Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Cơ cấu giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay-Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (941.84 KB, 111 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN THỊ THU HÀ



CƠ CẤU GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phan Thanh Khôi







Hà Nội - 2011





1
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 4

CHƯƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CƠ CẤU GIAI CẤP CÔNG
NHÂN VÀ THỰC TRẠNG CƠ CẤU GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC 12
1.1. Nhận thức chung về cơ cấu giai cấp công nhân 12
1.2. Thực trạng cơ cấu giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 42

CHƯƠNG 2. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG CƠ CẤU GIAI CẤP CÔNG
NHÂN VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU MỚI CỦA THỜI KỲ ĐẨY
MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC 67
2.1. Yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước 67
2.2. Giải pháp xây dựng cơ cấu giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu của
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 72

KẾT LUẬN 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106








2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CNTB: Chủ nghĩa tư bản
CTQG: Chính trị quốc gia
DN: Doanh nghiệp
GCCN: Giai cấp công nhân
Nxb: Nhà xuất bản
TBCN: Tư bản chủ nghĩa
XHCN: Xã hội chủ nghĩa















3


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


Tên bảng biểu
Trang
Bảng 1.1: Tỷ trọng GDP và sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong
nền kinh tế
35
Bảng 1.2: Trình độ học vấn của công nhân phân theo ngành, nghề
sản xuất kinh doanh
51
Bảng 1.3: Phân loại cơ sở đào tạo theo loại hình doanh nghiệp
53
Bảng 1.4: Thu nhập bình quân của công nhân phân theo ngành
nghề sản xuất kinh doanh
60
4
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp CNH, HĐH của Việt Nam đang tiến những bước rất cơ bản,
hết sức quan trọng về quy mô, tính chất, chiều sâu và đã đạt được nhiều thành

tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề vững chắc để đất nước chuyển sang
một giai đoạn phát triển mới. Trong bước phát triển mạnh mẽ đó, GCCN Việt
Nam đóng góp một phần rất quan trọng và là một trong những nhân tố quyết
định sự thành bại của công cuộc CNH, HĐH đất nước. Là lực lượng trung
tâm của tiến trình CNH, HĐH, GCCN Việt Nam đang nắm giữ những cơ sở
vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất, quyết định phương hướng
phát triển chủ yếu của nền kinh tế. Mặc dù, về số lượng, GCCN Việt Nam
chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số dân cư, nhưng lại là lực lượng lao động
đóng góp nhiều nhất vào ngân sách Nhà nước. Chính vì vậy, trong Nghị quyết
số 20-NQ/TW ngày 28/1/2008 về “Tiếp tục xây dựng GCCN Việt Nam trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” Đảng ta đã nhận định: “Sự lớn
mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công
của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Theo đó
“xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng
cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước”… là một
trong những nhiệm vụ chiến lược của Đảng, Nhà nước và GCCN trong thời
gian tới.
Cùng với quá trình thực hiện nhất quán đường lối phát triển kinh tế
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, đẩy
mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, GCCN nước ta đang có những
biến đổi rất sâu sắc trên tất cả các phương diện mà trước hết là về cơ cấu
GCCN. Cụ thể:
5
Sự thay đổi số lượng công nhân ở khu vực kinh tế nhà nước và khu vực
kinh tế ngoài nhà nước đã kéo theo sự thay đổi quan trọng rất đáng chú ý,
không chỉ là sự thay đổi tính chất các loại hình sở hữu, mà còn dẫn đến sự
thay đổi cả tỷ lệ trong số lượng công nhân, trình độ công nhân và thành phần
GCCN, hay có thể nói là dẫn đến sự phân tầng trong nội bộ GCCN. Sự phân
tầng này biểu hiện trên tất cả các mặt từ trình độ học vấn, trình độ nghề
nghiệp, mức thu nhập đến quyền sở hữu tài sản.

Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế cùng với sự phát triển của
kinh tế tri thức khiến cho mặt bằng chung về trình độ học vấn và trình độ
nghề nghiệp chuyên môn của công nhân trong những năm qua tăng lên nhưng
đồng thời sự đòi hỏi của các ngành nghề, các khu vực và các lĩnh vực kinh tế
đối với đội ngũ này lại rất khác nhau. Vì vậy, sự phân hóa về trình độ học vấn
và trình độ chuyên môn là điều tất yếu, khó tránh khỏi. Tính tất yếu này dẫn
đến một tất yếu khác là sẽ có sự phân hóa về mặt lương thưởng, về mặt hưởng
thụ hay về thu nhập nói chung. Hiện nay, chúng ta đang được chứng kiến sự
chênh lệch khá lớn, có khi đến hàng chục lần, về thu nhập của công nhân
không chỉ thuộc các ngành kinh tế khác nhau, mà của cả các tầng lớp công
nhân khác nhau trong cùng một ngành kinh tế nhưng thuộc các khu vực khác
nhau (khu vực nhà nước, khu vực tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài).
Hệ quả dễ thấy của những biến đổi trên là sự mâu thuẫn về lợi ích, là
khoảng cách giàu nghèo trong nội bộ GCCN, là sự không đồng nhất về
nhiều mặt.
Bên cạnh đó, sự gia nhập vào hàng ngũ công nhân của số đông lao
động từ nông thôn sẽ làm cho GCCN không còn thuần nhất về thành phần
xuất thân, không còn đồng đều về trình độ giác ngộ chính trị, không còn giữ
được sự thống nhất cao về tư tưởng, về ý thức tổ chức kỷ luật, về tác phong
6
công nghiệp như khi chủ yếu còn là kinh tế nhà nước, khi nhà máy, xí nghiệp
còn thuộc sở hữu toàn dân trước đây. Tầng lớp công nhân mới xuất thân từ
nông dân này cũng như tầng lớp công nhân chủ yếu làm lao động chân tay
đơn giản sẽ là tầng lớp chịu nhiều thiệt thòi nhất, là những người yếu thế nhất
và dễ bị tổn thương nhất. Bên cạnh tầng lớp yếu thế đó lại cũng sẽ hình thành
những tầng lớp có ưu thế, có thu nhập cao, thậm chí rất cao.
Một khi đã diễn ra sự phân hóa, phân tầng, đã hình thành các tầng lớp
khác nhau trong nội bộ giai cấp công nhân thì không tránh khỏi sẽ có những
lợi ích khác nhau và do đó, ý thức cũng sẽ khác nhau. Chính sự khác nhau về

lợi ích này sẽ đẻ ra không ít nguy cơ về tư tưởng, về nhận thức và cả về ý thức
tổ chức, làm giảm sức mạnh đoàn kết của GCCN, ảnh hưởng tới quá trình
thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp này.
Vì thế, nhiệm vụ phát triển về số lượng và chất lượng của GCCN Việt
Nam đang khách quan đặt ra vấn đề hoàn thiện cơ cấu của giai cấp này. Theo
đó, khảo sát về thực trạng cơ cấu GCCN Việt Nam hiện nay, tìm hiểu những
vấn đề đang đặt ra trong cơ cấu GCCN, từ đó đưa ra chiến lược nhằm phát
triển GCCN đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước
là việc làm cần thiết.
Vì những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Cơ cấu giai cấp công
nhân Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp” làm luận văn tốt nghiệp
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về GCCN Việt Nam là một vấn đề lớn, được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm từ rất nhiều năm nay. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về
GCCN Việt Nam từ các góc độ khác nhau và đã được công bố. Có thể kể đến
một số công trình tiêu biểu sau:
Lê Huy Phan (1972), Về vị trí, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Việt Nam trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội.
7
Nội dung tác phẩm bàn về những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin về sứ mệnh lịch sử của GCCN trong thời kỳ xây dựng CNXH.
Bùi Đình Bôn (1991), Giai cấp công nhân Việt Nam - vai trò và xu
hướng biến động về cơ cấu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Luận
án Phó tiến sĩ Triết học. Luận án phân tích và làm rõ mối quan hệ giữa cơ cấu
thành phần kinh tế với cơ cấu GCCN Việt Nam; những nhân tố chủ quan và
khách quan chủ yếu quy định sự biến đổi cơ cấu GCCN và vai trò của GCCN
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ đó đưa ra những mục tiêu,
phương hướng xây dựng GCCN Việt Nam vững mạnh.
Bùi Đình Bôn (1997), Giai cấp công nhân Việt Nam, mấy vấn đề lý

luận và thực tiễn, Nxb CTQG, Hà Nội. Trong tác phẩm này, tác giả phân tích
một số vấn đề lý luận về sứ mệnh lịch sử của GCCN; GCCN Việt Nam trong
sự nghiệp CNH, HĐH; vai trò của Đảng đối với GCCN và nhiệm vụ cách
mạng của GCCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam - Viện công nhân và công đoàn
(2001), Xu hướng biến động giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm
đầu thế kỷ XXI, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Lao động, Hà Nội. Cuốn sách
tập hợp những bài tham luận trong hội thảo về GCCN Việt Nam; sự biến đổi
cơ cấu đội ngũ GCCN; xu hướng phát triển của GCCN trong nền kinh tế
nhiều thành phần.
Phạm Quang Trung, Cao Văn Biền, Trần Đức Cường (2001), Về thực
trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tác phẩm đưa ra những số liệu điều tra về cá nhân, gia đình, đời sống, nghề
nghiệp, đào tạo, điều kiện lao động, tâm tư nguyện vọng, việc sử dụng thời
gian nhàn rỗi của GCCN Việt Nam sau những năm đổi mới và chính sách xã
hội đối với họ.
PGS. Cao Văn Lượng (chủ biên) (2001), Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và sự phát triển giai cấp công nhân, Nxb CTQG, Hà Nội. Nội dung của
8
tác phẩm là lý luận về GCCN; sự phát triển của GCCN trong thời kỳ đổi mới,
thực hiện CNH, HĐH; chính sách và những giải pháp xây dựng, củng cố, tăng
cường vị trí của GCCN trong xã hội.
TS. Dương Văn Sao (chủ biên) (2004), Một số vấn đề cơ bản về xây
dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Lao động, Hà Nội. Trong tác phẩm này, tác giả
xây dựng khái niệm GCCN Việt Nam; nghiên cứu thực trạng GCCN Việt Nam
đầu thế kỷ XXI và giải pháp xây dựng, phát huy vai trò của GCCN Việt Nam.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2007), Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản đối với giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Lao động,

Hà Nội. Đây là cuốn sách tập hợp các bài tham luận của các nhà nghiên cứu
về vấn đề công nhân, công đoàn Việt Nam với vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Trong cuốn sách cũng có một số bài tham luận đề cập đến thực
trạng cơ cấu GCCN Việt Nam hiện nay và những giải pháp xây dựng GCCN
đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
GS.TS. Dương Xuân Ngọc (2008), Giai cấp công nhân Việt Nam trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb CTQG, Hà Nội.
Trong tác phẩm, tác giả đề cập đến GCCN và những nhân tố tác động đến quá
trình biến đổi GCCN Việt Nam; thực trạng và xu hướng biến đổi của GCCN
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; quan điểm, mục tiêu, phương hướng,
nhiệm vụ, giải pháp xây dựng GCCN Việt Nam trở thành lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
PGS.TS. Nguyễn An Ninh (2008), Về xu hướng công nhân hóa ở nước
ta, Nxb CTQG, Hà Nội. Đây là cuốn sách bàn về quá trình xây dựng và phát
triển GCCN nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nhiều vấn đề liên quan tới quá
trình phát triển của GCCN đã được đề cập, trong đó có việc hoàn thiện cơ cấu
9
GCCN đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
TS. Nguyễn Văn Giang (chủ biên), (2009), Đảng lãnh đạo xây dựng
giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội. Cuốn sách
tập trung làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng GCCN hiện nay. Phân tích thực
trạng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với GCCN trên cơ sở khảo sát một số địa
bàn, từ đó đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu để tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng GCCN Việt Nam hiện nay.
TS. Đặng Ngọc Tùng (chủ biên), (2010), Xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Nxb Lao động, Hà Nội. Nội dung của cuốn
sách góp phần làm rõ quan điểm, đường lối của Đảng trong vấn đề xây dựng
GCCN; đưa ra hệ thống giải pháp cho việc xây dựng GCCN trong thập niên
tới; cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, xác định nội

dung xây dựng GCCN Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 của Đảng và Nhà
nước ta.
Ngoài các công trình trên còn có một số bài viết được đăng trên các tạp
chí chuyên ngành như:
Nguyễn Hoàng Giáp (2004), Giai cấp công nhân hiện đại khái niệm và
một số biểu hiện mới, Tạp chí Giáo lục lý luận, số 11. Trong bài viết, tác giả
đề cập tới sự biến động về cơ cấu GCCN trong cơ chế thị trường hiện nay.
GS. Văn Tạo (2006), Quan điểm mới về giai cấp công nhân Việt Nam
qua Văn kiện Đại hội X của Đảng, Tạp chí cộng sản, số 10. Tác giả thừa nhận
sự biến đổi mạnh mẽ cơ cấu của GCCN nước ta hiện nay.
Thái Văn Long (2006), Giai cấp công nhân trong điều kiện cách mạng
khoa học - công nghệ, Tạp chí Lý luận chính trị, số 6. Bài viết chỉ ra một số
tác động khiến cho cơ cấu của GCCN hiện đại biến đổi.
Những công trình trên đã đưa ra một số biểu hiện mới của GCCN Việt
Nam trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ, toàn cầu hóa và hội
10
nhập kinh tế quốc tế; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về GCCN thể
hiện qua Văn kiện của các Đại hội, các thay đổi của GCCN Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới… Theo đó, vấn đề biến động cơ cấu giai cấp công nhân nước
ta đã được đề cập ở một số khía cạnh.
Tuy nhiên, chưa có một công trình chuyên biệt nào đi sâu tìm hiểu,
nghiên cứu về thực trạng cơ cấu GCCN Việt Nam hiện nay, những vấn đề
đang đặt ra đối với cơ cấu của giai cấp này và đưa ra giải pháp xây dựng
GCCN nâng cao về chất lượng, hài hòa về cơ cấu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những nhân tố tác động đến sự biến đổi cơ cấu
GCCN và thực trạng cơ cấu GCCN Việt Nam, luận văn đề xuất một số giải
pháp góp phần xây dựng cơ cấu GCCN Việt Nam hài hòa, hợp lý, đáp ứng tốt
yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ
- Luận văn có nhiệm vụ làm rõ một số vấn đề lý luận về: GCCN Việt
Nam, cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp và cơ cấu GCCN.
- Chỉ ra những nhân tố tác động đến sự biến đổi cơ cấu GCCN Việt
Nam và những vấn đề đang đặt ra ở lĩnh vực này.
- Phân tích thực trạng cơ cấu GCCN Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần xây dựng cơ cấu GCCN Việt
Nam hài hòa, hợp lý đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cơ cấu GCCN ở Việt Nam, nhất
là thực trạng và giải pháp tác động để xây dựng cơ cấu GCCN trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
11
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát thực trạng cơ cấu GCCN Việt Nam qua bốn dấu hiệu
cơ bản: cơ cấu thành phần kinh tế; cơ cấu ngành và lĩnh vực kinh tế; cơ cấu
trình độ học vấn, trình độ tay nghề và các cơ cấu liên quan đến quan hệ lao
động trong GCCN trên phạm vi cả nước, từ khi Việt Nam bước vào thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH (năm 1996) đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, để đạt
được mục đích nghiên cứu, tác giả luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp
phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống
kê, phân tích, dự báo tình hình…
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ thực trạng cơ cấu GCCN ở nước ta hiện nay. Từ đó
cung cấp một số luận cứ khoa học xây dựng cơ cấu GCCN Việt Nam đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

- Sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu và giảng
dạy những nội dung có liên quan đến GCCN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
chia làm 2 chương 4 tiết.
12
CHƢƠNG 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ CƠ CẤU GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ
THỰC TRẠNG CƠ CẤU GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA ĐẤT NƢỚC

1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CƠ CẤU GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp
Khái niệm cơ cấu xã hội
Xã hội loài người tồn tại trong mối quan hệ - tác động lẫn nhau mang
tính cộng đồng. Tùy theo cách xác định các dấu hiệu, nguyên tắc mà người ta
có thể xác định những cộng đồng người theo các cơ cấu xã hội khác nhau như
dân tộc, giai cấp, tôn giáo, nghề nghiệp, giới tính, độ tuổi… Cơ cấu xã hội là
tất cả những cộng đồng người và toàn bộ các quan hệ xã hội do sự tác động
lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên. Trong khoa học lý luận chính trị,
nghiên cứu cơ cấu xã hội chủ yếu đề cập đến những cộng đồng người được
hình thành một cách khách quan trong xã hội như: giai cấp, dân số, nghề
nghiệp, dân tộc, tôn giáo… Từ đó, người ta có thể xem xét các loại hình cơ
cấu xã hội tương ứng như: cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội - dân số, cơ
cấu xã hội - nghề nghiệp…
Khái niệm cơ cấu xã hội - giai cấp
Các loại hình cơ cấu xã hội có sự liên quan đến nhau và tạo thành hệ
thống cơ cấu xã hội của một xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định. Trong

đó, cơ cấu xã hội - giai cấp là bộ phận cơ bản và quan trọng nhất. Cơ cấu xã
hội - giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội và các mối quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Nghiên cứu cơ cấu xã hội - giai cấp là chỉ
ra được đầy đủ những giai cấp và tầng lớp tồn tại khách quan trong lịch sử xã
13
hội, xác định rõ vị trí của các giai cấp và tầng lớp này (cơ bản hay không cơ
bản, thống trị hay bị trị, quan hệ bình đẳng hay không bình đẳng…), chỉ ra xu
hướng phát triển của các giai cấp và tầng lớp ấy… Cơ cấu xã hội - giai cấp là
bộ phận cơ bản và quan trọng nhất trong cơ cấu xã hội vì nó là cái phản ánh
trực tiếp những mối quan hệ kinh tế và thể hiện ra trên bề mặt xã hội là vị thế
các giai cấp trong một chế độ xã hội cụ thể. Theo đó, cơ cấu này liên quan
đến các vấn đề như: đảng phái chính trị và nhà nước; sở hữu tư liệu sản xuất,
địa vị xã hội của con người trong quan hệ sản xuất, tổ chức lao động và phân
phối lợi ích xã hội. Cơ cấu xã hội - giai cấp quyết định đến bản chất và xu
hướng vận động của các loại hình cơ cấu xã hội khác là vì như vậy. Nó là yếu
tố đặc trưng cho sự khác nhau về chất giữa cơ cấu xã hội của xã hội này với
cơ cấu xã hội của xã hội khác.
Ở Việt Nam hiện nay, với sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành
phần, nhiều hình thức sở hữu, nên cơ cấu xã hội - giai cấp tồn tại trong trạng
thái rất đa dạng, phức tạp và không ngừng biến đổi. Cơ cấu xã hội - giai cấp ở
Việt Nam hiện nay bao gồm: GCCN, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức,
người sản xuất nhỏ, tầng lớp doanh nhân Trong đó, GCCN giữ vai trò lãnh
đạo, quyết định xu hướng phát triển của cơ cấu xã hội. Vì vậy, nghiên cứu cơ
cấu GCCN có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam hiện nay.
1.1.1.2. Giai cấp công nhân Việt Nam, cơ cấu giai cấp công nhân
Để có thể hiểu một cách đầy đủ nhất về khái niệm GCCN Việt Nam
trước hết cần hiểu rõ khái niệm GCCN theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin.
Khái niệm giai cấp công nhân

Hiện nay cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, nền
kinh tế tri thức ra đời, đang tồn tại nhiều cách giải thích khác nhau về khái
14
niệm GCCN. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng: trong thời đại hiện nay, do những
điều chỉnh nhất định trong cách thức quản lý và phân phối của CNTB, đặc
biệt trong lĩnh vực xã hội, GCCN không còn nữa, vì hoặc trở thành giai cấp
trung lưu, hoặc đã tan biến vào tầng lớp trí thức. Loại ý kiến thứ hai cho rằng:
GCCN không những không mất đi mà còn được bổ sung thêm vào đội ngũ
của mình thành phần mới: đội ngũ trí thức. Hiện nay, trí thức không còn là
một tầng lớp xã hội độc lập mà là một bộ phận của GCCN: công nhân trí
thức. Loại ý kiến thứ ba cho rằng: GCCN vẫn tồn tại và phát triển cùng với sự
phát triển của xã hội, nhưng được bổ sung những phẩm chất mới; GCCN đang
trong quá trình “trí thức hóa”.
Vì vậy, để có một cái nhìn khách quan, khoa học, tiến tới một nhận
thức thống nhất về khái niệm GCCN, cần phải trở về thế giới quan và phương
pháp luận duy của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Bản thân C.Mác và Ph.Ănghen sử dụng rất nhiều từ cụm từ để diễn đạt
khái niệm GCCN: “giai cấp công nhân”, “giai cấp công nhân hiện đại”, “giai
cấp vô sản”, “giai cấp vô sản công nghiệp”…; trong những hoàn cảnh cụ thể,
các ông còn sử dụng một số hình thức diễn đạt khác như: “giai cấp lao động
làm thuê”, “giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ sống dựa vào bán sức lao động của
mình”, “giai cấp công nhân làm thuê thế kỷ XIX”… Tất cả những thuật ngữ
này chỉ là sự khác nhau về hình thức còn về ý nghĩa, nó đồng nghĩa với nhau
và được đưa ra trên cơ sở xem xét hai tiêu chí cơ bản: về phương thức lao
động, phương thức sản xuất và về vị trí của GCCN trong quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa.
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, GCCN là
những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất
có tính chất công nghiệp, ngày càng hiện đại và tính xã hội hóa ngày càng
cao. Đây cũng là tiêu chí cơ bản để phân biệt người công nhân với người thợ

15
thủ công thời trung cổ hay người thợ trong các công trường thủ công. Trong
công trường thủ công và trong nghề thủ công, người lao động sử dụng công
cụ của mình, còn trong công xưởng người công nhân phải phục tùng máy
móc. Theo C.Mác và Ph.Ănghen, GCCN là sản phẩm, là “con đẻ” của nền đại
công nghiệp: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát
triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân
nền đại công nghiệp” [9, tr.610]. Là sản phẩm của nền đại công nghiệp nên
GCCN là hiện thân của lực lượng sản hiện đại, đại biểu cho phương thức sản
xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay. Điều này cũng mang đến cho GCCN
những phẩm chất riêng có. Đó là: tính tiên tiến, hiện đại; tinh thần cách mạng
triệt để; ý thức tổ chức kỷ luật cao; tác phong công nghiệp; tinh thần quốc tế…
Thứ hai, về vị trí của GCCN trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, GCCN là giai cấp không có tư liệu
sản xuất, phải bán sức lao động, làm thuê cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc
lột giá trị thặng dư. C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh tiêu chí này, vì
chính nó đã khiến cho GCCN trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản
về lợi ích cơ bản. “Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô
sản, giai cấp công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện
là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm
tăng thêm tư bản - cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải bán
mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem
bán như bất cứ món hàng nào khác; vì thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi
của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường” [9, tr.605].
Căn cứ vào hai tiêu chí trên Ph.Ănghen đã đưa ra định nghĩa về GCCN
trong tác phẩm Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản: “Giai cấp
vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán sức lao
động của mình chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ số tư bản nào,
16
đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống

còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình chuyển
biến tốt hay xấu của cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản nổi.” [9, tr.456-457].
Phát triển học thuyết của C.Mác và Ph.Ănghen trong điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử mới, V.I.Lênin đã bổ sung thêm những thuộc tính mới của
GCCN. Trong một loạt các tác phẩm như: “Sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản ở Nga”, “Nhà nước và cách mạng”, “Kinh tế và chính trị trong thời đại
chuyên chính vô sản”… V.I.Lênin đã khẳng định: sau khi cách mạng thành
công GCCN sẽ trở thành giai cấp cầm quyền. Địa vị kinh tế - xã hội của
GCCN sẽ thay đổi, từ thân phận lao động làm thuê, trở thành giai cấp thống
trị về chính trị, thông qua đảng tiên phong của mình, lãnh đạo toàn xã hội cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. GCCN không còn là giai cấp vô sản theo
đúng nghĩa đen của nó nữa.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật - công
nghệ, GCCN đã có nhiều thay đổi khác trước.
Thứ nhất, về cơ cấu ngành nghề: bên cạnh công nhân của nền công
nghiệp cơ khí truyền thống đã xuất hiện công nhân của nền công nghiệp tự
động hóa với việc áp dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản xuất. Bên
cạnh những ngành công nghiệp đã phát triển, ngày càng xuất hiện nhiều loại
ngành dịch vụ có tính chất công nghiệp. Ở các nước tư bản phát triển, ngành
này chiếm từ 50-70% lao động. Song, điều đó không hề làm giảm vai trò của
GCCN trong nền kinh tế và tỷ trọng của GCCN trong dân cư. Bởi vì, một bộ
phận lớn những người làm thuê trong các ngành dịch vụ gắn liền với công
nghiệp và hoạt động theo lối công nghiệp vẫn là công nhân xét về cả hai tiêu
chí cơ bản nói trên.
Thứ hai, cùng với sự tiến bộ của khoa học - công nghệ, GCCN có xu
hướng “trí thức hóa” ngày càng tăng và cũng tiếp nhận đông đảo thêm những
17
người thuộc tầng lớp trí thức vào hàng ngũ của mình. Bên cạnh đội ngũ công
nhân “cổ xanh” (những người lao động chân tay, trực tiếp vận hành công cụ
sản xuất) đang có xu hướng giảm đi, xuất hiện thêm những thành phần mới

trong GCCN: công nhân “cổ trắng” và công nhân “cổ vàng” (những người
chuyên nghiên cứu; sáng chế; áp dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất; cán bộ
quản lý…). Họ hoạt động trong các ngành công nghệ cao.
Tuy nhiên, trình độ tri thức không làm thay đổi bản chất của GCCN
trong CNTB với tính cách là giai cấp làm thuê cho giai cấp tư sản trong hoạt
động sản xuất công nghiệp. Trước kia, công nhân bán sức lao động chân tay
là chủ yếu thì nay họ bán cả sức lao động chân tay và lao động trí óc, thậm chí
một số chủ yếu là bán sức lao động với kỹ thật rất cao, có giá trị ngày càng
lớn và do đó càng bị bóc lột giá trị thặng dư theo chiều sâu.
Mặc dù, có những thay đổi to lớn trong thành phần, cơ cấu ngành nghề
và trình độ lao động, song những thay đổi đó vẫn không làm mất đi những đặc
điểm căn bản của GCCN - những người mà lao động của họ gắn liền với
phương thức sản xuất công nghiệp. Trình độ tri thức không làm thay đổi bản
chất của vấn đề trong xã hội tư bản: giai cấp công nhân là giai cấp làm thuê
cho giai cấp tư sản và đang bị bóc lột ngày càng nặng nề hơn. Và chúng ta
vẫn có thể coi những người lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp,
dịch vụ công nghiệp là công nhân.
Từ sự phân tích trên, tác giả thống nhất với định nghĩa về GCCN của
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa
học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh được đưa ra trong Giáo trình Chủ
nghĩa xã hội khoa học: “Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định,
hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp
hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa
ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc gián tiếp
18
tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo
các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp
công nhân là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất
phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng

dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là người đã cùng nhân dân lao động
làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi
ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ”
[28, tr.99].
Khái niệm giai cấp công nhân Việt Nam
Từ khái niệm chung về GCCN, nghiên cứu, làm rõ khái niệm GCCN
Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay là một vấn
đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Nó sẽ đưa đến cho chúng ta
những nhận thức đúng về thành phần, cơ cấu, số lượng, chất lượng GCCN
trong hoàn cảnh mới, từ đó góp phần quan trọng vào việc hoạch định chủ
trương, chính sách, giải pháp xây dựng và phát triển GCCN, củng cố, tăng
cường vị trí của GCCN trong xã hội, đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng, thực
hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay.
Để trả lời cho câu hỏi GCCN Việt Nam bao gồm những ai, đang tham
gia vào lĩnh vực nào, hiện cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhóm ý kiến thứ
nhất cho rằng, GCCN Việt Nam chỉ bao gồm bộ phận lao động trực tiếp trong
công nghiệp (cũng có thể cả bộ phận lao động trực tiếp trong sản xuất và dịch
vụ có tính chất công nghiệp). Nhóm ý kiến thứ hai cho rằng, GCCN Việt Nam
bao gồm tất cả những người làm công, hưởng lương. Nhóm ý kiến thứ ba cho
rằng, GCCN Việt Nam bao gồm những người lao động chân tay và trí óc làm
công hưởng lương trong các loại hình doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và
dịch vụ công nghiệp hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công
19
nghiệp. Trên thực tế, nhóm ý kiến thứ ba nhận được nhiều sự đồng tình hơn
cả và nó cũng phù hợp với thực trạng và xu hướng phát triển của GCCN Việt
Nam hiện nay.
Để có một cách nhìn cơ bản và thống nhất về GCCN cũng như vấn đề
xây dựng GCCN, Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng
Khóa X, đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/1/2008 về “Tiếp tục
xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết đã đưa ra quan niệm về
GCCN Việt Nam; xác định nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay; khái quát tình hình GCCN Việt Nam trong những
năm đổi mới và đưa ra quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp
xây dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đây
chính là cơ sở, là căn cứ cho mọi nghiên cứu về GCCN Việt Nam hiện nay và
trong những năm tiếp theo.
Trong Nghị quyết, Đảng ta quan niệm GCCN “là một lực lượng xã hội
to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc,
làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ có
tính chất công nghiệp”. Quan niệm này cho thấy, GCCN Việt Nam hiện nay
bao gồm những người lao động chân tay và lao động trí óc hoạt động trong
lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ công nghiệp có thu nhập chủ yếu bằng tiền
lương, tiền công. Họ có mặt trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp
tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty cổ phần; lao động
trực tiếp trong các nông, lâm trường; làm việc trong ngành dịch vụ: bưu
chính, viễn thông, ngân hàng… Đối với những người làm việc theo thời vụ,
theo hợp đồng ngắn hạn, cuộc sống chưa gắn bó với công việc tại các cơ sở
công nghiệp và dịch vụ công nghiệp, tác phong công nghiệp còn hạn chế, ý
thức chính trị chưa rõ ràng thì chưa thể gọi là công nhân. Đối với đội ngũ trí
20
thức, hiện nay một bộ phận trí thức có thể xếp vào hàng ngũ công nhân, song
không phải tất cả trí thức đều thuộc GCCN mà chỉ những trí thức trực tiếp
tham gia vào quá trình sản xuất công nghiệp hoặc phục vụ quá trình sản xuất
công nghiệp mới được gọi là công nhân: công nhân trí thức. Họ là một bộ
phận quan trọng của GCCN Việt Nam trong quá trình thực hiện CNH, HĐH
đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Với chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH gắn
với phát triển kinh tế tri thức, trong thời gian tới, bộ phận công nhân này sẽ
xuất hiện ngày càng nhiều và chất lượng sẽ ngày càng tăng.
Tuy nhiên, quan niệm về GCCN nêu trên chưa chỉ ra được vị trí của

GCCN trong tiến trình cách mạng Việt Nam, chưa thể hiện được vai trò nòng
cốt của GCCN trong lực lượng sản xuất xã hội. Bên cạnh đó, do nước ta hiện
nay đang đẩy mạnh CNH, HĐH, GCCN đang trong quá trình phát triển, có sự
đan xen, chuyển dịch giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội nên trong một số trường
hợp thật khó phân định rạch ròi. Do vậy, quan niệm về GCCN được đưa ra
trong Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X) mới chỉ là tương đối, chưa bao quát
hết và cần tiếp tục tìm tòi, nghiên cứu, tổng kết để bổ sung, hoàn chỉnh dần.
Khái niệm cơ cấu giai cấp công nhân
Xuất phát từ lý luận về cơ cấu xã hội - giai cấp, có thể quan niệm: cơ
cấu GCCN là khái niệm dùng để phản ánh cấu trúc về số lượng và chất lượng
của giai cấp những người lao động, hoạt động sản xuất trong các ngành công
nghiệp, dịch vụ công nghiệp được xem xét dưới góc độ theo ngành nghề,
thành phần kinh tế, trình độ học vấn, trình độ tay nghề, giới tính, độ tuổi…
Cơ cấu GCCN tuy là một yếu tố thuộc về phạm trù số lượng, nhưng trước hết
là sự phản ánh khá chính xác cho phạm trù chất lượng của GCCN. Theo đó,
tác động vào cơ cấu GCCN không chỉ thuần túy là phát triển về lượng mà còn
biểu hiện cho sự thay đổi về chất (trình độ văn hóa, tay nghề, khả năng làm
chủ công nghệ và giác ngộ giai cấp…).
21
Trong thực tế, nghiên cứu cơ cấu GCCN nói chung cũng như cơ cấu
GCCN Việt Nam nói riêng, giới nghiên cứu thường chú ý đến một số loại
hình (bộ phận) cơ cấu quan trọng sau đây:
- Cơ cấu GCCN theo thành phần kinh tế.
- Cơ cấu GCCN theo ngành nghề, lĩnh vực kinh tế, vùng kinh tế.
- Cơ cấu trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp
của GCCN.
- Cơ cấu việc làm, tiền lương, thu nhập của GCCN.
- Cơ cấu phản ánh trình độ nhận thức chính trị của GCCN.
Đối với Việt Nam hiện nay, để hoàn thiện cơ cấu GCCN trước hết,
chúng ta cần những giải pháp cụ thể để tạo ra sự phân bố hài hòa, hợp lý về số

lượng công nhân giữa các thành phần kinh tế trên cơ sở đảm bảo công nhân
trong khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò nền tảng, chủ đạo trong phát triển
kinh tế - xã hội. Gia tăng số lượng công nhân hoạt động trong các ngành dịch
vụ, công nghệ cao, đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, đưa kinh tế Việt Nam tiến vào nền kinh tế tri thức. Bên cạnh đó là sự
hài hòa, hợp lý trong cơ cấu chất lượng của GCCN được thể hiện ở sự gia
tăng đồng đều và ngày càng nhiều bộ phận công nhân có trình độ học vấn,
chuyên môn, kỹ thuật cao, đáp ứng tốt yêu cầu của công việc. Từng bước xây
dựng đội ngũ công nhân trí thức có khả năng ứng dụng những thành tựu khoa
học - công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất và có khả năng sáng tạo ra
những công nghệ mới để nâng cao năng suất lao động, đưa kinh tế Việt Nam
tiến kịp các nền kinh tế tiến bộ trên thế giới.
Cơ cấu GCCN là một phạm trù rộng, được xem xét dưới nhiều tiêu chí
khác nhau. Trong phạm vi đề tài này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu về cơ
cấu số lượng công nhân giữa các thành phần kinh tế, các ngành và lĩnh vực
kinh tế; cơ cấu chất lượng của GCCN thông qua những biểu hiện về trình độ
22
học vấn, trình độ tay nghề, vấn đề việc làm, tiền lương và thu nhập.
1.1.2. Các yếu tố tác động đến sự biến đổi cơ cấu giai cấp công
nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nƣớc
Sự biến đổi cơ cấu GCCN Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH chịu sự tác động bởi rất nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Đề tài
này sẽ tập trung làm rõ 4 nhân tố mà theo tác giả là có tác động trực tiếp và
quan trọng nhất đến sự biến đổi cơ cấu GCCN Việt Nam hiện nay.
1.1.2.1. Xu thế toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa (globalization) thực chất là tên gọi khác của khái niệm
“quốc tế hóa” được dự báo từ khi CNTB ra đời (thế kỷ XVI) và được sử dụng
rộng rãi từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây. Cách đây hơn 160
năm, trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen

đã dự báo: “Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới… Thay cho tình
trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta
thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân
tộc” [9, tr.598-602].
Theo Ủy ban châu Âu, toàn cầu hóa, mà cốt lõi của nó là toàn cầu hóa
kinh tế, có thể được hiểu như là một quá trình, mà thông qua đó, thị trường và
sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau
do có sự năng động của việc buôn bán hàng hóa, dịch vụ cũng như do có sự
lưu thông vốn tư bản và công nghệ. Đây không phải là một hiện tượng mới,
mà là sự phát triển tiếp tục của một tiến trình đã được bắt đầu khi hình thành
thị trường thế giới.
Toàn cầu hóa, xét về bản chất là “quá trình tăng lên mạnh mẽ những
mối liên hệ, sự ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả
các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới…” [41, tr.86]. Xu thế
23
toàn cầu hóa bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ và tính chất xã hội hóa của
lực lượng sản xuất; của phân công lao động quốc tế; của cách mạng khoa học
- công nghệ hiện đại; và sự tác động của các tổ chức kinh tế, tài chính, thương
mại quốc tế, trong đó có sự phát triển và bành trướng của các công ty tư bản
độc quyền xuyên quốc gia.
Mặt tích cực của toàn cầu hóa là tạo cơ hội cho sự phát triển kinh tế -
xã hội của các quốc gia, đẩy nhanh quá trình phát triển và xã hội hóa lực
lượng sản xuất, đưa lại tăng trưởng kinh tế cao. Toàn cầu hóa sẽ thúc đẩy sự
phát triển, truyền bá, chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn những thành tựu
của cách mạng khoa học - công nghệ, thành tựu về tổ chức và quản lý sản
xuất, kinh doanh, tạo khả năng phát triển rút ngắn và mang lại những nguồn
lực cần thiết cho các nước phát triển.
Bên cạnh những mặt tích cực, toàn cầu hóa cũng có những mặt tiêu cực
tác động đến các quốc gia dân tộc. Nó sẽ làm trầm trọng thêm sự bất công xã
hội, đào sâu hố ngăn cách giàu - nghèo trong từng nước và giữa các nước.

Toàn cầu hóa sẽ làm cho hoạt động và đời sống của con người kém an toàn cả
về kinh tế, chính trị, an ninh, xã hội… Xu thế này cũng sẽ có phần thu hẹp
quyền lực, phạm vi, hiệu quả tác động của các nhà nước, dân tộc; đồng thời
nó cũng đặt các nước đang phát triển trước những thách thức, mà nếu vượt
qua được thì có cơ may phát triển, ngược lại, nếu thất bại thì hậu quả khôn
lường. Thêm vào đó, toàn cầu hóa còn tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc văn
hóa dân tộc, đánh mất tự chủ quốc gia, tạo khả năng quốc tế hóa những hiện
tượng tiêu cực của đời sống xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, toàn cầu hóa về cơ bản mang tính chất tư bản
chủ nghĩa. Bên cạnh những tác động tích cực, toàn cầu hóa cũng kéo theo
nhiều tiêu cực, tạo nên nhiều thách thức, đặc biệt với các quốc gia đang phát
triển. Song, nếu không muốn bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, các nước
24
phải chủ động mở cửa, hội nhập quốc tế và khu vực với những lộ trình, bước
đi, mục tiêu sát hợp, có chính sách khôn ngoan nhằm tranh thủ những tác
động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa.
Nhận thức rõ thực tế đó, ngay từ tại Đại hội lần thứ IX (năm 2001),
Đảng ta đã khẳng định: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm
độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường” [22, tr.120].
Việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực sẽ mở ra khả năng to lớn
cho sự phát triển của đất nước. Song, Đảng ta cũng đã xác định, toàn cầu hóa
sẽ đặt cách mạng Việt Nam trước những thách thức không thể xem thường.
Điều này có nghĩa là: mở cửa, hội nhập, cách mạng nước ta sẽ chịu ảnh hưởng
hai mặt của toàn cầu hóa, trong đó sự phát triển và biến đổi của GCCN không
nằm ngoài quá trình này.
Toàn cầu hóa tạo sẽ tạo cơ hội, để nước ta thu hút ngày càng nhiều dự
án đầu tư của nước ngoài trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội; thương mại nước
ta sẽ có điều kiện mở rộng thị trường. Đây sẽ là cơ hội để GCCN Việt Nam

tiếp cận với những thành tựu khoa học - kỹ thuật - công nghệ tiên tiến, trao
đổi, học hỏi kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh của các nước,
tăng cường giao lưu, đoàn kết với GCCN và nhân dân lao động tiến bộ trên thế
giới. Điều này làm biến đổi sâu sắc cơ cấu GCCN trên các phương diện sau:
Thứ nhất, toàn cầu hóa làm tăng nhanh cơ cấu số lượng và chất lượng
của GCCN trong các thành phần kinh tế, nhất là trong thành phần kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài hoặc có quan hệ trực tiếp với quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế.
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là một
chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đổi mới xây

×