Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Đặc điểm Hội Nông dân Việt Nam và tác động của nó đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ Hội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 167 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NÔNG VĂN KẾ




ĐẶC ĐIỂM HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN VIỆC XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HỘI HIỆN NAY






LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

















HÀ NỘI - 2008

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NÔNG VĂN KẾ



ĐẶC ĐIỂM HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN VIỆC XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HỘI HIỆN NAY




CHUYÊN NGÀNH : CNDVBC & CNDVLS
MÃ SỐ : 62.22.80.05





LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS Bùi Thanh Quất





HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC

Trang

Mở đầu 1
Chương 1. Hội Nông dân Việt Nam và đặc điểm của Hội Nông dân
Việt Nam giai đoạn hiện nay 8
1.1. Hội Nông dân Việt Nam và những nhân tố chủ yếu tác động,
quy định đặc điểm của Hội giai đoạn hiện nay 8
1.2. Đặc điểm của Hội Nông dân Việt Nam giai đoạn hiện nay 38

Chương 2. Tác động của đặc điểm Hội Nông dân Việt Nam đến
việc xây dựng đội ngũ cán bộ Hội và một số vấn đề đặt ra 64
2.1. Tác động của đặc điểm Hội Nông dân đến những yêu cầu cấp thiết

của đội ngũ cán bộ Hội và những nội dung chủ yếu của việc xây dựng
đội ngũ cán bộ Hội hiện nay 64
2.2. Một số vấn đề đặt ra trong việc xây dựng đội ngũ
cán bộ Hội Nông dân Việt Nam hiện nay. 97

Chương 3. Một số quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng việc
xây dựng đội ngũ cán bộ Hội Nông dân Việt Nam hiện nay 116
3.1. Một số quan điểm nâng cao chất lượng việc xây dựng
đội ngũ cán bộ Hội Nông dân Việt Nam hiện nay 116
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng việc xây dựng
đội ngũ cán bộ Hội Nông dân Việt Nam hiện nay 123

Kết luận 144
Danh mục công trình của tác giả đã công bố liên quan tới luận án 146
Danh mục tài liệu tham khảo 147

BẢNG CHỨ CÁI VIẾT TẮT
AFTA Khu vực tự do mậu dịch của Hiệp Hội các nước Đông Nam Á
ASEAN Hiệp Hội các nước Đông Nam Á
CHXHCN Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
CN Công nghiệp
CNH Công nghiệp hoá
HĐH Hiện đại hoá
CNTB Chủ nghĩa tư bản
CNXH Chủ nghĩa xã hội
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
HTX Hợp tác xã
TW Trung ương
TBCN Tư bản chủ nghĩa
XHCN Xã hội chủ nghĩa

WTO Tổ chức Thương mại thế giới







1
MỞ ĐẦU
1- Lý do chọn đề tài
Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp nông dân,
do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, là thành viên của
Mặt trận Tổ quốc, của hệ thống chính trị Việt Nam. Được thành lập từ tháng
10/1930, trong gần 80 năm tồn tại, trưởng thành, Hội Nông dân (sau đây được gọi
tắt là Hội) và đội ngũ cán bộ Hội đã có những đóng góp hết sức to lớn cho sự
nghiệp cách mạng của dân tộc, cho sự lớn mạnh của giai cấp nông dân và phong
trào nông dân nước ta. Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình đổi mới toàn diện,
thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, dân chủ hoá đời sống xã hội và hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng. Để sự nghiệp cách mạng lớn lao này đi đến thành công, nhất thiết cần phải
có sự tham gia tích cực của mọi giai cấp, mọi tầng lớp dân cư trong xã hội, trong
đó sự tham gia của nông dân giữ vai trò rất quan trọng, vì họ là lực lượng dân cư
đông đảo nhất trong xã hội. Với tư cách là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp
nông dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Hội Nông dân cần phải đổi mới
phương thức hoạt động để Hội không chỉ trở thành tổ chức chính trị - xã hội có vai
trò giám sát, phản biện, tư vấn, tham vấn xã hội đối với các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của
Nhà nước, mà Hội còn phải trở thành người tổ chức và hướng dẫn có hiệu quả giai
cấp nông dân tham gia vào sự nghiệp cách mạng chung của đất nước, có như vậy

Hội Nông dân mới xứng đáng với vai trò mà Đảng giao cho là “lực lượng trung
tâm, nòng cốt trong phong trào xây dựng nông thôn mới, là thành viên tích cực
trong khối đại đoàn kết toàn dân, là nhân tố quan trọng của khối liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức” [31], là lực lượng quan trọng
trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.



2
Bước vào thời kỳ đổi mới của đất nước, Hội và đội ngũ cán bộ Hội đang
đứng trước những thời cơ, vận hội mới nhằm khơi dậy truyền thống cách mạng
vốn có ở giai cấp nông dân, để tổ chức Hội có thể cùng với Đảng và Nhà nước
giúp giai cấp nông dân nhanh chóng thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và
nhanh chóng trưởng thành về mọi mặt; đồng thời, đưa phong trào nông dân và tổ
chức Hội phát triển không ngừng. Tuy nhiên, giờ đây, Hội và đội ngũ cán bộ Hội
cũng đang đứng trước những khó khăn, thử thách to lớn trong sự tồn tại, phát triển
của mình. Thực tế cho thấy, trong những năm đổi mới vừa qua, mặc dù tổ chức
Hội và đội ngũ cán bộ Hội đã có những đóng góp to lớn và thiết thực cho sự
nghiệp đổi mới, cho sự lớn mạnh của giai cấp nông dân và phong trào nông dân;
song trước những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn
mới, Hội và đội ngũ cán bộ Hội đã bộc lộ không ít hạn chế, bất cập.
Thực tiễn công tác Hội cho thấy hiện nay Hội và đội ngũ cán bộ Hội còn có
những hạn chế nổi bật sau đây: bất cập trong việc thực hiện vai trò giám sát,
phản biện xã hội đối với các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước; bất cập trong
việc thực hiện vai trò trung tâm, nòng cốt của phong trào nông dân xây dựng
nông thôn mới; phương thức hoạt động của tổ chức Hội và đội ngũ cán bộ Hội
còn chậm đổi mới và chưa hiệu quả, còn mang tính hình thức, bị hành chính
hoá; một bộ phận đội ngũ cán bộ Hội còn quan liêu, xa rời cơ sở, ít thấu hiểu

thực sự những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nông dân; tình trạng nhà
nước hoá cơ cấu tổ chức và bộ máy của Hội đã làm cho nó cồng kềnh, hoạt động
kém hiệu quả, số lượng và cơ cấu cán bộ Hội còn chưa hợp lý, chất lượng còn
thấp. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ Hội ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn
phát triển mới của đất nước đã trở thành một yêu cầu cấp thiết không chỉ đối với
Hội nói riêng, mà còn là một đòi hỏi tất yếu khách quan của sự nghiệp đổi mới
nói chung.



3
Hội là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp nông dân, là một bộ phận của
kiến trúc thượng tầng xã hội, nên tất yếu Hội có quan hệ biện chứng, mật thiết
với nhân tố đất nước đổi mới và mở cửa, hội nhập quốc tế, với sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn, với sự biến đổi của giai cấp nông dân; Hội luôn
phải chịu sự tác động mạnh mẽ từ các nhân tố ấy, đồng thời, Hội cũng có sự tác
động trở lại không nhỏ tới các nhân tố trên. Thực tiễn công tác Hội trong hơn 20
năm đổi mới vừa qua đã chứng minh rằng, các nhân tố trên đã tác động đến Hội
và quy định nên các đặc điểm của Hội trong giai đoạn hiện nay.
Như một tất yếu, việc xây dựng và củng cố đội ngũ cán bộ Hội luôn phải
chịu sự tác động mạnh mẽ từ chính đặc điểm của Hội. Sự tác động này thực
chất là sự thể hiện mối quan hệ, tương tác qua lại giữa Hội với các bộ phận cấu
thành trong tổ chức Hội, giữa Hội với đội ngũ cán bộ và hội viên của Hội. Thực
tiễn xây dựng, trưởng thành, phát triển của Hội và đội ngũ cán bộ Hội trong gần
80 năm qua đã thể hiện điều đó. Trong thời kỳ đổi mới, vai trò của Hội đối với
sự phát triển của nông nghiệp – nông thôn – nông dân nói riêng, của đất nước
nói chung ngày càng được nâng cao. Song, vai trò đó của Hội sẽ không thể thực
hiện được, nếu không có được đội ngũ cán bộ Hội ngang tầm với yêu cầu của
nhiệm vụ. Vì vậy, nghiên cứu đặc điểm của Hội Nông dân và sự tác động của
đặc điểm đó đến xây dựng đội ngũ cán bộ Hội trong giai đoạn hiện nay là một

việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết.
Vì những lý do đó, tác giả luận án đã chọn đề tài “ Đặc điểm Hội Nông
dân Việt Nam và tác động của nó đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ Hội
hiện nay ” cho nghiên cứu của mình.

2- Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về xây dựng đội ngũ
cán bộ và công tác cán bộ của hệ thống chính trị nước ta. Nổi bật trong số đó là:



4
“Quy hoạch cán bộ và đào tạo là một khâu quyết định của công tác cán bộ” của Trần
Thị Kim Cúc (Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5, 1997), “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo và đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước” của
PGS, TS Nguyễn Trọng Bảo (Nxb Chính trị quốc gia, 1998), “Xây dựng đội ngũ cán
bộ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh
tế quốc tế” của TS Nguyễn Văn Sáu (Tạp chí Thông tin lý luận, số 9, 2000), “Một số
vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện người các dân tộc
thiểu số ở Tây Nguyên” của GS, TS Lê Hữu Nghĩa (Nxb Chính trị quốc gia, 2001),
“Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước” của PGS, TS Nguyễn Phú Trọng và PGS, TS Trần Xuân Sầm (Nxb
Chính trị quốc gia, 2001), “ Đổi mới công tác đào tạo – bồi dưỡng cán bộ dân tộc
thiểu số theo hướng nâng cao năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn” của Nguyễn
Ngọc Hà (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 1, 2002), “Xử lý đúng các mối quan hệ trong
công tác cán bộ” của Hà Đăng (Tạp chí Cộng sản, số 3, 2002)… Những công trình
trên đã bàn một cách trực tiếp và tương đối toàn diện đến việc xây dựng đội ngũ cán
bộ, đến công tác cán bộ của hệ thống chính trị nước ta từ những năm đổi mới cho đến
nay và đã góp phần luận giải một cách khoa học về công tác cán bộ, về xây dựng đội
ngũ cán bộ của hệ thống chính trị nước ta nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi

mới, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đây là những công trình không chỉ có giá trị về
mặt thực tiễn, mà còn có giá trị cao về mặt lý luận khoa học.
Đồng thời, trong những năm qua cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu
trực tiếp về giai cấp nông dân, về phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt
Nam như “Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930 –
1995) ” của TW Hội Nông dân (Nxb Chính trị quốc gia, 1998), “Lịch sử phong
trào nông dân tỉnh Hoà Bình (1930 – 1995)” của Hội Nông dân Hoà Bình (Nxb
Chính trị quốc gia, 1998), “Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Hải
Dương (1930 – 1996)” của Hội Nông dân Hải Dương (Nxb Chính trị quốc gia,



5
2000), “Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Hà Nội (1930 – 2000)”
của Hội Nông dân Hà Nội (Nxb Hà Nội, 2000) Những công trình trên đã cung
cấp những cứ liệu lịch sử rất sinh động về quá trình hình thành của phong trào
nông dân và Hội Nông dân, đã luận giải tương đối thuyết phục về những thành
công và thất bại của phong trào nông dân trong lịch sử, nhất là những thành công
và hạn chế của phong trào nông dân và Hội dưới sự lãnh đạo của Đảng trong gần
80 năm qua. Tuy nhiên, hầu hết các công trình trên đều tiếp cận vấn đề dưới góc
độ của sử học, dường như chưa có công trình nào tiếp cận dưới góc độ triết học.
Bên cạnh những công trình viết về lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông
dân là những công trình nghiên cứu trực tiếp về vị trí, vai trò của giai cấp nông dân,
về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hội Nông dân và đội ngũ cán bộ Hội
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đó là các công trình: “Công tác vận
động nông dân trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” của TW Hội Nông
dân (Nxb Nông nghiệp, 1999), “Một số vấn đề về công tác vận động nông dân ở
nước ta hiện nay” của Ban Dân vận TW (Nxb Chính trị quốc gia, 2000), “Hội Nông
dân Việt Nam với phong trào xây dựng gia đình nông dân văn hoá, thôn ấp bản làng
văn hoá” của TW Hội Nông dân (Nxb Lao động, 2001), “Công tác vận động nông

dân của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” của Lê Kim Việt (luận
án Tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội, năm 2002), “Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở Hội Nông
dân Việt Nam người dân tộc thiểu số trong thời kỳ CNH, HĐH” của Nông Văn Kế
(luận văn Thạc sĩ Triết học, Hà Nội, năm 2002), “Hội Nông dân Việt Nam - 75 năm
xây dựng và trưởng thành” của TS Vũ Ngọc Kỳ (Nxb Tư pháp, 2005), “Về đổi mới
tổ chức và phương thức hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam” của Nguyễn Văn
Tâm (Nxb Chính trị quốc gia, 2006), “75 năm công tác dân vận của Đảng – Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trung tâm Nghiên cứu khoa học Dân vận, Ban Dân
vận TW (Nxb Chính trị quốc gia, 2006)… Những công trình trên đã cung cấp tương
đối đầy đủ về cứ liệu khoa học và đã luận giải một cách tương đối có hệ thống



6
về vị trí, vai trò của giai cấp nông dân, phong trào nông dân và nhất là về vị trí,
vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hội và đội ngũ cán bộ Hội trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Trong những công trình
trên, đã có một số công trình tiếp cận vấn đề dưới góc độ triết học về Hội và đội
ngũ cán bộ Hội. Tuy nhiên, cho đến nay hầu như vẫn chưa có công trình nào đi
sâu nghiên cứu làm rõ đặc điểm của Hội Nông dân và tác động của đặc điểm ấy
đến đội ngũ cán bộ Hội, đến xây dựng đội ngũ cán bộ Hội, nhất là dưới góc độ
triết học.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
- Mục đích của luận án: Làm rõ đặc điểm của Hội Nông dân Việt Nam
hiện nay và sự tác động của nó đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ Hội, từ đó đề
xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ Hội đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế hiện
nay.
- Nhiệm vụ của luận án: Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện ba

nhiệm vụ: Thứ nhất, phân tích, khái quát những đặc điểm của Hội Nông dân
Việt Nam hiện nay; thứ hai, làm rõ sự tác động của đặc điểm Hội Nông dân đến
việc xây dựng đội ngũ cán bộ Hội trong sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập
quốc tế; thứ ba, đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng xây dựng đội ngũ cán bộ Hội Nông dân trong giai đoạn hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là đặc điểm của
Hội Nông dân và sự tác động của đặc điểm ấy đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ Hội.
- Phạm vi nghiên cứu: Với khuôn khổ của một luận án tiến sĩ, đặc điểm
của Hội Nông dân và sự tác động của nó đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ Hội



7
được luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu ở giai đoạn từ 1986, khi nước ta bước
vào thời kỳ đổi mới, đến 2020, khi nước ta cơ bản sẽ trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, nhà nước về xây dựng tổ chức chính trị – xã hội và đội ngũ cán bộ tổ
chức chính trị – xã hội nói chung, về xây dựng Hội Nông dân và đội ngũ cán bộ
Hội nói riêng. Đồng thời, luận án cũng tham khảo và kế thừa có chọn lọc những
thành tựu của các tác giả đi trước.
Trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác – Lênin, luận án sử dụng
chủ yếu các phương pháp như phân tích – tổng hợp, lôgic – lịch sử, quy nạp –
diễn dịch, trừu tượng hoá - khái quát hoá…


6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án đã đưa ra và luận giải về những đặc điểm cơ bản của
Hội Nông dân hiện nay; thứ hai, luận án đã phân tích sự tác động của đặc điểm
Hội Nông dân đến xây dựng đội ngũ cán bộ Hội; thứ ba, luận án đã đề xuất một
số giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng việc xây dựng đội ngũ
cán bộ Hội trong giai đoạn hiện nay.

7. Ý nghĩa của luận án
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu một số hoạt
động liên quan tới Hội Nông dân và đội ngũ cán bộ Hội Nông dân để giảng dạy
tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác cho cán bộ Hội Nông dân



8
trong hệ thống học viện, nhà trường của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Hội
Nông dân Việt Nam.

8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã
công bố liên quan tới luận án, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của
luận án được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.


Chương 1
HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA
HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1. 1. Hội Nông dân Việt Nam và những nhân tố chủ yếu tác động, quy định
đặc điểm của Hội giai đoạn hiện nay

1.1.1. Hội Nông dân Việt Nam giai đoạn hiện nay
1.1.1.1. Vài nét khái quát về Hội Nông dân Việt Nam
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này đã đánh dấu
một bước ngoặt vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Từ đây cách mạng
Việt Nam đã có sự lãnh đạo của một đảng mác xít chân chính. Tháng 10/1930,
hội nghị lần thứ nhất của Đảng Cộng sản đã ra nghị quyết về “Nông dân vận
động”, đã thông qua điều lệ Nông hội. Hội Nông dân Việt Nam đã ra đời từ đó
và mốc son lịch sử này đã trở thành bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phong
trào nông dân nước ta. Trải qua quá trình tồn tại, phát triển và trưởng thành gần
80 năm, hiện nay Hội Nông dân Việt Nam “là tổ chức chính trị – xã hội của giai
cấp nông dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt



9
trận Tổ quốc Việt Nam; cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” [45, tr.7].
Quá trình tồn tại, trưởng thành và phát triển của Hội Nông dân cho thấy,
Hội không chỉ mang đầy đủ các tính chất của một tổ chức xã hội như “tính xã
hội - chính trị, tính tự nguyện, tính nghề nghiệp, cộng đồng, giới và sở thích,
tính không vụ lợi, tính thời đại” [80, tr.13- 19], mà vì là một tổ chức chính trị -
xã hội, nên tính chất đặc trưng của Hội là tính chính trị - xã hội. Tính chất
chính trị - xã hội của Hội Nông dân là thể thống nhất biện chứng giữa mặt
chính trị và mặt xã hội. Tính chất đó đã quy định vai trò của Hội là cầu nối giữa
Đảng với giai cấp nông dân, là cơ sở chính trị và chỗ dựa chính trị vững chắc
của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, là lực lượng nòng cốt trong phong trào
nông dân và xây dựng nông thôn mới Tính chất đó của Hội đã quy định chức
năng của Hội là “vận động, giáo dục hội viên, nông dân tích cực phát huy
quyền làm chủ, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt; đại
diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước; chăm lo, bảo vệ

quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nông dân Việt Nam” [45, tr.7 - 8].
Đồng thời, tính chất đó của Hội Nông dân cũng quy định nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Hội là “nguyên tắc tập trung dân chủ” [45, tr.19].
Có thể nói rằng, từ khi ra đời đến nay Hội Nông dân đã tổ chức, hướng dẫn
giai cấp nông dân và phong trào nông dân đấu tranh dưới ngọn cờ lãnh đạo của
giai cấp công nhân, của Đảng Cộng sản; đã góp phần rất to lớn vào thắng lợi
của Cách mạng tháng Tám, của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, vào sự lớn mạnh, trưởng thành về mọi mặt của giai cấp
nông dân và phong trào nông dân Việt Nam, vào sự thắng lợi của sự nghiệp đổi
mới toàn diện, của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và mở cửa, hội nhập quốc
tế.



10
Trong quá trình tồn tại, trưởng thành và phát triển gần 80 năm qua, Hội
Nông dân đã mang nhiều tên gọi khác nhau để phù hợp với nhiệm vụ trong mỗi
thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Đó là Nông hội đỏ (1930), Nông hội (1937),
Hội Nông dân phản đế (1939), Hội Nông dân cứu quốc (1941), Hội Nông dân
giải phóng miền Nam Việt Nam (ở miền Nam năm 1961), Hội Đồng Nông dân
tập thể Việt Nam (ở miền Bắc năm 1974), Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt
Nam (1979) và Hội Nông dân Việt Nam (từ 1988 đến nay). Có thể khẳng định
rằng, từ khi ra đời đến nay, Hội Nông dân đã có những đóng góp vô cùng to lớn
cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, vào sự phát triển của phong trào nông
dân nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong gần 80 năm tồn tại và trưởng thành, cho dù Hội có mang những tên
gọi khác nhau qua mỗi thời kỳ, song dưới sự lãnh đạo của Đảng, bản chất của
Hội vẫn mãi là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp nông dân nước ta, vẫn là
tổ chức quần chúng nòng cốt và rất đáng tin cậy của Đảng, là cầu nối giữa
Đảng với giai cấp nông dân, là cơ sở chính trị và chỗ dựa vững chắc của Nhà

nước, vẫn là thành viên tích cực của hệ thống chính trị và của Mặt trận Tổ quốc,
là nhân tố cơ bản của khối liên minh chiến lược công nhân – nông dân – trí
thức, là lực lượng trung tâm, nòng cốt của phong trào nông dân nước ta.
1.1.1.2. Hội Nông dân và đội ngũ cán bộ Hội giai đoạn hiện nay
Thực tiễn hoạt động của Hội Nông dân cho thấy, vị trí, vai trò, chức năng và
nhiệm vụ của Hội có sự thay đổi qua mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau. Giai
đoạn 1930 - 1975, vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Hội Nông dân gắn
mật thiết với việc vận động, tuyên truyền nông dân và tổ chức, hướng dẫn hội
viên, nông dân thực hiện nhiệm vụ đánh đuổi thực dân, đế quốc để giành độc
lập, tự do cho dân tộc và đánh đổ giai cấp phong kiến để giành ruộng đất cho
giai cấp nông dân. Giai đoạn hiện nay, “trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng



11
sản Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam luôn là tổ chức trung tâm và nòng cốt
trong các phong trào nông dân và xây dựng nông thôn mới” [45, tr.3].
Thực tiễn công tác Hội thời kỳ đổi mới cho thấy, khi tham gia thực hiện sự
nghiệp đổi mới toàn diện và mở cửa, hội nhập quốc tế, Hội đã từng bước phát
huy tốt vị trí là một thành viên tích cực của hệ thống chính trị, của Mặt trận Tổ
quốc do Đảng Cộng sản lãnh đạo; đã từng bước phát huy tốt vai trò là cầu nối
giữa Đảng với giai cấp nông dân, vai trò là người tổ chức và hướng dẫn giai
cấp nông dân thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng và đổi mới hệ thống
chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, thực hiện dân chủ hoá đời
sống xã hội trên địa bàn nông thôn, trong lĩnh vực nông nghiệp và đời sống của
giai cấp nông dân, dần từng bước xứng đáng với vai trò mà Đảng giao cho là
“lực lượng trung tâm, nòng cốt trong phong trào xây dựng nông thôn mới, là
thành viên tích cực trong khối đại đoàn kết toàn dân, là nhân tố quan trọng của

khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”
[31].
Trong thời gian gần đây, Hội Nông dân còn đảm nhận và đã dần thực hiện
tốt vai trò giám sát, phản biện, tư vấn và tham vấn xã hội đối với các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, nhất là các chủ trương, đường lối, chính
sách, pháp luật và chương trình liên quan trực tiếp đến nông nghiệp - nông thôn
- nông dân. Có thể thấy, vai trò trên không phải của riêng Hội Nông dân, mà là
của cả Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, của cả xã hội dân sự. Tuy
nhiên, với tư cách là một thành viên của hệ thống chính trị, là một bộ phận của
kiến trúc thượng tầng, là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp đông đảo nhất
trong xã hội, là người tổ chức và hướng dẫn nông dân tham gia thực hiện bước



12
chuyển của đất nước từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại, Hội Nông dân cần phải tích cực thực hiện vai trò này.
Nghiên cứu về Hội Nông dân, không thể không nghiên cứu về lực lượng
nòng cốt của tổ chức Hội là đội ngũ cán bộ Hội, vì theo Hồ Chí Minh: cán bộ là
cái gốc của mọi công việc. “Cán bộ là khái niệm để chỉ những người có chức
vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến
hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều
hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức” [94, tr.20], vì thế cán bộ
Hội Nông dân sẽ đóng vai trò rất quan trọng vào thành công, hay thất bại trong
hoạt động thực tiễn của Hội Nông dân. Quá trình phát triển, trưởng thành của
đội ngũ cán bộ Hội trong gần 80 năm qua cho thấy, cùng với Hội Nông dân, đội
ngũ cán bộ Hội đã đóng vai trò là lực lượng chủ lực, xung kích, tiên phong
trong các hoạt động của Hội và họ đã có những đóng góp rất to lớn vào sự
thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ cán bộ Hội còn có những hạn chế nổi bật sau
đây: bất cập trong việc thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội đối với các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước; bất cập trong việc thực hiện vai trò
trung tâm, nòng cốt của phong trào xây dựng nông thôn mới; phương thức hoạt
động của đội ngũ cán bộ Hội còn chậm đổi mới và chưa hiệu quả, còn mang
tính hình thức, bị hành chính hoá; một bộ phận đội ngũ cán bộ Hội còn quan
liêu, xa rời cơ sở, ít thấu hiểu thực sự những tâm tư, nguyện vọng chính đáng
của nông dân; số lượng và cơ cấu cán bộ Hội còn chưa hợp lý, chất lượng còn
thấp… Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ Hội ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn
mới của đất nước đã không chỉ là một yêu cầu cấp thiết đối với Hội nói riêng,
mà còn là một đòi hỏi tất yếu khách quan của sự nghiệp đổi mới đất nước nói
chung.



13
Đội ngũ cán bộ Hội hiện nay có một số đặc điểm nổi bật sau đây:
Một là đội ngũ cán bộ Hội Nông dân hiện có số lượng rất đông đảo. Đây
là đặc điểm nổi bật của đội ngũ cán bộ Hội Nông dân, khi so sánh với đội ngũ
cán bộ của nhiều tổ chức chính trị – xã hội khác ở nước ta, cũng như so với đội
ngũ cán bộ của Hội Nông dân nhiều nước khác trên thế giới. Số lượng cán bộ
Hội đông đảo là do hai tác nhân tạo nên: thứ nhất là do sự gia tăng nhanh chóng
và đông đảo về số lượng hội viên, thứ hai là sự gia tăng về số lượng chi, tổ Hội
của Hội Nông dân. Hiện nay, số lượng hội viên của Hội Nông dân đã lên tới
xấp xỉ 10 triệu người. Vì vậy, để quản lý được số lượng hội viên khổng lồ đó,
Hội cần phải có số lượng cán bộ Hội đông đảo. Đồng thời, trong phạm vi cả
nước, Hội Nông dân đã thành lập được xấp xỉ 100.000 chi, tổ Hội trong gần
10.000 đơn vị cấp cơ sở Hội. Nếu chỉ tính mỗi chi, tổ Hội có 2 cán bộ và mỗi
cơ sở Hội có 2 cán bộ chủ chốt, thì chỉ riêng đội ngũ cán bộ cơ sở Hội đã có số

lượng khoảng 200.000 người. Đội ngũ cán bộ này có địa bàn công tác trải khắp
trong cả nước, gồm đủ thành phần dân tộc, trình độ, tôn giáo, giới tính, lứa tuổi.
Bên cạnh đội ngũ cán bộ cơ sở Hội, là hàng ngàn cán bộ chuyên trách công tác
Hội từ cấp huyện trở lên, đã tạo ra một đội ngũ cán bộ Hội rất đông đảo về số
lượng, mà ít tổ chức chính trị - xã hội nào ở nước ta có thể so sánh được.
Hai là giữa đội ngũ cán bộ cơ sở Hội với đội ngũ cán bộ Hội cấp trên có
sự chênh lệch rất lớn về trình độ học vấn và chuyên môn. Có thể thấy, sự chênh
lệch trình độ về mọi mặt giữa đội ngũ cán bộ cấp cơ sở với đội ngũ cán bộ cấp
trên là điểm chung của cả đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị nước ta.
Song, do cán bộ cơ sở Hội có quan hệ mật thiết với nông dân, nên sự chênh
lệch này ở đội ngũ cán bộ Hội lại có sự biểu hiện rõ nét nhất. Tuy nhiên, hiện
nay sự chênh lệch về trình độ giữa cán bộ cấp cơ sở Hội với cán bộ Hội cấp trên
đã tạo ra nhiều bất cập, khó khăn trong phối hợp hoạt động giữa họ. Trong



14
phạm vi luận án, chúng tôi chỉ đề cập giới hạn về trình độ học vấn và chuyên
môn.
Hiện nay, trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ Hội nhìn chung còn rất
thấp, cụ thể là “đội ngũ cán bộ cơ sở Hội có tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ
thông là 14,30%; thì tỷ lệ đó ở đội ngũ cán bộ Hội cấp huyện, thị là 66%; ở cấp
tỉnh, thành là 83.2% và ở cấp TW Hội là 100%” [54, tr.35]. Việc đội ngũ cán bộ
cơ sở Hội có trình độ học vấn thấp đã hạn chế khả năng tiếp thu, nắm bắt những
tri thức mới, những kiến thức cần thiết trong công tác của họ, đã cản trở họ
trong việc hoàn thành nhiệm vụ được giao, thậm chí còn tạo ra khó khăn trong
việc phối hợp hoạt động giữa đội ngũ cán bộ này với cán bộ Hội cấp trên.
Đội ngũ cán bộ Hội phải gắn các hoạt động của mình với nông dân và
lĩnh vực nông nghiệp, nên đòi hỏi họ phải có chuyên môn xác định gắn với
nông nghiệp – nông thôn – nông dân. Hiện nay, trình độ chuyên môn của đội

ngũ cán bộ Hội, nhất là của cán bộ cơ sở Hội nhìn chung còn rất yếu, cụ thể là
“đội ngũ cán bộ cơ sở Hội có tỷ lệ đại học và cao đẳng chỉ là 0,21%; trong khi
tỷ lệ đó ở đội ngũ cán bộ Hội cấp huyện, thị là 22,6%; ở đội ngũ cán bộ Hội cấp
tỉnh, thành là 49%; còn ở đội ngũ cán bộ Hội cấp TW Hội là 78%, ngoài ra ở
đội ngũ cán bộ Hội cấp TW còn có tỷ lệ 4% là trình độ trên đại học” [54, tr.35].
Như vậy, giữa cán bộ cơ sở Hội với cán bộ Hội cấp trên có sự chênh lệch rất
lớn về trình độ chuyên môn, nhất là so với cán bộ cấp tỉnh Hội và TW Hội thì
sự chênh lệch đó lại càng rõ. Sự chênh lệch về trình độ này đã và đang tạo ra
những bất cập, khó khăn cho sự phối hợp công tác giữa họ, gây ra tình trạng
thiếu hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ công tác Hội.
Trước hết, đội ngũ cán bộ Hội được xác định là lực lượng nòng cốt trong
xây dựng Hội vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Vì đội ngũ này
đóng vai trò là “cái gốc của mọi công việc” của Hội Nông dân, vì họ là người
quản lý, điều hành tổ chức Hội, nên họ phải đóng vai trò nòng cốt trong xây



15
dựng Hội vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Vai trò nòng cốt này
của họ không thể giao phó cho bất kỳ ai. Đồng thời, họ còn là người tổ chức và
hướng dẫn nông dân cụ thể hoá các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật và các chương trình phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước và
biến chúng thành hiện thực trong thực tiễn phong trào nông dân.
Giờ đây, đội ngũ cán bộ Hội còn phải đóng vai trò là bộ phận xung kích,
tiên phong, nòng cốt trong việc xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, tiên tiến để
nó có đủ khả năng hội nhập quốc tế thành công và có hiệu quả cao; trong việc
xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại và hội nhập, trong việc phát triển
đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội trên địa bàn nông thôn và trong việc xây dựng
Hội trưởng thành, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
1.1.2. Những nhân tố chủ yếu tác động đến Hội Nông dân Việt Nam và

quy định đặc điểm của Hội giai đoạn hiện nay
Có nhiều cách tiếp cận để tìm ra đặc điểm của Hội Nông dân, vì thế mỗi
cách tiếp cận sẽ có thể chỉ ra những đặc điểm khác nhau của Hội. Do đối tượng
và phạm vi nghiên cứu quy định, từ góc nhìn triết học, luận án triển khai nghiên
cứu bằng cách tiếp cận từ mối quan hệ của Hội với các nhân tố chủ yếu tác
động tới Hội Nông dân và quy định nên các đặc điểm của Hội giai đoạn hiện
nay.
Để dễ nhận ra sự tác động và quy định của các nhân tố này đối với đặc điểm
của Hội, chúng ta có thể chia các nhân tố ấy thành hai nhóm nhỏ: nhóm nhân tố
đất nước đổi mới và mở cửa, hội nhập quốc tế; nhóm nhân tố sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn và sự biến đổi của giai cấp nông dân Việt Nam.
1.1.2.1. Nhân tố đất nước đổi mới và mở cửa, hội nhập quốc tế
a. Nhân tố đất nước đổi mới
Có thể nói rằng, sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng, là một cuộc cách mạng toàn diện thực sự. Cuộc cách



16
mạng này đã được bắt đầu từ đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, tiếp đó là
đổi mới tư duy lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở một đất nước
nghèo nàn, lạc hậu lại phải trải qua gần 30 năm chiến tranh. Nếu như cuộc Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đã đem lại sự độc lập về chính trị cho dân tộc ta, rồi
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã đem lại
sự độc lập, thống nhất, hoà bình thực sự cho dân tộc ta, thì sự nghiệp đổi mới
toàn diện đất nước là một cuộc cách mạng toàn diện nhằm đưa nước ta thoát
khỏi tình trạng một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển để
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Nội dung chủ yếu của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước bao gồm cả đổi
mới tư duy lý luận đến đổi mới trong thực tiễn xây dựng đất nước, đổi mới cả

từ cơ sở hạ tầng lẫn trong kiến trúc thượng tầng của xã hội, từ kinh tế đến chính
trị, văn hoá, xã hội, khoa học, giáo dục; đổi mới cơ cấu ngành và cơ cấu thành
phần kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới chính sách kinh tế đối
ngoại và quan hệ quốc tế, đổi mới hệ thống chính trị và nền hành chính quốc
gia
Trong tiến trình đổi mới đất nước từ 1986 đến nay, Đảng Cộng sản là lực
lượng chính trị lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện xã hội Việt Nam và nhờ có đường
lối chính trị đúng đắn của Đảng, mà đất nước ta đã đạt được những thành tựu
đáng khâm phục, đã đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và
từng bước phát triển, đi lên không ngừng. Tuy nhiên, vào thời điểm nước ta tiến
hành sự nghiệp đổi mới toàn diện, nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc
hậu, nông dân nước ta vẫn còn chiếm tới trên 80% dân số. Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, để sự nghiệp đổi mới đi tới thắng lợi thì trên 80% dân
số là nông dân ấy phải trở thành chủ thể của công cuộc đổi mới đó. Thực tiễn
hơn 20 năm đổi mới vừa qua đã cho thấy, nhờ có đổi mới tư duy, nhất là tư duy
kinh tế và triển khai tư duy đó trong thực tiễn nên sức sản xuất của xã hội, mà



17
trước hết là sức sản xuất trong nông nghiệp đã được giải phóng, đã làm cho
kinh tế đất nước phát triển và đã tạo đà thuận lợi cho quá trình đổi mới toàn
diện. Việc chọn nông nghiệp làm khâu đột phá cho quá trình đổi mới là một
quyết sách chính trị rất đúng đắn của Đảng, nên từ sự đổi mới tư duy kinh tế
được triển khai trong hiện thực nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã nhanh
chóng giải phóng sức sáng tạo của người nông dân khỏi sự ràng buộc của cơ
chế quản lý cũ lạc hậu, làm cho sức sản xuất trong nông nghiệp được giải
phóng, đưa năng suất, chất lượng và hiệu quả trong nông nghiệp phát triển
không ngừng, góp phần to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới nói chung.
Có thể thấy, mỗi bước tiến trong sự nghiệp đổi mới đó của đất nước đã luôn thể

hiện rõ tinh thần và phương pháp triết học là đổi mới – giải phóng – phát triển.
Sự vận động và biến đổi của nông nghiệp – nông thôn – nông dân Việt Nam
giai đoạn từ 1986 đến nay cho thấy, đây là một sự vận động, biến đổi chứa
đựng những mâu thuẫn là vừa phải hội nhập với thế giới có hiệu quả và thành
công, vừa phải giữ gìn được bản sắc riêng của mình, nhất là bản sắc văn hoá
dân tộc, để hoà nhập mà không hoà tan. Thực tiễn cho they, sự tác động của
quá trình toàn cầu hoá đến Việt Nam nói chung, đến nông nghiệp – nông thôn –
nông dân Việt Nam nói riêng đã buộc nông nghiệp nước ta phải vận động, biến
đổi theo hướng CNH, HĐH và hội nhập sâu rộng với thế giới; đã buộc xã hội
nông thôn nước ta vừa phải vận động theo hướng CNH, đô thị hoá, vừa phải
lưu giữ những truyền thống văn hoá có tính bản sắc của dân tộc; đã buộc người
nông dân phải có bước chuyển từ người nông dân tự cung, tự cấp, làm ăn nhỏ
lẻ, bảo thủ, lạc hậu, tự ti trở thành người nông dân làm ăn lớn, năng động,
sáng tạo và tự tin trước các quyết định về kinh tế, chính trị và văn hoá của
chính mình. Xu thế vận động đó là tất yếu khách quan để đưa nước ta từ một
nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020. Tuy nhiên, chúng ta cần phải giữ vững được ổn



18
định chính trị – xã hội trong quá trình đổi mới đất nước, vì nếu không giữ vững
được ổn định chính trị – xã hội (mà nền tảng vững chắc của nó là nông nghiệp –
nông thôn – nông dân, vì “phi nông bất ổn”) và đảm bảo định hướng XHCN, thì
sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước ta sẽ bị đe doạ, thậm chí có thể dẫn
tới rối loạn xã hội và thất bại.
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đã tạo ra những đặc điểm chung của
nước ta hiện nay như: Thứ nhất là Việt Nam đang trong bước chuyển có tính
cách mạng từ một nước nghèo nàn, lạc hậu trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại; thứ hai là Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ

chế quản lý từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị
trường; thứ ba là Việt Nam đang trong quá trình thực hiện dân chủ hoá đời
sống xã hội và mở cửa, hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới. Các đặc điểm
chung của đất nước, nhất là nhấn tố đất nước đổi mới toàn diện đã tác động rất
mạnh mẽ đến Hội Nông dân và quy định nên đặc điểm của Hội trong giai đoạn
hiện nay; đã đòi hỏi Hội Nông dân phải đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương
thức hoạt động của mình theo hướng thiết thực, chất lượng và hiệu quả; đã đòi
hỏi Hội Nông dân, đội ngũ cán bộ và hội viên của Hội phải tích cực góp phần
vào thực hiện thắng lợi sự nghiệp này.
b. Nhân tố đất nước mở cửa, hội nhập quốc tế
Với tuyên bố được đưa ra trong Cương lĩnh và Chiến lược ổn định, phát
triển kinh tế - xã hội 10 năm, do đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam
thông qua: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, Việt Nam đã chính thức bước vào
kỷ nguyên mở cửa và hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, nhất là trên
lĩnh vực kinh tế. Nhân tố này có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát
triển, đi lên của đất nước ta giai đoạn từ 1986 đến nay nói chung, của nông
nghiệp – nông thôn – nông dân nói riêng.



19
Có thể thấy, quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu trong
bối cảnh toàn cầu hoá về kinh tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Quá trình
này đã đem lại vị thế mới cho Việt Nam trên trường quốc tế như đã trở thành
thành viên của các tổ chức ASEAN, APEC, ASEM, WTO và gần đây là uỷ viên
không thường trực của Hội Đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Song, điều quan trọng
hơn cả là nó đã thực sự phá vỡ thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch để
đưa nước ta hội nhập thành công với thế giới. Thực tiễn cho thấy, quá trình này
đã mở ra rất nhiều cơ hội mới cho nước ta trong quá trình phát triển và vươn xa,

nhất là từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO.
Tuy nhiên, ngoài việc đem đến những cơ hội mới và thuận lợi, thì mặt
trái của quá trình này cũng đem đến nhiều thách thức, khó khăn cho mọi lĩnh
vực, mọi giai cấp, mọi tầng lớp, tổ chức và cá nhân, nhất là cho nông nghiệp –
nông thôn – nông dân của nước ta. Sau đây là một số thách thức, khó khăn nổi
bật nhất đối với nông nghiệp và nông thôn nước ta:
Một là nông nghiệp nước ta có nguy cơ ngày càng bị ảnh hưởng nặng nề,
thậm chí có lúc còn bị lệ thuộc hoàn toàn vào thị trường thế giới
Thực tế cho thấy, việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO, bên
cạnh thuận lợi là được tiếp cận với một thị trường nông sản thế giới có kim
ngạch gần 559 tỷ USD, thì nó cũng tạo ra một khó khăn, thách thức mới cho
nông nghiệp Việt Nam là từ đây mọi hoạt động thương mại và dịch vụ liên
quan tới nông nghiệp của nước ta đều phải tuân theo quy định của WTO. Vì
thế, giờ đây trước khi người nông dân quyết định trồng cây gì, nuôi con gì với
số lượng bao nhiêu, chất lượng ra sao thì họ cần phải biết sẽ bán chúng ở đâu,
bán với giá nào và sẽ phải đối mặt với những đối thủ cạnh tranh nào trên thị
trường thế giới. Đây là những vấn đề mà nền nông nghiệp bao cấp và người
nông dân thời bao cấp không hề quan tâm và cũng không cần phải quan tâm
đến. Chẳng hạn, hiện nay cà phê thô của Việt Nam, một mặt đã góp phần làm



20
khuynh đảo quan hệ cung – cầu trên thị trường cà phê thế giới, nhưng mặt khác
bản thân nó đã bị lệ thuộc hoàn toàn vào thị trường thế giới về giá, về sản lượng
trong tương lai…
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta tiến hành mở cửa, hội nhập quốc tế thì
rất nhiều loại nông sản hàng hoá của nền nông nghiệp nước ta đã có cơ hội
vươn xa để chiếm lĩnh thị trường thế giới. Tuy nhiên, ngoài việc đem lại lợi
nhuận cao, nó cũng đã tiềm ẩn nguy cơ bị lệ thuộc ngày càng nhiều vào thị

trường thế giới, thậm chí có thể dẫn tới nguy cơ nền nông nghiệp nước ta phát
triển què quặt, mất cân đối, gặp nhiều rủi ro khi thị trường thế giới rơi vào
biến động, khủng hoảng. Thực trạng thị trường xuất khẩu thuỷ sản của nước ta
trong những năm gần đây là một minh chứng.
Hai là nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta ngày càng bị sức ép
cạnh tranh và sự tranh chấp thương mại từ các đối thủ bên ngoài
Trong bối cảnh mở cửa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì tất yếu
hàng hoá, trong đó có hàng hoá nông sản của các nước trên thế giới được phép
thâm nhập vào thị trường của nhau. Điều này đã dẫn tới nông sản của nước ta
phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt cả ở thị trường bên ngoài và ngay cả ở thị
trường trong nước, đã đòi hỏi nông nghiệp nước ta phải tuân thủ gay gắt những
quy định về thuế quan (xuất, nhập khẩu…) và về phi thuế như vệ sinh, an toàn
thực phẩm, nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, về thương hiệu hàng hoá, về phòng
chống dịch như dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm, long móng, dịch bò điên ở gia
súc Điều này cũng đã tác động không nhỏ đến việc tổ chức lại sản xuất theo
hướng tập trung để an toàn nhưng đòi hỏi chi phí cao, đã gây ra những thách
thức, khó khăn lớn trong việc tiêu thụ nội địa và xuất khẩu ra thị trường thế
giới.
Tuy nhiên, hàng hoá nông sản của nước ta hiện chủ yếu xuất khẩu ở dạng
nguyên liệu thô nên giá trị gia tăng thấp, chi phí sản xuất cao nên sức cạnh



21
tranh kém. Vì thế, dưới tác động của quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế, giờ
đây nông nghiệp nước ta buộc phải chuyển từ sản xuất sản phẩm thô sang chế
biến để tăng giá trị, buộc phải hiện đại hoá công nghệ sau thu hoạch để tăng
chất lượng và giá trị của nông sản hàng hoá; buộc phải tìm mọi cách để hạ giá
thành sản phẩm, nhất là phải giảm chi phí sản xuất thì mới có thể cạnh tranh
được với những sản phẩm nông sản cùng loại của thế giới. Ngoài ra, dưới tác

động của nhân tố này, Nhà nước ta buộc phải có chính sách hỗ trợ phù hợp cho
nông nghiệp, nếu không hàng hoá nông sản của Việt Nam sẽ phải đối mặt với
những vụ kiện bán phá giá vừa mệt mỏi, vừa tốn kém. Vụ kiện bán phá giá cá
tra, cá basa và tôm ở Mỹ vừa qua là những ví dụ điển hình.
Tuy nhiên, các cơ sở sản xuất và các doanh nghiệp nông dân của kinh tế
nông thôn hiện còn phổ biến là thủ công lạc hậu, năng suất thấp, sức cạnh tranh
kém, quy mô vốn nhỏ, cung cách quản lý lạc hậu, yếu kém…. Điều đó dẫn tới
giá trị gia tăng thấp, nhất là sức cạnh tranh của sản phẩm của kinh tế nông thôn
còn rất yếu kém. Những sản phẩm truyền thống của nước ta đã và đang gặp
phải những đối thủ cạnh tranh rất mạnh như Trung Quốc, Ấn Độ, Ba Lan…,
gặp phải các rào cản thương mại rất tinh vi dưới chiêu bài tiêu chuẩn chất lượng
hàng hoá; các doanh nghiệp nông dân còn thiếu thương hiệu, xúc tiến thương
mại còn chậm, mẫu mã sản phẩm nghèo nàn, đơn điệu Hậu quả tiêu cực của
thực trạng này đã không chỉ gây ra năng lực cạnh tranh thấp cho nông sản Việt
Nam, mà còn gây ra những khó khăn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp và nông thôn theo hướng CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Ba là xã hội nông thôn nước ta đang phải đối mặt với sự thâm nhập mạnh
mẽ của lối sống và văn hoá của nước ngoài
Hiện nay, trong quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế, mọi quốc gia đều
phải chấp nhận sự thâm nhập, đan xen, giao thoa của các nền văn hoá bên ngoài
với nền văn hoá truyền thống bản địa, đất nước ta và nông thôn nước ta không

×