Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Vai trò của nhân tố văn hóa trong xây dựng ý thức công dân ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 92 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
٭٭٭٭٭ ٭٭٭٭


ĐỖ THỊ VÂN HÀ


VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ VĂN HOÁ TRONG XÂY
DỰNG Ý THỨC CÔNG DÂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC


Chuyên ngành : CNXHKH
Mã số : 602285


Người hướng dẫn khoa học: TS. LƯU MINH VĂN



HÀ NỘI - 2009

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
Chương 1 Ý THỨC CÔNG DÂN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NHÂN TỐ VĂN


HOÁ ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH Ý THỨC CÔNG DÂN 11
1.1 Công dân và ý thức công dân 11
1.1.1. Khái niệm công dân 11
1.1.2. Khái niệm ý thức công dân 22
1.2. Nhân tố văn hoá với việc hình thành ý thức công dân 29
1.2.1. Khái lược về những nhân tố tác động đến sự hình thành ý thức công
dân 29
1.2.2. Văn hóa và sự hình thành ý thức công dân 34
Chương 2 NHÂN TỐ VĂN HOÁ TRONG XÂY DỰNG Ý THỨC 42
CÔNG DÂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY - VẤN ĐỀ VÀ KHUYẾN NGHỊ 42
2.1. Xây dựng ý thức công dân: vấn đề quan trọng của sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay 42
2.2. Một số phương diện tác động của nhân tố văn hoá đến sự hình thành ý
thức công dân ở Việt Nam hiện nay 47
2.2.1. Tác động của văn hoá truyền thống đến sự hình thành ý thức công dân
ở Việt Nam hiện nay 48
2.2.2. Tác động của những giá trị văn hoá mới đến sự hình thành ý thức công
dân ở Việt Nam hiện nay 67
2.3. Một số khuyến nghị nhằm nâng cao vai trò của nhân tố văn hoá trong xây
dựng ý thức công dân ở nước ta hiện nay 74
2.3.1. Xây dựng môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự hình thành tư
cách công dân và ý thức công dân 74
2.3.2. Phát huy mặt tích cực của những giá trị truyền thống đối với sự hình
thành ý thức công dân 77

2
2.3.3. Đổi mới phương thức giáo dục ý thức công dân 81
KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88




























3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam

khởi xướng từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã đạt được
những thành tựu to lớn trên mọi mặt của đời sống xã hội, từ phát triển kinh
tế đến phát triển xã hội, từ nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân đến mở rộng quá trình dân chủ hoá, phát huy vai trò làm chủ của nhân
dân. Thực tế thì, chính tư duy đổi mới với việc đề cao và phát huy tối đa vai
trò của người dân trong việc xây dựng và phát triển đất nước, chúng ta đã
đạt được những thành tựu kể trên. Vai trò trung tâm, động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội của con người đã được khẳng định. Tuy nhiên, con
người không chỉ là động lực, mà quan trọng hơn, còn là mục tiêu của sự phát
triển. Xét đến cùng, mọi sự phát triển kinh tế - xã hội đều là nhằm mang lại
một cuộc sống tốt đẹp hơn cho con người, như mục tiêu xây dựng đất nước
mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra: xây dựng xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Dân chủ là giai đoạn phát triển cao của xã hội loài người. Trong
xã hội dân chủ, công dân có vị thế rất đặc biệt. Công dân vừa có vị thế chủ
thể, nhưng cũng đồng thời là đối tượng quản lý của thể chế. Chính vì vậy,
tính tích cực chủ quan của mỗi công dân có tác động đặc biệt đối với sự vận
động của xã hội. Nói cách khác, để xây dựng thành công một xã hội Việt
Nam giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, như văn kiện của Đảng đã
khẳng định, thì ngoài những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước,
điều cũng rất quan trọng là mỗi người dân phải có ý thức đầy đủ về vai trò
làm chủ của mình và tham gia tích cực, chủ động vào quá trình xây dựng,
bảo vệ đất nước.
Xây dựng ý thức công dân chính là một trong những điều kiện quan
trọng của sự hình thành tính tích cực của người dân trong quá trình đổi mới
đất nước nhằm đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người. Nhưng đó là

4
quá trình lâu dài và có không ít khó khăn, nhất là với điều kiện của Việt
Nam: từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, lại trải qua hai cuộc chiến
tranh giành độc lập và bảo vệ tổ quốc lâu dài. Trên thực tế, quá trình xây

dựng một xã hội Việt Nam theo hướng hiện đại, xã hội chủ nghĩa, dân chủ
mới diễn ra trong gần bốn thập kỷ. Đó là khoảng thời gian còn tương đối
ngắn để hình thành “con người công dân” đúng nghĩa.
Người Việt Nam truyền thống vốn quen sống với tập tục, tôn ti của xã
hội phong kiến, nay với tư cách là công dân của một xã hội dân chủ, phải xây
dựng ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật
là điều không dễ. Do vậy, quá trình ấy đòi hỏi phải phối hợp nhiều biện
pháp, nhiều cách thức khác nhau mới có thể hình thành ý thức độc lập, tự
chủ, tự giác và tuân thủ luật pháp vốn là những đặc điểm không thể thiếu của
con người công dân. Chẳng hạn, cần xây dựng những điều kiện kinh tế - xã
hội làm cơ sở để xây dựng một xã hội dân chủ, cần tiến hành tuyên truyền,
phổ biến và giáo dục đến mỗi công dân về quyền lợi, trách nhiệm của họ
trong đất nước, cũng như về cách thức để thực hiện quyền lợi và trách nhiệm
đó. Bản thân việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục ý thức công dân cũng
cần được tiến hành bằng nhiều biện pháp khác nhau nhằm đạt đến hiệu quả
cao nhất, như sử dụng công cụ luật pháp với các chế tài thích hợp để hình
thành nên ở công dân ý thức về việc thực hiện vai trò và trách nhiệm công
dân của mình; kết hợp với việc sử dụng các biện pháp giáo dục công dân
trong nhà trường, qua các phương tiện thông tin đại chúng Trong các con
đường giáo dục nên ý thức công dân, văn hoá là con đường cần chú ý. Bởi,
với tư cách là chủ thể, đồng thời là “vật mang” văn hoá, con người hoạt động,
tác động đến môi trường xung quanh dựa trên những chuẩn thức văn hoá -
những giá trị đã trở thành tiềm thức, đã trở thành tập quán mà mỗi người được
thừa hưởng từ truyền thống và giáo dục. Chính vì vậy, việc thông qua công cụ
văn hoá để chuyển tải những nội dung mới của việc xây dựng ý thức công dân

5
không những khiến cho mỗi người dân có thể dễ dàng tiếp cận và hiểu được
vai trò, trách nhiệm công dân của mình mà còn có thể góp phần nhanh chóng
hình thành thái độ đúng đắn của các công dân trong việc thực hiện vai trò và

trách nhiệm ấy đối với xã hội.
Những luận chứng trên cho thấy việc nghiên cứu về vai trò của nhân tố
văn hoá trong xây dựng ý thức công dân ở Việt Nam là yêu cầu bức thiết hiện
nay. Với những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Vai trò của
nhân tố văn hoá trong xây dựng ý thức công dân ở nước ta hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm gần đây, vấn đề công dân và giáo dục ý thức công dân
cũng đã được chú ý nghiên cứu. Tuy nhiên, trên thực tế, ở Việt Nam cho đến
nay, vẫn rất thiếu những công trình nghiên cứu kỹ càng về chủ đề xây dựng ý
thức công dân, mặc dù ý nghĩa quan trọng của nó là điều đã được nhiều tác
giả nhấn mạnh. Có thể dễ nhận thấy điều đó qua đặc điểm: phần lớn chủ đề
này được đề cập rải rác trong các công trình nghiên cứu về pháp luật, về nhà
nước pháp quyền.
Ở đây chúng tôi sẽ điểm qua ở những công trình chính như sau:
- Trần Ngọc Đường - Chu Văn Thành (1994): Mối quan hệ pháp lý
giữa cá nhân công dân với nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Trong cuốn sách, các tác giả đã chỉ ra bản chất của mối quan hệ giữa cá
nhân công dân với nhà nước, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và
các đảm bảo pháp lý của cá nhân công dân trong mối quan hệ với nhà nước
theo Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mặc dù các vấn đề này được xem xét dưới góc độ luật học, song những phân
tích của các tác giả về khái niệm công dân và bản chất của mối quan hệ giữa
cá nhân công dân với nhà nước là rất đáng chú ý.
- Đào Trí Úc(cb) (1995): Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật,
Đề tài Khoa học công nghệ cấp nhà nước KX - 07 - 17

6
Cuốn sách tập hợp các nghiên cứu xung quanh vấn đề quá trình hình
thành ý thức pháp luật của con người Việt Nam - một bộ phận quan trọng cấu
thành ý thức công dân. Trên cơ sở các điều tra xã hội học ở nhiều đối tượng

khác nhau và từ việc nghiên cứu các tài liệu lý luận, các tác giả đã chỉ ra hiện
trạng ý thức và lối sống theo pháp luật của con người Việt Nam, làm sáng tỏ
những ảnh hưởng của phương thức sản xuất, của văn hoá, đạo đức và tập
quán truyền thống, của điều kiện phát triển đất nước đến ý thức và lối sống
theo pháp luật của con người Việt Nam, đồng thời đề xuất những biện pháp
nhất định nhằm xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật cho các tầng lớp
dân cư.
- Đào Trí Úc (cb) (2005): Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Cuốn sách tập hợp kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học tham gia
đề tài KHXH.05.05. Qua việc phân tích lịch sử, đặc trưng, hiện thực của nhà
nước pháp quyền ở các nước tư sản, phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về nhà nước và pháp luật, chỉ ra các tiền đề tư tưởng của nhà nước pháp
quyền Việt Nam, các tác giả đi tới làm rõ những giải pháp, những điều kiện
cần thiết cho việc bảo đảm, duy trì bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của
dân, do dân, vì dân. Mặc dù công trình này không trực tiếp bàn đến vấn đề
xây dựng ý thức công dân ở Việt Nam hiện nay, nhưng thông qua việc nghiên
cứu thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội dân chủ ở Việt Nam
hiện nay, công trình đã gián tiếp đề cập đến vai trò của công dân, ý thức công
dân và việc xây dựng ý thức công dân trong quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta.
- Bùi Ngọc Sơn (2004): Xây dựng nhà nước pháp quyền trong bối cảnh
văn hoá Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội
Trong cuốn sách, tác giả đã chỉ ra sự tác động của các yếu tố văn hoá
truyền thống của dân tộc đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam.

7
Từ đó, tác giả chỉ ra những phương hướng cơ bản để xây dựng nhà nước pháp
quyền trong bối cảnh văn hoá Việt Nam. Mặc dù cuốn sách không đề cập trực
tiếp đến vấn đề công dân và ý thức công dân, song những phân tích của tác

giả về tác động của yếu tố văn hoá truyền thống đến việc xây dựng nhà nước
pháp quyền cũng cho thấy một khía cạnh của việc xây dựng nhà nước pháp
quyền ở nước ta hiện nay - khía cạnh văn hoá. Do việc xây dựng nhà nước
pháp quyền muốn thành công thì cần chú ý đến vai trò của chủ thể của nhà
nước đó - các công dân, cho nên đây là tài liệu có tính gợi mở đối với việc
xây dựng ý thức công dân ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, còn có thể kể đến các công trình khác liên quan đến vấn đề
công dân và ý thức công dân, chẳng hạn như: Võ Khánh Vinh (2003): Mối
quan hệ giữa xã hội - cá nhân - nhà nước trong nhà nước pháp quyền và vai
trò của nó trong việc xác định mô hình tổng thể nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2; Nguyễn Hữu
Khiển (2006): Trách nhiệm công dân trong nhà nước pháp quyền, Tạp chí
Quản lý nhà nước, số 129…
Văn hoá, do vai trò và khả năng tác động đặc biệt của nó đối với con
người và xã hội loài người, cũng là một trong những vấn đề được rất nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm. Trong những năm qua, vấn đề văn hoá và vai trò
của văn hoá đối với sự phát triển xã hội, trong đó có con người đã được đề
cập đến trong nhiều công trình khoa học lớn. Tiêu biểu là:
- Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (cb) (1996): Các giá trị truyền thống
và con người Việt Nam hiện nay, Đề tài Khoa học công nghệ cấp nhà nước
KX - 07 - 02
Trong công trình này, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu quá trình hình
thành, phát triển và biến đổi của các truyền thống Việt Nam, phân tích nội
dung cấu thành của truyền thống Việt Nam. Trên cơ sở đó, các tác giả đối
chiếu với con người Việt Nam hiện nay, với tư cách là mục tiêu và động lực

8
của sự phát triển kinh tế - xã hội, đánh giá một cách khách quan mặt mạnh và
mặt yếu của di sản truyền thống, đưa ra những khuyến nghị về phương hướng
và giải pháp giáo dục, phát huy các giá trị truyền thống trong thời hiện đại. Có

thể nói, đây là công trình bàn rất kỹ đến vai trò của các giá trị văn hoá truyền
thống đối với sự phát triển của con người Việt Nam hiện đại - con người của
xã hội dân chủ.
- Hồ Sĩ Quý (1999): Tìm hiểu về văn hoá và văn minh, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội
Trên cơ sở phân tích sự tương đồng và dị biệt giữa hai khái niệm văn
hoá và văn minh, khẳng định cách nhìn văn hoá đối với sự vận động và phát
triển xã hội, tác giả đi đến lý giải về vai trò của nhân tố văn hoá trong nền văn
minh, về văn hoá với định hướng giá trị xã hội và truyền thống, văn hoá và
tiến bộ xã hội…Từ đây, tác giả đi đến khẳng định, xã hội muốn có hạnh phúc
thì công bằng xã hội phải là bạn đồng hành với sự tiến triển của văn minh. Đó
cũng là khía cạnh văn hoá của sự phát triển. Cũng từ đây, tác giả đi đến khẳng
định vai trò của việc phát huy những ưu trội trong bản sắc văn hoá Việt Nam
trong xã hội hiện nay.
Ngoài ra, còn có thể kể đến các công trình nghiên cứu khác tập trung
làm rõ khái niệm văn hoá và khẳng định vai trò của văn hoá đối với sự phát
triển của xã hội và con người như: Nguyễn Văn Huyên (2006): Văn hoá - mục
tiêu và động lực của sự phát triển, Tạp chí Cộng sản, số 114; Phan Ngọc
(1998): Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội;
Nguyễn Huy Hoàng (2002): Mấy vấn đề triết học văn hoá, Nxb Văn hoá
thông tin, Hà Nội…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vấn đề xây
dựng ý thức công dân cũng như vấn đề văn hoá và vai trò của văn hoá đối với
sự phát triển xã hội nói chung và đối với sự phát triển xã hội Việt Nam nói
riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào chỉ ra một cách trực tiếp và hệ thống

9
về vai trò, tác động của nhân tố văn hoá trong xây dựng ý thức công dân ở
nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của luận văn là luận giải tác động của nhân tố văn hoá trong
việc xây dựng ý thức công dân, từ đó đề ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm
xây dựng ý thức công dân ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn hướng đến giải quyết một số nhiệm
vụ cơ bản sau:
- Làm rõ khái niệm và tính cấp thiết của việc xây dựng ý thức công dân
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
- Nghiên cứu vai trò của nhân tố văn hoá với việc xây dựng ý thức công
dân, từ đó, chỉ ra những tác động của văn hoá Việt Nam trong quá trình xây
dựng ý thức công dân hiện nay.
- Đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao vai trò của nhân tố văn
hoá trong xây dựng ý thức công dân trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu sự tác động của nhân tố văn hóa đến sự hình
thành ý thức công dân trong điều kiện hiện nay ở nước ta.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
+ Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về con người; về văn hoá và vai trò của nhân tố văn hoá đối với sự
phát triển xã hội và con người.
+ Kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài
nước về vấn đề văn hoá và vai trò của nó đối với việc xây dựng ý thức công
dân ở nước ta hiện nay.

10
Cơ sở phương pháp luận:
+ Phép biện chứng duy vật về mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá với
sự phát triển xã hội, con người.

+ Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những phương pháp cụ thể như: phân
tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về lý luận, tác giả luận văn hướng đến nghiên cứu có tính khái quát
về sự tác động của nhân tố văn hóa đến xây dựng ý thức công dân.
- Những giải pháp về xây dựng ý thức công dân có thể dùng để tham
khảo trong giáo dục công dân ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.













11
Chương 1
Ý THỨC CÔNG DÂN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NHÂN TỐ
VĂN HOÁ ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH Ý THỨC CÔNG DÂN
1.1 Công dân và ý thức công dân
1.1.1. Khái niệm công dân
Từ khi xuất hiện, triết học đã nghiên cứu về con người với tư cách là

chủ đề trọng tâm. Song chỉ đến khi triết học Mác ra đời, vấn đề con người
mới có được một sự lý giải khoa học và toàn diện trên cơ sở của chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Triết học Mác xem xét con người trong sự thống nhất
biện chứng giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, trong đó, mặt xã hội là cơ
bản nhất quy định bản chất của con người. Khẳng định điều này, Mác viết:
“Bản chất của con người không phải là một cái gì trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội”. [6, 11]
Phương pháp luận được rút ra từ luận điểm trên của C. Mác là nghiên
cứu con người phải xuất phát từ những con người hiện thực, nghĩa là những
con người cụ thể trong thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội. Hoạt động thể hiện
rõ nhất bản chất của con người là hoạt động lao động sản xuất tạo ra các sản
phẩm thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của con người. Chính trong quá
trình hoạt động thực tiễn đó, con người đã cải biến tự nhiên, xã hội, cải biến
chính bản thân mình và làm nên lịch sử xã hội loài người. Hoạt động sáng tạo
của con người ngoài yếu tố chủ quan còn bị giới hạn bởi những điều kiện của
lịch sử: trình độ của lực lượng sản xuất, các thiết chế chính trị - xã hội, văn
hoá… Điều này được triết học Mác xác nhận trong mệnh đề: con người vừa là
chủ thể sáng tạo của lịch sử, lại vừa là sản phẩm của lịch sử. Tính chủ thể của
con người thể hiện ở hoạt động có ý thức của nó trong quá trình cải tạo tự
nhiên và xã hội. Với tư cách chủ thể lịch sử, con người chủ động, tích cực

12
trong hoạt động chinh phục tự nhiên, đấu tranh xã hội, xây dựng và tổ chức
các hoạt động khác nhau của bản thân. Là sản phẩm của lịch sử, tất cả mọi
hoạt động của con người không thể tách rời những điều kiện, hoàn cảnh lịch
sử xã hội.
Chính vì vậy, để phát triển và hoàn thiện con người, cần phải tạo ra
những hoàn cảnh, môi trường xã hội ngày càng mang tính nhân văn như là
điều kiện để con người tham gia tích cực vào việc kiến tạo các quá trình lịch

sử. Lịch sử phát triển xã hội loài người thực chất cũng là lịch sử của quá trình
giải phóng con người. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, người lao động bị coi
chỉ như công cụ biết nói. Trong xã hội phong kiến, dù đã được giải phóng về
thân thể, nhưng đa số người dân vẫn không có được quyền quyết định đối với
vận mệnh của bản thân do những trói buộc về ý thức hệ, thể chế chính trị và
cả văn hóa. Trong điều kiện như vậy, cả điều kiện khách quan và chủ quan để
người dân có thể tác động đến công việc của chính quyền là cánh cửa vô cùng
hẹp. Trên thực tế, công việc nhà nước, công việc chung của xã hội đều nằm
trong tay tầng lớp thượng lưu. Và quan hệ chủ đạo giữa người dân và người
cầm quyền là quan hệ “quân - thần”. Đó là quan hệ lấy sự tuân phục một
chiều của người dân với người cầm quyền là chiều vận động cơ bản. Chính vì
vậy, người dân chưa hình thành ý thức tích cực, chủ động tham gia vào các
công việc chung của cộng đồng xã hội cũng là điều hiển nhiên.
Từ những nhận định trên có thể thấy, để chuyển từ con người nô lệ, thần
dân sang con người công dân là hệ quả của quá trình biến đổi xã hội lớn (cách
mạng) về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Trên phương diện này thắng lợi
của cách mạng tư sản là mốc quan trọng của lịch sử phát triển con người công
dân bởi sức mạnh giải phóng người dân của nó. Từ địa vị là thần dân, mỗi
người dân đã được thừa nhận nhận về mặt pháp lý các quyền tự do, dân chủ, đã
được khuyến khích và tạo điều kiện phát triển năng lực làm chủ xã hội. Tuy
nhiên với những giới hạn giai cấp của nó, cuộc cách mạng tư sản không thể giải

13
quyết trọn vẹn những rào cản để người dân phát triển đầy đủ năng lực làm chủ
xã hội của mình.
Về lịch sử nhận thức, có thể thấy, khái niệm công dân đã phôi thai từ
thời cổ đại Hy Lạp – La Mã và được nhiều nhà triết học, nhà tư tưởng đề cập
đến. Ở đây chúng tôi chỉ điểm qua quan niệm của Arixtốt. Khái niệm công dân
được Arixtốt trình bày chủ yếu trong tác phẩm “Chính trị” – một cuốn sách đặc
sắc về triết học chính trị, chính trị học và về xã hội của ông. Đại thể quan điểm

của ông có thể tóm tắt ở những điểm chính sau: thứ nhất, cũng như nhiều nhà
tư tưởng khác (và cũng là quan niệm phổ biến ở Hy Lạp – La Mã thời kỳ cổ đại
nói chung) về ngoại diên, khái niệm công dân chỉ bao hàm những người “tự
do” của một quốc gia (Thành bang - Polis) nhất định, nghĩa là nô lệ và kiều dân
bị loại trừ trong khái niệm công dân; thứ hai, về nội hàm khái niệm, công dân
là người có quyền tham gia và có quyền quyết định một cách bình đẳng các
công việc liên quan đến chính trị (thảo luận, biểu quyết những chính sách,
những quyết định chính trị quan trọng của quốc gia, và có quyền tham chính),
đến đời sống chung của cộng đồng. Tiêu chí tiếp theo của con người công dân
được ông chỉ ra đó là sự thực hiện các nghĩa vụ của họ với quốc gia. Khẳng
định điều này, Arixtốt muốn nhấn mạnh đến tiêu chí quyền và nghĩa vụ của
công dân với nhà nước và ngược lại. Một người chỉ có thể trở thành một công
dân khi anh ta có nghĩa vụ và phải thực hiện nghĩa vụ đảm bảo cho sự tồn tại và
phát triển của quốc gia mà anh ta đang sống. Thực hiện được điều đó thì anh ta
trở thành một công dân tốt. Đồng thời, chính thể tương thích, trong quan niệm
của ông, chỉ có thể là chính thể cộng hòa. Những ý tưởng đó của các nhà tư
tưởng thời kỳ cổ đại Hy Lạp – La Mã dù mới là những nền tảng ban đầu cho sự
hình thành quan niệm về công dân, nhưng giá trị của chúng là không thể phủ
nhận. Đánh giá những đóng góp to lớn của các nhà tư tưởng thời kỳ Hy Lạp -
La Mã cổ đại, Ph.Ăngghen viết: “Không có cái cơ sở của nền văn minh Hy Lạp
và đế chế La Mã thì không có châu Âu hiện đại”. [7, 254]

14
Ở thời kỳ trung cổ phương Tây, về cơ bản, những di sản của tư tưởng
triết học chính trị cổ đại về công dân hầu như bị vứt bỏ. Trong nhà nước quân
chủ, con người được chia ra nhiều thứ bậc khác nhau với những đặc quyền,
đặc lợi tuỳ thuộc vào địa vị, thứ bậc của mình. Tuy nhiên, dù ở thứ bậc nào thì
người dân cũng không có tư cách công dân. Hệ thống tư tưởng, thiết chế và
luật pháp của nó khẳng định người dân với tư cách là “thần dân”, và họ thuộc
sở hữu của một vị quân vương. Vì vậy, nghĩa vụ của người dân là phục tùng

đối với vị vua của mình. Trong một xã hội như thế, số phận của người dân
phụ thuộc vào con người cá nhân của các ông vua. Nếu đó là ông vua đức độ,
nhân từ, biết chăm lo cho dân thì những điều tốt đẹp mà người dân được
hưởng ấy cũng là ân huệ từ vua chứ không phải là quyền chính đáng của
người dân. Quan hệ đó là quan hệ một chiều.
Ở thời kỳ cận đại, cùng với sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa, những tư tưởng về giải phóng con người khỏi mọi ràng buộc của chế
độ phong kiến đã nảy nở và phát triển mạnh mẽ. Cùng với điều đó, quan niệm
về công dân đã có bước phát triển mới. Đóng góp lớn cho điều đó trước hết
thuộc về các nhà triết học, nhà tư tưởng tiêu biểu của chủ nghĩa tự do như
Spinoza, Hobbs, Locke, Montesquieu, Rousseau, Tocqueville, Mill…
Khi khẳng định chế độ dân chủ là hình thức nhà nước tốt nhất vì chỉ
trong nhà nước dân chủ các quyền tự nhiên của con người (quyền sở hữu,
quyền tự do, quyền được hạnh phúc…) mới thực sự được đảm bảo, các nhà tư
tưởng của trường phái nêu trên đã tiến một bước quan trọng trong quan niệm
về công dân.
Trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” J. Locke đã đưa ra
luận điểm quan trọng mà sau này trở thành cơ sở không chỉ cho lý thuyết về
công dân mà cả lý thuyết về nhà nước pháp quyền: thứ nhất, mọi người sinh
ra đều có các quyền tự nhiên “bình đẳng và bất khả chuyển nhượng”; thứ hai,
về bản chất nhà nước và luật pháp là công cụ bảo vệ và thực thi quyền của các

15
công dân. Ông nhận xét: Tự do của con người dưới một chính quyền, là có
một quy tắc để tất cả sống theo đó, nó tồn tại thường trực và chung cho mọi
người trong xã hội, được định ra từ quyền lực lập pháp đã được xã hội dựng
lên. Đó là quyền tự do được làm theo ý muốn riêng trong mọi trường hợp, nếu
như ý muốn đó không bị luật pháp ngăn cấm và không phụ thuộc vào ý chí
độc đoán thường xuyên, không xác định và không rõ ràng của người khác.
[Xem: 27, 57- 58]

Cùng dòng tư tưởng này, ở T.Hobbs và J.S.Mill cũng có những luận
điểm đáng chú ý. Từ quan niệm về bản tính tự nhiên của con người, Hobbs
luận chứng rằng nhà nước là sản phẩm của sự sáng tạo cao nhất của con người
để quản lý, điều hành sự phát triển xã hội, và một trong những sứ mệnh quan
trọng của nhà nước là bảo vệ và mở rộng tự do chính đáng của mỗi con người.
Còn J.S.Mill nhấn mạnh điểm sau đây của khái niệm công dân: cá nhân có thể
làm những gì không hại đến người khác; tự do cá nhân phụ thuộc vào hai điều
kiện là trình độ dân trí và sự nghiêm minh của pháp luật.
Điểm nhấn khác của sự phát triển quan niệm về công dân chính là
những khảo luận của các nhà tư tưởng về mối quan hệ giữa khái niệm nhà
nước pháp quyền và khái niệm công dân.
S.L.Montesquieu là người đã kế thừa và hoàn thiện lý luận về nhà nước
pháp quyền dựa trên nền tảng tư tưởng của lý thuyết pháp quyền tự nhiên.
Vấn đề chiếm sự quan tâm hàng đầu của ông chính là tìm kiếm một thiết chế,
mô hình chính trị có thể thực thi và bảo vệ bảo vệ quyền của các công dân.
Theo ông, mô hình thích hợp nhất đó là mô hình tam quyền phân lập, tức là
quyền lực nhà nước cần được cấu trúc thành ba loại: lập pháp, hành pháp và
tư pháp, mỗi quyền giao cho một cơ quan. Quyền lập pháp giao cho nghị
viện, quyền hành pháp giao cho chính phủ, quyền tư pháp giao cho toà án.
Theo ông, sự phân chia quyền lực và hạn chế lẫn nhau là điều kiện chủ yếu
bảo đảm cho quyền tự do chính trị trong quan hệ của nó với thể chế nhà nước.

16
Ông khẳng định: “Không một cơ quan nào vượt lên những cơ quan kia, và
không một cơ quan nào có thể tước đoạt quyền cá nhân của công dân” [Trích
theo 41, 51]. Đồng thời, ông nhấn mạnh: quyền tự do chính trị của công dân
không phải là ở chỗ được làm mọi điều theo ý muốn, mà “tự do là quyền được
làm những điều mà luật cho phép. Nếu một công dân làm điều trái luật thì anh
ta không còn được tự do nữa, vì nếu để anh ta tự do làm thì mọi người đều
được làm trái luật cả”. [29, 105]

Học thuyết của Montesquieu và Locke về phân quyền với tư cách là
thiết chế bảo đảm quyền lợi và tự do cho công dân đã có những ảnh hưởng
sâu sắc không chỉ đối với các luận điểm lý thuyết về nhà nước pháp quyền
tiếp theo, mà còn đối với nền lập hiến tư sản thời kỳ đầu và chính sách pháp
luật nhà nước.
Sự phát triển tiếp theo của quan niệm về công dân có vai trò lớn của J.J.
Rousseau. Ông cho rằng, bước quá độ chuyển sang trạng thái tự do được đánh
dấu bằng sự ký kết khế ước xã hội. Theo khế ước đó, mỗi người dân tự
nguyện ký kết với nhau một thoả thuận ủy quyền hình thành chủ quyền tối
thượng (ý chí tối cao) do nhà nước đại diện từ tổng các quyền của công dân.
Cho nên về bản chất quyền lực nhà nước chính là quyền lực của các công dân.
Chính nhờ vậy mà các quyền của công dân như quyền tự do, quyền sống và
tài sản của mỗi cá nhân sẽ được đảm bảo bằng sức mạnh chung của cả cộng
đồng. Nhờ vậy, các quyền và tự do của công dân mang tính pháp lý.
Rousseau lập luận, trên cơ sở của khế ước xã hội dần dần hình thành
nên liên minh của những công dân tự do và bình đẳng, hình thành nên chế độ
cộng hoà. Trong đó, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân chứ không phải
quốc vương, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua việc uỷ
quyền cho các đại biểu của mình trong bộ máy nhà nước. Tham gia vào nhà
nước, vào khế ước xã hội, con người từ bỏ trạng thái tự nhiên để bước sang
trạng thái dân sự. Công dân có trách nhiệm với nhà nước thế nào thì nhà nước

17
có trách nhiệm với công dân như thế ấy: “Những mối dây ràng buộc chúng ta
vào cơ thể xã hội chỉ là cưỡng chế khi nào nó là sự ràng buộc cả hai phía, có
đi có lại. Tính chất của nó là trong khi thực hiện sự ràng buộc, người ta vừa
làm cho kẻ khác lại vừa làm cho chính mình” [40, 87]
Khi khẳng định hình thức nhà nước tốt nhất là chế độ dân chủ nhằm
bảo đảm cho quyền lợi và tự do thực sự của con người, các nhà tư tưởng đã
gián tiếp đề cập đến việc khẳng định con người là tự do và có quyền làm chủ

xã hội. Đây chính là tiền đề tư tưởng cho sự ra đời của nhà nước pháp quyền
tư sản trong hiện thực. Trong nhà nước pháp quyền tư sản, lần đầu tiên trong
lịch sử, con người đã bước từ địa vị thần dân sang địa vị người công dân.
Người công dân trong Nhà nước pháp quyền là con người, mà các quyền cơ
bản, thiêng liêng nhất của nó như quyền sống, quyền bình đẳng, quyền mưu
cầu hạnh phúc, quyền sở hữu tài sản…được nhà nước bảo vệ bằng pháp luật.
Về lý thuyết, mỗi cá nhân có thể phát triển bình đẳng và tự do trước pháp luật,
có đủ cơ hội pháp lý để phát huy mọi khả năng của mình. Nhà nước cam kết
và tôn trọng trên thực tế và bằng pháp luật các quyền và lợi ích hợp pháp,
danh dự và nhân phẩm của công dân. Mặc dù có những hạn chế, song, chủ
nghĩa tư bản thực sự đã mang lại một bước giải phóng lớn đối với con người.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một bước phát triển cao hơn nhà nước
pháp quyền tư sản, nhằm hướng đến một cuộc sống tự do, công bằng, dân chủ
thực sự cho mỗi công dân. Trong quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với
công dân, cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau, được ghi nhận,
bảo đảm thực hiện bằng hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp Việt Nam năm
1992, tại điều 51 đã khẳng định: “Quyền của công dân không tách rời nghĩa
vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân, công dân phải
làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội” [46, 142]. Mối quan
hệ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa và công
dân được thể hiện trên hai mặt sau đây:

18
Thứ nhất, nhà nước với công dân. Ở đây, nhà nước mang hai tư cách:
vừa là tổ chức công quyền quản lý công dân bằng pháp luật, vừa là công cụ
hữu hiệu nhất đảm bảo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ở
tư cách thứ nhất, nhà nước có quyền đối với công dân trong việc xác định
bằng pháp luật các quyền và nghĩa vụ công dân, yêu cầu công dân phải thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội, kiểm tra, giám sát công dân
trong việc sử dụng quyền và thực hiện nghĩa vụ của họ. Ở tư cách thứ hai, nhà

nước có nghĩa vụ đối với công dân: nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện đầy đủ,
nghiêm chỉnh, thống nhất pháp luật mà mình đã ban hành, bảo đảm mọi điều
kiện thuận lợi cho công dân thật sự được hưởng các quyền, lợi ích hợp pháp
và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân khi chúng bị xâm hại…
Thứ hai, công dân đối với nhà nước. Ở đây, công dân cũng có hai tư
cách: vừa là chủ thể của quyền lực nhà nước (người làm chủ đất nước), vừa là
đối tượng chi phối, quản lý của quyền lực đó. Với tư cách là chủ thể của
quyền lực nhà nước, công dân có quyền đối với nhà nước - quyền thiết lập các
cơ quan đại diện cho quyền lực của mình và bãi miễn đại biểu không còn tín
nhiệm đối với cử tri, tham gia quản lý nhà nước và xã hội, thảo luận các vấn
đề chung của cả nước và địa phương… Ở tư cách thứ hai, công dân phải thực
hiện nghĩa vụ đối với nhà nước: trung thành với tổ quốc, bảo vệ tổ quốc, tôn
trọng và bảo vệ tài sản của nhà nước, lợi ích công cộng…
Nội dung trên của khái niệm công dân là sự pháp lý hóa quan hệ giữa
cá nhân công dân với nhà nước và xã hội. Điều đó thể hiện nhà nước ghi nhận
và thừa nhận cá nhân có các quyền và nghĩa vụ công dân như thế nào trong
mối quan hệ với nhà nước được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Vì
thế, điều 50 Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội

19
được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến
pháp và luật”. [46, 141]
Như vậy, công dân là khái niệm để chỉ cá nhân trong các mối quan hệ
cơ bản, chủ yếu và quan trọng nhất với một nhà nước nhất định được thể hiện
trong Hiến pháp và pháp luật của nhà nước đó. Nội dung của khái niệm công
dân chính là địa vị pháp lý giữa cá nhân công dân trong mối quan hệ với nhà
nước và xã hội. Điều đó có nghĩa là, không phải cá nhân trong mối quan hệ
với bất kỳ nhà nước nào cũng có tư cách công dân, mà chỉ khi nhà nước đó

thừa nhận bằng hiến pháp và pháp luật những quyền và nghĩa vụ của cá nhân
đó với tư cách là công dân của mình thì khi đó họ mới có tư cách công dân.
Vì thế, nếu con người sinh ra tự nó đã trở thành cá nhân thì để trở thành công
dân người đó phải đáp ứng những yêu cầu nhất định do pháp luật của Nhà
nước quy định. Những yêu cầu đó phụ thuộc vào pháp luật của mỗi nước.
Ở nước ta, danh hiệu công dân ra đời cùng với sự thành lập Nhà nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Đây chính là một trong những thành quả vĩ đại
mà nhân dân ta giành được trong cách mạng.
Theo pháp luật hiện hành của nước ta, đối với những người mới sinh ra,
có hai nguyên tắc để xác định họ có phải là công dân Việt Nam hay không.
Đó là nguyên tắc theo huyết thống và nguyên tắc theo lãnh thổ. Theo nguyên
tắc huyết thống, một người sẽ là công dân Việt Nam nếu cha là công dân Việt
Nam. Trong trường hợp cha không rõ là ai hay không thuộc quốc tịch nào mà
mẹ là công dân Việt Nam thì người đó vẫn là công dân Việt Nam. Theo
nguyên tắc lãnh thổ, một người sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ
không rõ là ai hay không thuộc quốc tịch nào thì người đó vẫn là công dân
Việt Nam.
Quốc tịch thể hiện mối quan hệ pháp lý giữa nhà nước và công dân,
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ công dân. Vì vậy, xác định một người có
quốc tịch Việt Nam hay không liên quan trực tiếp đến việc xác định quyền và

20
nghĩa vụ của họ trong mối quan hệ với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Điều 49 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”. Điều 3 Luật quốc
tịch Việt Nam ngày 26/6/1988 nêu rõ: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch Việt Nam. Như
vậy, pháp luật nước ta không thừa nhận công dân Việt Nam đồng thời có quốc
tịch nước ngoài.
Ngoài trường hợp do sinh ra, Luật quốc tịch Việt Nam còn quy định

các điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam cho những công dân nước ngoài
và người không có quốc tịch đang cư trú ở Việt Nam tự nguyện tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật Việt Nam (điều 7), các điều kiện được trở lại quốc tịch Việt
Nam đối với những người đã mất quốc tịch Việt Nam nếu có lý do chính đáng
(điều 8, 9, 10, 11). Các quy định pháp lý về mất quốc tịch Việt Nam, bị tước
quốc tịch Việt Nam, được vào quốc tịch Việt Nam, được trở lại quốc tịch Việt
Nam thể hiện trong Luật quốc tịch nước ta đều phù hợp với các điều ước quốc
tế mà Việt Nam tham gia ký kết. Những cá nhân có quốc tịch Việt Nam đều là
công dân Việt Nam, dù ở trong nước hay nước ngoài đều được Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm các quyền của công dân và
công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và xã hội. [Xem
15, 8 - 9]
Có ý thức và năng lực thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình là một
trong những đặc điểm quan trọng để nhận biết một công dân. Nhưng đặc điểm
quan trọng nhất của người công dân phải đề cập tới là ý thức, tính tích cực, chủ
động của bản thân họ trong việc tham gia quản lý xã hội, tham gia vào các công
việc chung của cộng đồng. Phạm vi cộng đồng ở đây không chỉ được giới hạn
hẹp trong mỗi gia đình, làng xóm, tập thể nhỏ mà rộng lớn hơn, là xã hội, đất
nước, và trong điều kiện toàn cầu hoá ngày nay, đó là toàn thế giới.

21
Chúng ta đều biết, mỗi công dân với tất cả các phẩm chất tự nhiên và
xã hội như quyền và nghĩa vụ, tự do và trách nhiệm, ý thức và văn hoá, nhân
đạo và công bằng, danh dự và nhân phẩm, thân thể và tài sản…luôn gắn liền
với bản chất của một kiểu nhà nước và pháp luật nhất định. Ở mỗi kiểu nhà
nước, công dân được có những quyền và nghĩa vụ khác nhau, phạm vi của tự
do mà công dân được hưởng cũng như những trách nhiệm mà họ phải đóng
góp cũng khác nhau…Đồng thời, các phẩm chất ấy cũng gắn liền với những
đặc điểm thuộc về truyền thống văn hoá của xã hội đó. Chính vì thế, trong
mỗi kiểu nhà nước cụ thể, ý thức của công dân cũng sẽ khác nhau. Nói cụ thể

hơn, tính tích cực của công dân được hình thành, quy định bởi điều kiện kinh
tế, chính trị (thể chế nhà nước) và truyền thống văn hoá.
Trong xã hội dân chủ, một xã hội trước hết thừa nhận và tôn trọng
quyền tự do cá nhân, tôn trọng cá nhân con người thì khi ấy, con người mới
hình thành nên ý thức cá nhân, tức là ý thức về việc mình là một cá nhân độc
lập, được tôn trọng, có quyền tự do và bình đẳng so với các cá nhân khác, để
rồi sau đó, chính ý thức cá nhân ấy sẽ trở thành điểm xuất phát để họ có ý
thức công dân, ý thức làm chủ. Khi ấy, mỗi cá nhân công dân đều nhận thức
được quyền và nghĩa vụ của mình trong mối quan hệ với nhà nước, đều nhận
thức được vai trò làm chủ của mình đối với nhà nước ấy và do đó, họ tích cực,
chủ động tham gia thực hiện quyền và nghĩa vụ làm chủ của mình. Công dân
trong một xã hội dân chủ không chỉ cố gắng thỏa mãn các quyền và lợi ích
của mình mà còn chịu trách nhiệm với cuộc sống của mình và ở một mức độ
nào đó trách nhiệm với đời sống của những người khác nữa. Họ không chỉ
được hưởng các phúc lợi của xã hội mà còn chịu trách nhiệm với xã hội mà
họ là thành viên. Ý thức về quyền công dân của mình và nghĩa vụ công dân
mà mình phải thực hiện khiến cho công dân trong xã hội dân chủ tự ý thức
được vai trò cá nhân của mình, đồng thời tôn trọng các cá nhân khác.

22
Như vậy, công dân của một chế độ xã hội nhất định bao giờ cũng mang
những đặc điểm của xã hội ấy. Bởi vì, họ được hình thành và phát triển thông
qua các mối quan hệ xã hội. Cho nên, ý thức của mỗi công dân về quyền lợi
và nghĩa vụ của mình với nhà nước và với cộng đồng xã hội cũng được quyết
định bởi điều kiện xã hội nơi mà cá nhân đó sống. Ý thức tích cực, chủ động
tham gia vào đời sống chính trị, vào công việc chung với tư cách là chủ nhân
của chế độ của cá nhân công dân cũng chỉ có thể hình thành ở công dân trong
điều kiện một chế độ xã hội tôn trọng cá nhân con người và phát huy quyền
làm chủ của công dân.
1.1.2. Khái niệm ý thức công dân

Mặc dù quan hệ giữa con người ở một quốc gia với nhà nước là trục
xuyên suốt của khái niệm công dân, nhưng trong quan hệ với nhà nước, con
người với tư cách là những công dân cần bổ sung những tiêu chí cụ thể, trong
đó quan trọng nhất là sự thừa nhận bằng hiến pháp và pháp luật những quyền
và nghĩa vụ của cá nhân đối với nhà nước và với đời sống công cộng. Vì thế,
nếu con người sinh ra tự nó đã trở thành cá nhân thì để trở thành công dân,
người đó phải đáp ứng những yêu cầu nhất định do pháp luật của Nhà nước
quy định. Những yêu cầu đó phụ thuộc vào pháp luật của mỗi nước.
Vậy là, nếu như do nguồn gốc tự nhiên, ý thức xuất hiện cùng với sự
xuất hiện của loài người, thì phải đến giai đoạn con người có được tư cách
công dân của một chính thể, khi ấy ý thức của họ với tư cách là ý thức công
dân mới xuất hiện. Và bởi vì, ý thức của con người luôn là sự phản ánh hiện
thực khách quan, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan, cho nên có thể
khẳng định, ý thức công dân ra đời trong quá trình phản ánh, khái quát hiện
thực khách quan của mối quan hệ giữa công dân với nhà nước và với cộng
đồng xã hội. Bởi vì khái niệm công dân luôn được đặt trong mối quan hệ với
Nhà nước, quan hệ giữa Nhà nước và công dân thể hiện qua các quyền, nghĩa

23
vụ công dân do Nhà nước quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật,
cho nên có thể hiểu: ý thức công dân là sự hiểu biết và thái độ trách nhiệm
của công dân với các quyền, nghĩa vụ của mình và với việc thực hiện quyền,
nghĩa vụ công dân của mình và của người khác.
Về mặt kết cấu, chúng ta biết rằng, ý thức bao gồm các yếu tố cơ bản
cấu thành như tri thức, thái độ, tình cảm, niềm tin, ý chí…, trong đó tri thức là
yếu tố cơ bản, cốt lõi. Tuy nhiên, sự tác động của thế giới bên ngoài đến con
người không chỉ đem lại hiểu biết về thế giới mà còn đem lại tình cảm của
con người đối với thế giới. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản
ánh tồn tại, nó phản ánh quan hệ giữa người với người, giữa người với thế
giới khách quan. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và trở

thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người.
Tri thức kết hợp với xúc cảm, tình cảm hình thành nên niềm tin, nâng
cao ý chí tích cực, biến thành hành động thực tế, qua đó tri thức mới phát huy
được sức mạnh của mình.
Như trên đã khẳng định, ý thức công dân ra đời trong quá trình phản
ánh, khái quát hiện thực khách quan của mối quan hệ giữa công dân với nhà
nước và với cộng đồng xã hội. Quá trình phản ánh mối quan hệ giữa công dân
với nhà nước và với cộng đồng xã hội này làm hình thành nên ở mỗi công dân
một hình ảnh tinh thần toàn vẹn về hiện thực mối quan hệ giữa cá nhân công
dân với nhà nước. Cụ thể, cấu trúc của ý thức công dân có thể được xem xét
bao gồm hai khía cạnh: những tri thức của họ về mối quan hệ giữa bản thân
mình với nhà nước và với cộng đồng xã hội và thái độ của công dân đối với
mối quan hệ này, cụ thể hơn là đối với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của mình, trong đó, tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
Tri thức, hay sự hiểu biết của người dân là yếu tố quan trọng hàng đầu
của sự hình thành và phát triển ý thức công dân và là tiền đề của tính tích cực
của hành vi của con người. Đó là điều kiện cần thiết để công dân tham gia vào

24
đời sống chính trị - xã hội, là chất kích thích cho các hành vi hợp pháp, là
phương tiện thực thi dân chủ. Sự hiểu biết này bao gồm tri thức về quyền và
nghĩa vụ của bản thân công dân, hiểu biết về cách thức, quy trình thực hiện
quyền và nghĩa vụ ấy…
Thái độ trước hết thể hiện những lựa chọn, xu hướng và ý chí thực hiện
hành vi của con người. Nó là hợp thể phức tạp của nhiều yếu tố như tình cảm,
tri thức, hệ giá trị…Đó có thể là những cảm xúc, rung động, sự nhiệt tình, tính
tích cực, tự giác hoặc thờ ơ, lãnh đạm với quyền và trách nhiệm của công dân.
Thái độ tham gia vào mọi hoạt động của con người và giữ một vị trí quan
trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của con người. Đó là điều kiện để tri
thức trở thành nhận thức sâu sắc, và phải thông qua thái độ đúng đắn thì tri

thức, nhận thức của công dân mới biến thành hành động thực tế, mới được cụ
thể hoá trên thực tiễn và mới phát huy được sức mạnh của mình.
Chúng ta đều biết, khái niệm công dân luôn được đặt trong mối quan hệ
với Nhà nước. Quan hệ giữa Nhà nước và công dân thể hiện qua các quyền,
nghĩa vụ công dân do Nhà nước quy định trong Hiến pháp và các văn bản
pháp luật. Do vậy, những tri thức của công dân về quyền và nghĩa vụ của bản
thân mình trước hết là những tri thức về Hiến pháp, pháp luật của nhà nước,
về thể chế chính trị và vai trò, vị trí cũng như trách nhiệm của mỗi cá nhân
công dân trong việc tham gia vào thể chế chính trị và các mối quan hệ trong
xã hội đó.
Pháp luật là phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội một cách dân chủ
và hiệu quả. Bởi vì pháp luật là các khuôn mẫu có tính phổ biến và bắt buộc
chung nên đảm bảo dân chủ, công bằng, phù hợp với ý chí và lợi ích chung
của đại đa số nhân dân lao động, tạo được sự đồng thuận, tự giác cao trong xã
hội đối với việc thực hiện pháp luật. Pháp luật được làm ra để điều chỉnh các
quan hệ xã hội một cách thống nhất trong toàn quốc và được bảo đảm bằng
sức mạnh của quyền lực nhà nước nên hiệu lực thi hành cao. Đồng thời, pháp

×