Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá Chim vây vàng (Trachinotus blochii Lacepède, 1801) tại trại thực nghiệm Trường Cao đẳng Thủy sản Yên Hưng, Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.32 MB, 43 trang )




MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU 1
PHẦN 1: TỔNG LUẬN 3
1.1. Tình hình sản xuất giống và nuôi cá biển trong nước và thế giới 3
1.1.1. Tình hình sản xuất giống và nuôi cá biển trên thế giới 3
1.1.2. Tình hình sản xuất giống và nuôi cá biển ở Việt Nam 4
1.1.3. Tình hình sản xuất giống nhân tạo cá Chim vây vàng 5
1.2. Đặc điểm sinh học của cá chim vây vàng 6
1.2.1. Vị trí phân loại và phân bố 6
1.2.2. Đặc điểm hình thái và nhận dạng 7
1.2.3. Tập tính sống 8
1.2.4. Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng 8
1.2.4.1. Đặc điểm dinh dưỡng 8
1.2.4.2 Đặc điểm sinh trưởng 9
1.2.5. Đặc điểm sinh sản 9
1.2.6. Đặc điểm thành thục của đàn cá bố mẹ 10
1.2.7. Ca bố mẹ thành thục cho đẻ 10
PHẦN 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 11
2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu - đối tượng nghiên cứu 11
2.1.1. Địa điểm nghiên cứu 11
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu. 11
2.1.3. Thời gian nghiên cứu. 11
2.2. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sẽ sử dụng 11
2.2.1. Phương pháp tiếp cận 11
2.2.2. Mô tả tóm tắt phương pháp nghiên cứu và kỹ thuật sẽ sử dụng 11
2.2.2.1. Phương pháp xác định một số yếu tố môi trường 11


2.2.2.2. Nuôi vỗ cá bố mẹ thành thục 12
2.2.2.3. Phương pháp cho cá đẻ 12
2.3. Phương pháp xử lý số liệu 13
PHẦN 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 15
3.1. Đặc điểm khí tượng thuỷ văn khu vực nghiên cứu 15


3.1.1. Đặc điểm chung 15
3.1.2. Đặc điểm khí hậu thủy văn 15
3.2. Kết quả nuôi vỗ cá bố mẹ 17
3.2.1. Tuyển chọn cá bố mẹ đưa vào nuôi vỗ 17
3.2.2. Chăm sóc quản lý 18
3.2.2.1 Theo dõi các yếu tố môi trường 18
3.2.1.2. Thức ăn và chế độ cho ăn 20
3.2.1.3. Quản lý lồng nuôi 21
3.3. Kỹ thuật kiểm tra mức độ thành thục của cá bố mẹ 21
3.4. Kỹ thuật cho đẻ 22
3.4.1. Chọn cá bố mẹ thành thục và cho đẻ 22
3.4.2. Cho cá đẻ 23
3.4.2.1. Điều kiện lồng cho cá đẻ 23
3.3.2.2. Điều kiện môi trường cho đẻ 23
3.3.2.3. Tiêm kích dục tố 24
3.3.3. Kỹ thuật ấp nở Trứng 25
3.3.3.1. Kỹ thuật thu trứng 25
3.3.3.2. Kỹ thuật ấp nở trứng 26
3.3.3.3. Kết quả theo dõi quá trình phát triển phôi của trứng cá chim vây vàng 28
KẾT LUẬN ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 33
A. Đề xuất ý kiến 33
B. Kết luận 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO 35















DANH M

ỤC C

ÁC H

ÌNH
Trang
Hình 1: Hình Dạng cá Chim vây vàng 7
Hình 2: Biểu đồ biểu thị sự biến động các yếu tố môi trường 20
Hình 3: Giai đoạn 2 tế bào 28
Hình 4: Giai đoạn 4 tế bào 28
Hình 5: Giai đoạn 8 tế bào 29
ình 6: Giai đoạn 16 tế bào 29
Hình 7: Giai đoạn 64 tế bào 30
Hình 8: Trứng thụ tinh được 9h 45’ 30

Hình 9: Trứng thụ tinh được 11h25’ 31
Hình 10: Trứng mới nở 31
Hình 11: Cá bột 3 ngày tuổi 32

DANH MỤC PHỤ LỤC


Hình 12: Bản đồ phân bố Cá chim vây àng trên Thế giới
Hình 13: Lồng cá bố mẹ
Hình 14: Kiểm tra tuyến sinh dục
Hình 15: Tiêm kích dục tố
Hình 16: Bể ấp tại Lồng
Hình 17: Thùng lọc trứng
Hình 18: Bể ấp trứng









Mở đầu

Nghề nuôi cá biển ở Việt Nam có từ lâu đời nhưng chưa phát triển mạnh bởi thị
trường và con giống không chủ động (con giống phụ thuộc chủ yếu vào nguồn giống tự
nhiên). Từ 1990 đến nay nghề nuôi cá biển có xu thế tăng nhanh, dọc biên giới từ Móng
Cái đến Hà Tiên vùng biển nào cũng có cơ sở thu gom và nuôi giữ cá biển. Khu vực Hải
Phòng, Quảng Ninh là nơi có số lượng bè cá nhiều nhất, tính đến giữa năm 1995 số lượng

bè nuôi ở khu vực này lên tới vài chục chiếc với tổng số khoảng 300 - 400 ô lồng. Khu vực
biển miền Trung, từ Đà Nẵng đến Bình Thuận có khoảng 200 lồng và khu vực Đông Tây
Nam Bộ có trên 100 ô lồng. Ngoài hình thức nuôi lồng bè trên biển còn phát triển cả nuôi
trong ao đầm nước lợ một số đối tượng có giá trị kinh tế như cá song, vược, cá bống bớp,
cá tráp, cá măng, cá dìa….
Theo đánh giá của FAO nghề nuôi cá lồng biển của Việt Nam còn non trẻ so với
các nước trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, chúng ta có đầy đủ tiềm năng để phát
triển nghề này. Việt Nam có bờ biển dài 3260 km với nhiều eo vịnh, vùng triều rộng lớn
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển NTTS nước mặn, lợ đặc biệt là nghề nuôi cá biển. Vì
vậy nếu được đầu tư đúng mức, ngư dân và các cơ sở sản xuất tiếp nhận được kỹ thuật
nuôi tiên tiến và dã chủ động sản xuất nhân tạo giống cá biển thì nghề nuôi cá lồng biển
của Việt Nam sẽ có những bước nhảy vọt, tạo việc làm và tăng thu nhập cho đông đảo ngư
dân vùng ven biển, đem lại nguồn hàng xuất khẩu lớn cho đất nước.
Việc chọn đối tượng nuôi có ý nghĩa rất quan trọng trong nghề nuôi cá biển, đối
tượng nuôi phải có giá trị kinh tế cao, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong
và ngoài nước, đặc biệt là phải chủ động nguồn giống: cả về số lượng, chất lượng và tính
mùa vụ.
Đối với miền Bắc nước ta, ở khu vực Quảng Ninh, Hải Phòng và một số khu vực
ven biển trong vùng Vịnh Bắc Bộ, ngư dân và một số cơ sở sản xuất chủ yếu nuôi các đối
tượng: cá song, cá giò, cá hồng, cá tráp vây vàng, cá vược, cá hồng mỹ. Đây là những đối
tượng có giá trị kinh tế cao, tốc độ sinh trưởng nhanh, thị trường tiêu thụ rộng , dễ nuôi
hợp với qui mô hộ gia đình cũng như nuôi công nghiệp. Trong đó cá song, cá hồng, cá
vược được xem như là đối tượng nuôi rộng rãi hơn cả về số lượng và phân bố vùng nuôi
bởi vì những đối tượng này có giá trị kinh tế cao, tiềm năng về thị trường rãi rộng , đặc biệt


những loài cá này gần đây ở nước ta đã bước đầu sản xuất được con giống nhân tạo đáp
ứng được nhu cầu của người nuôi.
Cá chim vây vàng (Trachinotus blochii) là loài cá có giá trị kinh tế cao và là loài cá
nuôi quan trọng ở vùng biển miền Nam Trung Quốc và một số quốc gia trên thế giới, đang

được tiêu thụ mạnh ở Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc, Mỹ, Singapore. Đây
là một đối tượng mới chưa được nuôi ở Việt Nam.
Thực hiện chủ trương của Bộ Thuỷ sản về đa dạng hoá đối tượng nuôi có giá trị
kinh tế, nhằm góp phần thúc đẩy nghề nuôi cá biển ở Việt Nam, Trường Trung học Thuỷ
sản IV (nay là Trường Cao đẳng Thuỷ sản) mạnh dạn nhập công nghệ sản xuất giống nhân
tạo cá chim vây vàng để có thể chủ động được con giống cung cấp, tận dụng triệt để diện
tích mặt nước ở vùng biển Quảng Ninh nói riêng và Việt Nam nói chung.
Để tạo điều kiện cho sinh viên có điều kiện làm quen với công tác nghiên cứu và
thông nhập thực tế, hoàn thành khoá học, được sự cho phép của Ban Chủ nhiệm Khoa
Nuôi trồng Thuỷ sản - Trường Đại học Nha Trang tôi tiến hành thực hiện đề tài tốt nghiệp:
“Kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá chim vây vàng Trachinotus blochii Lacepède 1801 tại
trại thực nghiệm trường Cao đẳng Thuỷ Sản-Yên Hưng- Quảng Ninh”
Mục tiêu đề tài
- Nắm bắt được phương pháp nghiên cứu khoa học
- Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cá Chim vây vàng
Nội dung đề tài
- Kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ
- Kỹ thuật tuyển chọn cá bố mẹ cho đẻ
- Xác định các yếu tố môi trường trong bể đẻ, bể ấp
- Kỹ thuật cho đẻ
- Kỹ thuật ấp nở trứng
Vì thời gian và trình độ có hạn, tài liệu tham khảo không nhiều nên trong quá trình
thực hiện đề tài này còn nhiều thiếu sót. Kính mong thầy cô và các bạn đọc đóng góp thêm
ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn

Xin chân thành cảm ơn!





Phần 1: TỔNG LUẬN

1.1. Tình hình sản xuất giống và nuôi cá biển trong nước và thế giới
1.1.1. Tình hình sản xuất giống và nuôi cá biển trên thế giới
Cá biển là loại thực phẩm có giá trị được thị trường ưa chuộng, một số loài cá biển có
hàm lượng acid béo cao, đặc biệt là hàm hàm lượng DHA và EPA rất cần thiết cho con người.
Trong vài thập kỷ gần đây, nghề nuôi cá biển trên thế giới đã có những bước phát
tiến nhảy vọt. Một số quốc gia có nền công nghiệp khai thác cá hiện đại đã chuyển sang
nuôi biển và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng như Nauy, Nhật Bản, Trung Quốc,
Đài Loan Việc chuyển hướng từ khai thác sang nuôi trồng đã đánh dấu một bước chuyển
biến quan trọng trong việc chủ động tạo ra nguồn thực phẩm cung cấp cho xã hội, cải
thiện cuộc sống của con người, giảm dần sự lệ thuộc vào tự nhiên.
Nuôi trồng hải sản còn là phương án hữu hiệu đảm bảo cân bằng sinh thái góp phần
bảo vệ môi trường nếu như được tổ chức và kiểm soát trong phạm vi nuôi bền vững. Khi
nhu cầu tiêu dùng về các loại hải sản được đáp ứng, áp lực khai thác từ tự nhiên sẽ giảm
đặc biệt là những đối tượng hải sản quý hiếm. Đây sẽ là điều kiện để đảm bảo cho đa dạng
sinh học và sự cân bằng sinh thái tự nhiên. Tuy nhiên, việc phát triển nuôi trồng hải sản tuỳ
tiện, thiếu sự quản lý và tổ chức một cách khoa học có thể dẫn đến những tác động xấu tới
môi trường sinh thái và đa dạng sinh học. Vấn đề ô nhiễm môi trường những tác động
nguồn gen và đa dạng sinh học có thể sẽ trở thành những hiểm hoạ nếu như con người
không nhận thức được và xem xét một cách nghiêm túc.
Nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo cá biển có một lịch sử nghiên cứu khá dài.
Theo Wongsomnuk và Manevonk (1973) đã có báo cáo đầu tiên về những thành công
trong nghiên và sản xuất giống đại trà cá vược (Lates calcarifer) từ những năm giữa thập
kỷ 1970 ở Thái Lan. Từ đó sản xuất giống nhân tạo cá biển ngày càng được phát triển rộng
rãi ở Úc và các nước châu á khác như Trung Quốc, Đài loan, Nhật Bản, Indonesia… ở cá
đối (Mugil sp.), báo cáo đầu tiên trong việc vuốt trứng và cho thụ tinh được ghi nhận vào
năm 1936 bởi Sanzo và 1938 bởi Belloc. Việc kích thích cá đẻ nhân tạo chỉ được báo cáo
đầu tiên vào năm 1969 bởi Yashous. Năm 1973, Liao đã tổng kết những kết quả sản xuất
giống cá này ở Đài Loan từ những năm 1963 - 1973. Từ đó, sản xuất giống cá đối cũng đã

tiếp tục được hoàn thiện và ứng dụng ở một số nước.


Năm 1990, Đài loan sản xuất 152 triệu ấu trùng cá biển, trong đó có 130 triệu cá
măng, 5 triệu cá Acanthopagus chlegeli, 2 triệu cá tráp vàng Acanthpagus latus, 3 triệu cá
vược Nhật Bản Lateolabrax japonicus, 3 triệu cá tráp bạc Sparus sarba, 2 triệu cá song
Epinephelus malabaricus, 2 triệu cá tráp đỏ Pagrus major, 2 triệu cá hồng bạc Lutjanus
argetimaculatus, 1 triệu cá vược Lates calcarifer và còn lại là ấu trùng các loại cá khác
(Liao, 1991). Cũng theo thống kê năm 1987, Nhật Bản sản xuất giống các loài cá biển nuôi
chủ yếu gồm 58.266.000 con Pagrus major, 1.192.000 con ca cam Seriola quenqueradia
(Takeshi và Minoru, 1990). Thái Lan, hàng năm sản xuất được khoảng 1.200 tấn cá vược,
chủ yếu từ nguồn giống nhân tạo (Kong Keo, 1991). Philippines, cá Măng được xem là đối
tượng nuôi quan trọng nhất, sản lượng năm 1987 là 211.125 triệu tấn cá thịt (Rogelio và
Carlos, 1990). Trong khi đó, các nước châu Âu, cá chẽm loài Dicentrachus labrax là loài
được ưa chuộng trong nghề nuôi và sản xuất giống. Số liệu thống kê cũng cho biết, số
lượng cá chẽm con sản xuất được năm 1987. Pháp, Ý, Hy Lạp lần lượt là 2,6 triệu, 5 triệu,
3 triệu con. Ví dụ: năm 1987, Anh sản xuất 230.000 con, Pháp: 75.000 con, Tây Ban Nha:
265.000 con, và Na - Uy là 110.000 con.
Bảng 1. Sản lượng cá biển của một số nước trên thế giới

Quèc gia Năm
Số lượng cá
biển (tấn)
Nguồn
Nauy 1998 550.000 (Hjelt, 2000)
Nhật Bản 1997 250.000 (Takashma & Arimoto, 2000).
Úc 1998 186.000 O
,
Sullivan & Roberts, 1999
Hàn Quốc 1999 40.000 Kim,2000

Philippine 1999 10.000 Marte et al, 2000
Malaysia 1997 5.621 Shariff & Gopinath, 2000
Việt Nam 1998 540 Tuan et al, 2000
2002 2.626 Luu, 2002

1.1.2. Tình hình sản xuất giống và nuôi cá biển ở Việt Nam
Đối với những loài cá nước ngọt, khả năng sản xuất giống trong những năm gần
đây để cung cấp cho ngư dân và các cơ sở nuôi trồng thuỷ sản được coi như tương đối
thành công và đã đáp ứng được nhu cầu về con giống cho nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt


của nước ta (cả nước có 400 trại sản xuất cá giống). Mặt khác, đối với những loài cá nước
mặn thì việc tìm hiểu đặc điểm sinh học (sinh sản, tập tính sống, phân bố, nhất là các điều
kiện sinh sản ) của đối tượng để đưa vào sản xuất là vô cùng khó khăn và phức tạp, có
khi phải mất nhiều năm liền, tốn kém về nhân lực và tiền của.
Ở nước ta, trước đây hầu hết nguồn cá giống cung cấp cho nghề nuôi lồng bè trên
biển, chủ yếu là dựa vào khai thác ngoài tự nhiên bằng cách bẫy hoặc dùng lưới; vì vậy
nguồn cung cấp giống chưa được chủ động, hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên và khả
năng đánh bắt của các ngư dân, chưa đáp ứng được nhu cầu về số lượng, chất lượng và tính
thời gian của con giống cho nghề nuôi cá lồng bè trên biển cả ở qui mô gia đình và qui mô
công nghiệp. Mặt khác, việc khai thác giống tự nhiên vượt quá khả năng tái tạo quần đàn
đã đến mức báo động. Theo điều tra của (Đoàn Văn Đẩu 1998) cho thấy sản lượng cá
giống khai thác đã có dấu hiệu suy giảm. Hơn nữa giống khai thác tự nhiên thường không
đảm bảo về mặt chất lượng và số lượng cũng như mùa vụ nuôi.
Từ năm 1993 viện Nghiên cứu Hải sản - Hải Phòng đã tiến hành nghiên cứu sinh
sản nhân tạo một số loài cá biển có giá trị kinh tế : cá song, cá giò, cá hồng và cá tráp. Năm
1994 - 1995 tại viện Nghiên cứu Hải sản - Hải Phòng bước đầu đã cho sinh sản được cá
song, cá giò, cá hồng và cá tráp, nhưng tỷ lệ sống của cá bột đến cá giống còn rất thấp.
Năm 1999 Viện Nghiên cứu Hải sản thành công trong sinh sản nhân tạo cá giò, đã cung
cấp trên 10.000 cá giống cỡ 10 -15cm cho ngư dân và một số cơ sở sản xuất nuôi lồng trên

biển của Quảng Ninh, Hải Phòng. Kết quả nuôi đạt rất tốt, cá sinh trưởng nhanh đạt 300 -
400gam/3 tháng nuôi, tỷ lệ sống cao, ít bệnh tật. Năm 2002 Viện Nghiên cứu nuôi trồng
Thuỷ sản I đã nhập công nghệ và sản xuất thành công giống cá song tại Cát Bà (Hải
Phòng). Đây là kết quả bước đầu rất đáng được trân trọng, bởi nó đã hé mở một khả năng
tạo hàng loạt con cá song giống bằng con đường sinh sản nhân tạo, góp phần thúc đẩy nghề
nuôi biển phát triển một cách ổn định.
Năm 2005, 2006 Trung tâm khuyến ngư Quốc gia phối hợp với trường Cao đẳng
Thuỷ sản đã nhập công nghệ sản xuất giống nhân tạo cá tráp vây vàng và cá hồng đỏ.
1.1.3. Tình hình sản xuất giống nhân tạo cá Chim vây vàng
Đài Loan năm 1986 Lâm Liệt Đường đã thu gom 126 con cá chim vây vàng loại
nhỏ, loại vừa và lớn nuôi chung với nhau. Năm 1989 bắt đầu thực nghiệm cho sinh sản
nhân tạo, qua 5 lần tiêm kích dục tố trong đó 4 lần cho đẻ trứng thụ tinh thành công, thu
được trên 900 vạn trứng số trứng thụ tinh trên 500 vạn trứng, qua nhiều hình thức thực


nghiệm ương nuôi cuối cùng thu được 38,6 vạn giống kích cỡ 2 – 3 cm. Đây là lần đầu tiên
sinh sản nhân tạo cá chim vây vàng thành công, năm 1991 tăng thêm đàn cá bố mẹ cho
tiến hành sinh sản nhân tạo (Lê Tổ Phúc, 2005).
Năm 1993 Trung tâm chuyển giao công nghệ trường Đại học Trung Sơn kết hợp
với Trạm nghiên cứu giống thuỷ sản Quảng Đông - Trung Quốc nghiên cứu cho sinh sản
nhân tạo thành công cá chim vây vàng trên qui mô nhỏ (ương nuôi ấu trùng trong bể xi
măng). Năm 1998 trung tâm kết hợp với Công ty trách nhiệm hữu hạn giống Thuỷ sản
Thắng Lợi - Hải Nam - Trung Quốc nghiên cứu thành công sản xuất giống nhân tạo trên
qui mô lớn (ương nuôi ấu trùng trong ao đất).
Ở Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu nào về sinh sản nhân tạo cá chim vây
vàng, các nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở mức độ phân loại. Với mong muốn đóng góp phần
nào cho nghề nuôi cá biển Việt Nam,Trường Cao đẳng Thuỷ sản năm 2006 đã nhập công
nghệ sản xuất giống cá Chim vây vàng và đã đạt được hiệu quả như tỷ lệ đẻ trung bình
87,5%, tỷ lệ thụ tinh trung bình 60%, tỷ lệ nở trung bình đạt 80%, tỷ lệ sống từ cá bột lên
cá hương trung bình đạt 30% và đã sản xuất được 65.000 con giống cỡ 4- 6 cm.


1.2. Đặc điểm sinh học của cá chim vây vàng
1.2.1. Vị trí phân loại và phân bố
Ngành: Vertebrata
Lớp: osteichthyes
Bộ: Perciformes
Họ: Carangidae
Giống: Trachinotus
Loài: Trachinotus blochii (Lacepède 1801)
Tên tiếng Việt: cá chim vây vàng
Tên tiếng Anh: snub-nose pompano
Trachinotus ovatus (non Linnaeus, 1758)
Trachinotus fuscus (Cuvier, 1832)
(Nguồn: trang web của FishBase)

Cá chim vây vàng Trachinotus blochii Lacepède 1801 phân bố ở biển miền Nam
Nhật Bản, Tây Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Đại Tây Dương. Vùng biển nhiệt đới và


Á nhiệt đới, vùng biển Đông Nam Á và vùng biển Tây Châu Phi. Ở Trung Quốc chúng
phân bố vùng biển Đông Hải, Nam Hải, Hoàng Hải, vùng biển Quảng Đông, Quảng Tây,
Hải Nam, Phúc Kiến. Cá Chim vây vàng cũng đã tìm thấy ở vùng biển nước ta.
1.2.2. Đặc điểm hình thái và nhận dạng
Cơ thể hơi tròn, cao và bề bên dẹp chính giữa lưng hình vòng cung. Vây lưng I, V -
VI. I.19 - 20. Vòng mông II, I. 17- 18, vây ngực 19, vây bụng 15, vây đuôi 17. Trên đường
bên vẩy sắp xếp khoảng 135 – 136 cái, chiều dài so với chiều cao 1,6 - 1,7 lần, so với chiều
dài đầu 3,5 - 4 lần, cuống đuôi ngắn và dẹp, đầu nhỏ chiều cao đầu lớn hơn chiều dài.
Xương ở chính giữa bề lưng của đầu rõ ràng, chiều dài của đầu so với môi dài 5,1- 6,2 lần,
so với đường kính mắt 3,9 - 4,3 lần, môi tù phía trước hình cắt cụt đường










K




Hình 1: Hình dạng cá Chim vây vàng
kính mắt dài hơn môi 1,2 - 1,6 lần. Mắt vị trí về phía trước nhỏ, màng mỡ mắt không phát
triển, lỗ mũi môi bên 2 cái gần nhau, lỗ mũi trước nhỏ hình tròn, lỗ mũi sau to hình bầu dục.
Miệng nhỏ xiên, xương hàm trên lồi, hàm trên và hàm dưới có răng nhỏ hình lông,
răng phía sau dần thoái hoá, lưỡi không có răng, rìa phía trước xương nắp mang hình cung
tương đối to, rìa sau cong. Xương nắp mang phía sau trơn, màng nắp mang tách rời, tia
mang 8- 9 cây tia mang ngắn, sắp xếp thưa 5 + 7 – 8 đoạn cuối của tia mang phía trên và
dưới có một số thoái hoá, bộ phận đầu không có vảy, cơ thể có nhiều vẩy tròn nhỏ dính vào


dưới da. Vây lưng thứ 2 và vây hậu môn có vẩy, phía trước đường bên hình cung cong tròn
tương đối lớn, trên đường bên vảy không có gờ, vây lưng thứ 1 hướng về phía trước, gai
bằng và có 5 - 6 gai ngắn. Cá giống giữa các gai có màng liền nhau, cá trưởng thành màng
thoái hoá thành những gai tách rời nhau, vây lưng thứ 2 có 1 gai và 19 - 20 tia vây, phần
trước của vây kéo dài hình như lưỡi liềm. Tia vây dài nhất gấp chiều dài của đầu 1,2 - 1,3
lần, vây hậu môn có 1 gai và 17 - 18 tia vây, phía trước có 2 gai ngắn, vây hậu môn và vây
lưng thứ 2 hình dạng như nhau, trong đó tia vây dài nhất gấp 1,1 - 1,2 chiều dài của đầu.

Vây ngực tương đối ngắn, ngắn hơn chiều dài của đầu, vây đuôi hình trăng lưỡi liềm. Ruột
uốn cong 3 lần (chiều dài ruột/ chiều dài của cá là 0,8). Xương sống 10 + 14, lưng màu tro
bạc, bụng màu ánh bạc, mình không có vân đen, vây lưng màu ánh bạc vàng, rìa vây màu
tro đen, vây hậu môn màu ánh bạc vàng, vây đuôi màu vàng tro.
1.2.3. Tập tính sống
Cá chim vây vàng là loài cá nước ấm sống ở tầng giữa và tầng trên là loài cá hồi
lưu. Ở giai đoạn cá giống hàng năm sau mùa đông thường sống ở vùng vịnh cửa sông,
sống theo đàn. Cá trưởng thành bơi ra vùng biển sâu, nhiệt độ thích hợp 16 - 360C, sinh
trưởng tốt nhất 22 - 28
0
C, là loài cá thuộc loại rộng muối, phạm vi thích hợp từ 3 - 33‰
dưới 20‰ cá sinh trưởng nhanh, trong điều kiện độ mặn cao tốc độ sinh trưởng của cá
chậm. Khả năng chịu đựng nhiệt độ tương đối kém, ban đêm không ngừng bơi nhanh.
Hằng năm cuối tháng 12 đến đầu tháng 3 năm sau là thời kỳ qua đông cá không ăn thức ăn,
thông thường nhiệt độ thấp dưới 16
0
C cá chim vây vàng ngừng bắt mồi, nhiệt độ thấp nhất
mà cá chịu đựng là 14
0
C nếu hai ngày nhiệt độ dưới 14
0
C cá sẽ chết. Oxy hòa tan thấp nhất
2,5 mg/lít. Cá có sức kháng bệnh cao do nuôi chung với các loại khác phát hiện nếu cá
song do trùng bánh xe, bệnh đốm trắng, bệnh ngoài da, cá tráp đen, tráp vây vàng bệnh về
mang chết hàng loạt còn cá chim vây vàng vẫn bình thường không chịu ảnh hưởng. Việc
vận chuyển dễ dàng, cá nuôi ở lồng lưới có thể chuyển vào bể xi măng vẩy của cá không
dễ bị bong ra, khả năng vận chuyển không dễ bị tổn thương, khả năng chịu đựng tốt. Trong
điều kiện ương nuôi cá con không ăn thịt lẫn nhau.
1.2.4. Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng
1.2.4.1. Đặc điểm dinh dưỡng

Cá chim vây vàng là loài cá ăn thịt, đầu tù, miệng ở phía trước bành ra 2 bên. Cá
hương có răng nhỏ, cá trưởng thành răng thoái hóa. Cuống mang ngắn và thưa đặc điểm
này khiến cá có thể dùng đầu tìm kiếm thức ăn ở trong cát, cá trưởng thành có thể bắt mồi


sinh vật vỏ cứng như ngao, cua, vỏ ốc Giai đoạn cá bột thức ăn là các loài phù du sinh
vật và các động vật đáy, chủ yếu là ấu thể copepoda. Cá con ăn các loại đa mao, các loài
hai mảnh vỏ nhỏ. Cá trưởng thành thức ăn chính là các loài tôm, cá nhỏ Trong điều kiện
nuôi cá dài 2cm, thức ăn là cá tạp xay nhỏ, tôm tép xay nhỏ, cá trưởng thành ăn tôm cá
băm nhỏ pha thức ăn công nghiệp. Cho ăn vào thời gian buổi sáng hoặc trước hoàng hôn,
có thể sử dụng máy tự động cho ăn. Trong điều kiện môi trường nước bình thường cá chim
vây vàng có hệ số bắt mồi thay đổi theo nhiệt độ nước.
Bảng 2. Quan hệ giữa hệ số bắt mồi của cá chim vây vàng và sự thay đổi nhiệt độ
nước (theo Lâm Cẩm Tôn (1995).

Dao động

15 - 18 18 - 20 21 - 23

22 - 25

23,6 - 26,4

26,2 - 28,1

27,2 - 28,2

Nhiệt độ
nước (t
0

C)

TB 17,0 18,6 21,2 23,6 25,8 27,0 28,0
Dao động

1,2 - 1,9

1,5 - 4,2

2,3 - 5

4 - 11 9,4 - 16 8,8 - 15 8,2 - 17
Hệ số bắt
mồi (%)
TB 1,2 3,0 3,4 7,0 13,9 12,6 13,7

1.2.4.2. Đặc điểm sinh trưởng:
Cá chim vây vàng có kích thước tương đối lớn, nhìn chung chiều dài có thể đạt 45 -
60cm Cá sinh trưởng nhanh, trong điều kiện nuôi bình thường một năm có thể đạt quy
cách cá thương phẩm cỡ 0,5 – 0,7kg. Từ năm thứ hai trở đi mỗi năm trọng lượng tuyệt đối
tăng là 1 kg, Trương Bang Kiệt (2001) thực nghiệm nuôi ở ao với cá 0
+
tuổi thời kỳ đầu
sinh trưởng chậm cá dài 2,6 cm trọng lượng 0,52 g qua 192 ngày nuôi cá dài 9,9 cm, trọng
lượng 20,53g bình quân ngày trọng lượng tăng 0,6g, hệ số tăng trưởng ngày 1,04%.
1.2.5. Đặc điểm sinh sản
Mùa sinh sản của cá chim vây vàng từ tháng 4 đến tháng 5 và duy trì cho đến tháng
8 - 9. Sức sinh sản của cá thể 40 - 60 vạn trứng. Trong thiên nhiên cá hương 1,2 - 2cm bắt
đầu bơi vào vùng biển cạn, cá lớn 13 - 15cm bắt đầu di cư từ vùng biển cạn ra vùng biển
sâu. Tuổi thành thục của cá chim vây vàng theo Phương Vĩnh Cường (1996) qua nghiên

cứu chỉ rõ: cá 1- 2 tuổi trong buồng trứng noãn nguyên bào lần đầu tiên tiền kỳ phân liệt
thành thục, cá 3 - 4 tuổi mới bắt đầu đi vào thời kỳ tiền sinh trưởng sau đó đến lịch trình
phát dục bao gồm phát sinh noãn hoàn phôi bào di chuyển và thành thục, tế bào noãn mẹ
thành thục.


Hiện nay, ngoài tự nhiên cá thành thục ở 7 – 8 tuổi nếu muốn cho cá thành thục
sớm cần phải tiêm kích dục tố, nuôi vỗ cá bố mẹ một cách khoa học. Trong thực tiễn sản
xuất chứng minh: cá chim vây vàng 4 tuổi tuyến sinh dục đạt độ thành thục, qua đó kích
thích cá có thể phóng trứng thụ tinh và ấp nở thành cá bột bình thường [6].
1.2.6. Đặc điểm thành thục của đàn cá bố mẹ
Kiểm tra mức độ thành thục của cá thường được tiến hành trước 1 tuần trước khi cá
đẻ nhằm:
- Quyết định thời điểm cá đẻ thích hợp.
- Chỉ có cá bố mẹ có tuyến sinh dục thành thục ở mức độ nhất định mới có thể dục đẻ.
Tiêu chuẩn chọn cá cái cho sinh sản: Trứng lấy kiểm tra bằng dụng cụ là ống hút
nhựa (polyethylene cannula) có đường kính 1mm. Đưa ống hút trứng vào trong ống dẫn
trứng khoảng 6- 7cm và hút trứng vào ống khi rút ống ra. Trứng tròn, sáng, rời và đều
nhau, đường kính trứng cần đạt đến kích thước từ 0,4 - 0,5mm. Các hạt noãn hoàng phân
bố đều, không còn khoảng cách giữa noãn hoàng và nang trứng.
Tiêu chuẩn cá đực: Cho sẹ đặc màu trắng tan nhanh trong nước khi vuốt hoặc hút
bằng ống silicon có đường kính 1mm.
Trong quá trình nuôi vỗ định kỳ 15 ngày kiểm tra mức độ thành thục của tuyến sinh
dục một lần để có biện pháp cho đẻ kịp thời
1.2.7. Cá bố mẹ thành thục cho đẻ
Cá bố mẹ thành thục cho đẻ: chọn cá cái thành thục, sử dụng kết hợp 2 phương
pháp chọn ngoại hình và thăm trứng.
- Cá đực tiến hành dùng ống nhựa mềm để hút tinh dịch ra ngoài, nếu thấy tinh màu
trắng sữa, đặc, tan nhanh trong nước là tốt hoặc vuốt nhẹ thấy sẹ đặc có màu trắng sữa
chảy ra và dễ tan trong nước. ống nhựa mềm có đường kính = 1mm để thăm trứng.

- Cá cái: Dùng ống thăm trứng để hút trứng kiểm tra nếu thấy trứng tròn đều, màng
trứng rõ ràng, nhân hơi lệch về phía cực động vật thì có thể chọn cho cá đẻ. Nếu trứng
chưa căng tròn đều, dính lại với nhau và có màu xanh nhạt chứng tỏ trứng còn non.







Phần 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu - đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Địa điểm nghiên cứu
Trại thực nghiệm nuôi trồng Thuỷ sản Quảng Ninh - Trường Cao đẳng Thuỷ sản.
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu.
Cá Chim vây vàng Trachinotus blochii Lacepède 1801.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu.
Từ tháng 30/7/2007 đến tháng 10/11/2007
2.2. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng
2.2.1. Phương pháp tiếp cận
- Căn cứ vào các tài liệu, các nguồn thông tin trong và ngoài nước có liên quan đến
đối tượng nghiên cứu như: những thông tin tiếp cận được thu thập từ những tài liệu được
công bố trên tạp chí và internet về đối tượng này bao gồm đặc điểm sinh học, kết quả
nghiên cứu về sinh sản nhân tạo
- Nghiên cứu ứng dụng này dựa trên những thành công và ứng dụng thực tế của
một số tác giả trước và một số đối tượng cá biển khác.
2.2.2. Mô tả tóm tắt phương pháp nghiên cứu và kỹ thuật sẽ sử dụng
2.2.2.1. Phương pháp xác định một số yếu tố môi trường
* Phương pháp xác định

+ Nhiệt độ nước đo bằng nhiệt kế thuỷ ngân với độ chính xác đến 1
o
C.
+ Xác định độ mặn bằng máy đo khúc xạ kế với độ chính xác đến 1‰.
+ Xác định hàm lượng oxy hoà tan bằng phương pháp máy đo oxy độ chính xác
0.01mg/lít.
+ Xác định độ pH bằng phương pháp so màu dung dịch pH Test kist với độ chính
xác đến 0,1.
* Cách tiến hành
+ Đo các yếu tố môi trường: thu mẫu trực tiếp ở lồng nuôi vỗ, lồng đẻ, bể ấp.
+ Nhiệt độ, pH được xác định ngày hai lần vào lúc 6h và 14h.
+ Độ mặn đo một lần/ngày vào lúc 14h.



2.2.2.2. Nuôi vỗ cá bố mẹ thành thục
Nuôi vỗ cá bố mẹ là một trong những khâu kỹ thuật hết sức quan trọng, kỹ thuật
nuôi luôn ảnh hưởng lớn đến quá trình thành thục, tỷ lệ thành thục. Sự thành thục của cá bố
mẹ có quan hệ chặt chẽ đến chế độ dinh dưỡng, không chỉ phụ thuộc vào khối lượng thức
ăn mà còn phụ thuộc vào chất lượng thức ăn. Thức ăn hàng ngày là cá đối, cá nhạc, mực
còn tươi, cho ăn cho ăn theo nhu cầu của cá. Trong quá trình nuôi vỗ chúng tôi bổ sung
thêm Vitamine E một lần vào trong thức ăn với liều lượng 10UI/kg cá cứ 7 ngày cho ăn 1
lần. Vitamine E có vai trò quan trọng trong việc điều khiển sinh sản, chức năng sinh dục,
thực bào và ôxy hoá nội bào ở cá. Sự thiếu hụt Vitamine E sẽ ảnh hưởng đến mức độ thành
thục, tỷ lệ nở, và tỷ lệ sống của cá con. Ngày cho cá ăn 2 lần vào buổi sáng và buổi chiều.
Cá bố mẹ được tuyển chọn có trọng lượng từ 2 – 6kg, tuổi từ 3
+
trở lên, cá khỏe
mạnh, không bị xây xát, không bị bệnh, sắc tố cá bình thường, hoạt động linh hoạt, được
nuôi vỗ trong lồng có kích thước là 3x3x3 m, kích thước mắt lưới lồng nuôi là 5cm. Tỷ lệ

đực cái là 1:1, mật độ 3 – 5kg/m
3
.
Kiểm tra mức độ thành thục của cá thường được tiến hành trước 1 tuần trước khi cá
đẻ nhằm:
- Quyết định thời điểm cá đẻ thích hợp.
- Chỉ có cá bố mẹ có tuyến sinh dục thành thục ở mức độ nhất định mới có thể dục đẻ.
Tiêu chuẩn chọn cá cái cho sinh sản: trứng lấy kiểm tra bằng dụng cụ là ống hút
nhựa (polyethylene cannula) có đường kính 1mm. Đưa ống hút trứng vào trong ống dẫn
trứng khoảng 6- 7cm và hút trứng vào ống khi rút ống ra. Trứng tròn, sáng, rời và đều
nhau, đường kính trứng cần đạt đến kích thước từ 0,4 - 0,5mm. Các hạt noãn hoàng phân
bố đều, không còn khoảng cách giữa noãn hoàng và nang trứng.
Tiêu chuẩn cá đực: Cho sẹ đặc màu trắng tan nhanh trong nước khi vuốt hoặc hút
bằng ống silicon có đường kính 1mm.
Đến mùa sinh sản (tháng 4 - 10) tập trung vào tháng 4 - 6. định kỳ 15 ngày kiểm tra
mức độ thành thục của cá bố mẹ một lần bằng cách lấy trứng thông qua thăm trứng, kiểm
tra tinh dịch của cá đực. Thông qua kết quả kiểm tra, xác định mức độ thành thục, thời gian
thành thục và để tiến hành cho sinh sản nhân tạo.





2.2.2.3. Phương pháp cho cá đẻ
- Cho cá đẻ tại lồng: có thể tích 27 m
3
. Kích dục tố được sử dụng ở đây là LRH-A
hoặc HCG chuyên dùng cho cá biển do Trung Quốc sản xuất hoặc dùng biện pháp sinh
thái là kích nước để cho sinh sản.
- Kỹ thuật sẽ sử dụng:

+ Chọn cá bố mẹ cho đẻ dựa vào mức độ thành thục của tế bào trứng (kích thước,
màu sắc, độ rời của tế bào trứng ) kết hợp quan sát ngoại hình như độ mềm của bụng, lỗ
sinh dục hơi phồng lên, với cá đực thì kiểm tra tinh dịch thông qua vuốt hoặc dùng ống
nhựa mềm hút ra.
+ Sử dụng chất kích thích sinh sản là LRH-A với liều lượng 20 - 30µg/1kg cá cái
hoặc HCG với liều lượng 2000 – 3000 UI/kg cá cái. Chất kích thích sinh sản được tiêm
một lần, liều lượng thuốc tiêm cho cá đực bằng 1/2 liều lượng của cá cái, tỷ lệ đực cái là
1:1, vị trí tiêm là ở gốc vây ngực của cá hoặc là phần cơ dưới vây lưng.
+ Các yếu tố môi trường cho cá đẻ tại lồng và ấp nở trứng cá thụ tinh trong bể
composite đảm bảo:
Bảng 3: Các yếu tố môi trường thích hợp cho quá trình ấp nở
Nhiệt độ

(
o
C)
Độ mặn (
0
/
00
) pH DO (mg/l)
28 35 8,2 6,0
+ Tính toán số lượng trứng thu được theo phương pháp thể tích.
+ Theo dõi sự phát triển phôi của cá và chụp ảnh trên kính hiển vi có gắn máy chụp ảnh.
- Nội dung cần đạt được
+ Xác định được hình thức sinh sản thích hợp cho từng thời điểm.
+ Xác định được các thông số kỹ thuật về sinh sản nhân tạo (thời gian hiệu ứng của
thuốc, tỷ lệ đẻ, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở, tỷ lệ ra bột).
Trứng được ấp trong bể composite có thể tích 1 m
3

, nước dùng để ấp là nước biển
lọc sạch, yêu cầu râm mát, chiều cao bể là 1m.
2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Tổng số cá thành thục
* Xác định tỷ lệ thành thục: = x 100%
Tổng số cá đưa vào nuôi vỗ

Tổng số cá tham gia đẻ trứng
* Xác định tỷ lệ đẻ: = x 100%
Tổng số cá cái đưa vào cho đẻ



Tổng số trứng thụ tinh
* Xác định tỷ lệ thụ tinh: = x 100%
Tổng số trứng cá đẻ ra


Tổng số cá mới nở
* Xác định tỷ lệ nở: = x 100%
Tổng số trứng thụ tinh

- Tính giá trị trung bình:



+ Trong đó X giá trị trung bình của cá trong lần kiểm tra (khối lượng (g), chiều
dài(mm))
+ Xi: là giá trị về chiều dài hoặc khối lượng của cá thể thứ i trong lần kiểm tra.
+ n: là độ lớn của mẫu (Số cá thể của mẫu trong lần kiểm tra).

Tất cả các số liệu thu thập được xử lý dựa trên phần mềm thống kê sinh học Excel.

n
1
X

=
n
i
Xi
1


Phần 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Đặc điểm khí tượng thuỷ văn khu vực nghiên cứu
3.1.1. Đặc điểm chung
Quảng Ninh là tỉnh duyên hải nằm ven bờ Tây của Vịnh Bắc Bộ. Ven biển Quảng
Ninh được che chắn bởi những dãy núi, có nhiều áng, vịnh và một số đảo lớn nhô ra biển.
Phía Đông vịnh Bắc Bộ được chắn bởi các bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam –Trung
Quốc tạo cho vịnh có địa hình nửa kín, nửa hở. Chính vì vậy mà vùng biển Quảng Ninh có
phần nào hạn chế điều kiện thông thương với nguồn nước của biển Đông.
Ven biển Quảng Ninh nằm trong điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa, sự biến động
lớn của vùng này chịu ảnh hưởng lớn của áp thấp nhiệt đới và bão Tây Thái Bình Dương.
Hai hệ thống gió mùa Đông Bắc và Tây Nam đã khống chế đến thời tiết tại thời điểm này.
Mùa gió Đông Bắc được tính từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 của năm sau và gió mùa
Tây Nam được tính từ tháng 5 cho đến tháng 9. Các tháng 4 và 10 được coi như giai đoạn
chuyển tiếp giữa các mùa thời tiết trong năm.
Với địa hình đường bờ phức tạp, có nhiều núi cao che chắn; là vùng vịnh với nhiều
đảo nhỏ, cao thấp khác nhau do vậy điều kiện khí tượng ở đây khá phức tạp.

3.1.2. Đặc điểm khí hậu thủy văn
* Chế độ gió:
Vùng biển Quảng Ninh nằm trong điều kiện khí hậu nhiệt đới gió màu, sự biến
động về thời tiết của vùng biển này chịu ảnh hưởng lớn của áp thấp nhiệt đới và bão Tây
Thái Bình Dương. Hai hệ thống gió mùa Đông Bắc và Tây Nam đã khống chế đến thời tiết
của vùng biển này.
Vùng ven biển Quảng Ninh, gió mùa Đông Bắc thịnh hành từ tháng 10 năm trước
đến tháng 3 năm sau, hướng gió chủ yếu trong thời gian này thường là hướng Đông Bấc,
Bắc. Tốc độ gió trung bình 2,5 – 4,0m/s, tốc độ gió lớn nhất từ 15 – 25m/s, trong những
đợt gió mùa Đông Bắc mạnh có thể đạt tới 30m/s.
Gió mùa Tây Nam thịnh hành từ tháng 4 – 9, hướng gió chủ yếu trong thời gian này
thường là hướng Đông và Nam. Tốc độ gió trung bình 2,5 – 3,0m/s, tốc độ gió lớn nhất
đến 20 – 25m/s, khi có bão tốc độ gió cực đại có thể lên tới 40 – 45m/s.


Các tháng 4 và 10 là giai đoạn chuyển tiếp giữa các mùa thời tiết trong năm cho
nên hướng gió thường không ổn định và hay phân tán.
* Chế độ mưa:
Mùa mưa vùng Quảng Ninh thường phù hợp với gió mùa Tây Nam, mùa mưa được
tính và tháng 5 và kết thúc vào tháng 10.
Lượng mưa trung bình năm đạt tới 2.500 – 3000mm. Số ngày mưa trong năm là
150 – 160 ngày. Mưa nhiều nhất là vào tháng 7, lượng mưa trung bình tháng lên tới 500 –
600mm. Lượng mưa trung bình của các tháng giữa mùa mưa dao động thường từ 300 –
400mm. Khi có bão thường xảy ra mưa lớn, lượng mưa trong một lần có thể lên tới 500 –
700mm.
Mùa khô trùng với mùa gió Đông Bắc kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 4
năm sau, từ tháng 1 đến tháng 4 còn quan sát thấy mưa phùn, số ngày mưa phùn trong
tháng 2 và 3 có thể lên tới 10 ngày trong tháng nhưng lượng mưa rất nhỏ thường dưới
50mm.
* Độ ẩm không khí:

Khu vực Quảng Ninh có độ ẩm không khí tương đối cao, độ ẩm không khí trung
bình năm là 80 – 85%. Có sự chênh lệch độ ẩm giữa các vùng phụ thuộc vào độ cao và địa
hình nhưng không lớn. Độ ẩm có sự phân hóa theo mùa, mùa mưa độ ẩm không khí cao
hơn những mùa khác
* Thủy triều:
Vùng ven biển Quảng Ninh có biên độ thủy triều lớn nhất trong dải bờ biẻn Việt
Nam, biên độ thủy triều trung bình 3,6 đến 4,0 m và giảm dần từ Bắc vào Nam. Thủy triều
ở đây thuộc chế độ nhật triều, trong một ngày có 1 lần nước lên và một lần nước xuống,
trong một tháng có 2 kỳ triều cường và 1 lần triều kiệt.
* Nhiệt độ không khí:
Nhiệt độ không khí ở khu này nằm chung trong chế độ nhiệt không khí trên toàn
biển Đông. Theo số liệu thống kê hàng năm thì nhiệt độ không khí trung bình thấp nhất và
tháng 1 và tháng 2 là 16,92
o
C và cao nhất vào tháng 7 là 29
o
C. Theo số liệu quan trắc tại
đài Phù Liễn từ năm 1906 đến năm 1982 đã ghi được nhiệt độ tối cao tuyệt đối là 40,8
o
C
vào tháng 5 năm 1926 và giá trị thấp nhất là 5,9
o
C vào tháng 1 năm 1917.




* Nhiệt độ nước biển:
Nhiệt độ nước biển thấp nhất vào tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau trung
bình vào khoảng xấp xỉ trên dưới 15

o
C, nhiệt độ trung bình cao nhất vào mùa hè đạt 31
o
C.
* Độ mặn:
Độ mặn cao nhất vào các tháng mùa mưa dao động từ 30 – 33
0
/
00
, độ mặn thấp nhất
vào các tháng mùa khô dao động trong khoảng 15 – 25
0
/
00
. Biện độ về độ mặn tầng mặt ở
vùng biển này thường nhỏ hơn 6,0
0
/
00
, vùng có biên độ năm lớn hơn 10
0
/
00
thường thấy ở
các vùng cửa sông.
* Thành phần loài của thực vật phù du.
Theo kết quả điều tra của Phạm Thược năm 2004 – 2005 thấy rằng vùng biển
Quảng Ninh xuất hiện 4 ngành tảo sau:
- Tảo silíc (Bacillariophyta) có số lượng loài dao động từ 93 loài đến 117 loài.
- Tảo giáp (Pyrrophyta) có từ 29 đến 39 loài.

- Tảo lam (Cyanophyta) có 02 loài.
- Tảo kim (Silicoflagelleta) có 2 loài.
3.2. Kết quả nuôi vỗ cá bố mẹ
3.2.1. Tuyển chọn cá bố mẹ đưa vào nuôi vỗ
Cá bố mẹ được tuyển chọn phải đạt các yêu cầu kỹ thuật bằng các biện pháp chọn
lọc hàng loạt kể từ khi ở giai đoạn cá bột, cá hương, cá giống, cá trưởng thành.
Từ thời kỳ cá giống chọn những cá thể cùng đẻ ra một đợt có tỷ lệ thụ tinh cao, tỷ
lệ nở cao trong thời kỳ đẻ rộ nhất, sinh trưởng tốt, đều đặn, màu sắc bình thường, không có
dị dạng để nuôi dưỡng, qua 2 năm nuôi dưỡng chọn lựa cá thể sinh trưởng nhanh, thân lớn
không có dị hình, dị tật để làm cá bố mẹ. Cũng có thể lựa chọn từ đàn cá thương phẩm
nuôi ở lồng hoặc trong ao đất. Cỡ cá trên 3 tuổi, mật độ nuôi vỗ khoảng 3 - 5 kg/m3.
cá bố mẹ được tuyển từ 2 nguồn:
- Nhập từ Trung Quốc về
- Nhập của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I
Cá bố mẹ yêu cầu khoẻ mạnh, không bị bệnh, tuyến sinh dục phát triển tốt. Tỷ lệ
đực cái là: 1:1. Trong thời gian nuôi vỗ cần cho cá ăn theo nhu cầu của cá, thức ăn là cá
đối, mực, sán sùng, nhuyễn thể đồng thời bổ xung thêm Vitamin E, C Ngày cho ăn 2 lần
vào buổi sáng và chiều. Chú ý điều kiện nuôi phải yên tĩnh tránh tác động mạnh.


Trong quá trình nuôi vỗ cần đảm bảo yêu cầu nhiệt độ từ 26 – 30
0
C, cần có biện
pháp ổn định nhiệt độ môi trường nuôi vỗ. Thông qua phương pháp nuôi vỗ, cá bố mẹ
thành thục đồng pha. Cá bố mẹ trước khi đưa vào nuôi vỗ phải tiến hành tắm xử lý để
phòng trị các bệnh như: ký sinh trùng trên da
Đến mùa sinh sản (tháng 4-10) tập trung vào tháng 4 - 6. định kỳ 15 ngày kiểm tra
mức độ thành thục của cá bố mẹ một lần bằng cách lấy trứng thông qua thăm trứng, kiểm
tra tinh dịch của cá đực. Thông qua kết quả kiểm tra, xác định mức độ thành thục, thời gian
thành thục và để tiến hành cho sinh sản nhân tạo.

Bảng 4: Số lượng cá đưa vào nuôi vỗ
Số lượng (con)
TT Ngày
Cá đực Cá cái
1 1/2/2007 34 34
2 12/5/2007 34 34
3 3/6/2007 34 32
4 14/7/2007 34 32
5 19/8/2007 31 32
6 8/9/2007 29 30

Trong đợt 1 số lượng cá đưa vào nuôi vỗ là 68 con với mật độ là 5 kg/m
3
. Trong
quá trình nuôi vỗ và cho đẻ ở những đợt trước số lượng cá bố mẹ bị hao hụt do vậy tại cơ
sở chỉ còn 63 con ở đợt 5 và đến đợt 6 chỉ còn 59 con giảm mất 4 con so với đợt nuôi vỗ
thứ 5, nguyên nhân là do cho đẻ trong đợt 5 có 4 con bị yếu và chết trong đó có 2 đực, 2
cái.
3.2.2. Chăm sóc quản lý
3.2.2.1 Theo dõi các yếu tố môi trường.
Bên cạnh tuyển chọn và chế độ cho ăn đã là yếu tố rất cần thiết cho quá trình tích
luỹ và phát triển tuyến sinh dục. Việc theo dõi môi trường được tiến hành hàng ngày để xử
lý kịp thời các tình huống xấu có thể xảy ra. Ngoài các biện pháp đo đạc, kiểm tra đàn cá
cần phải ghi chép lại số liệu.



















































Hình 2: Biểu đồ biểu thị sự biến động môi trường
Thời gian nuôi vỗ cá bố mẹ cá chim vây vàng kéo dài từ đầu năm 2007 do vậy
nhiệt độ nước từ tháng 1 - 4 thấp do vẫn chịu ảnh hưởng của các đợt gió mùa Đông Bắc,
nhiệt độ nước có khi xuống thấp nhất là 17.5
o
C. Các mùa trong năm gần như không có
biến động đáng kể do bè nuôi được đặt tại khi vực vịnh ít bị ảnh hưởng của sóng gió. Cùng
với nhiệt độ, các yếu tố khác như độ mặn (S
0
/
00
) duy trì trong khoảng 27 – 33
0
/
00
, pH cũng
không có biến động nhiều duy trì trong khoảng 7,7 - 8,3. Nhìn chung, các yếu tố môi

trường tại khu vực nuôi vỗ đều nằm khoảng thích hợp cho sự phát triển tuyến sinh dục của
cá bố mẹ, không ảnh hưởng đến sức khỏe của cá. Nhiệt độ thích hợp cho cá trưởng thành
là từ 18 – 32
o
C, nhiệt độ nước thích hợp nhất cho sinh trưởng từ 22 – 30
0
C.
3.2.1.2. Thức ăn và chế độ cho ăn
Đây là loài cá rất nhanh nhẹn, bắt mồi nhanh, thức ăn cá Chim vây vàng trong quá
trình nuôi vỗ là các loại cá tạp tươi như cá nhạc, cá man, cá đối, cá mực Cá được cho ăn
2 lần/ ngày vào lúc 8h sáng và 15h chiều. Khi cho ăn, thức ăn được cắt nhỏ cho phù hợp
với kích cỡ miệng của cá và loại bỏ nội tạng, rửa sạch và xác định khối luợng thức ăn. Cho
cá ăn từ từ để tránh hiện tượng cá không ăn kịp thức ăn sẽ chìm xuống đáy, gây lãng phí và
ô nhiễm môi trường nước. Khối lượng thức ăn không hạn chế, cho ăn liên tục đến khi cá
ngừng ăn thì dừng. Cá Chim bắt mồi tùy thuộc vào nhiệt độ môi trường, nhiệt độ cao
cường độ bắt mồi cao (cao nhất vào khoảng > 26
o
C) và không bắt mồi khi nhiệt độ quá
thấp < 17
o
C.

0
5
10
15
20
25
30
35

Nhiet do
pH
Do man


Định kỳ bổ xung các loại Vitamine vào thức ăn (thường sử dụng la Vitamine A, B,
C, E) để tăng cường sức đề kháng cho đàn cá bố mẹ, viên thuốc được đưa vào bên trong cá
mồi. Trong giai đoạn nuôi vỗ không được để cá bố mẹ thiếu thức ăn, ảnh hưởng trực tiếp
đến quá trình hình thành tuyến sinh dục.
3.2.1.3. Quản lý lồng nuôi
Thường xuyên kiểm tra lồng nuôi, nếu lưới bị rách cần được sửa chữa ngay, hoặc
chuyển cá sang lồng khác. Định kỳ vệ sinh lồng để giữ môi trường lồng nuôi luôn sạch,
nước luôn lưu thông 1tuần/ lần. Cứ 15 ngày tiến hành thay lồng lưới 1 lần, tiến hành cọ rửa
sạch sẽ và phơi khô lồng để chuẩn bị cho lần thay kế tiếp. Hàng ngày theo dõi tình trạng
hoạt động và mức độ bắt mồi của cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.
3.3. Kiểm tra mức độ thành thục của cá bố mẹ

Trong quá trình nuôi vỗ định kỳ 15 ngày kiểm tra mức độ thành thục của tuyến sinh
dục một lần để có biện pháp cho đẻ kịp thời.
Kết quả nuôi vỗ thành thục cá Chim biển bố mẹ được đánh giá bằng tỷ lệ thành
thục thông qua kết quả lựa chọn cá cho đẻ. Trong 2 đợt cho cá chim vây vàng đẻ và đã xác
định được tỷ lệ thành thục thông qua quá trình nuôi vỗ được được trình bày ở bảng dưới
đây.

Bảng 6: Tỷ lệ thành thục của cá bố mẹ sau khi đưa vào nuôi vỗ
Ngày
kiểm tra

số cá
nuôi vỗ

Số lượng
thành thục
Tỷ lệ thành

thục (%)

Ghi chú
Cá cái 32 27 84.37
Cá đực 31 32 100
Chuyển đổi
giới tính

Ngày
6/9/2007
Không xác định 0 4
Cá cái 30 30 100
Cá đực 29 29 100
Ngày
30/9/2007
Không xác định 0 0



Qua bảng 7, ta thấy tỷ lệ thành thục của cá chim vây vàng bố mẹ được nuôi vỗ
trong lồng tại khu vực Vân Đồn – Quảng Ninh là cao (84,37 – 100%). Nhận thấy số cá đực
đưa vào nuôi vỗ ngày 6/9/2007 là 31 con mà số lượng thành thục sau nuôi vỗ là 32 con.
Nguyên nhân là do trong quá trình nuôi vỗ thành thục đã có cá thể cá cái chuyển đổi giới
tính từ cá thể cá cái sang cá thể cá đực. Trong đợt kiểm tra ngày 6/9 có 4 con không xác
định được giới tính vì vậy không xác định tỷ lệ thành thục. Để đạt được kết quả như trên là
trong quá trình nuôi vỗ từ tháng 8 – 9 các yếu tố môi trường đều nằm trong khoảng thích

hợp, chế độ chăm sóc quản lý tốt đặc biệt là chế độ cho ăn và loại thức ăn được sử dụng
như cá mực, cá nhạc, ngoài ra còn cung cấp thêm vitamine E, C
3.4. Kỹ thuật cho đẻ
3.4.1. Chọn cá bố mẹ thành thục và cho đẻ
Cá bố mẹ thành thục cho đẻ: chọn cá cái thành thục, sử dụng kết hợp 2 phương
pháp chọn ngoại hình và thăm trứng.
- Cá đực tiến hành dùng ống nhựa mềm để hút tinh dịch ra ngoài, nếu thấy tinh màu
trắng sữa, đặc, tan nhanh trong nước là tốt hoặc vuốt nhẹ thấy sẹ đặc có màu trắng sữa
chảy ra và dễ tan trong nước.
- Cá cái: Dùng ống thăm trứng để hút trứng kiểm tra nếu thấy trứng tròn đều, màng
trứng rõ ràng, nhân hơi lệch về phía cực động vật thì có thể chọn cho cá đẻ. Nếu trứng
chưa căng tròn đều, dính lại với nhau và có màu xanh nhạt chứng tỏ trứng còn non.
Cá sau khi được tuyển chọn được chia ra làm 2 ô lồng để tính toán lượng thuốc
tiêm cho phù hợp với cá đực và cá cái.
Bảng 7: Số lượng cá bố mẹ chọn cho đẻ

Số lượng cá

Ngày

Số cá đưa vào cho đẻ
Cá cái 27 Ngày 6/9/2007
Cá đực 32
Cá cái 30 Ngày 30/9/2007
Cá đực 29

×