòa khá lớn nhưng chủ yếu công
suất nhỏ; có tới hơn 80% phương tiện không đủ điều kiện đánh bắt xa bờ. Khánh
Hòa vẫn đang đứng trước những thử thách lớn do số lượng phương tiện không đủ
điều kiện đánh bắt xa bờ (dưới 20CV) là 5593.932 chiếc chiếm 42,60 %. Dưới đây
là năng lực tàu thuyền theo nhóm công suất và nghề được thể hiện qua bảng 1.3 :
10


Bảng 1.3. Năng lực tàu thuyền theo nhóm công suất và nghề năm 2013
Nghề
Công suất
Tổng
0-
<20
20-
<50
50-
<90
90-
<250
250-<400
400-<4000
Câu
767
253
25

25
95
68
1233
Cản
338
57
30
40
119
60
644
Dịch vụ hải sản
29
152
72
57
16
4
330
Giã
52
443
158
164
135
52
1004
Lưới cước
1700

407
26
8
0
0
2141
Lưới quét
2
39
49
3
0
0
93
Mành
720
732
37
12
9
1
1511
Nghề khác
1840
157
9
5
1
1
2013

Pha xúc
2
23
53
93
26
8
205
Trủ
40
145
79
69
36
18
387
Vây rút
39
121
43
27
7
20
257
Tổng số tàu
thuyền
5529
2529
581
503

444
232
9818
Tỷ lệ (%)
56.31
25.75
11.83
5.1
4.5
2.3

∑ số tàu thuyền
trong tỉnh
∑= 9818 chiếc

( Nguồn: Chi cục KT& BVNL thủy sản Khánh Hòa, năm 2013)
Đa số các tàu cá ở Đông Nam Á hiện nay, việc bảo quản thủy sản trên tàu
chủ yếu vẫn bằng cách ướp đá lạnh. Với biện pháp này nhiệt độ của cá dao động
trong khoảng 0-5
o
C thời gian bảo quản cho phép 5-10 ngày (Nguyễn Hữu Khánh, 2012).
Các tàu thuyền khai thác xa bờ ở Khánh Hòa đều đóng bằng gỗ, 87% tàu thuyền sử
dụng sơn để xử lý mặt ngoài vỏ tàu và mặt boong. Trong đó: tàu lưới kéo: 85%; tàu
lưới vây cá cơm: 70%, tàu lưới vây thưa: 99,5%; tàu câu cá ngừ đại dương: 87%;
tàu lưới rê thu ngừ: 57%, tàu lưới rê khác: 60,9%; tàu chụp mực: 98%, chỉ có 13%
11


tàu thuyền sử dụng Compozit để trát lớp xử lý mặt ngoài. Đặc điểm của tàu vỏ gỗ là
nhẹ, nguyên vật liệu dễ kiếm, dễ thi công phù hợp với mọi loại nghề khai thác hiện

có, tránh sự ăn mòn của nước biển.
Số lượng hầm bảo quản trên các tàu khai thác xa bờ dao động từ 3 – 8 hầm,
chiếm gần 90% tàu thuyền điều tra. Thời gian sử dụng hầm dao động từ 2 đến 6
năm, chất lượng hầm đạt trung bình 70% đến 80%. Một số phương tiện có chất
lượng hầm bảo quản thấp nhưng vẫn chưa được cải tạo sữa chữa. Vật liệu cách
nhiệt của hầm bảo quản chủ yếu là xốp ghép, chiếm 91%. Trong đó: nghề lưới kéo
83, 76%; nghề lưới vây cá cơm 100%; nghề lưới vây thưa 87,6%; nghề câu cá ngừ
đại dương 97,03%: nghề câu khác 76%, nghề lưới rê thu ngừ 90%, nghề lưới rê
khác 97,3%; nghề chụp mực 98% và còn lại là xốp thổi (PU). Mặc dù người dân đã
nhận thấy tính ưu việt của việc sử dụng xốp thổi làm hầm bảo quản nhưng do giá
thành cao nên chưa đủ khả năng đầu tư (FICen, 2013).
Với phương tiện tàu vỏ gỗ, hầm bảo quản chất lượng thấp thì các tàu đánh
bắt xa bờ thì hình thức bảo quản sản phẩm khó có thể đảm bảo chế độ bảo quản rất
khắc khe sau thu hoạch của cá ngừ đại dương và cá ngừ nói chung với công nghệ
hiện đại ngoại trừ bảo quản bằng đá xay.
1.1.2.2. Hoạt động ở cảng cá
Cảng cá là một mắt xích trong chuỗi cung cấp hải sản từ tàu khai thác đến
người tiêu dùng. Cảng cá không chỉ là nơi cho tàu thuyền vào neo đậu bốc dỡ hàng
hải sản mà còn có các hoạt động như quản lý tàu thuyền, xử lý, chế biến, mua bán
hải sản và cung cấp hậu cần nhằm phục vụ cho công tác đánh bắt trên biển đồng
thời cũng là kho bảo quản lạnh các sản phẩm khai thác sau thu hoạch làm tăng chất
lượng sản phẩm hải sản.
Khánh Hòa là trung tâm thương mại nghề cá có tầm cỡ ở khu vực Nam Trung
Bộ; là căn cứ hậu cần của các tàu đánh bắt trong tỉnh và các khu vực lân cận; nơi tiếp
nhận, phân phối nguyên liệu thủy sản số lượng lớn cho các nhà máy chế biến, phân
phối nguyên liệu thủy sản số lượng lớn cho các nhà máy chế biến và tiêu thụ nội địa;
cung ứng đầy đủ các dịch vụ hậu cần nghề cá đảm bảo chất lượng, uy tín cho tàu
12



thuyền và hoạt động của ngư dân trong vùng. Đặc biệt là chợ Thủy sản Nam Trung bộ
tại Nha Trang đã và đang thu hút một lượng lớn thủy sản về Khánh Hòa.
Toàn tỉnh hiện có 5 cảng cá gồm: Hòn Rớ, Vĩnh Lương, Vĩnh Trường, Đá
Bạc, Đại Lãnh. Trong số này, chỉ có cảng Hòn Rớ đạt tiêu chuẩn cảng cá loại 1. Các
cảng còn lại đều thuộc loại 2, 3. Ngoài Cảng cá Vĩnh Trường nằm trong diện quy
hoạch không thể đầu tư, Cảng cá Vĩnh Lương, Đá Bạc, Đại Lãnh chưa đạt tiêu
chuẩn của ngành. Trong đó, hầu như các cảng chưa được đầu tư xây dựng kho lạnh,
nhà điều hành, nhà phân loại cá, hệ thống cấp thoát nước, xử lý nước thải (Anh
Tuấn, 2012). Hiện nay Khánh Hòa đang tiếp tục đầu tư xây dựng, nâng cấp một số
cảng cá (như: Vĩnh Lương, Hòn Rớ) góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng hoạt
động của các cảng cá, đáp ứng đầy đủ nhu cầu dịch vụ thủy sản thông qua việc quản
lý tàu thuyền, cung ứng nhiên liệu, giải phóng tàu nhanh, giảm thời gian nằm bờ,
tăng thời gian khai thác trên biển (Nguyễn Trang, 2013).
a. Cảng cá Hòn Rớ
Cảng cá Hòn Rớ - Chợ Thủy sản Nam Trung Bộ tại đường Nguyễn Xí, TP
Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Cảng thành lập theo Quyết định số 4706/QĐ – UBND
ngày 30/11/1999 của UBND tình Khánh Hòa. Năm 2000, cảng được xây dựng cơ
sở vật chất kết cấu hạ tầng và chính thức đưa vào sử dụng từ ngày 26/11/2003 cho
đến nay với Cảng cá Hòn Rớ - chợ Thủy sản Nam Trung Bộ có tổng diện tích
8200m
2
và chia làm 3 khu cực chính. Diện tích trong chợ là 4860m
2
, diện tích văn
phòng là 3340m
2
, công suất 500 tấn thủy sản 1 ngày, quy mô cầu tàu dài 200x7m
đảm bảo cho tàu có công suất 500CV ra vào, bốc dỡ hàng thủy sản, là một trong ba
cảng cá lớn nhất của Khánh Hòa.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động nghề cá trong khu vực Nam

Trung Bộ, Cảng Hòn Rớ không chỉ là nơi trao đổi, mua bán hàng hải sản sau khai thác
của tàu cá địa phương mà nó còn là nơi tiếp nhận hàng chục ngàn phương tiện đánh bắt
từ các tỉnh lân cận như: Quãng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Chỉ tính trong năm 2013,
cảng cá Hòn Rớ đã thu hút 25.000 lượt tàu thuyền cập bến và tránh trú bão; trong đó
tàu cá trong tỉnh 15.000 lượt và ngoài tỉnh 10.000 lượt (Minh Khiêm, 2013).
13


Vào mùa khai thác cao điểm, mỗi ngày, Cảng cá Hòn Rớ đón hơn 100 lượt
tàu, thuyền cập bến, 200 lượt phương tiện vận chuyển với hàng trăm tấn hải sản các
loại. Tuy nhiên, sức chứa tối đa của cầu cảng chỉ khoảng 20 chiếc/lượt. Vì thế, đã
thường xuyên diễn ra tình trạng hàng chục tàu phải đợi 4 - 5 giờ liền mới được cập
bến. Trước những bất cập trong công tác quản lý hoạt động nghề cá do sự quá tải so
với thiết kế ban đầu, UBND tỉnh Khánh Hòa đã quyết định triển khai nâng cấp cảng
cá Hòn Rớ (bao gồm cả chợ Thủy sản Nam Trung Bộ) vào đầu năm 2014. Dự án
nâng cấp cảng cá Hòn Rớ do Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh làm chủ
đầu tư với mức kinh phí khoảng 30 tỷ đồng, từ nguồn vốn Ngân hàng Thế giới và
vốn đối ứng của tỉnh (Minh Khiêm, 2013). Cảng không có kho bảo quản đông, các
cơ sở mua bán tại cảng tự trang bị tủ đông để bảo quản nguyên liệu.
Cảng Hòn Rớ là nơi cung cấp cá lớn, nơi cập bến chủ yếu của các tàu lớn
đánh bắt xa bờ khoảng chừng 5, 10, 15, 30 ngày với hình thức khai thác chính là
lưới ghe, móc câu. Thời gian tàu về nhiều là vào mùng 8, 9, 10 âm lịch mỗi tháng,
mùa tàu về nhiều là vào tháng 6, 7, 8, 10, 11 trong năm. Cảng Hòn Rớ làm việc
trong nhiều khung giờ khác nhau như thời gian bắt đầu có thể là 1 giờ, 2 giờ, 3 giờ,
4 giờ, 5 giờ, 6 giờ, 15 giờ, 16 giờ hay tối khuya.
Thời gian hoạt động của cảng tấp nập và chợ cá hoạt động từ rất sớm, tầm 2h
sáng. Nhưng trước đó 1h trên bến cảng đã có đông người thu mua ngồi chờ những
chuyến tàu cập bến. Lúc tàu cập bến cũng là lúc phiên chợ cá bắt đầu diễn ra sôi nổi.
Nguyên liệu đánh bắt về của các tàu hầu hết đều có chủ nậu vựa đặt mua từ
trước. Sau khi các chủ nậu vựa đã mua nguyên liệu thủy sản xong thì tùy vào mục

đích thu mua, cá được vận chuyển đi bởi các xe bảo ôn lớn, nhỏ khác nhau về công
ty, nhà máy chế biến các sản phẩm đông lạnh hay phân loại, sắp xếp vào các xịa,
giỏ cá lớn rồi bày bán ngay tại chợ cảng cùng các tiểu thương. Tại cảng Hòn Rớ
_chợ thủy sản Nam Trung Bộ có tất cả 14 cơ sở thu mua lớn: Vựa cá Mười Hạnh,
vựa cá Thanh Trang, Hoàng Long Nhị, vựa cá Tám Đuộng, vựa cá Thái Thủy, vựa
cá Phước Sanh, vựa cá Phúc Diệp, vựa cá Phúc Hai, vựa cá A9, vựa cá Bích Tèo,
14


vựa cá B9, vựa cá Tèo Công, Công ty TNHH Bền Vững, Công ty TNHH Long Hải
đăng kí hoạt động thu mua.
b. Cảng cá Vĩnh Lƣơng
Cảng cá Vĩnh Lương ở Thôn Lương Sơn, xã Vĩnh Lương, đầu tư xây dựng
giai đoạn 1 vào năm 2006 với tổng vốn hơn 8 tỷ đồng. Đến năm 2009, cảng được
giao về UBND tỉnh, do Sở NN & PTNT trực tiếp quản lý và chính thức đi vào hoạt
động năm 2010. Cầu cảng được xây dưng có chiều dài 105×8m, cầu phụ dài
40×3m.
Ngày cao điểm, cảng đón 36 lượt tàu, sản lượng khai thác hơn 150 tấn hải
sản các loại. Tuy nhiên, cầu tàu chỉ có tổng chiều dài 100m, bề rộng 9m nên mỗi
lượt, cảng chỉ có thể cho phép chừng 10 - 15 tàu cập bến. Chính vì thế, vào vụ cao
điểm, các tàu cá thường phải chờ từ 3 - 4 tiếng đồng hồ để xuống hàng. Mọi hoạt
động mua bán hải sản diễn ra ở đây khá nhếch nhác. Do không có nhà phân loại nên
việc phân loại cá, lấy nguyên liệu… đều diễn ra ngay tại khu vực cầu tàu chật
hẹp. Hiện nay cảng đang được đầu tư nâng cấp, mở rộng với tổng số vốn 1,2 triệu
USD (khoảng 26 tỷ đồng) từ nguồn vốn vay của Ngân hàng Thế giới. Dự án này
đang được Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông tỉnh Khánh Hòa làm chủ đầu tư
(Đình Lâm, 2014). Tại cảng không có hệ thống làm nước đá, chủ yếu được lấy từ
các cơ sở trong huyện, thành phố Nha Trang. Do đó các chủ tàu thuyền, cơ sở thu
mua, thương lái luôn trong tình trạng thiếu nước đá. Và tại cảng cũng không có kho
bảo quản đông để bảo quản nguyên liệu, tất cả được bảo quản bằng đá.

Các tàu ghé vào cảng cá không theo giờ nhất định nào. Có tàu về buổi chiều,
có tàu về nửa đêm cũng có tàu về sáng sớm nhưng hoạt động diễn ra vào 1 – 2 giờ
sáng là chủ yếu. Tàu về lúc nào cũng có người sẵn sàng để bốc dỡ và nhập cá. Cảng
cá có 16 cơ sở thu mua, trong đó chỉ 4-5 cơ sở thu mua lớn còn lại là nhỏ lẻ. Bao
gồm: Bùi Thị Nhung, Trương Thị Nhường, Nguyễn Thị Sâm, Trần Thị Sơn, Phạm
Thị Thu Thủy, Bùi Thị Nhớ, Nguyễn Thị Tâm, Nguyễn Thị Điểm, Trần Văn Thụy,
Nguyễn Thị Sai, Trần Thị Chín, Nguyễn Ngọc Dân, Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Thị
Cảnh, Nguyễn Thị Nào.
15


c. Cảng cá Vĩnh Trƣờng
Cảng cá Vĩnh Trường tọa lạc tại Cửa Bé, Nha trang, nằm cách trung tâm
thành phố Nha Trang khoảng 5km, cùng với cảng Hòn Rớ, cảng cá Vĩnh Trường là
một trong những chợ đầu mối hải sản lớn nhất miền Trung.
Quy mô cảng cá chất hẹp, luôn trong trạng thái quá tải.
Mỗi ngày cảng đón khoảng 100 lượt tàu thuyền cập bến, cùng hàng trăm tấn
hải sản các loại. Vào mùa khai thác cao điểm, cảng luôn quá tải. Các thuyền phải
xếp hàng chờ đến lượt cập cảng kéo theo sự chờ đợi của các tiểu thương.
Tàu cập cảng đa phần là các tàu nhỏ đánh bắt gần bờ, khoảng vài giờ đến 1
tuần với các hình thức đánh bắt: giã cào, trủ bao, mành đen. Chủ lực là cá cơm săn.
Hoạt động từ 2 giờ sáng đến giữa trưa 9 giờ, 10 giờ. Nguyên liệu thủy sản cập
cảng ngay lập tức được thu mua bởi các cơ quan thu mua nhỏ, tiểu thương buôn bán lẻ
và hoạt động phân loại, sơ chế hải sản diễn ra ngay tại cảng (Thuần Thư, 2012).
Sau khi việc mua bán ở cảng kết thúc, các loại hải sản được người mua bán
lẻ chở ra chợ. Do cảng cá chật hẹp nên chợ cá hình thành 2 bên lề đường Võ Thị
Sáu dài hàng trăm mét. Dịch vụ hậu cần nghề cá còn yếu, chưa có hệ thống kho
lạnh để bảo quản nguyên liệu thủy sản. Vì chưa có kho lạnh nên khi nguyên liệu
thủy sản vừa cập cảng sẽ được giữ lạnh nhờ đá bào. Có cơ sở thu mua: Bùi Thị
Nhung, Trương Thị Nhường, Nguyễn Thị Sâm, Cơ sở Trần Thị Sơn, Phạm Thị Thu

Thủy, Bùi Thị Nhớ, Nguyễn Thị Tâm và Nguyễn Thị Điểm, Trần Thị Chín và
Nguyễn Ngọc Dân, Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Thị Cảnh và Nguyễn Thị Nào, Trần
Văn Thụy, Nguyễn Thị Sai.
d. Cảng Đá Bạc
Cảng Đá Bạc nằm trên đường Nguyễn Trãi, Ba Ngòi, Thành phố Cam Ranh.
Bến cập tàu theo kiểu bến nhô, có chiều rộng 15m; chiều dài 60 m. Cảng hiện là nơi
neo đậu, làm hàng cho tàu thuyền đánh bắt thủy sản trong vùng và đi lại, giao thông
giữa các tuyến đảo. Phạm vi hấp dẫn của cảng chủ yếu là khu vực Nam Khánh Hòa
và Bắc Ninh Thuận, có nhiệm vụ quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ cảng cá và
hậu cần nghề cá nhằm tạo điều kiện khai thác, lưu thông các sản phẩm đánh bắt,
16


cung ứng kịp thời nhiên liệu, nhu yếu phẩm cho tàu thuyền và giao nhận hàng tại
cảng. Tuy nhiên, do được xây dựng từ thời Pháp thuộc, sau một thời gian khai thác
quá mức, cảng cá Đá Bạc đã xuống cấp trầm trọng. Sản lượng hàng hóa, tàu thuyền
lưu thông qua cảng đạt thấp.
Hiện nay, nhu cầu sử dụng cảng cá của ngư dân rất lớn. Nhằm tạo điều kiện
cho khai thác, lưu thông các sản phẩm đánh bắt, cung ứng kịp thời nhiên liệu, nhu
yếu phẩm cho tàu thuyền đánh bắt thủy sản, Ngành Nông nghiệp Khánh Hòa đã
không ngừng đầu tư xây dựng, nâng cao chất lượng dịch vụ cảng cá và dịch vụ hậu
cần nghề cá ở các địa phương trong tỉnh. Ngoài sự hỗ trợ của ngành Nông nghiệp và
địa phương về đầu tư cơ sở hạ tầng cảng theo hướng hiện đại, tiên tiến, Ban quản lý
cảng còn tập trung đổi mới thiết bị, công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng
dịch vụ hậu cần tại cảng như: hệ thống dịch vụ cung cấp nhiên liệu, điện, nước,
trang thiết bị nghề cá và an toàn hàng hải. Cùng với cảng cá Vĩnh Trường, Hòn Rớ,
Vĩnh Lương, Cảng cá Đá Bạc đã và đang phát huy hiệu quả, tạo đòn bẩy cho ngành
thủy sản Khánh Hòa tăng trưởng mạnh mẽ.
Số lượng tàu ra vào cảng Đá Bạc trong năm là rất lớn. Khi có bão thì trong
khu vực neo đậu của cảng có thể chứa 120 tàu thuyền với công suất >90CV. Ngoài

ra tàu nhỏ hơn 90CV còn neo đậu khoảng 100 chiếc.
Vào 5h sáng là các tàu cá đánh cá xa bờ tập kết để đưa cá lên bờ và giao dịch
với hợp tác xã/ thương lái, cơ sở thu mua, lúc này cảng rất tấp nập và đa số là tàu
đánh cá xa bờ nhanh thì vài ngày cập cảng chậm thì 1 tháng và thậm chí là hơn nữa.
Cá đánh bắt xa bờ thường là các loại cá to như Cá Ngừ, Cá Thu, Cá Cờ Và cá này
đã qua công đoạn ướp đá dưới hầm tàu lâu nên khi đưa lên bờ không còn tươi như
mới đánh bắt. Cảng hiện có 22 cơ sở thu mua hoạt động: Nguyễn Thị Kim Châu,
Chín Phương, Trần Đức Non, DNTN Thủy sản Hạnh Nhi, Bùi Chinh, Nguyễn Ngọc
Hội, Nguyễn Thị Tuyết, Trần Thái Thông, Trương Thị Kim Loan, Nguyễn Thị
Hạnh, Trần Thái Thông, Vũ Thị Ngọc Quỳnh, Bùi Thị Út, Trương Thị Kim Loan,
Tạ Thị Kim Loan, Hồ Thị Ái, Công ty TNHH TM-DV-SX Phát Lợi, Nguyễn Thị
Tuyết, Lê Thị Thông, Thanh Nhàn (Võ Văn Nhàn).
17


e. Cảng cá Đại Lãnh
Cảng cá Đại Lãnh nằm ở Quốc lộ 1A, Xã Đại Lãnh, Huyện Vạn Ninh, tỉnh
Khánh Hòa, đang được đầu tư xây dựng với quy mô đầu tư xây dựng cảng cá gồm:
bến cập tàu dài 70m, kè bảo vệ bờ 193m, nhà điều hành 108m
2
, nhà tiếp nhận thủy
sản 671m
2
, đường trong cảng 840m
2
(V.C, 2012).
Cảng là cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá phục vụ đánh bắt, tiêu thụ sản phẩm
cho khoảng 300 tàu cá có công suất đến 300CV của ngư dân các xã khu vực Đại
Lãnh và vùng phụ cận với sức chứa tối đa của cầu cảng hiện nay là 8 tàu thuyền,
nhưng đối với mùa vụ thì có khoảng hơn 100 tàu thuyền cập cảng. Cảng cá Đại

Lãnh thuộc cảng cá loại 2 nhưng đang bị quá tải, thường xuyên diễn ra tình trạng rất
nhiều tàu phải xếp hàng chờ nhiều giờ liền mới cập cảng được, gây không ít khó
khăn và trở ngại cho ngư dân.
Cơ sở hạ tầng của cảng cá còn yếu, không có hệ thống kho lạnh, cũng như
các phương tiện phục vụ bốc dỡ hiện đại. Cảng cá còn thể hiện nhiều điểm bất tiện
trong quá trình hoạt động như thiếu hệ thống bậc thang để thuận tiện cho việc vận
chuyển nguyên liệu lên cảng khi thủy triều xuống, không có hệ thống rãnh dẫn nước
gây ứ đọng nước làm ô nhiễm môi trường.
Các tàu thuyền cập cảng của không ổn định, buổi sáng thường khoảng 2h-3h
sáng, buổi chiều 14h -15h. Đa số các tàu thường khai thác vào các ngày tối trời, trừ
các ngày trăng khoảng 12-18 âm lịch hàng tháng. Riêng đối với giã cào thì có thể
khai thác vào tất cả các ngày.
Hình thức khai thác của các tàu thuyền chủ yếu là gần bờ, với nhiều loại hình
khai thác khác nhau như: trũ, giã cào, lướt rút, lưới cản, mành sản lượng khai
thác mỗi ngày của các tàu thuyền tại cảng ước tính khoảng 26tấn/ngày, gồm nhiều
loại như: cá ồ, cá nục, cá ngừ, cá hố, mực…Còn một số tàu có công suất lớn thường
là đánh bắt xa bờ, khai thác các loại hải sản có giá trị như: cá ngừ, cá thu…, nhưng
số lượng tàu đánh bắt xa bờ thường cập cảng Đại Lãnh là rất ít. Hiện có 18 cơ sở thu
mua hải sản hoạt động tại cảng cá Đại Lãnh: Công ty TNHH thủy sản Thịnh Tiến,
Công ty TNHH Thủy sản Kim Cương, Lê Minh Hà, Trương Thị Hồng Nhi, Võ Thị

×