Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng cho dòng sản phẩm cà phê siêu sạch tại Công ty Cổ phần Cà phê Mê Trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 107 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
KHOA KINH TẾ


LƯƠNG THỊ KIM CHI

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CHUỖI CUNG ỨNG CHO DỊNG SẢN
PHẨM CÀ PHÊ SIÊU SẠCH TẠI CƠNG TY
CỔ PHẦN CÀ PHÊ MÊ TRANG



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: KINH DOANH THƯƠNG MẠI




Nha Trang, năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
KHOA KINH TẾ


LƯƠNG THỊ KIM CHI



MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CHUỖI CUNG ỨNG CHO DỊNG SẢN
PHẨM CÀ PHÊ SIÊU SẠCH TẠI CƠNG TY
CỔ PHẦN CÀ PHÊ MÊ TRANG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: KINH DOANH THƯƠNG MẠI

GVHD: ThS. TRẦN THÙY CHI



Nha Trang, năm 2014



LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo nhà trường, Ban chủ
nhiệm Khoa kinh tế cùng các thầy cô trong Bộ Môn Thương Mại đã tạo điều kiện
thuận lợi cho em hoàn thành chương trình học và tạo mọi điều kiện tốt nhất để em
có thể hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Em xin chân thành cảm ơn cô Ths. Trần Thùy Chi người đã hết lòng giúp đỡ
em trong quá trình thực hiện khóa luận.
Em xin chân thành cám ơn các cô chú, anh chị trong Công ty cổ phần cà phê
Mê Trang đặc biệt là anh Bùi Huy Hiệu đã cung cấp tài liệu, kinh nghiệm và giúp
đỡ em rất nhiều để em thực hiện khoá luận này. Kính chúc quý Công ty luôn ăn nên
làm ra và phát triển vững chắc trong thời gian tới nhằm góp phần vào sự nghiệp

công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất đến tất cả những người thân
trong gia đình, bạn bè đã động viên và giúp đỡ em trong quá trình học tập, cũng
như thực hiện và hoàn thành khoá luận này.
Vì một số giới hạn về thời gian thực tập, phạm vi nghiên cứu và năng lực còn hạn
chế, bài viết của em đã có nhiều cố gắng song không tránh khỏi những sai sót. Em rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin chúc quý thầy cô, quý công ty cùng các bạn sức khoẻ, hạnh
phúc và thành công.
Nha Trang, tháng 6 năm 2014
Sinh viên thực hiện


Lương Thị Kim Chi


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC


XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

Sinh viên : Lương Thị Kim Chi
Lớp : 52KDTM – 1
MSSV : 52131465

Nhận xét của giảng viên hướng dẫn :











Nha Trang, ngày… tháng 06 năm 2014
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

TRẦN THÙY CHI
i

MỤC LỤC
MỤC LỤC i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT v
DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH ẢNH vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU vii
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUỖI CUNG ỨNG 3
1.1.Tổng quan về chuỗi cung ứng 3
1.1.1.Khái niệm chuỗi cung ứng và quản trị chuỗi cung ứng 3
1.1.1.1.Khái niệm chuỗi cung ứng 3
1.1.1.2.Khái niệm quản trị chuỗi cung ứng 7
1.1.2.Lịch sử phát triển chuỗi cung ứng 7
1.1.3.Phân biệt logistic và chuỗi cung ứng 11
1.1.4.Thành viên chuỗi cung ứng 16
1.1.5.Các thành phần trong chuỗi cung ứng 17
1.1.6.Cấu trúc chuỗi cung ứng: 20
1.2.Hoạt động của chuỗi cung ứng theo mô hình SCOR 22

1.2.1.Mô hình SCOR cấp độ 1 23
1.2.2.Mô hình SCOR cấp độ 2 26
1.2.3.Mô hình SCOR cấp độ 3 27
1.3.Hiệu ứng BullWhip 27
1.3.1.Giới thiệu về hiệu ứng BullWhip 27
1.3.2.Khái niệm hiệu ứng Bullwhip 28
1.3.3.Nguyên nhân và các giải pháp nhằm hạn chế hiệu ứng Bullwhip 29
1.3.4.Giải pháp hạn chế hiệu ứng Bullwhip 33
1.4.Đo lường hiệu quả chuỗi cung ứng 35
1.4.1.Đánh giá hiệu suất nội bộ 35
1.4.2.Đánh giá dịch vụ khách hàng 36
1.4.3.Đánh giá tính linh hoạt của nhu cầu 37
1.4.4.Đánh giá sự phát triển sản phẩm 38
ii

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHUỖI CUNG ỨNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
CÀ PHÊ MÊ TRANG 39
2.1.Tổng quan về công ty cổ phần cà phê Mê Trang 39
2.1.1.Lịch sử hình thành 39
2.1.2.Chức năng, nhiệm vụ 41
2.1.2.1.Chức năng 41
2.1.2.2.Nhiệm vụ 41
2.1.3.Cơ cấu tổ chức, của tổ chức quản lý và sản xuất tại công ty 42
2.1.3.1.Sơ đồ cơ cấu tổ chức quản lý 42
2.1.3.2.Sơ đồ cơ cấu tổ chức sản xuất 45
2.1.4.Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty 46
2.2.Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh sản xuất của công ty và
phương hướng phát triển trong thời gian tới. 51
2.2.1.Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh sản xuất của công ty 51
2.2.2.Kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty trong thời gian tới 56

2.3.Thực trạng chuỗi cung ứng của dòng sản phẩm cà phê siêu sạch tại công ty cổ
phần cà phê Mê Trang 57
2.3.1.Giới thiệu về dòng sản phẩm cà phê siêu sạch 57
2.3.1.1.Công năng và đối tượng khách hàng chính của sản phẩm 57
2.3.1.2.Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, dịch vụ 57
2.3.2.Mô hình chuỗi cung ứng của dòng sản phẩm cà phê siêu sạch tại công ty
cổ phần cà phê Mê Trang 58
2.3.3.Thành viên của chuỗi cung ứng 60
2.3.3.1.Nhà cung ứng 60
2.3.3.2.Nhà sản xuất 61
2.3.3.3.Nhà phân phối 61
2.3.3.4.Khách hàng 65
2.3.4.Các thành phần trong chuỗi cung ứng 66
2.3.4.1.Sản xuất 66
2.3.4.2.Tồn kho 68
iii

2.3.4.3.Định vị 69
2.3.4.4.Vận chuyển 69
2.3.4.5.Thông tin 70
2.3.5.Quan hệ của công ty Mê Trang với các thành viên khác trong chuỗi cung
ứng…………………………………………………………………………… 71
2.3.5.1.Mối quan hệ đối với nhà cung ứng 71
2.3.5.2.Mối quan hệ đối với khâu sản xuất 72
2.3.5.3.Mê Trang và quan hệ với nhà phân phối 73
2.3.5.4.Hoạt động quan hệ với khách hàng của công ty cổ phần cà phê Mê
Trang……. 75
2.3.6.Đo lường hiệu quả chuỗi cung ứng dòng sản phẩm cà phê siêu sạch của
công ty cổ phần cà phê Mê Trang 76
2.3.6.1.Đo lường hiệu suất nội bộ 76

2.3.6.2.Đánh giá dịch vụ khách hàng 76
2.3.6.3.Đánh giá tính linh hoạt của nhu cầu 76
2.3.6.4.Đánh giá sự phát triển của sản phẩm 76
2.3.7.Thành công và hạn chế trong chuỗi cung ứng dòng sản phẩm cà phê siêu
sạch của công ty cổ phần cà phê Mê Trang 77
2.3.7.1.Thành công của chuỗi cung ứng dòng sản phẩm cà phê siêu sạch của
công ty cổ phần cà phê Mê Trang 77
2.3.7.2.Hạn chế của chuỗi cung ứng dòng sản phẩm cà phê siêu sạch tại công
ty cổ phần cà phê Mê Trang 78
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CHUỖI CUNG ỨNG DÒNG SẢN PHẨM CÀ PHÊ SIÊU SẠCH CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN CÀ PHÊ MÊ TRANG 80
3.1. Đề xuất giải pháp 81
Giải pháp số 1: Tổ chức bộ phận chuyên trách quản lý chuỗi cung ứng đảm bảo
việc vận hành chuỗi cung ứng được thực hiện một cách hiệu quả nhất, mang lại
lợi ích cho doanh nghiệp 81
iv

Giải pháp số 2: Ứng dụng công nghệ thông tin làm tăng tính liên kết giữa các
thành phần trong chuỗi cung như tăng khả năng kiểm soát hàng hóa của chuỗi
cung ứng doanh nghiệp 85
Giải pháp thứ 3: Rà soát và thiết lập kênh phân phối tinh gọn và hiệu quả 88
Giải pháp thứ 4: Đẩy mạnh nghiên cứu thị trường nâng cao tính cạnh tranh của
sản phẩm, thu thập thông tin, hoàn thiện chuỗi cung ứng 90
3.2. Hiệu quả kỳ vọng của giải pháp: 93
3.3. Kiến nghị đối với nhà nước và các cơ quan ban ngành 93
KẾT LUẬN 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 95




v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ATO – Assemply to Order: lắp ráp theo đơn hàng.
BST – Build to Stock: thiết lập để tồn kho.

BTO – Build to Order : và thiết lập theo đơn đặt hàng.
ECR – Efficient Consumer Respone: đáp ứng khách hàng có hiệu quả.

EDI – Electronic data interchange

: hệ thống chuyển đổi dữ liệu điện tử nội bộ.
ERP - Enterprise resources Planning: hệ thống hoạch định các nguồn lực của doanh
nghiệp.
ETO – Engineer to Order: thiết kế theo đơn hàng.
GDP – Gross domestic product: tổng sản phẩm trong nước.
GTGT : thuế giá trị gia tăng.
JIN – Just in time: một khái niệm trong sản xuất hiện đại có ý nghĩa là “đúng sản
phẩm – đúng số lượng – tại đúng nơi – vào đúng thời điểm cần thiết.”
MTO – Make To Order: sản xuất theo đơn hàng.
MTS – Make To Stock: sản xuất tồn kho.
RFID – Radio Frequence Identification: công nghệ nhận dạng bằng sóng radio.
SCC – Supply Chain Council: hội đồng chuỗi cung ứng.
SCM – Supply chain management: Chuỗi cung ứng.
SCOR – Supply Chain Operations Research: mô hình tham chiếu hoạt động chuỗi
cung ứng.
TQM – Total quality management: chiến lược quản trị chất lượng toàn diện.
UTZ Certified: chứng chỉ toàn cầu về sản xuất sạch.

VCCI – Vietnam Chamber of Commerce and Industry: Phòng thương mại và công
nghiệp Việt Nam.
vi

DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH ẢNH

Hình 1.1 Chuỗi cung ứng điển hình 5

Hình 1.2 Những sự kiện lịch sử về quản trị chuỗi cung ứng 8

Hình 1.3 Hình vẽ mô tả logistics trong một công ty 12

Hình 1.4 Chuỗi cung ứng hợp nhất 15

Hình 1.5 Thành viên chuỗi cung ứng 17

Hình 1.6 Sơ đồ năm yếu tố dẫn dắt chủ yếu của một chuỗi cung ứng 20

Hình 1.7 Cấu trúc chuỗi cung ứng 20

Hình 1.8 Chuỗi cung cấp của nhà sản xuất 22

Hình 1.9 SCOR định nghĩa các quá trình mức 1 23

Hình 2.1 Sơ đồ cơ cấu tổ chức quản lý của công ty cổ phần cà phê Mê Trang 42

Hình 2. 2 Sơ đồ cơ cấu tổ chức sản xuất của công ty cổ phần cà phê Mê Trang 45

Hình 2.3 Sơ đồ chuỗi cung ứng dòng sản phẩm siêu sạch của công ty cà phê Mê Trang 59


Hình 2.4 Sơ đồ phân phối cà phê của công ty cổ phần cà phê Mê Trang 61

Hình 2.5 Sơ đồ sản xuất dòng sản phẩm cà phê siêu sạch của công ty cổ phần cà phê
Mê Trang 67

Hình 3.1 Mô hình phòng SCM đề xuất 84

Hình 3.2 Sơ đồ kênh phân phối sản phẩm đề xuất 89




vii

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1 Phân tích kết quả kinh doanh 49

Bảng 2.2 Trang thiết bị của công ty 55

Bảng 2.3 Hệ thống chi nhánh của công ty 62

Bảng 2.4 Hệ thống nhà phân phối 63

Bảng 2.5 Hệ thống siêu thị 64

Bảng 2.6 Hệ thống quán cà phê MC 65


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Toàn cầu hóa và thương mại quốc tế đang đặt ra cho các doanh nghiệp những
thách thức về kiểm soát và tích hợp dòng chảy hàng hóa thông tin và tài chính một
cách hiệu quả. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng vận động để sáng
tạo tìm tòi phát huy để thích nghi với môi trường ấy. Và việc xây dựng được một
chuỗi cung ứng hiệu quả chính là cách giúp họ vượt qua khó khăn và hướng đến
thành công.
Chuỗi cung ứng tốt sẽ giúp doanh nghiệp quản lý hiệu quả các chi phí, nâng
cao chất lượng, gia tăng lợi nhuận và phục vụ tốt hơn cho người tiêu dùng, đó là
điều quan trọng nhất của doanh nghiệp.
Mê Trang là doanh nghiệp sản xuất cà phê có trụ sở tại thành phố Nha Trang.
Cũng như các doanh nghiệp sản xuất cà phê khác của Việt Nam, Mê Trang đang
gặp phải nhiều vấn đề cần nhanh chóng tìm ra giải pháp tháo gỡ, phổ biến là trong
các hoạt động: thu mua nguyên liệu, vận chuyển hàng hóa tới khách hàng, tìm kiếm
nguồn cung và khách hàng, phân tích nhu cầu… Tuy đã có mặt trên thị trường được
13 năm nhưng sản phẩm cà phê Mê Trang chỉ thực sự được biết đến mạnh mẽ ở một
số thị trường nhất định như Nha Trang và một số ít ở thị trường Miền Trung và
Nam bộ. Sản phẩm của công ty hướng đến mục tiêu là sức khỏe của khách hàng,
đáp ứng tốt nhất yêu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, mức độ nhận biết của sản
phẩm còn hạn chế, và công ty cần phải tích cực hơn nữa trong việc quảng bá sản
phẩm, mở rộng thị trường và thu hút khách hàng.
Với những lý do đưa ra để góp phần nâng cao hiệu quả nói trên tại công ty cổ
phần cà phê Mê Trang em xin chọn đề tài: “
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả chuỗi cung ứng cho dòng sản phẩm cà phê siêu sạch tại công ty cổ phần cà
phê Mê Trang” để làm đề tài nghiên cứu của mình.

2. Mục đích nghiên cứu.

Đề tài nghiên cứu hệ thống hóa về mặt lý thuyết liên quan đến hoạt động chuỗi
cung ứng nhằm vận dụng vào việc nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng cho dòng sản
phẩm cà phê siêu sạch tại công ty cổ phần cà phê Mê Trang.
2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến chuỗi cung ứng
dòng sản phẩm cà phê siêu sạch tại công ty cổ phần cà phê Mê Trang.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: tại công ty cổ phần cà phê Mê Trang.
Thời gian: nghiên cứu dựa trên số liệu thu thập từ 2011-2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu bao gồm dữ liệu sơ cấp và dữ liệu
thứ cấp.
5. Cấu trúc luận văn
Đề tài gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sơ lý luận về chuỗi cung ứng.
Chương 2: Thực trạng chuỗi cung ứng tại công ty cổ phần cà phê Mê Trang.
Chương 3: Một số đề xuất và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả chuỗi cung
ứng dòng sản phẩm cà phê siêu sạch của công ty cổ phần cà phê Mê Trang.
3

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUỖI CUNG ỨNG

1.1. Tổng quan về chuỗi cung ứng
1.1.1. Khái niệm chuỗi cung ứng và quản trị chuỗi cung ứng
1.1.1.1. Khái niệm chuỗi cung ứng
Khi nền kinh tế ngày một khó khăn việc kinh doanh trên thị trường ngày càng
khốc liệt đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải nỗ lực thật nhiều để có thể trụ vững và

phát triển. Để cạnh tranh thành công trong bất kỳ môi trường kinh doanh nào, các
doanh nghiệp không chỉ tập trung vào hoạt động của riêng mình mà phải tham gia
vào công việc kinh doanh của nhà cung cấp cũng như khách hàng của mình. Không
chỉ phải am hiểu thị trường, am hiểu khách hàng, am hiểu đối thủ cạnh tranh, doanh
nghiệp cần phải chủ động về mọi mặt, chu toàn trong toàn bộ các công đoạn để đảm
bảo sản phẩm của mình có sức cạnh tranh cao trên thị trường. Bởi lẽ, khi doanh
nghiệp muốn đáp ứng sản phẩm hoặc dịch vụ cho khách hàng họ buộc phải quan
tâm sâu sắc hơn đến dòng dịch chuyển nguyên vật liệu; cách thức thiết kế, đóng gói
sản phẩm và dịch vụ của nhà cung cấp; cách thức vận chuyển, bảo quản sản phẩm
hoàn thành và những mong đợi thực sự của người tiêu dùng hoặc khách hàng cuối
cùng. Và đó chính là một quy trình liên kết xuyên suốt bao gồm từ nhà cung cấp,
nhà sản xuất ,nhà phân phối và khách hàng…mà thuật ngữ kinh tế gọi đó là “chuỗi
cung ứng.”
Chuỗi cung ứng là một khái niệm không mới đối với thế giới, nhưng chỉ thật
sự được các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm trong những năm gần đây. Trong một
chuỗi cung ứng điển hình, doanh nghiệp mua nguyên vật liệu từ một hoặc nhiều nhà
cung cấp; các bộ phận, chi tiết hoặc thậm chí sản phẩm sau đó được sản xuất ở một
hay một số nhà máy, và được vận chuyển đến nhà kho để lưu trữ ở giai đoạn trung
gian, cuối cùng đến nhà bán lẻ và khách hàng. Vì vậy, để giảm thiểu chi phí và cải
thiện mức phục vụ, các chiến lược chuỗi cung ứng hiệu quả phải xem xét đến sự
tương tác ở các cấp độ khác nhau trong chuỗi cung ứng. Chuỗi cung ứng bao gồm
các nhà cung cấp, các trung tâm sản xuất, nhà kho, các trung tâm phân phối, và các
4

cửa hàng bán lẻ, cũng như nguyên vật liệu, tồn kho trong quá trình sản xuất và sản
phẩm hoàn thành dịch chuyển giữa các cơ sở.
Vậy chuỗi cung ứng là gì?
Có rất nhiều định nghĩa về chuỗi cung ứng, nhưng chúng ta bắt đầu thảo luận
với khái niệm “Chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các doanh nghiệp tham gia, một
cách trực tiếp hay gián tiếp, trong việc đáp ứng hiệu quả nhu cầu khách hàng, thể

hiện sự dịch chuyển nguyên vật liệu xuyên suốt quá trình từ nhà cung cấp ban đầu
đến khách hàng cuối cùng.”
Chuỗi cung ứng không chỉ bao gồm nhà sản xuất và nhà cung cấp, mà còn
công ty vận tải, nhà kho, nhà bán lẻ và khách hàng của nó. Ví dụ một chuỗi cung
ứng bắt đầu với các doanh nghiệp khai thác nguyên liệu từ đất - chẳng hạn như
quặng sắt, dầu mỏ, gỗ và lương thực – và bán chúng cho các doanh nghiệp sản xuất
vật liệu. Các doanh nghiệp này, đóng vai trò như người đặt hàng và sau khi nhận
các yêu cầu về chi tiết kỹ thuật từ các nhà sản xuất linh kiện, họ sẽ tiếp tục chế biến
vật liệu này thành các vật liệu thích hợp (như tấm thép, nhôm, đồng đỏ, gỗ xẻ và
thực phẩm đã kiểm tra). Đến lượt mình, các nhà sản xuất linh kiện phải đáp ứng đơn
hàng và yêu cầu từ khách hàng của họ - nhà sản xuất sản phẩm cuối cùng. Đầu ra
của quá trình này là các linh kiện hay các chi tiết trung gian (như dây điện, vải,
mạch in, những chi tiết cần thiết ). Nhà sản xuất sản phẩm cuối cùng (các công ty
như IBM, General Motors, Coca-Cola) lắp ráp sản phẩm hoàn thành, bán chúng cho
người bán sỉ hoặc nhà phân phối, để rồi những thành viên này sẽ bán chúng lại cho
nhà bán lẻ, những người thực hiện sứ mệnh đưa sản phẩm đến người tiêu dùng cuối
cùng .Chúng ta mua sản phẩm trên cơ sở giá, chất lượng, tính sẵn sàng, sự bảo trì và
danh tiếng với hy vọng rằng chúng thỏa mãn yêu cầu mà chúng ta mong đợi. Đôi
khi vì những lý do nào đó chúng ta cần trả sản phẩm hoặc các chi tiết do không đáp
ứng yêu cầu hoặc đôi khi cần sửa chữa hoặc tái chế chúng, một qui trình ngược
cũng rất cần thiết. Các hoạt động hậu cần ngược này cũng bao gồm trong chuỗi
cung ứng.
Bên trong mỗi tổ chức, chẳng hạn nhà sản xuất, chuỗi cung ứng bao gồm tất
cả các chức năng liên quan đến việc nhận và đáp ứng nhu cầu khách hàng. Những
5

chức năng này bao hàm và không bị hạn chế trong việc phát triển sản phẩm mới,
marketing, sản xuất, phân phối, tài chính và dịch vụ khách hàng.

Hình 1.1 Chuỗi cung ứng điển hình[1]

Nguồn: Nguyễn Công Bình(2006). Quản trị chuỗi cung ứng.
Nhà xuất bản Thống kê. Trang 1
Chuỗi cung ứng còn được định nghĩa như sau:
Chopra Sunsil và Peter Meind: “Chuỗi cung ứng bao gồm mọi công đoạn có
liên quan trực tiếp đến việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chuỗi cung ứng không
chỉ bao gồm nhà sản xuất mà còn có nhà vận chuyển, kho, người bán lẻ và bản thân
người khách hàng.”( Nguyễn Thanh Liêm và các cộng sự, 2009).
“Chuỗi cung ứng là một mạng lưới các lựa chọn sản xuất và phân phối nhằm thực
hiện các chức năng thu mua nguyên liệu, chuyển đổi nguyên liệu thành bán thành
phẩm và thành phẩm, và phân phối chúng cho khách hàng” – “An introduction to
supply chain management” Ganesham, Ran and Terry P.Harrison, 1995.
“Chuỗi cung ứng bao gồm mọi công đoạn có liên quan, trực tiếp hay gián tiếp,
đến việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chuỗi cung ứng không chỉ gồm nhà sản xuất
và nhà cung cấp, mà còn nhà vận chuyển, kho, người bán lẻ và bản thân khách
hàng” – “Supplychain management: strategy, planing and operation” của Chopra
Sunil và Pter Meindl, (2001, Upper Saddle Riverm NI: Prentice Hall c.1) .
6

Như vậy từ các định nghĩa trên có thể rút ra một định nghĩa về chuỗi cung
ứng: “Chuỗi cung ứng bao gồm tất cả những vấn đề liên quan trực tiếp hay
gián tiếp nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Chuỗi cung ứng không chỉ
bao gồm nhà sản xuất, cung cấp mà còn liên quan đến vận chuyển, nhà kho,
nhà bán lẻ và khách hàng.”[2]
Trong một chuỗi cung ứng có ba dòng chảy chính đó là: dòng chảy hàng hóa,
dòng chảy thông tin, và dòng chảy tài chính. Một chuỗi cung ứng hoạt động tốt khi
ba dòng chảy trên vận hành một cách xuyên suốt, không bị gián đoạn.
Thứ nhất, dòng hàng hóa là luồng nguyên vật liệu từ nhà cung cấp tới nhà sản
xuất, luồng sản phẩm dịch vụ từ nhà sản xuất tới khách hàng và luồng thu hồi sản
phẩm từ khách hàng trở về nhà cung cấp. Một khi dòng hàng hóa vận chuyển trong
một chuỗi một cách liên tục, không bị gián đoạn (tức là hàng tồn kho của doanh

nghiệp thấp) khi đó doanh nghiệp sẽ cắt giảm được chi phí tồn kho. Tùy đặc điểm
của mỗi mặt hàng, mỗi thị trường mà doanh nghiệp sẽ để mức tồn kho phù hợp, sao
cho luồng hàng hóa vận chuyển một cách liên tục nhất có thể, cắt giảm được chi
phí, tăng lợi nhuận cho toàn bộ chuỗi.
Thứ hai, dòng thông tin là dòng thông tin trao đổi giữa các mắt xích trong
chuỗi, những phản hồi từ khách hàng và các đơn vị trong chuỗi. Dòng thông tin
trong chuỗi cung ứng có vai trò vô cùng quan trọng, đây là nền tảng để đưa ra quyết
định liên quan đến kế hoạch sản xuất, kết nối tất cả các hoạt động trong chuỗi sẽ có
các quyết định càng chuẩn xác. Thông tin từ cung cấp sản phẩm, phản hồi từ khách
hàng, dự báo thị trường và kế hoạch sản xuất được các thành phần trong chuỗi chia
sẻ với nhau càng nhiều thì chuỗi sẽ đáp ứng càng nhanh và càng thỏa mãn nhu cầu
của khách hàng tốt hơn.
Thứ ba đó là dòng tài chính: Đi ngược với dòng hàng hóa từ nhà cung cấp tới
khách hàng là dòng tài chính. Đó chính là luồng tài chính từ người mua tới người
bán hoặc dòng tài chính mà các thành phần trong chuỗi hỗ trợ, chia sẻ cho nhau
vay… Dòng tài chính lưu thông càng nhanh thì hiệu quả của chuỗi cung ứng càng
tăng, giảm thiểu chi phí do bị gián đoạn dòng lưu chuyển tiền tệ.
7

1.1.1.2. Khái niệm quản trị chuỗi cung ứng
Theo Viện quản trị cung ứng mô tả, quản trị chuỗi cung ứng là việc thiết kế và
quản lý các tiến trình xuyên suốt, tạo giá trị cho các tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu
thực sự của khách hàng cuối cùng. Sự phát triển và tích hợp nguồn lực con người và
công nghệ là nhân tố then chốt cho việc tích hợp chuỗi cung ứng thành công.
Theo Hội đồng chuỗi cung ứng thì quản trị chuỗi cung ứng là việc quản lý
cung và cầu, xác định nguồn nguyên vật liệu và chi tiết, sản xuất và lắp ráp, kiểm
tra kho hàng và tồn kho, tiếp nhận đơn hàng và quản lý đơn hàng, phân phối qua các
kênh và phân phối đến khách hàng cuối cùng.
Theo TS. Hau Lee và đồng tác giả Corey Billington trong bài báo nghiên cứu
thì “quản trị chuỗi cung ứng như là việc tích hợp các hoạt động xảy ra ở các cơ sở

của mạng lưới nhằm tạo ra nguyên vật liệu, dịch chuyển chúng vào sản phẩm trung
gian và sau đó đến sản phẩm cuối cùng.”
Như vậy nói một cách tổng quát quản trị chuỗi cung ứng là tập hợp những
phương thức sử dụng một cách tích hợp và hiệu quả nhà cung cấp, người sản xuất,
hệ thống kho bãi và các cửa hàng nhằm phân phối hàng hóa được sản xuất đến đúng
địa điểm, đúng lúc với đúng yêu cầu về chất lượng, với mục đích giảm thiểu chi phí
toàn hệ thống trong khi vẫn thỏa mãn những yêu cầu về mức độ phục vụ.
1.1.2. Lịch sử phát triển chuỗi cung ứng[3]
Trong suốt thập niên 1950 và 1960, các công ty sản xuất của Mỹ áp dụng công
nghệ sản xuất hàng loạt để cắt giảm chi phí và cải tiến năng suất, trong khi ít chú ý
đến việc tạo ra mối quan hệ với nhà cung cấp, cải thiện việc thiết kế quy trình và
tính linh hoạt, hoặc cải thiện chất lượng sản phẩm.
8


Hình 1.2 Những sự kiện lịch sử về quản trị chuỗi cung ứng
Nguồn: Nguyễn Công Bình(2006). Quản trị chuỗi cung ứng.
Nhà xuất bản Thống kê. Trang 11.
Thiết kế và phát triển sản phẩm mới diễn ra chậm chạp và lệ thuộc chủ yếu
vào nguồn lực nội bộ, công nghệ và công suất. Chia sẻ công nghệ và chuyên môn
thông qua sự cộng tác chiến lược giữa người mua và người bán là một thuật ngữ
hiếm khi nghe giai đoạn bấy giờ. Các quy trình sản xuất được đệm bởi tồn kho
nhằm làm cho máy móc vận hành thông suốt và quy trì cân đối dòng nguyên vật
liệu, điều này dẫn đến tồn kho trong sản xuất tăng cao.
Trong thập niên 1960 và 1970, hệ thống hoạch định nhu cầu nguyên vật liệu
(MRP) và hệ thống hoạch định nguồn lực sản xuất (MRPII) được phát triển và tầm
quan trọng của quản trị nguyên vật liệu hiệu quả càng được nhấn mạnh khi nhà sản
xuất nhận thức tác động của mức độ tồn kho cao đến chi phí sản xuất và chi phí lưu
giữ tồn kho. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, đặc biệt là máy tính
làm gia tăng tính tinh vi của các phần mềm kiểm soát tồn kho dẫn đến làm giảm

đáng kể chi phí tồn kho trong khi vẫn cải thiện truyền thông nội bộ về nhu cầu của
các chi tiết cần mua cũng như nguồn cung.
Thập niên 1980 được xem như là thời kỳ bản lề của quản trị chuỗi cung ứng.
Thuật ngữ quản trị chuỗi cung ứng lần đầu tiên sử dụng một cách rộng rãi trên
nhiều tờ báo cụ thể là ở tạp chí vào năm 1982. Cạnh tranh trên thị trường toàn cầu
9

trở nên khốc liệt vào đầu thập niên 1980 (và tiếp tục đến ngày nay) gây áp lực đến
các nhà sản xuất phải cắt giảm chi phí nâng cao chất lượng sản phẩm cùng với việc
gia tăng mức độ phục vụ khách hàng. Các hãng sản xuất vận dụng JIT và chiến lược
quản trị chất lượng toàn diện (TQM) nhằm cải tiến chất lượng, nâng cao hiệu quả
sản xuất và thời gian giao hàng. Trong môi trường sản xuất JIT với việc sử dụng ít
tồn kho làm đệm cho lịch trình sản xuất, các doanh nghiệp bắt đầu nhận thấy lợi ích
tiềm tàng và tầm quan trọng của mối quan hệ chiến lược và hợp tác của nhà cung
cấp - người mua - khách hàng. Khái niệm về sự cộng tác hoặc liên minh càng nổi
bật khi các doanh nghiệp thực hiện JIT vàTQM.
Khi cạnh tranh ở thị trường Mỹ gia tăng nhiều hơn vào thập niên 1990 kèm
với việc gia tăng chi phí hậu cần và tồn kho cũng như khuynh hướng toàn cầu hóa
nền kinh tế làm cho thách thức của việc cải thiện chất lượng, hiệu quả sản xuất, dịch
vụ khách hàng và thiết kế và phát triển sản phẩm mới cũng gia tăng. Để giải quyết
với những thách thức này, các nhà sản xuất bắt đầu mua sản phẩm từ các nhà cung
cấp chất lượng cao, có danh tiếng và được chứng thực. Hơn nữa các doanh nghiệp
sản xuất kêu gọi các nhà cung cấp tham gia vào việc thiết kế và phát triển sản phẩm
mới cũng như đóng góp ý kiến cào việc cải thiện dịch vụ, chất lượng và giảm chi
phí chung. Mặt khác, các công ty nhận thấy rằng nếu họ cam kết mua hàng từ
những nhà cung cấp tốt nhất cho họat động kinh doanh của mình thì đổi lại họ sẽ
hưởng lợi gia tăng doanh số thông qua sự cải tiến chất lượng, phân phối và thiết kế
sản phẩm cũng như cắt giảm chi phí nhờ vào việc quan tâm nhiều đến tiến trình,
nguyên vật liệu và các linh kiện được sử dụng trong hoạt động sản xuất. Nhiều liên
minh giữa nhà cung cấp và người mua đã chứng tỏ sự thành công của mình.

Tái thiết kế quy trình kinh doanh (BPR) (suy nghĩ một cách triệt để và tái
thiết kế quy trình kinh doanh nhằm giảm các lãng phí và gia tăng thành tích được
giới thiệu vào đầu thập niên 1990 là kết quả của những quan tâm to lớn trong suốt
giai đoạn này với mục đích cắt giảm chi phí và nhấn mạnh đến những năng lực then
chốt của doanh nghiệp nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh dài hạn. Khi xu hướng này
mất dần vào giữa cuối thập niên 1990 (thuật ngữ trở nên đồng nghĩa với việc thu
10

hẹp quy mô), quản trị chuỗi cung cấp trở nên phổ quát hơn như là nguồn lực tạo ra
lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Cũng trong thời gian này, các nhà quản trị, nhà tư vấn và các học giả hàn lâm
bắt đầu nhận thức sâu sắc hơn sự khác biệt giữa hậu cần và quản trị chuỗi cung ứng.
Mãi cho đến thời điểm đó thì quản trị chuỗi cung cấp mới được nhìn nhận như là
hoạt động hậu cần bên ngoài doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp bắt đầu ứng dụng
các sáng kiến của quản trị chuỗi cung cấp, họ bắt đầu hiểu được sự cần thiết phải
tích hợp tất cả các quy trình kinh doanh then chốt giữa các bên tham gia trong chuỗi
cung cấp, cho phép chuỗi cung cấp vận hành và phản ứng như một thể thống nhất.
Ngày nay, hậu cần được xem như là một thành tố quan trọng của khái niệm quản trị
chuỗi cung cấp rộng hơn rất nhiều.
Cùng thời đó, các doanh nghiệp cũng nhận thấy lợi ích trong việc tạo ra các
liên minh hoặc sự cộng tác với khách hàng của nó. Doanh nghiệp trung tâm trở
thành nhà cung cấp giá trị cao và được sử dụng chủ yếu cho khách hàng. Phát triển
mối quan hệ mật thiết và dài hạn với khách hàng nghĩa rằng doanh nghiệp sẽ giữ ít
tồn kho bảo hiểm sản phẩm hoàn thành hơn (như được thảo luận ở hiệu ứng
Bullwhip) và cho phép doanh nghiệp tập trung nguồn lực vào việc cung ứng tốt hơn
các sản phẩm hoặc dịch vụ cho khách hàng. Cuối cùng khi thị phần đối với sản
phẩm của khách hàng được cải thiện thì sẽ có lợi cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Điều này nghĩa rằng trong một liên minh hoặc cộng tác chiến lược thì
khi một doanh nghiệp trung tâm làm gia tăng thị phần của khách hàng điều này hàm
ý rằng công việc kinh doanh của doanhnghiệp đang theo chiều huớng thuận lợi.

Vì vậy, quản trị chuỗi cung cấp phát triển song song theo hai hướng: (1) quản
trị cung cấp và thu mua nhấn mạnh đến khách hàng công nghiệp hoặc khách hàng tổ
chức và (2) vận tải và hậu cần nhấn mạnh từ nhà bán sỉ và nhà bán lẻ. Mức độ phổ
biến của các liên minh với nhà cung cấp và khách hàng (nhà cung cấp của nhà cung
cấp và khách hàng của khách hàng) vào cuối thập niên 1990 và tiếp tục đến ngày
nay cũng mang hàm ý rằng một lệ thuộc nhiều vào vận tải, tồn kho và dịch vụ hậu
cần tạo ra các dịch vụ vận tải, tồn kho, tư liệu cho nhiều doanh nghiệp trong chuỗi
11

cung cấp. Xây dựng mối quan hệ cũng xảy ra đối với nhiều nhà cung cấp dịch vụ
thứ ba hoặc các doanh nghiệp sử dụng chúng để đảm bảo việc cung ứng liên tục và
không bị gián đoạn hàng hóa. Sự cần thiết phải đánh giá hiệu suất và thành tích của
mối quan hệ này theo từng giai đoạn cũng đồng hành với sự phát triển của quản trị
chuỗi cung cấp. Một trong những thách thức mà nhiều doanh nghiệp đối diện hiện
nay liên quan đến quản trị chuỗi cung cấp chính là cách thức đánh giá đầy đủ hiệu
suất toàn diện trong một chuỗi cung cấp toàn cầu và thường là cực kỳ phức tạp.
Đối với ngành bán sỉ và bán lẻ, trọng tâm của quản trị chuỗi cung cấp là những
vấn đề về vị trí và hậu cầu hơn là vấn đề sản xuất. Quản trị chuỗi cung ứng trong
những ngành này thường liên quan đến việc đáp ứng nhanh chóng hoặc hậu cần tích
hợp. Thành tựu của hệ thống chuyển đổi dữ liệu điện tử nội bộ (EDI), hệ thống mã
vạch, Internet và công nghệ quét sóng băng tầng trong hai thập kỷ qua được hỗ trợ
cho sự phát triển của khái niệm chuỗi cung ứng tích hợp. Các doanh nghiệp trong
ngành bán lẻ đã sử dụng quản trị chuỗi cung cấp nhằm đương đầu với tính phức tạo
và không chắc chắn chưa từng có của thị trường và để giảm thiểu tồn kho xuyên
suốt chuỗi cung cấp. Việc phát triển nhanh chóng phần mềm quản trị chuỗi cung
cấp khách hàng/máy chủ mà điển hình bao gồm việc tích hợp quản trị chuỗi cung
cấp và các cấu thành của thương mại điện tử đã hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển và
ứng dụng quản trị chuỗi cung ứng. Chia sẻ thông tin với các đối tác chuỗi cung ứng
thông qua EDI và Internet cho phép doanh nghiệp tích hợp chức năng tồn kho, hậu
cần, mua nguyên vật liệu, vận chuyển và các chức năng khác nhằm tạo ra phương

thức quản trị tiên phong và hiệu quả hơn. Trong tương lai, chúng ta sẽ hy vọng rằng
quản trị chuỗi cung cấp nhấn mạnh đến việc mở rộng chuỗi cung cấp, gia tăng trách
nhiệm của chuỗi và nhấn mạnh hơn nữa vào chuỗi cung cấp “xanh” cũng như cắt
giảm đáng kể chi phí của chuỗi.
1.1.3. Phân biệt logistic và chuỗi cung ứng
 Logistic:
Kể từ khi được phát hiện vào những năm 1980 đến nay, việc phát triển rộng rãi
các hoạt động kinh doanh logistics và việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về logistics
đã được nhiều học giả trên thế giới quan tâm. Ngày nay, người ta nhận thấy vai trò
12

của logistics rất lớn, không chỉ trong kinh tế mà còn đối với các tổ chức, trong đó có
các công ty, do vậy đòi hỏi phải có cách nhìn nhận tổng quát hơn về logistic.
Nghiên cứu về logistics là nghiên cứu về việc quản trị các dòng hàng hóa, vật
tư, thiết bị, sản phẩm, tài chính trong điều kiện cụ thể. Để có thể nắm bắt được
nhu cầu, cũng như cách thức giành được thị phần trong thị trường cung ứng dịch vụ
logistics, xác định khả năng sinh lời, chúng ta cần xem xét những quan niệm về
logistics hiện đại ra sao.
Nếu như trước đó, khi nói đến logistic người ta chủ yếu tập trung vào việc
nghiên cứu tổ chức vận chuyển và phân phối sản phẩm (outbound) thì nay người ta
phải kết hợp đồng thời nghiên cứu luôn cả dòng vật tư, nguyên vật liệu trang biết
bị cho đầu vào (inbound). Chính sự kết hợp này trong một chương trình quản
trị đã tạo ra logistics.
Chúng ta xem hình vẽ sau:

Hình 1.3 Hình vẽ mô tả logistics trong một công ty
Nguồn: Ts Lý Bách Chấn. Lý luận hiện đại về Logistics và chuỗi cung ứng
Nếu như trước 1980 người ta chưa kết hợp giữa hai phần inbound và out
bound thì khi hợp nhất vào một chương trình quản trị chúng ta có một hệ thống
logistics.

Như vậy, bản chất của logistics là quản lý các dòng vật tư (đầu vào) và sản
phẩm (đầu ra) của một đơn vị sản xuất kinh doanh. Ngoài hai dòng logistics trên, có
thể còn tồn tại một dòng thứ ba là dòng tái sử dụng. Dòng tái sử dụng này thường là
13

vật chứa hàng dùng lại (vỏ chai bia ), hoặc các công cụ mang hàng (palet,
container )
Một điều hết sức lưu ý là trong một chuỗi logistics (như trong hình vẽ trên)
chúng ta thấy vận tải tham gia vào mọi dòng, nhưng vận tải là đối tác của logistics,
chứ không phải là một thành phần của logistics, vì khái niệm vận tải trong một
chuỗi hoạt động logistics là cụ thể, chứ không phải là vận tải chung chung. Trong
chiến lược phát triển logistics người ta hết sức quan tâm tới việc chọn lựa đối tác
vận chuyển. Có rất nhiều định nghĩa về logistics:
Logistics là một quá trình tiên lượng nhu cầu và yêu cầu cuả khách hàng; lo
liệu vốn, vật tư, nhân lực, công nghệ và thông tin cần thiết để có thể làm theo nhu
cầu và yêu cầu của khách hàng; tối ưu hóa mạng lưới hàng hóa, dịch vụ làm thỏa
mãn yêu cầu của khách hàng; và tận dụng mạng lưới này làm thỏa mãn yêu cầu của
khách hàng đúng hẹn. Logistics đề cập cả việc sản xuất hình thành hàng hóa qua
việc cung ứng vật tư kĩ thuật, lao động, thông tin, để làm ra sản phẩm hàng hóa
đó, và nhất là điểm bắt đầu và kết thúc của quá trình logistics là thỏa mãn nhu cầu
của khách hàng.
Ngày nay người ta công nhận logistics là ngành dịch vụ tạo ra giá trị gia tăng,
nhiều nghiên cứu xem xét cơ sở tạo ra giá trị gia tăng của nó. Chúng ta biết rằng,
giá trị của sản phẩm do các yếu tố sau tạo nên: việc hình thành (làm ra) sản phẩm,
số lượng tiền vốn bỏ vào sản phẩm và tiện ích địa điểm, tiện ích thời gian. Như vậy
hiện nay phần giá trị của hàng hóa (thông qua giá cả) có 2 yếu tố là thời gian và địa
điểm trao đổi (thực hiện hàng hóa) được xem xét.
Logistics đóng góp phần giá trị gia tăng của mình vào sản phẩm thông qua các
yếu tố hình thành nên sản phẩm, tiện ích địa điểm và thời gian.
Việc tạo ra tiện ích địa điểm và thời gian của sản phẩm là khá rõ ràng, cần

xem xét thêm logistics đã tham gia vào việc hình thành sản phẩm (làm ra sản phẩm)
của logistics như sau:
Hiện nay, không phải mọi sản phẩm đều được làm ra toàn bộ tại một nhà máy,
mà sản phẩm được hình thành từ nhiều nhà máy và nó được hoàn thành tại một nơi
cuối cùng mà thôi. Thí dụ, một máy tính của hãng Dell có thể được lắp ráp tại
14

Malaysia trên cơ sở nhập rất nhiều bộ phận, thí dụ màn hình (monitor), bàn phím từ
Hongkong, phần cứng từ Đài Loan , sau đó mới được chuyển về Mĩ để hoàn thiện
và cài đặt phần mềm, hoàn thành sản phẩm giao cho khách hàng. Quá trình sản xuất
như vậy đòi hỏi có sự tham gia của logistics.
Việc quản lý logistics là hết sức cần thiết đối với các nhà sản xuất, cung ứng,
thậm chí trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, thế giới đã trở nên phẳng hơn, nó trở
thành vấn đề tồn tại hay không không tồn tại đối với các công ty. Các hoạt động
logistics đưa lại nhiều dịch vụ cho các nhà cung ứng dịch vụ logistics. Đây là điều
mà những người làm vận tải và các dịch vụ liên quan hết sức quan tâm.
Yêu cầu căn bản của logistics là tính toàn hệ thống, hay còn thể hiện qua quan
niệm về giá thành toàn bộ. Nghĩa là toàn bộ các hoạt động logistics phải được gắn
kết chặt chẽ thành một tổng thể, với giá thành tổng cho toàn tổng thể đó, chứ không
xét riêng rẽ, độc lập. Điều này hết sức quan trọng vì thông thường có nhiều đơn vị
khác nhau tham gia vào từng hoạt động của chuỗi logistics. Do vậy, khi xem xét
riêng từng hoạt động, chúng ta cần lưu ý tính hệ thống này. Trong thực tế, chúng ta
cung ứng một dịch vụ nào đó, thí dụ cho thuê kho bảo quản hàng hóa cụ thể của
một chuỗi cung ứng (logistics) nào đó, chúng ta sẽ phải chấp nhận những điều kiện
của chuỗi (hệ thống) đó.
Như vậy các hoạt động chính mà logistics phải quản trị bao gồm: Dịch vụ
khách hàng/Dự báo nhu cầu/Quản lý dự trữ/Liên lạc logistics/Mua sắm vật tư/Xử lý
đơn hàng/Đóng gói/Dịch vụ hậu mãi (bảo hành, cung cấp phụ tùng )/Lựa chọn
kho/Lưu kho bãi, bảo quản hàng hóa/Quản lý vận tải và theo dõi hành trình hàng
hóa vật tư

 Chuỗi cung ứng:
Chuỗi cung ứng có thể hình dung như một đường ống hoặc một cái máng
dùng cho dòng chảy của sản phẩm/vật tư, dịch vụ, thông tin và tài chính từ nhà cung
ứng qua nhiều tổ chức, công ty trung gian cho đến tận người tiêu dùng.
Như vậy một chuỗi cung ứng sẽ bao gồm các đơn vị tham gia với những dịch
vụ logistics cụ thể. Nói cách khác, logistic là một phần của chuỗi cung ứng.

×