1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
HÀ HOÀNG GIANG
XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HOÁ Ở TỈNH
VĨNH PHÚC HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Hà Nội – 2013
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
HÀ HOÀNG GIANG
XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HOÁ
Ở TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY
Luận văn Thạc sĩ Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60.22.03.08
Người hướng dẫn khoa học: TS. Dƣơng Văn Duyên
Hà Nội - 2013
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình, hai tiếng thật thân thương mà mỗi ai trong chúng ta cũng
được sinh ra, trưởng thành từ chiếc nôi ấy. Đối với mỗi con người Việt Nam
mang tâm hồn Việt Nam, gia đình là nơi thiêng liêng nhất, đó là nơi chan
chứa yêu thương và đón nhận ta trở về vô điều kiện, là nơi chia sẻ những vui
buồn, sướng khổ, chứng kiến mọi biến cố cá nhân. Gia đình là chốn bình yên,
nơi an toàn, là tổ ấm, xoa dịu những nỗi đau, làm vơi đi những mệt mỏi thăng
trầm trong cuộc sống của mỗi con người. Gia đình còn là trường học đầu tiên
của bất cứ ai trong mỗi chúng ta, giữ vai trò giáo dục con người từ thuở ấu
thơ cho đến khi từ giã cuộc đời, là nơi tổ chức sinh hoạt văn hóa cho con
người bắt đầu bằng tiếng ru của người mẹ và làn điệu dân ca của quê hương,
là nơi lưu giữ bảo tồn bền vững những giá trị truyền thống văn hóa của dân
tộc, là cầu nối giữa cá nhân và xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở chúng ta về vai trò to lớn của
gia đình, Người coi gia đình là hình ảnh thu nhỏ, là hạt nhân, tế bào của xã
hội. Sự hùng cường của một quốc gia, sự bền vững của một dân tộc phải bắt
đầu từ gia đình, Người khẳng định: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng và
nhiều gia đình mới cộng lại thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia
đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”.
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng gia đình trong giai đoạn mới. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, về
Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc
đã chỉ rõ: “Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam.
Nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình
văn hóa. Xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã
hội”. Kết luận Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
IX) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII những năm sắp
4
tới, trong đó việc tổ chức triển khai thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa” “ Xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn
hóa”, phong trào “Người tốt, việc tốt”… Và gần đây nhất là Đại hội Đảng lần
thứ XI của đất nước đã nhấn mạnh cần phải: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến
bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội” được xem là chủ trương
hết sức quan trọng, gắn với nhiệm vụ xây dựng Đảng và chính quyền trong
sạch, vững mạnh, lấy mục tiêu xây dựng gia đình, khu phố, xã, phường, thị
trấn văn hóa, cơ quan đơn vị đạt chuẩn văn hóa làm nòng cốt của phong trào.
Gia đình có vai trò quan trọng đối với mỗi cuộc đời con người cũng
như đối với sự trường tồn và phát triển của xã hội, là nền tảng tồn tại, cơ sở
bền vững phát triển xã hội. Gia đình văn hóa là mục tiêu phải hướng tới, là cơ
sở thúc đẩy sự phát triển bản thân gia đình, nhằm phát triển toàn diện con
người và xã hội.
Qúa trình đổi mới đất nước, đặc biệt phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, đem
lại bộ mặt mới cho đất nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội… phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo, làm việc độc lập của con
người…Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó thì mặt trái của kinh tế
thị trường cũng mang lại những tác động xấu đến nền văn hóa, đến đời sống
gia đình, làm tổn hại thuần phong mỹ tục, nề nếp gia phong trong gia đình
người Việt. Lối sống thực dụng, sùng bái vật chất, lãng phí, tệ nạn xã hội tràn
lan đã phần nào làm cho tình cảm gia đình, đạo lý, trách nhiệm của các thành
viên trong gia đình bị sa sút. Trong bối cảnh đó, việc đẩy mạnh phong trào
xây dựng gia đình văn hóa là rất thiết thực, cấp bách, tuy nhiên môi trường
văn hoá đó lại được thực hiện chưa đồng đều ở các địa phương, mang nặng
tính hình thức, chưa thực sự trở thành nếp sống trong mỗi người dân.
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, một cuộc vận động xây
dựng gia đình văn hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành trong suốt một thời gian
dài. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cũng còn nhiều hạn chế, rất cần
5
được tiếp tục nghiên cứu, đánh giá để có những định hướng kịp thời, góp
phần tổ chức, triển khai cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá trên địa
bàn Vĩnh Phúc thực sự có hiệu quả trong thời gian tới.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề đã nêu trên, nghiên cứu công
tác xây dựng gia đình văn hoá ở Vĩnh Phúc hiện nay rất có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn. Vì vậy, tôi chọn: “Xây dựng gia đình văn hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện
nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
rất quan tâm đến vấn đề gia đình và xây dựng gia đình mới - gia đình văn hoá.
Từ đó đến nay, cùng với nhiều chủ trương, chính sách về phát triển đất nước,
xây dựng gia đình văn hoá được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng
đảm bảo sự bền vững của dân tộc ta. Xây dựng gia đình văn hoá trở thành
nhiệm vụ quan trọng trong phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hoá”. Trong quá trình đổi mới đất nước, vấn đề này đã thu hút được sự
quan tâm của các nhà lãnh đạo, nhà khoa học, nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu
dưới nhiều góc độ khác nhau :
- GS.Vũ Ngọc Khánh (2007), “Văn hoá gia đình Việt Nam”, Nxb
Thanh niên, Hà Nội. Tác giả đã cho thấy một bức tranh về gia đình văn hoá
Việt Nam từ xưa cho tới nay với những nét đặc trưng riêng biệt, và đã đề cập
đến những vấn đề thực tiễn của sự biến đổi trong gia đình người Việt.
- Hoàng Bích Nga (2005), “Để có một gia đình văn hóa”, Nxb Lao
động, Hà nội. Tác giả đã trình bày các giải pháp để có một gia đình văn
minh, hạnh phúc, đó là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và là quyền lợi
của mỗi gia đình để gia đình đóng góp vào sự nghiệp nói chung của đất nước
trong thời kỳ đổi mới công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
- Đỗ Thị Thạch, “Về xây dựng gia đình văn hoá Việt Nam dưới ánh
sáng Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí Cộng Sản, số 56 (8/2011). Tác giả đi sâu
nghiên cứu, phân tích nghị quyết Đại hội XI của Đảng để làm rõ vai trò của
6
gia đình và xây dựng gia đình văn hoá trong thời kỳ đổi mới được Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm, coi đó như nhân tố quan trọng góp phần giữ gìn sự
phát triển lành mạnh, an toàn của xã hội và sự ổn định dân số của mỗi quốc gia.
- Lê thi (chủ biên), (2002), “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất
nước đổi mới”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà nội. Công trình đã nêu ra những
vấn đề cơ bản như: gia đình, mục tiêu xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ
hạnh phúc… Đặc biệt tác giả nêu lên một yêu cầu cấp bách trong xã hội hiện
đại đó là xây dựng gia đình văn hóa. Theo tác giả, gia đình văn hóa là gia đình
được hình thành trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các giá trị đạo đức tốt đẹp của
gia đình truyền thống và tiếp thu kịp thời các giá trị tư tưởng tiên tiến hiện
đại, đó là một việc làm không dễ dàng, đơn giản. Vun đắp mối quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình đòi hỏi cái tâm, cái thiện và trách nhiệm của
mỗi người.
- Lê thi,“Phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống để xây dựng
gia đình hiện đại”, Tạp chí khoa học về phụ nữ, (Tháng 1 - 2006). Chuyên đề
đã điểm lại các giá trị tích cực và hạn chế cần lưu ý của gia đình truyền thống,
từ đây tác giả đề xuất những giải pháp cần thiết cho việc xây dựng một gia
đình hiện đại.
- Nguyễn Linh Khiếu (2006),“Giáo dục gia đình hướng tới xây dựng
con người thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Cộng
Sản, số 12. Trong bài viết, tác giả nêu lên một số vấn đề về nội dung và
phương pháp giáo dục, cùng một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò và vị trí
của gia đình trong việc tạo dựng một thế hệ con người mới Việt Nam đáp
ứng yêu cầu của thời đại.
- Ngoài ra còn có nhiều luận án tiến sĩ, thạc sỹ, các công trình nghiên
cứu chuyên sâu về vấn đề này trong những năm qua như :
- Nghiêm Sỹ Liêm (2002),“Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế
hệ trẻ ở nước ta hiện nay” - luận án Tiến sĩ Triết học
7
- Dương Thị Minh (2003), “Gia đình Việt Nam và vai trò của người
phụ nữ trong gia đình Việt Nam hiện nay” - luận án Tiến sĩ Triết học
- Phạm Thị Xuân (2004) , “Gia đình trong việc bảo vệ chăm sóc trẻ em
của nước ta hiện nay” - Luận văn thạc sỹ Triết học
Nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, các công trình nghiên cứu này
đã đề cập tới một số vấn đề về xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay như : vai
trò của gia đình, vai trò của người phụ nữ trong gia đình, vai trò giáo dục của
gia đình, văn hóa gia đình, tiêu chuẩn của gia đình văn hóa… đồng thời cũng
đưa ra được những định hướng và giải pháp góp phần phát huy truyền thống
gia đình trong thời đại mới, xây dựng gia đình mới ở nước ta hiện nay.
- Lê Minh (chủ biên) (1994),“Văn hoá gia đình và sự phát triển xã
hội”, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
- Lê Thi (1997),“Vai trò của gia đình trong sự hình thành nhân cách
con người Việt Nam”, Nxb Phụ Nữ.
- Lê Quý Đức và Vũ Thị Huệ (2003), “Người phụ nữ trong văn hoá gia
đình đô thị”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
- Lê Như Hoa (2001), “Văn hoá gia đình với việc hình thành và phát
triển nhân cách trẻ em”, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập tới những vấn đề lý luận và
thực tiễn về gia đình, văn hoá gia đình, xây dựng gia đình văn hoá, sự biến
đổi của gia đình và văn hoá gia đình trong bối cảnh mới, những vấn đề của
gia đình Việt Nam từ truyền thống đến hiện tại, cũng như ảnh hưởng của văn
hoá gia đình đối với sự phát triển của cá nhân nói riêng và xã hội nói chung.
Nhìn chung, các công trình khoa học có liên quan trực tiếp hay gián
tiếp đến vấn đề nghiên cứu của đề tài cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
Điều đáng lưu ý, những yêu cầu về xây dựng gia đình văn hoá ở nước ta, có
sự biến đổi cùng với sự biến đổi về kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn lịch
sử. Mặt khác, mỗi địa bàn khác nhau, tuỳ vào những điều kiện, hoàn cảnh và
văn hoá truyền thống khác nhau, mà xây dựng gia đình văn hoá có những yêu
8
cầu khác nhau. Vì vậy nghiên cứu về phương diện này đang có nhiều khoảng
trống. Những công trình trên đây mới chủ yếu đề cập đến gia đình, văn hoá
gia đình, gia đình văn hoá nói chung, song chưa đề cập đến vấn đề xây dựng
gia đình văn hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc. Vì vậy, nghiên cứu về xây dựng gia đình
văn hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc vẫn là một hướng nghiên cứu mới mẻ mà tôi hy
vọng góp phần nhìn nhận toàn diện và hệ thống hơn về vấn đề xây dựng gia
đình văn hoá ở Vĩnh Phúc hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở đánh giá thực trạng xây dựng gia đình văn hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc
trong thời gian qua, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xây dựng
gia đình văn hoá ở Vĩnh Phúc trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về gia đình, gia đình văn hoá trong
thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Phân tích thực trạng xây dựng gia đình văn hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc
trong thời gian qua để thấy được những ưu điểm và nhược điểm, mặt hạn chế,
nguyên nhân của chúng.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả xây dựng gia
đình văn hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu :
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ vấn đề xây dựng gia đình văn hoá ở tỉnh
Vĩnh Phúc hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của mình, luận văn tập trung nghiên cứu về
tình hình xây dựng gia đình văn hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc chủ yếu trong khoảng
năm 2005 đến nay, thông qua khảo sát thực tế tại một số huyện, thành phố, thị
xã của tỉnh.
9
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên nền tảng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về gia đình và
xây dựng gia đình văn hoá.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận
văn sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp
lịch sử, lôgíc; nghiên cứu văn bản, thu thập và xử lý thông tin, khái quát hóa,
điều tra, thống kê…
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn góp phần phân tích, làm rõ thực trạng vấn đề xây dựng gia
đình văn hoá ở tỉnhVĩnh Phúc. Đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh
phong trào xây dựng gia đình văn hoá của tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ở mức độ nhất định, luận văn cung cấp những căn cứ lý luận và thực
tiễn cho công tác xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnhVĩnh Phúc hiện nay. Đồng
thời luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng
dạy về vấn đề gia đình cho các trường trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận
văn gồm 2 chương, 4 tiết.
10
NỘI DUNG
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA VÀ XÂY DỰNG
GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở VĨNH PHÚC
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về xây dựng gia đình văn hóa dƣới
chủ nghĩa xã hội
1.1.1. Quan niệm về gia đình
Gia đình vốn là hai tiếng thiêng liêng đối với mỗi người, là nơi chắp
cánh cho những ước mơ bay xa, là nơi chứa đựng bao tình yêu thương ấm áp,
là nơi mà dù chúng ta có là ai, là người như thế nào thì cũng sẽ được mở rộng
vòng tay đón nhận, là nơi con người có thể trở về yên bình và hạnh phúc khi
gặp phải những vấp ngã trong cuộc sống… Vậy gia đình là gì?
Khi nói về gia đình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận chứng rõ về những
mối quan hệ thiết yếu của con người như một điều tất yếu ngoài nhu cầu vật
chất nuôi sống bản thân mình, đó chính là duy trì nòi giống, mối quan hệ, hôn
nhân, huyết thống: “…hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con
người còn tạo ra những người khác sinh sôi, nảy nở. Đó là quan hệ giữa
chồng và vợ, cha mẹ con cái. Đó là gia đình…”[9, tr.41].
Dưới góc độ tâm lý học, tác giả Ngô Công Hoàn cho rằng: “Gia đình là
một nhóm nhỏ xã hội có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm
sinh lý, có chung các giá trị vật chất, tinh thần ổn định trong các thời điểm
lịch sử nhất định”[26, tr.9]. Tác giả Nguyễn Đình Xuân lại quan niệm: “Gia
đình là nhóm nhỏ được liên kết vợ chồng (hôn nhân) theo quy luật xã hội
trước tiên, sau đó mới là quy luật tính dục tự nhiên” [71, tr.36]. Các định
nghĩa đó đã đề cập tới nhiều nét bản chất của gia đình nhưng vai trò và quan
hệ tác động của gia đình - xã hội chưa được khái quát. Nó cũng đòi hỏi các
nhà nghiên cứu về gia đình phải có sự bổ sung phát triển.
Gần đây, UNESCO cũng đưa ra quan niệm, gia đình là một nhóm
người có quan hệ họ hàng cùng chung sống và có ngân sách chung. Các định
11
nghĩa này cũng có những đóng góp và những hạn chế tương tự như quan niệm
gia đình của Tâm lý học, Xã hội học,
Luật hôn nhân và gia đình của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2000, khẳng định: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với
nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm
phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau theo luật định” [33,
tr.12]. Đây là quan niệm thống nhất của nước ta, là cơ sở pháp lý để giải
quyết những vấn đề liên quan đến gia đình.
Dưới góc độ của chủ nghĩa xã hội khoa học, giáo trình Chủ nghĩa xã
hội khoa học định nghĩa: “Gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ
bản trong đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hóa - xã hội
đặc thù được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống”[1, tr.246]. Mặc dù đây là định nghĩa đã phản ánh
được những nét bản chất nhất của gia đình. Song nó cần được bổ sung thêm
một số nét bản chất cơ bản khác của gia đình mà giáo trình đã có sự điều
chỉnh: xét rộng hơn và đầy đủ hơn, gia đình không chỉ là một đơn vị tình cảm
- tâm lý mà còn là một tổ chức kinh tế, tiêu dùng (sở hữu, sản xuất, thu nhập,
chi tiêu); một môi trường giáo dục - văn hoá (văn hoá gia đình và cộng đồng);
một cơ cấu - thiết chế xã hội (có cơ chế và cách thức vận động riêng )
Có thể thấy rằng, có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về vấn đề gia
đình, song có thể nhận diện cơ bản nhất trên các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, gia đình là một thiết chế xã hội được hình thành trước hết
trên cơ sở của quan hệ hôn nhân. Quan hệ hôn nhân là sự liên kết lại các cá
nhân (Nam - Nữ) theo quy định của luật pháp, nhằm chung sống với nhau và
xây dựng hạnh phúc gia đình.
Thứ hai, quan hệ huyết thống là quan hệ giữa cha mẹ và con cái, là sự
tiếp tục và là hệ quả tất yếu của quan hệ hôn nhân, nó chỉ phát triển tốt đẹp
dựa trên sự tự nguyện, tình yêu và hôn nhân chính đáng, hợp pháp.
Thứ ba, gia đình có sự cố kết nhất định về kinh tế vật chất, qua đó nảy
sinh nghĩa vụ và quyền lợi cho các thành viên trong gia đình.
12
Thứ tư, quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ hình thành giữa chủ thể và đối
tượng được nuôi dưỡng, gắn bó với nhau bởi trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa
vụ, được họ hàng ủng hộ và được pháp luật thừa nhận, bảo vệ.
Trên cơ sở quan niệm về gia đình như nêu trên, một số nhà khoa học đã
đi đến thống nhất rằng: gia đình là một nhóm xã hội được hình thành trên cơ
sở hôn nhân và quan hệ huyết thống, những thành viên trong gia đình có sự
gắn bó và ràng buộc với nhau về trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ có tính hợp
pháp được nhà nước thừa nhận và bảo vệ.
Như vậy có rất nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình dưới nhiều góc
độ khác nhau, song dưới mỗi một góc độ đều có những ưu điểm và hạn chế
riêng khi đề cập vấn đề này. Cần phải có một khái niệm chung khái quát nhất,
cô đọng nhất đề phản ánh đầy đủ nét bản chất đặc trưng của gia đình. Theo tôi
có thể nêu định nghĩa gia đình như sau: Gia đình là một trong những hình
thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế
văn hóa xã hội đặc thù được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở quan
hệ hôn nhân hoặc huyết thống được pháp luật thừa nhận, có chung các giá trị
vật chất và tinh thần ổn định trong một thời điểm nhất định.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng gia đình
dưới chủ nghĩa xã hội
C.Mác và Ph.Ăngghen đánh giá rất cao vai trò của gia đình đối với sự
tồn vong, phát triển của xã hội loài người. Năm 1884, Ph.Ăngghen biên soạn
và cho xuất bản lần thứ nhất tác phẩm kinh điển “Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tư hữu và của nhà nước” - Lần đầu tiên, lý luận về gia đình được trình
bày một cách hệ thống và khoa học. Ph.Ăngghen đã chỉ ra hôn nhân và gia
đình là những hiện tượng phát sinh trong quá trình phát triển của loài người,
chịu sự tác động có tính quyết định của các điều kiện kinh tế - xã hội. Do vậy,
lịch sử phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình phát sinh, thay
đổi những hình thái hôn nhân và gia đình.
13
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức (1846), C.Mác viết: “…hằng ngày tái
tạo ra đời sống của bản thân mình, con người còn tạo ra những người khác
sinh sôi, nảy nở. Đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ con cái, đó là gia
đình…”[7, tr.41]. C.Mác đã chỉ ra, gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự ra
đời và tồn tại của xã hội loài người, con người cùng với quá trình tái tạo ra
chính bản thân mình thì đồng thời cũng tái tạo ra gia đình. Chức năng chính
của gia đình là tái tạo, sinh sôi nảy nở con người và gia đình được tạo bởi hai
mối quan hệ chủ yếu: quan hệ hôn nhân (chồng, vợ), quan hệ huyết thống
(cha, mẹ, con).
Ph.Ăngghen đã chỉ ra vị trí vai trò to lớn của gia đình đối với các thiết
chế xã hội: “Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy
cho cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự
sản xuất đó lại có hai loại: một là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt, ra thức ăn và
nhà ở và những công cụ cần thiết khác để sản xuất ra những thứ đó; mặt
khác, là sự truyền nòi giống. Những thiết chế xã hội, trong đó những con
người của một thời đại và của một nhà nước nhất định đang sống, do hai loại
sản xuất đó quyết định: Một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt
khác là do trình độ phát triển của gia đình” [9, tr.44]. Vậy là theo
Ph.Ăngghen, thứ nhất, quá trình sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp
là nhân tố suy đến cùng quyết định tiến trình phát triển của lịch sử. Thứ hai,
cùng với trình độ phát triển của lao động, trình độ phát triển của gia đình
quyết định trình độ phát triển của xã hội. Thứ ba, đến lượt mình, trình độ phát
triển của gia đình cũng tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của sản xuất, của lao
động và của xã hội.
Như vậy, theo Ph.Ăgghen, các mô hình gia đình trong lịch sử luôn gắn
với phương thức sản xuất và chế độ xã hội nhất định. Sự vận động, biến đổi
của gia đình luôn phụ thuộc vào sự vận động và biến đổi của xã hội, gia đình
“là sản vật của một chế độ xã hội nhất định, hình thức đó sẽ phản ánh trạng
thái phát triển của chế độ xã hội đó” [9, tr.129].
14
Ph.Ăngghen cũng đã vạch rõ nguồn gốc phát triển của các hình thức gia
đình trong lịch sử là do sự tác động của quy luật đào thải tự nhiên và do sự
phát triển của những điều kiện kinh tế - xã hội, sự phát triển của tâm lý, đạo
đức, tình cảm của con người. Trong đó sự phát triển của các điều kiện kinh tế
- xã hội là yếu tố quyết định.
Những điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định có
tác dụng quyết định đến hình thức tổ chức và kết cấu của gia đình. “Chế độ
gia đình hoàn toàn bị quan hệ sở hữu chi phối” [9, tr.44]. Ngược lại, gia đình
và trình độ phát triển của gia đình cũng có tác động rất quan trọng đối với sự
tồn tại và phát triển của xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến việc tái tạo ra bản
thân con người để bảo vệ nòi giống cũng như tái tạo ra sức lao động cho sản
xuất xã hội.
Trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế, triết học” (1844), C.Mác cũng chỉ
rõ: Tôn giáo, gia đình, nhà nước, pháp quyền, đạo đức, khoa học, nghệ thuật
chỉ là những hình thức đặc thù của sản xuất và phục tùng quy luật chung của
sản xuất. Vậy là, gia đình không chỉ có mối quan hệ khăng khít với xã hội mà
nó còn là một trong những hình thức đặc thù của sản xuất và có mối quan hệ
chặt chẽ với các hình thức đặc thù khác nó.
Qua khảo cứu lịch sử, Ph.Ăngghen nhận thấy, trong thời kỳ đầu tiên của
lịch sử nhân loại đã từng tồn tại những hình thức khác nhau của chế độ quần
hôn, sau đó xuất hiện hôn nhân đối ngẫu, kết hợp những đôi riêng lẻ trong một
thời kỳ nhất định. Cuối cùng, chế độ hôn nhân một vợ một chồng xuất hiện.
Gia đình một vợ một chồng được nảy sinh ra từ gia đình cặp đôi vào
lúc giao thời giữa giai đoạn giữa và giai đoạn cao của thời đại dã man. Thắng
lợi của gia đình một vợ một chồng là một trong những dấu hiệu của buổi đầu
của thời đại văn minh. Gia đình một vợ một chồng được hình thành chủ yếu
do sự phát triển của lực lượng sản xuất làm nảy sinh chế độ tư hữu và sự phân
chia giai cấp trong xã hội. Hình thức này được duy trì cho đến ngày nay, và sẽ
ngày càng hoàn thiện hơn khi xuất hiện chế độ sở hữu công cộng về tư liệu
15
sản xuất. Gia đình một vợ một chồng trong chế độ tư hữu trở thành những
đơn vị kinh tế của xã hội. Ph.Ăngghen viết: Việc chuyển sang chế độ tư hữu
hoàn toàn được thực hiện dần dần và song song với việc chuyển từ hôn nhân
cặp đôi sang chế độ một vợ một chồng. Gia đình cá thể bắt đầu trở thành đơn
vị kinh tế của xã hội. Ph.Ăngghen vạch rõ chế độ một vợ một chồng là hình
thức gia đình đầu tiên không dựa trên những điều kiện tự nhiên mà dựa trên
những điều kiện kinh tế tức là trên thắng lợi của sở hữu tư nhân đối với sở
hữu công cộng nguyên thủy và tự phát.
Sự phân tích toàn diện của Ph.Ăngghen về quá trình phát sinh và phát
triển của các hình thức gia đình cho ta thấy tính liên tục một cách khoa học
nhất, đúng đắn nhất của lịch sử nhân loại, điều mà trước kia chưa từng diễn
ra. Lần đầu tiên trong lịch sử, bằng những cứ liệu khoa học, Ph.Ăngghen đã
chỉ ra các hình thức hôn nhân chính tương ứng với các giai đoạn phát triển
khác nhau của nhân loại.
Khi viết về gia đình, về hôn nhân và tình yêu nam nữ, Ph.Ăngghen tán
thành quan điểm của L.Moóc gan cho rằng: “Gia đình là yếu tố năng động, nó
không bao giờ đứng nguyên một chỗ, mà chuyển từ hình thức thấp lên một
hình thức cao, như xã hội phát triển từ một giai đoạn thấp lên một giai đoạn
cao” [9, tr.57].
C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử đề
nghiên cứu xã hội loài người. Các ông coi sự vận động phát triển và thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình phát triển lịch sử - tự
nhiên, các ông cũng dự báo sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu của nó là “chủ nghĩa xã hội”. Điều đó là do quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất thì con người có vai
trò quyết định, mà con người cụ thể chính là sản phẩm duy trì nòi giống của gia
đình. Gia đình là một phạm trù lịch sử, mỗi một thời đại lịch sử cũng như mỗi
một chế độ xã hội đều sản sinh ra một loại gia đình tương ứng, xây dựng một
16
kiểu gia đình lý tưởng phù hợp với những chức năng xã hội của nó. Và chỉ trong
xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa thì gia đình đại diện cho buổi đầu của thời
đại văn minh - một vợ, một chồng mới được thực hiện một cách trọn vẹn.
Trong nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, không chỉ các quan hệ xã
hội mà cả quan hệ gia đình cũng bị thay đổi, sự yên ấm của từng gia đình
cũng bị phá vỡ theo dòng xoáy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa: “Chính nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa lại có sứ mệnh phải gây cho lối hôn nhân đó một
vết rạn quyết định. Biến mọi thứ thành hàng hoá” [9, tr.123] đồng thời nó
cũng “xé toang tấm màn tình cảm bao phủ những quan hệ gia đình và làm cho
những quan hệ ấy chỉ còn là những quan hệ tiền nong đơn thuần”.
Gia đình của xã hội văn minh được hình thành trên nền tảng của tình
yêu và hôn nhân, đó cũng là những quyền hết sức cơ bản của con người -
quyền được tự do yêu đương và tự do kết hôn, được cộng đồng xã hội tôn
trọng và bảo vệ: “Hiện nay chỉ có trong giai cấp vô sản, - thì tình yêu nam nữ
mới có thể trở thành một quy tắc”[9, tr.113], và muốn thực hiện được điều
đó,“tất yếu phải xác lập sự bình đẳng xã hội thật sự giữa hai bên”[9, tr.116].
Dưới chế độ tư hữu, phụ nữ phải chịu đựng một nghịch lý: vai trò thì lớn
nhưng địa vị thì thấp hèn cả trong gia đình lẫn ngoài xã hội, họ luôn chịu cảnh
bất bình đẳng với nam giới, họ bị bóc lột, bị tha hoá. Trong từng thời kỳ lịch sử
khác nhau, các hình thức bất bình đẳng tuy có thay đổi nhưng bản chất thì không
thay đổi. C.Mác viết: “Tất cả các nữ công nhân may mặc, may thời trang, nữ
công nhân may áo và nữ công nhân may thông thường đều chịu 3 thứ tai hoạ :
lao động quá sức, thiếu không khí, thiếu ăn…”[10, tr.374]. Không những thế
C.Mác còn tố cáo sự lợi dụng, sự bóc lột tinh vi, dã man và tàn bạo của chủ
nghĩa tư bản. Phụ nữ bị đối xử kém hơn cả so với súc vật, họ phải lao động nặng
nhọc trong những điều kiện khắc khổ: “để kéo thuyền dọc sông Đào, thỉnh
thoảng người ta vẫn còn dùng phụ nữ thay cho ngựa” [10, tr.568].
Trong tác phẩm: “Tình cảnh của giai cấp công nhân Anh”, Ph.Ăngghen
đã chỉ ra rằng: lao động của phụ nữ và trẻ em dưới chủ nghĩa tư bản là thứ lao
động rẻ mạt, sử dụng nguồn lao động này nhà tư bản thu được món lợi kếch sù.
17
Muốn xác lập sự bình đẳng xã hội thật sự giữa hai giới (nam - nữ), theo
V.I.Lênin cần phải: “Muốn triệt để giải phóng phụ nữ, muốn làm cho họ thực
sự bình đẳng với nam giới, thì phải có nền kinh tế chung của xã hội, phải để
phụ nữ tham gia vào lao động sản xuất chung. Như thế, phụ nữ mới có địa vị
bình đẳng với nam giới” [33, tr.230].
Để xây dựng một chế độ hôn nhân gia đình trong xã hội mới,
Ph.Ăngghen chỉ ra những điều kiện kinh tế - xã hội cần thiết tất yếu làm cơ sở
cho chế độ một vợ một chồng được thực hiện trọn vẹn. Người viết:“Hiện nay,
chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng xã hội, trong đó các cơ sở kinh tế
từ trước tới nay của chế độ một vợ một chồng cũng như cơ sở của điều bổ
sung cho nó là nạn mại dâm, đều nhất định sẽ bị tiêu diệt…các tư liệu sản
xuất mà được chuyển thành tài sản xã hội thì chế độ lao động làm thuê, giai
cấp vô sản cũng sẽ biến mất, và đồng thời cũng sẽ không còn một tình trạng
một số phụ nữ… cần thiết phải bán mình vì đồng tiền nữa chế độ một vợ
một chồng không những không suy tàn, mà cuối cùng lại còn trở thành một
hiện thực - ngay cả đối với đàn ông nữa”.[9, Tr.117-118].
Tuy nhiên, Mooc gan cũng khẳng định rằng, nếu gia đình một vợ một
chồng không đáp ứng được yêu cầu của xã hội, không tiến triển cùng được
với sự tiến triển của xã hội thì tất yếu sẽ có một hình thức gia đình mới ra đời
thay thế nó. Vậy là theo quy luật phát triển, loài người tất yếu sẽ tiến một
bước cao hơn thời đại xã hội tư bản chủ nghĩa, đó là xã hội cộng sản chủ
nghĩa mà trước hết phải xây dựng giai đoạn đầu - xã hội xã hội chủ nghĩa. Gia
đình cũng vậy, cũng phải có những bước tiến để theo kịp và phản ánh đúng,
tiến triển cùng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Ông nói: “Nếu người ta công nhận sự thật là gia đình đã lần lượt trải
qua bốn hình thức và đang ở dưới hình thức thứ năm thì một vấn đề sẽ được
đặt ra là trong tương lai, hình thức thứ năm có thể tồn tại được lâu dài
không? Câu trả lời duy nhất có thể đưa ra là: hình thức đó phải tiến triển
cùng với sự tiến triển của xã hội, và phải biến đổi cùng với sự biến đổi của xã
18
hội, giống hệt như trong quá khứ. Là sản vật của một chế độ xã hội nhất định,
hình thức đó sẽ phản ánh trạng thái phát triển của chế độ xã hội đó. Vì gia
đình một vợ một chồng đã được cải tiến ngay từ khi bắt đầu thời đại văn minh
và được cải tiến rất rõ rệt trong thời hiện đại, nên chí ít người ta cũng có thể
giả định rằng hình thức đó còn có thể được hoàn thiện thêm nữa, cho tới khi
đạt đến sự bình đẳng giữa nam và nữ. Còn nếu như trong tương lai xa xôi sau
này, gia đình một vợ một chồng sẽ không thể đáp ứng được những yêu cầu
của xã hội, thì cũng không thể nào dự đoán trước được là gia đình tiếp theo
sau đó sẽ có tính chất như thế nào” [9, tr.129]
Tóm lại, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin một mặt đánh giá cao
vai trò của gia đình với sứ mệnh đặc biệt mà không một thiết chế xã hội nào
thay thế được, mặt khác cũng dự báo sự ra đời, phát triển của gia đình một vợ
một chồng là một bước tiến nhất định trong tương lai, nhưng nó chỉ có thể
trọn vẹn khi xây dựng gia đình trong xã hội xã hội chủ nghĩa, phù hợp với tiến
trình của lịch sử.
1.1.3. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về gia đình và vai trò của gia đình
dưới chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về gia đình là một bước phát triển mới của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Người coi gia đình là hình ảnh thu nhỏ, là hạt nhân, tế bào
của xã hội. Sự hùng cường của một quốc gia, sự bền vững của một dân tộc phải
bắt đầu từ gia đình, Người khẳng định:“Rất quan tâm đến gia đình là đúng và
nhiều gia đình mới cộng lại thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia
đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải chú ý hạt nhân cho tốt”[45, tr.111].
Gia đình là nhân tố cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, gia đình như
một tế bào tự nhiên, là đơn vị nhỏ nhất để tạo nên xã hội. Không có gia đình để
tái tạo ra con người thì xã hội không tồn tại và phát triển được. Chính vì vậy,
muốn xã hội tốt thì phải xây dựng gia đình tốt, muốn xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội thì phải xây dựng thành công gia đình mới xã hội chủ nghĩa.
19
Xây dựng gia đình là một trách nhiệm, là bộ phận cấu thành trong
chỉnh thể các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của xã
hội. Thế nhưng, các cá nhân không chỉ sống trong quan hệ gia đình mà còn có
những quan hệ xã hội. Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà
còn là thành viên của xã hội. Không thể có con người bên ngoài xã hội. Gia
đình đóng vai trò quan trọng để đáp ứng nhu cầu về quan hệ xã hội của mỗi cá
nhân. Ngược lại, bất cứ xã hội nào cũng thông qua gia đình để tác động đến
mỗi cá nhân. Mặt khác, nhiều hiện tượng của xã hội cũng thông qua gia đình
mà có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát triển của mỗi cá nhân
về tư tưởng, đạo đức, lối sống. Bởi vậy, Hồ Chủ Tịch khẳng định:“Gia đình
tốt thì xã hội tốt, nhiều gia đình tốt cộng lại thì làm cho xã hội tốt hơn”.
Với quan điểm đó, trong quá trình lãnh đạo đưa đất nước đi lên con
đường chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra chủ
trương xây dựng gia đình mới - gia đình văn hoá. Gia đình văn hóa được gọi
bằng nhiều cái tên như: gia đình mới, gia đình có nếp sống văn hoá, gia đình
văn hoá xã hội chủ nghĩa, gia đình văn hoá mới. Mặc dù có nhiều tên gọi khác
nhau, song thực chất vẫn là một nội dung nhằm xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa, xây dựng cái “gốc vững chắc” cho xã hội. Là cuộc đấu tranh
giữa cái cũ và cái mới, trên cơ sở kế thừa những giá trị văn hóa gia đình
truyền thống, văn hóa gia đình được nâng lên một trình độ cao hơn phù hợp
với điều kiện của xã hội hiện đại. Đồng thời thể hiện sự vận dụng sáng tạo lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở nước ta.
Trong cuốn: “Đời sống mới trong một quốc gia độc lập mới”, Hồ Chủ
Tịch đã phát động toàn dân tham gia xây dựng đời sống mới trong một quốc
gia độc lập mới. Trong đó, Người coi xây dựng gia đình là một nội dung quan
trọng của công tác xây dựng đời sống mới, Người chỉ ra phương pháp cũng
như nội dung được thực hiện trong cuộc vận động này là: “Đời sống mới
không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ
mà xấu, thì phải bỏ… Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức, thì sửa đổi
20
cho hợp lý… Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm”[40, tr.94], đây là một
tư tưởng hết sức biện chứng.
Phong trào xây dựng gia đình văn hoá mới (tên gọi trước năm 1991)
được thực sự phát triển ở nước ta đánh dấu bằng cái mốc quan trọng vào năm
1960 khi có sáu gia đình tại thôn Ngọc Tỉnh, xã Ngọc Long, tỉnh Hưng Yên
tình nguyện đi đầu trong công tác xây dựng gia đình văn hoá mới. Phong trào
được nhen nhóm từ sáu gia đình rồi lan nhanh ra toàn xã, toàn huyện, toàn
tỉnh và những vùng lân cận. Sau năm 1975, cuộc vận động xây dựng gia đình
văn hoá được phát triển rộng khắp trong cả nước và ngày càng được đẩy
mạnh cho tới ngày nay. Việc xây dựng gia đình văn hoá nhằm mục đích ổn
định tình hình xã hội, tạo điều kiện để phát triển kinh tế, đem lại hạnh phúc
cho từng gia đình, từng người. Về lâu dài, đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược
để xây dựng con người Việt Nam tiến bộ, văn minh.
Trong các tiêu chuẩn của xây dựng gia đình văn hoá, coi trọng người
phụ nữ cũng là một trong những tiêu chuẩn quan trọng hàng đầu. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu rõ quan điểm phụ nữ không chỉ có vai trò quan trọng trong gia
đình mà còn đối với xã hội. Trong gia đình họ là người vợ, người mẹ tần tảo,
đảm đang, nếu không có phụ nữ thì không thể thành hai chữ “gia đình” theo
nguyên nghĩa được, phụ nữ là một nửa của gia đình, là một nửa của thế giới.
Với xã hội, sự đóng góp của phụ nữ được đánh giá ngang với nam giới trên
mọi lĩnh vực sản xuất, vì vậy, Người khẳng định: “Nói phụ nữ là nói phần
nửa của xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng được một
nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội
chỉ một nửa ”[43, tr.523].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá các quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam - một nước thuộc địa
nửa phong kiến đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Là dân của một nước thuộc địa, Người hiểu rõ nỗi khổ nhục
của người dân mất nước, đặc biệt là phụ nữ. Người phụ nữ luôn bị hành hạ, bị
làm nhục và bị giết hại. Hồ Chí Minh đã khái quát một cách chính xác, đầy đủ
21
về chủ nghĩa thực dân. Người ta nói: chế độ thực dân là chế độ ăn cướp.
Chúng tôi xin nói thêm: Chế độ hãm hiếp đàn bà và giết người. Vì vậy, Người
khẳng định rằng, muốn giải phóng phụ nữ thì phải giải phóng dân tộc và giải
phóng con người.
Trong tư tưởng giải phóng dân tộc, Người luôn có tư tưởng về giải
phóng phụ nữ bởi vì làm cách mạng là để giành lấy tự do, độc lập, dân chủ,
trai gái đều ngang quyền như nhau. Theo Người, quan tâm đến gia đình nhỏ
trước tiên là phải thực hiện nam nữ bình quyền. Nam nữ bình quyền là một
cuộc cách mạng khá to và khó… Phải cách mạng từng người, từng gia đình,
đến toàn dân. Dù to và khó nhưng nhất định thành công. Từ quan điểm nhất
quán đó, Người thường xuyên giao nhiệm vụ cho Đảng Cộng Sản: Đảng và
Nhà nước phải coi vấn đề giải phóng phụ nữ là nhiệm vụ, là bổn phận của sự
nghiệp cách mạng. Trong thư “Gửi phụ nữ toàn quốc” nhân kỷ niệm 30 năm
ngày Quốc tế phụ nữ (08/03/1960) Người viết: Đảng và Chính phủ ta luôn
chú ý nâng cao địa vị của phụ nữ.
Nhận định đúng đắn về vai trò và vị thế to lớn của người phụ nữ trong
gia đình và đối với xã hội, Hồ Chủ Tịch đã khen tặng phụ nữ Việt Nam tám
chữ vàng:“Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Thực vậy, trong gia
đình, phụ nữ là người vợ, người mẹ, là sợi dây kết nối tình cảm gia đình,
chăm lo từng miếng cơm manh áo cho chồng, cho con không biết mệt mỏi.
Ngoài xã hội, họ là người chiến sĩ anh hùng chiến đấu khi tổ quốc lâm nguy.
Khi đất nước được giải phóng, phụ nữ hăng hái khắc phục hậu quả của chiến
tranh, tăng gia sản xuất, khôi phục nước nhà. Người từng viết: ông C.Mác nói
rằng, ai biết lịch sử thì biết rằng, muốn sửa sang xã hội không có phụ nữ giúp
vào thì chắc không làm nổi. Xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con gái thì
biết xã hội tiến bộ như thế nào?
Chính từ quan điểm tư tưởng của Người mà vị trí của người phụ nữ
Việt Nam trong xã hội nói chung và gia đình nói riêng cũng được nâng lên
một tầm cao mới. Hiện nay có rất nhiều phụ nữ tham gia làm công tác lãnh
22
đạo, chứng tỏ bản lĩnh không hề thua kém đàn ông. Hồ Chủ Tịch nói:“Phụ nữ
đã đạt được tiến bộ lớn. Hiện nay, chị em đang làm những nhiệm vụ và giữ
những cương vị lãnh đạo mà trước đây họ chưa từng đảm nhận”[44, tr.562].
Thấm nhuần lời dạy của Bác, sứ mệnh của người phụ nữ Việt Nam vì vậy
càng thêm cao cả. Với những phẩm chất cao quý và những đóng góp lớn lao
của mình, mỗi người phụ nữ Việt Nam ngày nay sẽ là một nhân tố tích cực
trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn như Bác Hồ mong đợi.
Theo Hồ Chủ Tịch, nông thôn là một địa bàn quan trọng trong việc đẩy
mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hoá ở cơ sở. Vì vậy cần phải xây dựng
bộ mặt mới cho nông thôn để hỗ trợ gia đình trong xây dựng nếp sống mới,
Người chỉ rõ: Nông thôn mới được tạo lập bởi nhiều gia đình mới và nhiều gia
đình cộng lại mới thành xã hội. Xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì
xã hội mới tốt. Những ý kiến chỉ dẫn của Người cho thấy tầm quan trọng to lớn
của việc xây dựng gia đình mới, và chỉ có xây dựng gia đình mới thì mới có
nông thôn mới. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng gia đình mới gắn bó
chặt chẽ giữa gia đình theo nghĩa hẹp và gia đình theo nghĩa rộng. Điều đó có
nghĩa chăm lo gia đình nhỏ cũng là chăm lo xã hội. Hồ Chí Minh đặt việc xây
dựng gia đình trong nhiệm vụ xây dựng nông thôn xã hội chủ nghĩa.
Nếu xây dựng tốt nông thôn mới, gia đình văn hoá và một hệ thống văn
hoá của nhà nước từ trung ương đến cơ sở, thì chúng ta sẽ hình thành được ba
cơ chế điều chỉnh, hỗ trợ nhau trong văn hoá đó là: hệ thống văn hoá nhà
nước từ Trung ương đến xã điều chỉnh đời sống văn hoá bằng quan hệ pháp
luật; làng, ấp văn hoá điều chỉnh đời sống văn hoá bằng quan hệ dư luận,
thông qua những quy ước; gia đình văn hoá điều chỉnh đời sống văn hoá bằng
quan hệ ruột thịt, tình cảm. Tổng hợp cả ba phương pháp : bằng quan hệ tình
cảm, quan hệ dư luận, quan hệ luật pháp sẽ hình thành một hệ thống điều
chỉnh văn hoá hết sức hiệu lực góp phần xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở
ngày càng tốt đẹp.
23
Ở nông thôn, quá trình xây dựng đời sống văn hoá tinh thần phải gắn
chặt với xây dựng văn hoá vật chất, gắn hoạt động văn hoá với thực tiễn sản
xuất, kinh doanh, xây dựng cuộc sống mới ở nông thôn, làm cho văn hoá thực
sự góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống mọi mặt của nông thôn. Để xây
dựng nông thôn mới trước hết vấn đề cơ bản và lâu dài là mỗi người phải tự
xác định mình đã trở thành người chủ và phải luôn luôn nêu cao tinh thần làm
chủ, phải thực hành dân chủ. Quan tâm đúng mức đến đến gia đình, đến xây
dựng nông thôn mới, cũng là xây dựng xã hội mới.
Trong khi chú trọng xây dựng gia đình mới từ vật chất đến tinh thần,
Hồ Chí Minh cũng chỉ ra và phê phán những thói hư tật xấu trong gia đình
như tệ đánh đập vợ, ép duyên con, thói tảo hôn…Rõ ràng, nếu gia đình nào
cũng xây dựng được những mặt tốt và gạt bỏ những mặt xấu như Hồ Chí
Minh đã chỉ ra, tạo thành những gia đình mới thì chúng ta sẽ có một nông
thôn mới trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng gia đình trong giai đoạn mới bằng
việc đề ra những chủ trương, chính sách cụ thể nhằm nâng cao chất lượng xây
dựng gia đình văn hóa Việt Nam.
1.1.4. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng gia đình
văn hoá và các tiêu chuẩn xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta hiện nay
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng gia đình
văn hoá
Gia đình phát triển bền vững không chỉ là niềm hạnh phúc cho mỗi
người, mỗi nhà mà còn là nhân tố quan trọng góp phần giữ gìn sự phát triển
lành mạnh, an toàn của xã hội và sự ổn định dân số của mỗi quốc gia. Vì vậy,
gia đình luôn là một mối quan tâm đặc biệt của Đảng ta. Trong các văn kiện,
nghị quyết của Đảng, vấn đề gia đình văn hóa luôn được đặt ra như một vấn
đề mang tính thời sự cấp bách.
24
Từ việc nhận định rõ vai trò to lớn của gia đình như tế bào của xã hội,
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 đã nêu:
“Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng chế độ mới, Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần đề ra
phương hướng, chính sách và có biện pháp tổ chức thực hiện về xây dựng gia
đình văn hóa mới, đảm bảo hạnh phúc gia đình…”[14, tr.95] Vì thế phát huy
vai trò của gia đình chính là mục tiêu, động lực phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam.
Tiếp thu lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về gia đình,
Đảng ta đã rất quan tâm đến gia đình, đến việc xây dựng gia đình văn hóa.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý (chủ biên), Nhà xuất bản Văn
hóa - Thông tin đã đưa ra định nghĩa về “xây dựng”. Xây dựng có nghĩa là tạo
ra cái có giá trị tinh thần, có tinh thần đóng góp, làm tốt hơn những cái đã có
trước đó. Xây dựng gia đình văn hóa là tạo dựng ra những yếu tố văn hóa
trong gia đình như là gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền
vững, là tạo ra những điều kiện để những yếu tố trên trở thành hiện thực trong
mỗi gia đình. Như vậy xây dựng gia đình văn hóa trước hết là phải tạo dựng
ra những điều kiện cần thiết trên mọi phương diện giúp các thành viên trong
gia đình sống một cách hòa hợp tốt đẹp với nhau bao gồm những yếu tố vật
chất, những yếu tố tinh thần, những yếu tố xã hội, là xây dựng những điều
kiện cho những yếu tố đó hình thành và phát triển. Do vậy xây dựng gia đình
văn hóa là công việc của mỗi gia đình và của toàn xã hội. Nếu mỗi gia đình
không cố gắng xây dựng thì những yếu tố đó không thể hình thành. Nhưng
nếu xã hội không tạo ra những điều kiện về vật chất, về tinh thần, về cơ chế,
chính sách cho gia đình thì cũng không thể tạo dựng được một gia đình văn
hóa. Xây dựng gia đình văn hóa theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam là xây đi đôi với chống và lấy xây làm chính.
Trước hết, mỗi người cần nhận thức sâu sắc vai trò ý nghĩa của việc
xây dựng gia đình, xây dựng gia đình văn hóa. Mỗi thành viên trong gia đình
25
phải phát huy tốt những giá trị đạo đức của gia đình truyền thống, giữ vững
gia phong, làm tốt việc giáo dục con cái, trong đó người lớn luôn luôn gương
mẫu để gia đình phát triển sức mạnh nội sinh, trở thành thành lũy ngăn chặn
tiêu cực từ bên ngoài xâm nhập vào.
Xây dựng gia đình văn hóa không thể chỉ “đóng cửa bảo nhau” mà rất
cần đến sự hỗ trợ của cộng đồng, nhất là trong tình hình hiện nay có nhiều
vấn đề không thể giải quyết trong nội bộ gia đình mà phải dựa vào cộng đồng,
chính quyền và pháp luật. Cho nên việc xây dựng gia đình văn hóa rất cần sự
quan tâm của chính quyền, đoàn thể địa phương, coi đó là nhiệm vụ quan
trọng trong xây dựng khu dân cư vững mạnh. Trong lúc tập trung xây dựng,
nâng cao chất lượng gia đình văn hóa, cũng phải phòng, chống quyết liệt
những hiện tượng tiêu cực xâm hại đến hạnh phúc gia đình. Cần có những
biện pháp loại trừ những sản phẩm độc hại trong các ấn phẩm văn hóa, nghệ
thuật Tất cả đều phải được làm thường xuyên và bài bản mang tính liên
ngành và có sự chung tay góp sức của toàn xã hội.
Trước những thách thức lớn của nền kinh tế thị trường hiện nay, đòi hỏi
việc xây dựng gia đình văn hóa cần có sự quan tâm chỉ đạo của Đảng hơn bao
giờ hết. Đáp ứng yêu cầu cấp thiết đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII của Đảng (Tháng 6-1991) đã chỉ rõ: “Xây dựng gia đình văn hóa
mới có ý nghĩa quan trọng trong tình hình hiện nay, góp phần phát triển lực
lượng sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống, thực hiện kế hoạch hóa dân số,
giữ gìn và phát huy những truyền thống đạo đức, văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi người… hình thành nhân
cách cao đẹp và nếp sống có văn hóa”.[15, tr.112].
Các quan điểm của Đảng và Nhà nước không chỉ được ghi nhận rõ
trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp, pháp luật, được cụ thể hóa bằng các
văn bản, những chỉ thị, nghị định, mà quan trọng hơn, ở một mức độ nhất
định, đã và đang được thực thi trong cuộc sống nhằm phát huy vai trò, vị trí
của gia đình đối với xã hội. Năm 2000, Nhà nước ta đã xây dựng Luật Hôn