Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Hành vi ứng phó với biến đổi khí hậu của các hộ gia đình nông thôn ở khu vực ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 103 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



TRẦN THỊ THÚY HẰNG



HÀNH VI ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CỦA
CÁC HỘ GIA ĐÌNH NÔNG THÔN Ở KHU VỰC VEN
BIỂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ




LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC





Hà Nội-2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



TRẦN THỊ THÚY HẰNG


HÀNH VI ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH NÔNG THÔN Ở KHU VỰC
VEN BIỂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Xuân Bình


Hà Nội-2013



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
2.1. Ý nghĩa khoa học 2
2.2. Ý nghĩa thực tiễn 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2
3.1. Mục đích nghiên cứu 2

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 2
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 3
4.1. Đối tượng nghiên cứu 3
4.2. Khách thể nghiên cứu 3
4.3. Phạm vi nghiên cứu 3
5. Câu hỏi nghiên cứu 3
6. Giả thuyết nghiên cứu 3
7. Phương pháp nghiên cứu 4
7.1. Phương pháp thu thập thông tin 4
7.2. Phương pháp xử lý thông tin 6
8. Khung lý thuyết 7
9. Kết cấu luận văn 8
NỘI DUNG CHÍNH 9
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 9
1.1. Khái niệm công cụ 9
1.1.1. Biến đổi khí hậu 9
1.1.2. Hộ gia đình 12
1.1.3. Hành vi 13
1.1.4. Khu vực ven biển 14
1.2. Lý thuyết tiếp cận 16


1.2.1. Tiếp cận sinh thái nhân văn 16
1.2.2. Lý thuyết hành vi 19
1.3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 20
1.4. Giới thiệu địa bàn nghiên cứu - khu vực ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế 26
Chƣơng 2. HOẠT ĐỘNG ỨNG PHÓ CỦA HỘ GIA ĐÌNH VỚI NHỮNG
THAY ĐỔI CỦA CÁC HIỆN TƢỢNG THỜI TIẾT 30
2.1. Thực trạng về sự thay đổi của thời tiết và các mô hình sinh kế chính tại khu vực
ven biển Thừa Thiên Huế 30

2.1.1. Thực trạng về sự thay đổi thời tiết tại khu vực ven biển Thừa Thiên Huế 30
2.1.1.1. Tình hình thời tiết tại tỉnh Thừa Thiên Huế 30
2.1.1.2. Nhận thức về sự thay đổi thời tiết của người dân 31
2.1.2. Các mô hình sinh kế chính tại khu vực ven biển Thừa Thiên Huế 36
2.1.2.1. Nông nghiệp 36
2.1.2.2. Ngư nghiệp 38
2.1.2.3. Các mô hình sinh kế khác 39
2.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến các loại sinh kế và đời sống của người dân
khu vực ven biển Thừa Thiên Huế 42
2.2.1. Tác động của thời tiết đến các mô hình sinh kế 42
2.2.1.1. Hộ gia đình làm nông nghiệp 42
2.1.1.2. Hộ gia đình làm ngư nghiệp 48
2.1.1.3. Các mô hình sinh kế khác 53
2.2.2. Tác động của thời tiết đến đời sống sinh hoạt của các hộ gia đình 56
2.3. Ứng phó với những thay đổi của các hiện tượng thời tiết bất thường 58
2.3.1. Thay đổi mùa vụ, cơ cấu giống cây trồng vật nuôi 59
2.3.2. Thu hẹp quy mô sản xuất 60
2.3.3. Trồng rừng phòng hộ 61
2.3.4. Bảo vệ tính mạng và tài sản 62
2.3.5. Xây nhà tránh bão 64
2.3.6. Xây dựng mạng lưới xã hội 65


2.3.7. Di cư và tái định cư 66
3. Các nhóm giải pháp hỗ trợ người dân ven biển ứng phó với biến đổi khí hậu 68
3.1. Những căn cứ lý luận và thực tiễn đề xuất giải pháp 68
3.1.1. Những nỗ lực của chính quyền các cấp để ứng phó với BĐKH 69
3.1.2. Những căn cứ từ hành vi ứng phó của các hộ gia đình ven biển Thừa Thiên
Huế 73
3.2. Đề xuất giải pháp 73

3.2.1. Nhóm giải pháp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu 73
3.2.1.1. Trồng cây 73
3.2.1.2. Trữ nước, tiết kiệm nước 74
3.2.1.3. Thay đổi kiến trúc nhà 74
3.2.1.4. Dùng năng lượng tái tạo 74
3.2.1.5. Xây dựng hệ thống thủy lợi 76
3.2.2. Nhóm giải pháp thích nghi với sự biến đổi khí hậu 78
3.2.2.1. Xây dựng nông nghiệp thích ứng với khí hậu 78
3.2.2.2. Đánh bắt và nuôi trồng thủy sản thích ứng với khí hậu 79
3.2.2.3. Tái định cư – một cơ hội sinh kế mới 81
3.2.2.4. Hình thành một thói quen mới - bảo hiểm 81
3.2.2.5. Di cư lao động – một hình thức sinh kế mới 82
4.2.2.6. Kè biển 82
3.2.3. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về BĐKH 83
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92




DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Mối tương quan về tần suất xuất hiện thiên tai ở Việt Nam 27
Bảng 1.2: Đánh giá rủi ro tổng thể do nước biển dâng tại 4 huyện 35
Bảng 2.1: Phân loại nhóm thiên tai theo mức độ tác động ở Thừa Thiên Huế 37
Bảng 2.2: Tỷ lệ hộ gia đình có chăn nuôi và hộ gia đình thu được sản phẩm (Đơn vị:
%) 45
Bảng 2.3: Đánh giá về mức độ ảnh hưởng của hiện tượng thời tiết bất thường đến
hoạt động sản xuất nông nghiệp (Đơn vị: %) 51


DANH MỤC BIỂU

Biểu đồ 2.1: Đánh giá về lượng mưa trung bình (Đơn vị: %) 39
Biểu đồ 2.2: Số lao động làm thêm trong hộ gia đình (Đơn vị: người) 48
Biểu đồ 2.3: Giá trị ngôi nhà (Đơn vị: 1000 đồng) 65
Biểu đồ 2.4: Một số biện pháp thích ứng trong nông nghiệp (Đơn vị: %) 67

DANH MỤC HỘP

Hộp 2.1: Cảm nhận về sự thay đổi thời tiết 42
Hộp 2.2: Mối lo ngại về các hiện tượng tự nhiên khác 42
Hộp 2.3: Lý do di cư lao động 47
Hộp 2.4: Câu chuyện về nghề trồng lúa 52
Hộp 2.5: Thời tiết tác động đến trồng trọt 53
Hộp 2.6: Câu chuyện phát triển đội tàu xa bờ 56
Hộp 2.7: Câu chuyện về con tôm 60
Hộp 2.7: Kinh nghiệm dự đoán thời tiết của người dân vùng ven biển 68
Hộp 2.8: Câu chuyện thu hẹp quy mô chăn nuôi gia súc, gia cầm 69
Hộp 3.1: Khó khăn trong việc thực hiện các dự án kè biển 92


DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1: Những ngôi nhà nằm trong vùng sạt lở 66
Hình 2.2: Mái nhà được bảo vệ bằng những bao cát trong mùa mưa bão 71
1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Con người giờ đây đang ngày càng phải đối diện với nhiều rủi ro trong cuộc
sống cũng như hoạt động sản xuất hàng ngày. Những rủi ro mà mỗi cá nhân, gia
đình, cộng đồng và xã hội có nguy cơ phải đối mặt phổ biến có thể kể đến: thiên tai
do biến đổi khí hậu (BĐKH), bệnh tật, lừa đảo, phá sản, chiếm đoạt tài sản, chiến
tranh, hay thay đổi chính sách… Ngoài ra còn phải kể đến những ảnh hưởng tiêu
cực của quá trình phát triển, đô thị hóa, công nghiệp hóa, thương mại hóa… Trong
những rủi ro đó, BĐKH là khôn lường, thụ động và mang tính phổ biến toàn xã hội
nhất.
Việt nam là nước nằm trong số 10 quốc gia hàng đầu về tần suất bị thiên tai
trên thế giới [43]. Hàng năm, nước ta chịu hàng chục cơn bão, nhiều trận lũ càn
quét, hiện tượng sạt lở đất. Chịu tác động trực tiếp và nặng nề nhất đối với hiện
tượng BĐKH vẫn là người nông dân. Điều này có thể lý giải rằng nước ta là nước
nông nghiệp, việc sản xuất của người dân chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các hiện
tượng thời tiết. Vì vậy, họ là đối tượng chịu tác động mạnh bởi các cú sốc từ thiên
tai. Ranh giới giữa các hộ vừa thoát nghèo và tái nghèo sau các cú sốc đang là vấn
đề lớn đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Tỉnh Thừa Thiên-Huế là nơi chịu nhiều thiên tai khắc nghiệt như lũ lụt, bão,
hạn hán, triều cường, xâm nhập mặn, xói lở bờ biển, sạt lở bờ sông… Thiên tai xảy
ra hàng năm và cường độ tần suất bất thường, khó dự đoán, ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển kinh tế xã hội và ổn định cuộc sống của cộng đồng dân cư [50]. Trong các
loại địa hình cư trú, khu vực ven biển là nơi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của
những hiện tượng thời tiết bất thường do biến BĐKH.
Nghiên cứu về BĐKH không phải là chủ đề mới ở địa bàn tỉnh Thừa Thiên
Huế. Tuy nhiên, những nghiên cứu này phần lớn còn tập trung vào việc xác định
các chỉ số từ những hiện tượng thiên nhiên như mực nước biển, tốc độ xói mòn,
lượng mưa… Với mong muốn tiếp cận từ khoa học xã hội học, đối với vấn đề thời
2

tiết bất thường, BĐKH ở khu vực ven biển Thừa Thiên Huế, tác giả lựa chọn đề tài
“Hành vi ứng phó với biến đổi khí hậu của các hộ gia đình nông thôn ở khu

vực ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế” để thực hiện nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
2.1. Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu này nhằm làm rõ thêm các khái niệm liên quan đến BĐKH, cung
cấp một cách nhìn cụ thể về ảnh hưởng của những hiện tượng thời tiết bất thường
trong cuộc sống và sinh hoạt của những người nông dân ở khu vực địa hình ven
biển, từ đó thấy được hành vi ứng phó với những thương tổn mà họ gặp phải tại nơi
cư trú. Đề tài mong muốn đóng góp một cách nhìn mới cho chủ đề sinh kế bền
vững, thái độ đối với rủi ro, tính dễ tổn thương… Đây vốn là những vấn đề đang
được các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức phi chính phủ, các nhà tài trợ quốc
tế quan tâm đối với các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng về mặt hoạch định chính sách vì các
biện pháp hỗ trợ xã hội, kinh tế, cơ cấu khác nhau có thể được xây dựng và thực thi
dựa trên sự khác nhau trong hành vi của mỗi nhóm người.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Xác định tác động của những hiện tượng thời tiết bất thường đến cuộc sống và
hoạt động sản xuất của hộ gia đình nông thôn khu vực ven biển tỉnh Thừa Thiên
Huế. Từ đó tìm hiểu hành vi ứng phó của các hộ gia đình này với những hiện tượng
thời tiết đó.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu tác động của các hiện tượng thời tiết bất thường đến cuộc sống và
hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân nông thôn khu vực ven biển tỉnh
Thừa Thiên Huế.
3

- Tìm hiểu hành vi ứng phó với các hiện tượng thời tiết bất thường của các hộ
gia đình nông thôn khu vực ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Đề xuất các giải pháp đến các bên liên quan để giúp người dân chủ động ứng
phó với biến đổi khí hậu.
4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hành vi ứng phó với biến đổi khí hậu của các hộ gia đình nông thôn ở khu vực
ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là những hộ gia đình sống tại khu vực địa hình ven biển.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: 8/2012 – 12/2012
Không gian nghiên cứu: Dữ liệu của nghiên cứu được thu thập tại địa bàn 4
huyện ven biển Thừa Thiên Huế: huyện Phú Vang, Phong Điền, Hương Trà, Phú
Lộc (từ cơ sở một phần dữ liệu của dự án “Tác động của các cú sốc tới tính dễ bị
tổn thương đến nghèo đói: “Hậu quả đối với sự phát triển của các nền kinh tế mới
nổi ở khu vực Đông Nam Á”).
5. Câu hỏi nghiên cứu
- Những hiện tượng thời tiết bất thường nào đang tác động lên khu vực ven
biển Thừa Thiên Huế trong 10 năm trở lại đây?
- Mô hình sinh kế chính và tác động của thời tiết đến các mô hình sinh kế của
hộ gia đình ở khu vực ven biển Thừa Thiên Huế là gì?
- Làm thế nào để những nhóm sinh kế ven biển chịu nhiều rủi ro nhất có thể
đối phó tốt hơn trước xu hướng của BĐKH?
6. Giả thuyết nghiên cứu
- Những hiện tượng thời tiết bất thường hàng năm gây ra nhiều thiệt hại về tài
sản và ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của các hộ gia đình ở khu vực ven biển.
Bão, lũ là hiện tượng xảy ra thường xuyên, liên tiếp với cường độ mạnh và gây nên
4

nhiều khó khăn cho người dân trong cuộc sống (bao gồm cả nơi cư trú và hoạt động
sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là ngư nghiệp).

- Nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi), ngư nghiệp (đánh bắt và nuôi trồng
thủy sản, nhóm sinh kế khác (tiểu thủ công nghiệp, lao động tự do) là những nhóm
sinh kế chính tại vùng ven biển Thừa Thiên Huế.
- Để khắc phục những ảnh hưởng do thời tiết bất thường gây nên, người dân
khu vực ven biển đã có những biện pháp ứng phó với thiên tai như: thay đổi cơ cấu
mùa vụ, thay đổi giống cây trồng vật nuôi, di chuyển đến các khu tái định cư, di
chuyển nơi cư trú, tạm dừng các hoạt động đánh bắt…
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp thu thập thông tin
- Dữ liệu thứ cấp:
Trước khi tiến hành thu thập các dữ liệu sơ cấp, nghiên cứu đã tập hợp các dữ
liệu liên quan đến nội dung đề tài như:
 Bản đồ khu vực về hành chính, địa hình, tình hình sản xuất…
 Kế hoạch, định hướng phát triển kinh tế-xã hội các năm 2011, 2012 tại
các địa bàn.
 Các số liệu khí tượng – thủy văn trong 10 năm qua.
 Các kịch bản BĐKH và nước biển dâng của Bộ Tài nguyên và Môi
trường, các cơ quan Nghiên cứu và Phát triển quốc tế.
 Các báo cáo khoa học liên quan…
- Dữ liệu sơ cấp:
+ Phân tích tài liệu:
Luận văn đã sử dụng một phần số liệu của dự án DFG “Tác động của các cú
sốc tới tính dễ bị tổn thương đến nghèo đói: Hậu quả đối với sự phát triển của các
nền kinh tế mới nổi ở khu vực Đông Nam Á”. Bộ số liệu này bao gồm các thông tin
liên quan đến những cú sốc và rủi ro mà các hộ nông thôn ở Thừa Thiên Huế phải
đối mặt và hoạt động đầu tư vào nông nghiệp cũng như mức thu nhập của hộ.
5

Bộ câu hỏi gồm 9 mục được thiết kế và được dùng để hỏi 166 đối tượng là
thành viên trong các hộ gia đình đang sinh sống tại các điểm địa bàn nghiên cứu.

Đối tượng được lựa chọn ngẫu nhiên.
Đối với nghiên cứu này, tác giả chỉ sử dụng một số câu hỏi ở bảng hỏi của dự
án với mục đích phù hợp hơn với nội dung thực tế của nghiên cứu.
Các câu hỏi được sử dụng bao gồm:
 Mục 3.2: Các rủi ro
 Mục 4.1: Đất đai
 Mục 4.2: Nông nghiệp
 Mục 4.3: Gia súc/Gia cầm và thủy sản
 Mục 4.4: Đánh cá, săn bắt, thu lượm, đốn gỗ, củi
 Mục 6: Công việc tự làm phi nông nghiệp bao gồm cả tiểu thủ công
nghiệp
 Mục 9.2: Điều kiện về nhà ở
Mục đích bảng hỏi nhằm đưa ra con số định lượng về các thông tin cần thu thập.
Thời điểm khảo sát: 6/2011
+ Phƣơng pháp phỏng vấn sâu
Nhằm tăng tính thuyết phục của các luận cứ được sử dụng trong đề tài, tác giả
đã thực hiện thêm 15 trường hợp phỏng vấn sâu (9 nam, 6 nữ) với các đối tượng:
cán bộ chính quyền, và đại diện các hộ gia đình. Mục đích của phỏng vấn sâu được
chuẩn bị và thiết kế logic với các nội dung cụ thể cùng các câu hỏi rõ ràng liên quan
đến nhận thức, hiểu biết về BĐKH; tác động, ảnh hưởng của BĐKH; các biện pháp
ứng phó và thích ứng với BĐKH; nhu cầu hỗ trợ nhằm ứng phó với BĐKH.
Thời điểm khảo sát: tháng10/2012
+ Thảo luận nhóm:
Tác giả cũng tiến hành 5 cuộc thảo luận nhóm với các nội dung liên quan đến
tình hình kinh tế-xã hội của cộng đồng, lịch sử diễn biến của các hiện tượng liên
quan đến BĐKH, nhận biết hay tiên đoán của người dân đối với thiên tai hay
BĐKH, tác động của BĐKH cũng như kế hoạch ứng phó của cộng đồng đối với
6

BĐKH. Đối tượng tham gia thảo luận nhóm là đại diện các hộ gia đình, và cán bộ

chính quyền địa phương.
Thời điểm khảo sát: 10/2012
- Số lƣợng mẫu cụ thể ở từng phƣơng pháp thu thập thông tin tại các địa bàn:

STT
Huyện

Thôn
Bảng hỏi
PVS
TLN
1
1
Hương
Trà
Hương
Phong
Tiến Thành
10
1
1
Thuận Hòa
9
1
2
Phong
Điền
Điền Môn
Kế Môn 2
9

3
1
Vĩnh Xương 1
9
Điền Hải
Minh Hương
8
Thế Chí Đông 1
10

3
3
Phú Vang
Phú Đa
Hòa Tây
10
1
2
Lương Viễn
9
Vinh Hà
Thôn 1
9
2
Thôn 4
10
Vinh Thái
Diêm Trụ
10
2

Kênh Tắc
9
Phú An
An Tuyền
8
2
Triều Thủy
10
Phú Hải
Cự Lại Trung
9
2
Cự Lại Đông
10
4
4
Phú Lộc
Vinh Hiền
Hiền Hòa 1
8
2
1
Hiền Hòa 2
9
TỔNG
166
15
5

7.2. Phương pháp xử lý thông tin

Thông tin định lượng ở đề tài này được xử lý lại bằng phần mềm SPSS 19.0.
Đối với những phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm do số mẫu không lớn nên tác
giả xử lý bằng phương pháp mã hóa (coding) tìm codes, themes theo từng chủ đề,
nội dung của nghiên cứu.
7

8. Khung lý thuyết






































KHU
VỰC
VEN
BIỂN






BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
(Bão, lũ lụt, hạn hán, nắng nóng, mưa đá, biển
xâm thực…)
Thích ứng
HÀNH VI
NGƢ NGHIỆP

NÔNG NGHIỆP
SINH KẾ KHÁC

GIẢI PHÁP
(Sống chung với BĐKH)
GIẢM THIỂU
THÍCH NGHI
Nâng cao
nhận thức
8

9. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận – khuyến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo,
Phụ lục, bảng biểu, nội dung chính của luận văn được chia thành 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài: chương này giới thiệu về các
khái niệm công cụ, địa bàn nghiên cứu và bối cảnh nghiên cứu thích ứng với BĐKH
ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
Chương 2. Hoạt động ứng phó của hộ gia đình với những thay đổi của các
hiện tượng thời tiết bất thường: tình hình sản xuất của các hộ gia đình, nhận thức
của người dân về tình hình thời tiết, tác động của thời tiết đến sản xuất và sinh hoạt
và ứng phó của người dân về các hiện tượng thời tiết bất thường.
Chương 3. Giải pháp giúp các hộ gia đình ứng phó với biến đổi khí hậu: đề
xuất các nhóm giải pháp giảm thiểu tác động, thích nghi và nâng cao nhận thức về
BĐKH

















9

NỘI DUNG CHÍNH
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Khái niệm công cụ
1.1.1. Biến đổi khí hậu
Trong cộng đồng khoa học, các nhà khoa học tự nhiên lẫn khoa học xã hội và
nhân văn đều góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
BĐKH. Các nghiên cứu Xã hội học trên thế giới đã quan tâm đến ba hướng nghiên
cứu, bao gồm: những nguyên nhân xã hội dẫn đến BĐKH, hệ quả kinh tế xã hội của
BĐKH, và sự thích ứng đối với BĐKH cũng như giảm thiểu ảnh hưởng của BĐKH
[1].
Có ba định nghĩa phổ biến về BĐKH. Thứ nhất, IPCC cho rằng: “Khái niệm
BĐKH đề cập tới sự thay đổi tình trạng của khí hậu có thể nhận ra được (chẳng hạn
sử dụng tests thống kê) bởi sự thay đổi về điều kiện và/hoặc tính chất của môi
trường. Sự thay đổi đó tồn tại trong thời gian dài, nhiều thập kỷ hoặc lâu hơn. Biến
đổi khí hậu là bất kỳ sự thay đổi nào của khí hậu qua thời gian, do sự thay đổi tự
nhiên hoặc do hoạt động của con người” (IPCC, 2007:30). Thứ hai, trong Hiệp định

khung của Liên hợp quốc về BĐKH cho rằng: “BĐKH là sự thay đổi của khí hậu do
hoạt động của con người trực tiếp hay gián tiếp gây ra làm thay đổi thành phần cấu
tạo của khí quyển toàn cầu. Thứ ba, BĐKH là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm
khí quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các
nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo [49]. Đây là trạng thái của khí hậu so với trung
bình và/ hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường
là vài thập kỷ hoặc dài hơn.
Như vậy, cả ba định nghĩa trên đều nhấn mạnh đến BĐKH do hoạt động của
con người gây ra. Theo IPCC, BĐKH biểu hiện qua ba khía cạnh: sự thay đổi nhiệt
độ, sự thay đổi lượng mưa, sự dâng lên của mực nước biển, và các hiện tượng thời
tiết cực đoan khác (IPCC, 2007: 26-33). Theo “Kịch bản BĐKH, nước biển dâng
10

cho Việt Nam” [36], các biểu hiện chính của biến đổi khí hậu bao gồm sự tăng nhiệt
độ toàn cầu, sự thay đổi về lượng mưa và nước biển dâng. Có thể tóm tắt biểu hiện
chính của BĐKH ở Việt Nam trong 100 năm qua như sau:
Biểu hiện về nhiệt độ:
Trong 50 năm qua, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam đã tăng khoảng 0,1
0
C qua
mỗi thập kỷ. Nhiệt độ trung bình một số tháng mùa hè tăng khoảng 0,1-0,3
0
C/thập
kỷ. Về mùa đông, nhiệt độ giảm đi trong các tháng đầu mùa và tăng lên trong các
tháng cuối mùa.
Có thể nhận thấy nhiệt độ tháng 1 (tháng đặc trưng cho mùa đông), nhiệt độ
tháng 7 (tháng đặc trưng cho mùa hè) và nhiệt độ trung bình năm tăng trên phạm vi
cả nước trong 50 năm qua. Nhiệt độ vào mùa đông tăng nhanh hơn so với vào mùa
hè và các vùng có nhiệt độ tăng nhanh hơn là Tây Bắc, Đông Bắc Bộ, Đồng bằng
Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ (khoảng 1,3 – 1,5

0
C/50 năm). Khu vực Nam Trung Bộ, Tây
Nguyên và Nam Bộ có nhiệt độ tháng 1 tăng chậm hơn so với các vùng khí hậu phía
Bắc (khoảng 0,6 – 0,9
0
C/50 năm). Nhiệt độ trung bình năm tăng 0,5-0,65
0
C/50
năm ở Tây Bắc, Đông Bắc Bộ, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và
Nam Bộ, còn mức tăng nhiệt độ trung bình năm ở Nam Trung Bộ thấp hơn, chỉ vào
khoảng 0,5
0
C/50 năm. Tính trung bình cho cả nước nhiệt độ trung bình năm đã tăng
lên khoảng 0,56
0
C trong 50 năm qua [30, 69].
Biểu hiện về lƣợng mƣa:
Xu thế biến đổi của lượng mưa không nhất quán giữa các khu vục và các thời
kỳ. Riêng trong 2 thập kỷ gần đây, lượng mưa hàng năm ở Hà Nội và Hồ Chí Minh
có xu hướng giảm đi, trong khi đó ở Đà Nẵng có xu hướng tăng lên. Tuy vậy, có thế
thấy trên phần lớn lãnh thổ lượng mưa giảm đi vào tháng 7, tháng 8 và tăng lên vào
tháng 9, 10, 11. Số ngày mưa phùn ở miền Bắc giảm đi một nửa, từ trung bình 30
ngày mỗi năm trong thập kỷ 1961-1970 xuống còn 15 ngày mỗi năm trong thập kỷ
1991-2000[30, 70].
Lượng mưa mùa ít mưa (tháng 11-4) tăng lên chút ít hoặc không thay đổi đánh
kể ở các vùng khí hậy phía Bắc và tăng mạnh mẽ ở các vùng khí hậu phía Nam
11

trong 50 năm qua. Lượng mưa mùa mưa nhiều (tháng 5-10) giảm từ 5% đến trên
10% trên đa phần diện tích phía Bắc nước ta và tăng khoảng 5% đến 20% ở các

vùng khí hậu phía Nam trong 50 năm qua. Xu thế diễn biến của lượng mưa hàng
năm hoàn toàn tương tự như lượng mưa mùa mưa nhiều, tăng ở các vùng khí hậu
phía Nam và giảm ở các vùng khí hậu phía Bắc. Khu vực Nam Trung Bộ có lượng
mưa mùa ít mưa, mùa mưa nhiều và lượng mưa hàng năm tăng mạnh nhất so với
các vùng khác ở nước ta, khoảng 20% trong 50 năm qua. [30, 71].
Không khí lạnh:
Số đợt không khí lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam giảm đi rõ rệt trong hai thập
kỷ qua. Tuy nhiên, các biểu hiện dị thường lại xuất hiện mà gần đây nhất là đợt
không khí lạnh rét đậm, rét hại kéo dài vào năm 2008, và 2010 ở Bắc Bộ [30, 73].
Bão:
Những năm gần đây, bão có cường độ mạnh xuất hiện nhiều hơn. Quỹ đạo bão
có dấu hiện dịch chuyển dần về phía Nam và mùa bão kết thúc muộn hơn, nhiều
cơn bão có đường đi dị thường hơn [30, 73].
Mực nƣớc biển:
Số liệu quan trắc tại các trạm hải văn dọc ven biển Việt Nam cho thấy, tốc độ
dâng lên của mực nước biển trung bình ở Việt Nam hiện nay là khoảng 3mm/năm
(giai đoạn 1993-2008), tương đương với tốc độ tăng trung bình trên thế giới. Trong
khoảng 50 năm qua, mực nước biển ở Việt Nam dâng lên khoảng 20 cm [30, 76].
Ngoài ra, với chủ đề BĐKH, trong nghiên cứu này, chúng ta cũng cần hiểu
những khái niệm sau:
Ứng phó với biến đổi khí hậu (response/coping) là các hoạt động của con
người nhằm thích nghi và giảm nhẹ các tác nhân gây ra BĐKH [33, 9].
Thích ứng với biến đổi khí hậu (adaptation) là sự điều chỉnh hệ thống tự
nhiên hoặc con người đối với hoàn cảnh hoặc môi trường thay đổi, nhằm mục đích
giảm khả năng bị tổn thương do BĐKH và tận dụng các cơ hội do nó mang lại [33, 9].
Nó thể hiện khả năng đối phó hay tiếp nhận những tác động hay sức ép qua cơ chế
phản hồi hoặc phục hồi. Sự thích ứng cũng có nghĩa là các hành động tận dụng
12

những cơ hội thuận lợi mới nảy sinh do BĐKH. Trong việc đánh giá tác động của

BĐKH, nhất định phải kể đến sự thích ứng. Con người và thế giới sinh vật luôn có
khả năng tự điều chỉnh để thích ứng với điều kiện môi trường, cũng có thể thay đổi
hành vi để đối phó với những điều kiện khí hậu khác nhau, thậm chí khi cần thiết có
thể di cư đến những nơi khác thuận lợi hơn. Các biện pháp có thể kể đến để đối phó
với BĐKH là: chấp nhận tổn thất, chia sẻ tổn thất, làm thay đổi nguy cơ, ngăn ngừa
các tác động, thay đổi cách sử dụng, thay đổi địa điểm, nghiên cứu khoa học công
nghệ, và giáo dục thay đổi hành vi…[25, 108]
1.1.2. Hộ gia đình
Khái niệm hộ gia đình có nhiều cách hiểu khác nhau. Liên Hợp Quốc cho
rằng: “Hộ là những người cùng chung sống dưới một mái nhà, cùng dùng chung
ngân quỹ”.
Hộ có thể là một người sống độc thân hoặc 2, 3 người cùng giới hoặc khác
giới chung sống với nhau.
Các nhà kinh tế học và các nhà xã hội học đưa ra 3 tiêu chuẩn để phân biệt hộ
và gia đình, đó là: quan hệ hôn nhân huyết thống thân tộc; cư trú chung; có chung
cơ sở kinh tế.
Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu xã hội học nông thôn quan niệm rằng khi nói
đến gia đình (có thể hiểu theo cấu trúc, qui mô gia đình hạt nhân hay mở rộng; hoặc
hiểu theo tính chất, hệ giá trị gia đình truyền thống hay hiện đại…), thường hiểu đó
là hộ, như vậy khái niệm gia đình được hiểu như sự trùng hợp với hộ.
Năm 1989, Tổng cục Thống kế đã đưa ra khái niệm hộ gia đình như sau: Hộ
gia đình bao gồm những người có quan hệ hôn nhân hay ruột thịt hoặc nuôi dưỡng
có quỹ thu chi chung. Mỗi hộ gia đình có sổ đăng ký hộ khẩu ghi rõ số nhân khẩu,
người chủ hộ và quan hệ của những thành viên với chủ hộ. Số liệu điều tra dân số ở
Việt Nam là tài liệu pháp lý để chính quyền địa phương có thể quản lý các hộ gia
đình như một đơn vị kinh tế, văn hóa, một tế bào xã hội.
Như vậy, hộ gia đình khác với gia đình, Việt Nam coi hộ gia đình như một tài
liệu pháp lý để chính quyền quản lý về mặt nhân khẩu. Trong hộ gia đình gồm có
13


những người sống chung một mái nhà có quan hệ hôn nhân hay chỉ là mối quan hệ
ruột thịt (đồng giới hoặc khác giới) [19].
Đối với nghiên cứu này, xem xét khái niệm hộ gia đình trong mối quan hệ với
nghề nghiệp chính của hộ gia đình đó. Theo đó, phân ra thành: Hộ gia đình làm ngư
nghiệp, hộ gia đình làm nông nghiệp, và hộ gia đình làm các công việc khác được
xếp vào cùng một nhóm như: di cư lao động đi làm việc ở địa phương khác, hộ làm
các nghề tiểu thủ công nghiệp, buôn bán, dịch vụ…
1.1.3. Hành vi
Lý thuyết hành vi cho rằng chúng ta không thể nghiên cứu được những cái gì
mà chúng ta không trực tiếp quan sát được. Nó chỉ nghiên cứu những phản ứng
quan sát được của các cá nhân khi họ trả lời các kích thích. Do đó, tâm lý, ý thức
của con người không phải là đối tượng nghiên cứu của lý thuyết hành vi.
J.Watson đã đưa ra mô hình hành vi gồm một chuỗi kích thích và phản ứng: S
→ R, trong đó S là tác nhân, R là phản ứng. Theo sơ đồ này, hành vi của con người
là hoàn toàn máy móc, cơ học, không có sự tham gia của ý thức. Như vậy, con người
dường như là những cái máy. Ví dụ, khi sợ hãi khi chúng ta thường la hét, mà không
giải thích được là vì sao. Hạn chế của lý thuyết này là nếu chúng ta không thấy được
phản ứng thì được xem là không có hành vi.
Sau này, thuyết hành vi phát triển, các nhà xã hội học chú ý tới tính xã hội của
hành vi và khái niệm hành vi xã hội trở nên thông dụng hơn. Hành vi xã hội là một
chỉnh thể hệ thống gồm các yếu tố bên ngoài có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Theo các
nhà hành vi xã hội, các cá nhân phải suy nghĩ, đối chiếu, cân nhắc…mỗi tác nhân trước khi
phản ứng chứ không phải phản ứng một cách máy móc. Chẳng hạn: Bác sĩ mổ cho bệnh
nhân thì bệnh nhân không phải trốn chạy vì đó là chữa bệnh cho mình.
Nhà xã hội học Mỹ G.Mead cho rằng: “Chúng ta có thể giải thích hành vi con
người bằng hành vi có tổ chức của nhóm xã hội. Hành vi không thể thiếu được nếu
xây dựng nó từ các tác nhân và phản ứng”.
Đặc điểm của hành vi: 1) Khi thực hiện hành vi, chúng ta hoàn toàn không suy
nghĩ (tức không đủ thời gian để suy nghĩ) xem ta thực hiện hành động đó như thế
14


nào? Nếu không thực hiện được thì hậu quả ra sao?; 2) Khi thực hiện hành vi này
gần như ta bất chấp thái độ, ý kiến của người xung quanh và bất chấp mọi điều kiện
của hành động; 3) Hành vi diễn ra bất chấp cả ý chí hay mong muốn chủ quan của
chúng ta tức là hoàn toàn không có một động cơ thúc đẩy và chỉ là những phản ứng
máy móc. Ví dụ: chạy vấp hòn đá → bị ngã; tay chạm vào điện→ co lại [17].
Việc nghiên cứu hành vi ứng phó với BĐKH của con người với tư cách là một
hành vi cá nhân, nhóm hay cộng đồng có ý nghĩa quan trọng, nó cho phép các nhà
quản lý biết được nhu cầu – động cơ của từng chủ thể cụ thể; từ đó tìm mọi cách để
hướng đến hành vi xã hội của từng chủ thể, phát huy sức mạnh của họ vào việc đạt
được mục tiêu chung là giảm thiểu tác động, thích nghi với BĐKH .
1.1.4. Khu vực ven biển
Theo Coastalwiki, khái niệm khu vực ven biển được hiểu là khu vực chuyển
tiếp giữa đất liền và biển, đặc trưng bởi sự đa dạng sinh học cao, bao gồm các hệ
sinh thái phong phú [46]. Như vậy, về mặt địa lý, thuật ngữ như vùng/ khu vực ven
biển (coastal area) rộng hơn vùng ven bờ, đường biên của nó mở rộng về phía đất
liền hơn. Vùng ven bờ chỉ là một phần của khu vực ven biển. Trên phương diện
chức năng, trong nhiều quy định về môi trường, nhân khẩu, kinh tế và xã hội trên
thực tế bắt nguồn từ vùng ven biển rộng lớn, tuy nhiên những biểu hiện của chúng
chỉ thấy rõ được trong phạm vi vùng ven bờ [27]. Về mặt điều kiện khí hậu, đây là
nơi có tần suất gió và bão cao, nhất là vùng ven biển nhiệt đới, là nơi dễ có các sự
cố môi trường như bão, lốc xoáy, sóng thần. Đây cũng là nơi mà môi trường đất dễ
mẫn cảm với các điều kiện biến đổi của môi trường như dễ bị xói lở do tác động của
sóng gió. Môi trường sinh thái không có tính chất ổn định, dễ phát triển nhưng cũng
dễ bị phá hủy, thay đổi.
Khái niệm vùng ven biển và khái niệm vùng ven bờ là hai khái niệm có một số
điểm chung. Hầu hết các tài liệu hướng dẫn quản lý tổng hợp ven bờ được xuất bản
đều cho rằng vùng ven bờ là khu vực có giao diện khá hẹp giữa biển và đất liền. Đó
là nơi các quá trình sinh thái phụ thuộc vào sự tác động lẫn nhau giữa đất liền và
biển, các tác động này diễn ra khá phức tạp và nhạy cảm.

15

Vùng ven bờ thường được hiểu là nơi tương tác giữa đất và biển, bao gồm các
môi trường ven bờ cũng như vùng nước kế cận. Các thành phần của nó bao gồm các
vùng châu thổ, vùng đồng bằng ven biển, các vùng đất ngập nước, các bãi biển và
cồn cát, các rạn san hô, các vùng rừng ngập mặn, đầm phá, và các đặc trưng ven bờ
khác. Khái niệm vùng ven bờ thường được xác định một cách tùy tiện, hơi khác
nhau giữa các quốc gia và thường dựa vào giới hạn pháp lý và ranh giới hành chính.
Ngoài ra, còn có những sai khác về địa văn (physiography), sinh thái và kinh tế giữa
các vùng khác nhau, do đó không có một định nghĩa được chấp nhận rộng rãi về
vùng ven bờ. Thay vào đó, có nhiều định nghĩa bổ sung phục vụ cho những mục
đích quản lý khác nhau, trong đó vấn đề ranh giới cần được xem xét. Ví dụ ở một số
nước chấu Âu, vùng ven bờ mở rộng ra tới lãnh hải, một số nước khác thì lấy ranh
giới đường đẳng sâu làm giới hạn. Còn về ranh giới đất liền thì cũng rất mơ hồ do
tác động của biển vào khí hậu có thể vào đến vùng nội địa bên trong cũng như vùng
đồng bằng ngập lụt rộng lớn.
Theo IUCN (1986), vùng ven bờ được định nghĩa như sau: “Là vùng mà ở đó
đất và biển tương tác với nhau, trong đó ranh giới về đất liền được xác định bởi giới
hạn các ảnh hưởng của biển đến đất và ranh giới về biển được xác định bởi giới hạn
của các ảnh hưởng của đất và nước ngọt đến biển”.
Theo World Bank, vùng ven bờ được hiểu là “… dựa vào những mục tiêu thực
tiễn, mà vùng ven bờ là một vùng đặc biệt có những thuộc tính đặc biệt, mà ranh
giới được xác định, thường dựa vào những vấn đề được giải quyết”.
Từ cách nhìn hệ nhìn hệ thống, lãnh thổ nước ta theo các lát cắt: vùng miền,
trong mỗi vùng miền được chia thành các tiểu vùng và các vùng giáp ranh giữa
chúng. Theo địa hình vùng sinh thái lãnh thổ có các vùng: biển, ven biển, đồng
bằng, trung du, núi và núi cao. Theo không gian kiến tạo kinh tế-xã hội có đô thị,
nông thôn và vùng giáp ranh giữa chúng.
Vùng ven biển là một trong các vùng được xác định theo lát cắt địa hình.
Vùng ven biển được tiếp cận theo các góc độ sau: (1) địa hành chính, là phần lãnh

thổ ven biển Việt Nam, bao gồm những tỉnh có đường bờ biển thuộc các cấp hành
16

chính địa phương quản lý, hiện nay có 28/64 tỉnh thành và 128 huyện ven biển có
biển; (2) sinh thái và môi trường, phân tích theo các mối quan hệ địa chất, địa hình,
môi trường, cảnh quan… các nhà nghiên cứu xác định theo vùng biển và vùng ven
biển; (3) địa kinh tế, mối quan hệ giữa vùng biển với các vùng kinh tế khác được
xem xét dưới góc độ chính sách phát triển các vùng kinh tế-sinh thái-nhân văn. Từ
đây, có thể chia thành nhiều tiểu vùng ven biển gắn với các trọng điểm phát triển;
và (4) văn hóa xã hội và nhân văn, xem xét vùng ven biển từ các góc độ tập quán sử
dụng nguồn lợi ven biển, các truyền thuyết về biển của cư dân, liên quan đến tổ
chức xã hội của dân cư ven biển, cũng như kết cấu làng xã ven biển gắn với truyền
thống sử dụng nguồn lợi trong tiến trình phát triển [24].
Như vậy, khái niệm vùng ven biển trong nghiên cứu này được hiểu là khu vực
chuyển tiếp giữa đất liền và biển gồm các xã quanh đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
và dọc bờ biển của 05 huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang và
Phú Lộc của tỉnh Thừa Thiên Huế. Vùng này sự tương tác giữa một hệ sinh thái
phong phú, đa dạng về sinh học với một vùng văn hóa của cộng đồng dân cư ven
biển đã tạo ra một hệ sinh thái - nhân văn rất đặc trưng.
1.2. Lý thuyết tiếp cận
1.2.1. Tiếp cận sinh thái nhân văn
Sinh thái nhân văn (Human Ecology) trước hết là lĩnh vực nghiên cứu tương
tác giữa cộng đồng và hệ sinh thái tự nhiên trong hoạt động sống của con người.
Các hệ thống sinh thái nhân văn trước hết là các hệ thống kinh tế-văn hóa-sinh thái
mang đậm bản sắc văn hóa của cộng đồng bản địa và dấu ấn của hệ tự nhiên bản
địa. Trong một hệ thống sinh thái nhân văn, yếu tố tự nhiên và yếu tố cộng đồng
gắn bó chặt chẽ, nương tựa vào nhau mà việc tách rời hai yếu tố đó đều gây thiệt hại
cho mỗi phía. Việc nghiên cứu và quản lý các hệ thống sinh thái nhân văn trước hết
là sự tôn trọng mối quan hệ hữu cơ này.
Các hệ thống sinh thái nhân văn nhạy cảm là những hệ thống và cộng đồng

bản địa mang tính chất sau: Không gian cư trú là các vùng nhạy cảm sinh thái.
Nguồn sống chủ yếu dựa vào nguồn lợi phi thị trường của các vùng đó.
17

Các vùng nhạy cảm sinh thái có những giá trị kinh tế phi thị trường to lớn, giá
trị này không thể chuyển đổi bằng tiền một cách ồ ạt nhanh chóng. Tuy nhiên nó
cung cấp những lợi nhuận bền vững và từ từ cho cộng đồng bản địa. Các nhà nghiên
cứu thuộc Đại học Mariland Hoa Kỳ (1996) đã xác định các giá trị phi thị trường
của các hệ tự nhiên như sau:
Đại dương và biển có giá trị 252 USD/ha/năm
Vùng ven biển có giá trị 4.052 USD/ha/năm
Rừng nhiệt đới có giá trị 2.007 USD/ha/năm
Đồng cỏ tự nhiên có giá trị 232 USD/ha/năm
Bãi lầy có giá trị 14.785 USD/ha/năm
Hồ, Sông có giá trị 8.498 USD/ha/năm
Khi chuyển đổi phương thức sử dụng, các giá trị phi thị trường bị tổn thất, huỷ
hoại và điều đó tác động xấu ngay đến cộng đồng bản địa.
Các cộng đồng bản địa cư trú trong các hệ thống sinh thái nhân văn nhạy cảm
thường nghèo và có trình độ học vấn thấp. Điều này hạn chế số đông trong cộng
đồng khó chuyển đổi nghề nghiệp và chậm thích nghi với nhịp độ nhanh của quá
trình công nghiệp hoá và quốc tế hoá. Khi quá trình xảy ra, phần đông thành viên
của cộng đồng bản địa mất đi lối sống truyền thống của mình, trở thành những
người làm công rẻ mạt và dễ bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển. Quá trình không
mong muốn này cần được điều chỉnh bằng các chính sách xã hội phù hợp, tuy nhiên
các chính sách này thường đến chậm hơn.
Giá trị của các hệ thống sinh thái nhân văn nhạy cảm trong phát triển bao gồm:
1) Tri thức bản địa là tài sản quốc gia: Các cộng đồng sống trong hệ thống SNN
thường tích luỹ được những tri thức bản địa rất giá trị, đảm bảo cho họ sống hoà
nhập với thiên nhiên; 2) Đa dạng văn hoá: Nếu coi văn hoá là mục tiêu cao nhất của
phát triển thì đa dạng văn hoá là một loại tài sản quý của cộng đồng. Chính các cộng

đồng trong các hệ thống SNN đă tạo ra những bản sắc văn hoá rất phong phú và đa
dạng. Quan niệm cho rằng thế giới tồn tại và phát triển trong đa dạng ngày nay đang
bị khủng hoảng do xu thế nhất thể hoá trong phát triển và cho phát triển; 3) Nguồn
18

lao động và lực lượng bảo vệ tại chỗ của các vùng nhạy cảm sinh thái: Cộng đồng
SNN cung ứng một nguồn lao động tại chỗ rất đa dạng với giá rẻ. Mặt khác, chính
họ là chủ nhân của các vùng nhạy cảm sinh thái nên chỉ có họ mới thực sự bảo vệ
được các vùng này. Các quy chế kiểm soát áp đặt từ ngoài vào khiến họ không tham
gia được vào bảo vệ các vùng nhạy cảm sinh thái, rất có thể lại biến họ thành lực
lượng phá hoại các vùng này vì miếng cơm manh áo của chính mình bởi trước hết
họ không còn quyền sở hữu hay sử dụng không gian môi trường như trước.
Trong những cộng đồng như vậy, việc điều chỉnh hành vi của các thành viên
bằng luật tục đóng vai trọng, mặc dù nhiều điều khoản của luật tục chỉ là những câu
truyền miệng. Tuy nhiên quy định của luật tục ngày nay đã không còn phù hợp,
nhưng phải xác nhận rằng có rất nhiều điểm trong luật tục là những trí thức bản địa
quý giá cần phải coi là tài sản quốc gia, nó được đúc kết trên cơ sở lối sống bền
vững, hoà hợp với phân hệ nuôi dưỡng sự sống trong rất nhiều thế hệ [48].
Thích ứng với BĐKH dựa trên hệ sinh thái là sử dụng các hệ tự nhiên và các
dịch vụ hệ sinh thái như một hợp phần quan trọng trong chiến lược tổng thể để quản
lý tổng hợp tài nguyên, giúp con người thích ứng với các tác động bất lợi từ BĐKH.
Mục đích của cách tiếp cận này là tăng cường sức chống chịu và khả năng phục hồi
của các cộng đồng dân cư cũng như các hệ sinh thái thông quan các hoạt động tổng
thể như quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, quản lý tổng hợp vùng đầu
nguồn… nhằm duy trì và khôi phục tính toàn vẹn của các hệ sinh thái và lợi ích từ
các hệ sinh thái mang lại.
Đồng thời, nhờ vào tính chống chịu của hệ xã hội cũng được tăng cường thông
qua các hoạt động như hoàn thiện thể chế, xây dựng nguồn lực hay nâng cao nhận
thức. Tất cả các hoạt động này nhằm chủ động tăng cường khả năng thích ứng,
giảm tính dễ bị tổn thương để giảm rủi ro khí hậu, giảm thiệt hại do BĐKH gây ra

cho cộng đồng/ hệ sinh thái xã hội.
Tiếp cận sinh thái nhân văn đứng trên quan điểm xem vùng ven biển Thừa
Thiên Huế là một hệ sinh thái nhân văn. Sự phát triển bền vững của hệ được chi
phối bởi các giá trị tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

×