Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Hội nhập việc làm, nghề nghiệp của thanh niên - khảo sát trên địa bàn Thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình (Giai đoạn 2005 - 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 135 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



ĐINH THỊ MAI TRÂM


HỘI NHẬP VIỆC LÀM, NGHỀ NGHIỆP CỦA
THANH NIÊN - KHẢO SÁT TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH
(GIAI ĐOẠN 2005-2011).



LUẬN VĂN THẠC SỸ XÃ HỘI HỌC



Hà Nội – 2012




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



ĐINH THỊ MAI TRÂM

HỘI NHẬP VIỆC LÀM, NGHỀ NGHIỆP CỦA
THANH NIÊN - KHẢO SÁT TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH
(GIAI ĐOẠN 2005-2011).

Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 30


LUẬN VĂN THẠC SỸ XÃ HỘI HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Trương An Quốc



Hà Nội - 2012



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn 2
2.1. Ý nghĩa khoa học 2
2.2. Ý nghĩa thực tiễn 2

3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu 3
3.2. Khách thể nghiên cứu 3
3.3. Phạm vi nghiên cứu 3
4. Mục tiêu nghiên cứu 3
5. Giả thuyết nghiên cứu 4
6. Phương pháp nghiên cứu 4
6.1. Phương pháp luận 4
6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể 6
6.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu 6
6.2.2. Phương pháp quan sát 6
6.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu 6
6.2.4. Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi 7
6.3. Phương pháp chọn mẫu 7
6.4. Kỹ thuật xử lý thông tin 8
7. Khung lý thuyết 9




Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận 10
1.1.1. Lý thuyết xã hội học áp dụng 10
1.1.1.1. Lý thuyết Tương tác xã hội 10
1.1.1.2. Lý thuyết Trao đổi xã hội và sự lựa chọn duy lý 12
1.1.1.3. Lý thuyết Vốn xã hội 14
1.1.2. Các khái niệm công cụ 19
1.1.2.1. Khái niệm Hội nhập, Hội nhập việc làm, nghề nghiệp 19
1.1.2.2. Khái niệm Việc làm 21
1.1.2.3. Khái niệm Nghề nghiệp 21

1.1.2.4. Khái niệm Thanh niên 22
1.2. Cơ sở thực tiễn 23
1.2.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 23
1.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội của địa bàn nghiên cứu 34
Chƣơng 2: HỘI NHẬP VIỆC LÀM, NGHỀ NGHIỆP CỦA THANH NIÊN.
2.1. Nhu cầu về việc làm, nghề nghiệp 42
2.1.1. Những khó khăn, trở ngại trong việc tìm kiếm việc làm của thanh niên 43
2.1.2. Những tiêu chí của việc tìm kiếm việc làm, lựa chọn nghề nghiệp 50
2.1.2.1. Đánh giá về những tiêu chí việc làm, nghề nghiệp 50
2.1.2.2. Mức độ hài lòng về các tiêu chí việc làm, nghề nghiệp 53
2.2. Cách thức tìm kiếm việc làm, nghề nghiệp của thanh niên 58
2.2.1. Cách thức tiếp cận với các nguồn thông tin về việc làm 58
2.2.2. Vai trò, tầm quan trọng của các yếu tố/tiêu chí trong việc tìm kiếm việc làm 66



2.2.2.1. Yếu tố Kết quả học tập, bằng cấp 68
2.2.2.2. Yếu tố Mối quan hệ và tài chính 69
2.2.2.3. Yếu tố về trình độ ngoại ngữ, tin học 71
2.2.2.4. Yếu tố Kinh nghiệm thực tế 72
2.2.3. Cách thức chuẩn bị công việc cho tương lai 73
2.3. Khả năng đáp ứng yêu cầu về việc làm, nghề nghiệp 75
2.3.1. Quá trình tuyển dụng 75
2.3.2. Đánh giá về một số trình độ, kỹ năng của thanh niên 77
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận 88
2. Khuyến nghị 91
2.1. Đối với cơ quan Nhà nước, cơ quan chức năng 91
2.2. Đối với các trường THPT, trường chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học 91
2.3. Đối với các Trung tâm Giới thiệu việc làm 91

2.4. Đối với Đoàn thanh niên 92
2.5. Đối với thanh niên 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94









DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Số lao động được giải quyết việc làm qua các năm. 35
Bảng 2.1. Dân số Việt Nam từ 15-29 tuổi qua các năm. 45
Bảng 2.2: Cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động thanh niên 45
Bảng 2.3: Hệ số ứng viên lao động trung bình trên 1 vị trí cần tuyển. 46
Bảng 2.4: Những khó khăn, trở ngại trong việc tìm kiếm việc làm của thanh niên. 48
Bảng 2.5: Những khó khăn, trở ngại trong việc tìm kiếm việc làm, lựa chọn nghề
nghiệp của thanh niên chia theo trình độ học vấn. 49
Bảng 2.6: Đánh giá về tầm quan trọng của các yếu tố/tiêu chí việc làm. 50
Bảng 2.7: Mức độ hài lòng về công việc hiện nay của thanh niên. 55
Bảng 2.8: Số lượng lao động được giải quyết việc làm qua các năm. 60
Bảng 2.9: Những nguồn cung cấp thông tin việc làm cho thanh niên. 63
Bảng 2.10: Tầm quan trọng của các yếu tố để có được việc làm. 66
Bảng 2.11: Loại kỹ năng muốn học thêm (% trên tổng số muốn học thêm) 71
Bảng 2.12: Cách thức chuẩn bị việc làm cho tương lai (% trên tổng số người được hỏi)
74
Bảng 2.13: Tỷ lệ lao động thanh niên tiếp tục phải đào tạo sau khi được tuyển dụng.
76

Bảng 2.14: Đánh giá về một số trình độ/kỹ năng của thanh niên hiện nay. 78
Bảng 2.15: Mức độ thường xuyên sử dụng các cách thức để nâng cao kiến thức, kỹ
năng của thanh niên. 82










DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tầm quan trọng của tiêu chí môi trường và điều kiện làm việc tốt. 51
Biểu đồ 2.2: Tầm quan trọng của tiêu chí cơ hội có thu nhập cao 52
Biểu đồ 2.3: Nguồn cung cấp thông tin việc làm cho thanh niên 64





















1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hội nhập với thế giới và khu vực đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng đưa đến
không ít những thách thức đối với nước ta. Đặc biệt với việc gia nhập tổ chức
Thương mại thế giới WTO, bộ mặt kinh tế của đất nước cũng có nhiều thay đổi, tạo
ra nhiều việc làm cho người lao động nhưng cũng đòi hỏi người lao động phải chủ
động và tích cực hơn trong việc tìm kiếm việc làm và thích ứng với những việc làm
mới, nghề nghiệp mới. Mỗi người lao động phải tự nỗ lực để tìm kiếm việc làm.
Việc làm có được hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ, năng lực, khả năng, kỹ năng
cũng như các mối quan hệ của họ. Trong khi số lượng việc làm không nhiều, gia
tăng chậm hơn so với sự gia tăng số lượng lao động hằng năm. Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội đưa ra dự báo cung - cầu lao động giai đoạn 2011-2020,
theo đó: “Tỷ lệ lao động qua đào tạo trong thập kỷ tới tăng từ 29,81% lên 43,07%
năm 2015 và đạt 58,45% vào năm 2020. Trong đó, tỷ lệ lao động công nhân kỹ
thuật có bằng trở lên tăng từ 14,66% năm 2015 lên 23,31% năm 2020. Trong 10
năm tới, tốc độ tăng việc làm giảm dần, chỉ còn 0,86%/năm so với mức 2,4%/năm
giai đoạn 2000-2009” [36]. Do vậy, sự cạnh tranh trên thị trường lao động ngày
càng khốc liệt đối với những người đang tìm kiếm việc làm và cả giữa những người
đang có việc làm muốn duy trì hay cố gắng tìm một công việc tốt hơn. Điều này đặc
biệt quan trọng đối với thanh niên, những người có nhu cầu rất lớn về việc làm, có

trình độ, năng lực, sự nhanh nhạy và khả năng thích ứng cao với cái mới nhưng
cũng là người đang chịu áp lực rất lớn về việc làm, thiếu việc làm và thất nghiệp.
Ninh Bình là một thành phố trong những năm vừa qua có tốc độ tăng trưởng
kinh tế khá mạnh, sự phát triển kinh tế đã tạo ra nhiều việc làm cho người lao động
đặc biệt là những loại hình việc làm mới trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.
Nhưng đây cũng là thành phố có số người trong độ tuổi lao động rất lớn đặc biệt là
tầng lớp thanh niên và họ cũng đang gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại trong việc tìm
kiếm việc làm, lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân. Cùng với sự thay đổi của cơ cấu,

2


tính chất việc làm, những yêu cầu mới trên thị trường lao động, đòi hỏi thanh niên
phải có những điều chỉnh để thích ứng. Chính vì vậy, tác giả đã quyết định nghiên
cứu đề tài: “Hội nhập việc làm, nghề nghiệp của thanh niên – khảo sát trên địa
bàn Thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình (Giai đoạn 2005-2011)” với mong
muốn góp phần đưa lại một cái nhìn khái quát về những nhu cầu và sự lựa chọn của
họ về việc làm, nghề nghiệp; Thực trạng khả năng đáp ứng của thanh niên trước
những yêu cầu, đòi hỏi về việc làm, nghề nghiệp trong thời kỳ hội nhập cũng như
cách thức họ tìm kiếm việc làm để từ đó các nhà hoạch định chính sách và các nhà
quản lý có những giải pháp để sử dụng hợp lý nguồn lao động này, tạo những cơ hội
để họ có được những việc làm, nghề nghiệp bền vững đảm bảo thu nhập và phát
huy năng lực bản thân.
2. Ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học:
Với đề tài này, tác giả đã sử dụng các khái niệm cơ bản của xã hội học: hành
động xã hội, quan hệ xã hội, cơ cấu xã hội, vai trò… cùng một số lý thuyết như: Lý
thuyết Tương tác xã hội, lý thuyết Trao đổi xã hội và sự lựa chọn hợp lý, lý thuyết
Vốn xã hội. Đồng thời kết quả nghiên cứu thu được dựa trên cơ sở việc sử dụng các
phương pháp nghiên cứu xã hội học. Chính vì vậy, việc thực hiện đề tài này góp

phần đưa hệ thống lý thuyết, lý luận xã hội học vào nghiên cứu thực tiễn. Và cũng
chính thông qua nghiên cứu thực tiễn góp phần bổ sung, hoàn thiện và làm phong
phú thêm hệ thống lý thuyết xã hội học.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Việc thực hiện đề tài có một ý nghĩa thực tiễn nhất định: Đưa lại một cái
nhìn tổng quan về khả năng đáp ứng yêu cầu việc làm, nghề nghiệp của họ trong
thời kỳ hội nhập; Nhu cầu và sự lựa chọn của thanh niên đối với việc làm, nghề
nghiệp, bên cạnh đó là cách thức họ tìm kiếm việc làm thông qua những thông tin,
số liệu điều tra cụ thể trên địa bàn nghiên cứu trong giai đoạn 2005 – 2011, đặc biệt

3


với sự tác động của việc gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế WTO (ngày chính
thức có hiệu lực 11/1/2007).
Đồng thời đưa ra được một số những khuyến nghị giúp cho chính những
người thanh niên đang có nhu cầu tìm kiếm việc làm có cơ hội tìm được việc làm,
lựa chọn được nghề nghiệp phù hợp trong thời kỳ hội nhập; Còn các nhà quản lý,
hoạch định chính sách có những giải pháp để sử dụng tốt hơn nữa lực lượng lao
động này.
3. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
“Hội nhập việc làm, nghề nghiệp của thanh niên – khảo sát trên địa bàn
Thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình (Giai đoạn 2005-2011)”
3.2. Khách thể nghiên cứu:
- Thanh niên trên địa bàn Thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình (độ tuổi từ
15 - 29 tuổi).
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi thời gian: Từ tháng 6 năm 2011 đến tháng 2 năm 2012
- Phạm vi không gian: Thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.

- Phạm vi nội dung:
+ Những nhu cầu về việc làm, nghề nghiệp của thanh niên.
+ Khả năng đáp ứng (trình độ, kỹ năng) của thanh niên đối với việc làm,
nghề nghiệp trong thời kỳ hội nhập.
+ Cách thức tìm kiếm việc làm, lựa chọn nghề nghiệp của thanh niên.
4. Mục tiêu nghiên cứu:
- Chỉ ra nhu cầu về việc làm, nghề nghiệp của thanh niên.

4


- Làm rõ thực trạng khả năng đáp ứng (trình độ, kỹ năng) đối với việc làm,
nghề nghiệp của thanh niên trong thời kỳ hội nhập trên địa bàn thành phố Ninh
Bình.
- Cách thức thanh niên trên địa bàn nghiên cứu tìm kiếm việc làm, lựa chọn
nghề nghiệp.
5. Giả thuyết nghiên cứu:
- Bước vào thời kỳ hội nhập, thanh niên đang gặp nhiều khó khăn trong tìm
kiếm việc làm, lựa chọn nghề nghiệp.
- Thanh niên lựa chọn việc làm, nghề nghiệp chủ yếu theo sự phù hợp với
năng lực bản thân.
- Bước vào thời kỳ hội nhập, thanh niên tìm kiếm việc làm, nghề nghiệp chủ
yếu thông qua mạng lưới xã hội.
- Trình độ chuyên môn và kỹ năng của thanh niên còn chưa đáp ứng được
yêu cầu đối với việc làm, nghề nghiệp trong thời kỳ hội nhập.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
6.1. Phương pháp luận:
Đề tài nghiên cứu lấy chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện
chứng làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu của mình. Thông qua đó,
các hành động cũng như sự kiện, hiện tượng xảy ra được nhìn nhận và đánh giá

dưới góc nhìn khách quan, khoa học.
Thứ nhất, đề tài phản ánh các hiện tượng, sự kiện, hành động xã hội đúng
những gì nó đang tồn tại, đang diễn ra trong đời sống xã hội. Khi nghiên cứu tác giả
luôn cố gắng nhìn nhận một cách khách quan nhất, tránh lồng quan điểm suy nghĩ
của cá nhân về vấn đề rồi quy các góc nhìn của vấn đề vào tiêu cực hoặc tích cực.
Thứ hai, khi tiến hành nghiên cứu, đề tài luôn phải đặt trong một bối cảnh
lịch sử kinh tế - xã hội nhất định. Bởi vì mỗi thời điểm lịch sử thì có những quan

5


niệm, giá trị khác nhau. Đồng thời điều kiện kinh tế-xã hội cũng tác động và ảnh
hưởng mạnh mẽ tới các vấn đề, sự kiện và hành động xã hội.
Thứ ba, các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của
mình thông qua sự vận động tác động qua lại với nhau. Chúng có mối liên hệ hết
sức chặt chẽ với nhau, không có sự vật nào nằm ngoài mối liên hệ. Một hiện tượng
này có thể làm tiền đề cho hiện tượng khác. Một nguyên nhân có thể mang lại nhiều
kết quả khác nhau, hay một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân gây nên. Việc
phân chia mối liên hệ chỉ mang tính chất tương đối. Trong từng vấn đề, chúng ta
cũng phải xác định được đâu là mối liên hệ bản chất hay không bản chất, mối liên
hệ chính yếu và thứ yếu.
Thứ tư, khi xem xét một vấn đề không chỉ dựa vào hiện tượng và biểu hiện
bề ngoài mà phải chỉ ra, đánh giá đúng bản chất của hiện tượng, hành động đó. Việc
chỉ ra được bản chất thực sự của vấn đề chính là việc đạt được mục tiêu nghiên cứu.
Với đề tài: “Hội nhập việc làm, nghề nghiệp của thanh niên – khảo sát
trên địa bàn Thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình (Giai đoạn 2005-2011)” tác
giả đã đặt vấn đề việc làm, nghề nghiệp của thanh niên trong bối cảnh kinh tế - xã
hội của đất nước nói chung và của thành phố Ninh Bình nói riêng đặc biệt là với sự
hội nhập kinh tế thế giới và khu vực tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Bên
cạnh đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến cơ cấu, tính chất việc làm thay đổi,

xuất hiện nhiều loại hình việc làm mới, hay những nghề nghiệp đòi hỏi những yêu
cầu mới. Điều này tác động tới người lao động đòi hỏi họ phải thay đổi, điểu chỉnh
để thích ứng. Mặt khác, vấn đề việc làm của thanh niên được đặt trong điều kiện cụ
thể của địa phương còn được thể hiện ở sự gia tăng về số lao động hằng năm và cơ
cấu về độ tuổi lao động, trong đó có tầng lớp thanh niên với độ tuổi từ 15-29 tuổi.
Điều này có tác động rất lớn tới vấn đề nghiên cứu của đề tài.
Đồng thời với việc nghiên cứu đề tài, tác giả cố gắng chỉ ra được bản chất
của vấn đề thông qua việc xác định những yếu tố tác động tới việc làm của thanh
niên: sự tăng trưởng về kinh tế, những chính sách về lao động việc làm, khả năng

6


đáp ứng về việc làm, nghề nghiệp của thanh niên: trình độ, kỹ năng ảnh hưởng tới
cơ hội việc làm, nghề nghiệp của họ.
6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
6.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu:
Nhằm đem lại một cái nhìn khách quan, toàn diện về vấn đề nghiên cứu, đề
tài sử dụng những tài liệu, sách báo, công trình nghiên cứu có nội dung liên quan,
sau đó thông qua việc phân tích, đánh giá, tổng hợp, làm phong phú và hoàn thiện
hơn cho kết quả nghiên cứu.
6.2.2. Phương pháp quan sát:
Thông qua quá trình tri giác trực tiếp để thu thập những thông tin cần thiết
liên quan tới đề tài, những hành động, thái độ của thanh niên trong việc tìm kiếm
việc làm, lựa chọn nghề nghiệp cũng như khả năng đáp ứng yêu cầu về việc làm,
nghề nghiệp của họ. Bên cạnh đó là thái độ, hành động của người tuyển dụng lao
động đối với vấn đề này.
6.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu:
Thông qua quá trình tương tác trao đổi trực tiếp giữa người đi phỏng vấn và
người được phỏng vấn, qua đó thu thập những thông tin mang tính định tính cho đề

tài nghiên cứu. Đồng thời với phương pháp này, nhiều khía cạnh không khai thác
được bằng bảng hỏi cũng sẽ được làm rõ.
Đề tài tiến hành phỏng vấn sâu:
- Cán bộ ngành Lao động, thương binh và xã hội: 01 người.
- Cán bộ Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh: 01 người.
- Người sử dụng lao động: 01 người.
- Trung tâm giới thiệu việc làm: 01 người.
- Thanh niên đang làm việc trong cơ quan nhà nước: 01 người.

7


- Thanh niên đang làm việc trong công ty cổ phần: 01 người.
- Thanh niên đang làm việc trong doanh nghiệp tư nhân: 01 người.
- Thanh niên đang làm việc trong công ty có vốn đầu tư nước ngoài: 01
người.
Với việc phỏng vấn đa dạng khách thể có những đặc trưng khác nhau và liên
quan tới đề tài nghiên cứu, từ đó làm rõ, sâu sắc hơn những quan điểm của từng
nhóm đối tượng khách thể đối với những luận điểm được đưa ra, để có được cái
nhìn, sự đánh giá khách quan, khoa học.
6.2.4. Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi:
Nhằm thu thập được những thông tin định lượng về vấn đề nghiên cứu, đề tài
xây dựng bảng hỏi tập trung vào những nội dung cụ thể như sau:
- Nhu cầu về việc làm, nghề nghiệp của thanh niên.
- Khả năng đáp ứng về việc làm, nghề nghiệp của thanh niên trong thời kỳ
hội nhập.
- Cách thức tìm kiếm việc làm, lựa chọn nghề nghiệp.
6.3. Phương pháp chọn mẫu:
Đề tài tiến hành chọn mẫu theo cụm, sau đó phân tầng theo trình độ học vấn,
số lượng phiếu phát ra: 220 phiếu. Trong đó:

Sau khi kiểm tra làm sạch, số phiếu sử dụng là 200 phiếu, cụ thể như sau:
Trình độ
Địa bàn
Tốt nghiệp
THPT
Tốt nghiệp
THCN
Tốt nghiệp
Cao đẳng,
Đại học
Trên Đại
học
Phường Đông Thành
15
40
35
12
Phường Tân Thành
15
40
35
08
Tổng
30
80
70
20




8


6.4. Kỹ thuật xử lý thông tin
Thông tin trong phiếu điều tra sau khi thu được sẽ được xử lý bằng phần
mềm SPSS for windows 13.0 với các bước cụ thể như sau:
- Kiểm tra và làm sạch phiếu hỏi
- Mã hóa các biến trong bảng hỏi
- Nhập các câu trả lời theo các biến đã được mã hóa
- Kiểm tra và làm sạch dữ liệu
- Tiến hành xử lý thông tin:
+ Đưa ra các bảng phân phối tần suất với các biến: Mức độ khó khăn về việc
làm nghề nghiệp; Những khó khăn về việc làm, nghề nghiệp; Tầm quan trọng của
các yếu tố/tiêu chí việc làm, nghề nghiệp; Mức độ hài lòng về việc làm, nghề
nghiệp hiện nay; Đánh giá về nguồn thông tin về việc làm/nghề nghiệp; Tầm quan
trọng của các yếu tố để có được việc làm, nghề nghiệp; Đánh giá về một số trình độ,
kỹ năng của thanh niên; Mức độ thường xuyên của việc sử dụng các cách thức để
nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng của thanh niên
+ Lập bảng chéo mô tả mối quan hệ giữa các biến: Mức độ khó khăn về việc
làm nghề nghiệp; Những khó khăn về việc làm, nghề nghiệp; Tầm quan trọng của
các yếu tố/tiêu chí việc làm, nghề nghiệp; Mức độ hài lòng về việc làm, nghề
nghiệp hiện nay; Đánh giá về nguồn thông tin về việc làm/nghề nghiệp; Tầm quan
trọng của các yếu tố để có được việc làm, nghề nghiệp; Đánh giá về một số trình độ,
kỹ năng của thanh niên; Mức độ thường xuyên của việc sử dụng các cách thức để
nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng của thanh niên với các biến về giới tính,
trình độ học vấn.
+ Kiểm định mối quan hệ giữa các biến: Đánh giá về tầm quan trọng của các
yếu tố/tiêu chí về việc làm, Tầm quan trọng của các yếu tố để có được việc làm,
Mức độ thường xuyên của việc sử dụng các cách thức để nâng cao trình độ, kiến
thức, kỹ năng của thanh niên với biến trình độ học vấn.


9


7. Khung lý thuyết:



























HỘI NHẬP VIỆC LÀM, NGHỀ NGHIỆP
CỦA THANH NIÊN
Điều kiện kinh tế-xã hội
(Thời kỳ hội nhập)
Cơ chế, chính
sách
Quan niệm, giá
trị, chuẩn mực
Khoa học,
công nghệ
Nhu cầu về việc
làm, nghề nghiệp
Khả năng đáp ứng yêu cầu
của việc làm, nghề nghiệp
Cách thức tìm việc làm,
lựa chọn nghề nghiệp
Kỹ
năng
Trình độ
chuyên
môn, tay
nghề
Đạo
đức, tác
phong
Vốn xã
hội
Truyền
thông

đại
chúng
Trung
tâm
giới
thiệu
việc
làm
Việc
làm có
thu
nhập
cao
Việc làm
phù hợp
với năng
lực, sở
thích
Việc
làm có
cơ hội
phát
triển

10


Chƣơng 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận:

1.1.1. Lý thuyết xã hội học áp dụng
1.1.1.1. Lý thuyết Tương tác xã hội
Thuyết Tương tác xã hội có nguồn gốc là các quan niệm xã hội học của Max
Weber, G. Simmel, R. Park, và các tác giả nổi bật của thuyết tương tác biểu trưng là
Charles Horton Cooley, George Herbert Mead, Herbert Blumer, Erving Goffman.
Luận điểm gốc của thuyết tương tác biểu trưng là: xã hội được tạo thành từ sự
tương tác của vô số các cá nhân, bất kỳ hành vi và cử chỉ nào của con người đều có
vô số các ý nghĩa khác nhau, hành vi và hoạt động của con người không những phụ
thuộc mà còn thay đổi cùng với các ý nghĩa biểu trưng. Do đó, để hiểu được tương
tác xã hội giữa các cá nhân, giữa con người với xã hội, cần phải nghiên cứu tương
tác xã hội, cần phải lý giải được ý nghĩa của các biểu hiện của mối tương tác đó.
Theo Cooley, cái tôi ở mỗi người là kết quả của sự tương tác với người khác,
của tri giác người khác tức là nhìn vào người khác như là soi mình trong gương.
Đến lượt nó, “cái tôi trong gương” là cơ sở để cá nhân tự đánh giá, tự kiểm soát, tự
điều chỉnh và tạo ra những mối tương tác xã hội, tổ chức xã hội. Như vậy, câu hỏi
“ta là ai?” chỉ có thể được trả lời dựa vào ý kiến đánh giá của người khác mà ta có
thể cảm nhận được khi tương tác với họ, chứ không hoàn toàn phụ thuộc vào bản
thân ta. Cooley cho rằng “cái tôi nhìn trong gương” gồm ba yếu tố quan trọng là: sự
hình dung về bề ngoài của ta đối với một người khác, sự hình dung về ấn tượng của
người đó về cái vẻ bề ngoài đó và sự tự cảm nhận của bản thân khi có những hình
dung đó. Như vậy, thuyết tương tác biểu trưng của Cooley góp phần trả lời trực tiếp
câu hỏi về bản chất mối quan hệ giữa các cá nhân và xã hội. Và xã hội được tạo nên
từ các mối tương tác xã hội giữa các cá nhân.

11


Còn G. Mead coi tương tác xã hội trong đó các cá nhân sử dụng các biểu
tượng và lý giải ý nghĩa của các hành động của nhau là chìa khóa để hiểu bản chất
của con người và của xã hội. Quan niệm về “cái tôi” là hạt nhân của thuyết tương

tác biểu trưng của Mead. Theo ông, “cái tôi” là một cấu trúc xã hội nảy sinh từ kinh
nghiệm xã hội mà cá nhân đã trải qua trong mối quan hệ “ba ngôi” của cá nhân với
bản thân, cá nhân với người khác và cá nhân với xã hội. Cá nhân tương tác với
chính bản thân mình qua cơ chế độc thoại, tự thoại, tự tác động tới chính bản thân
và qua cơ chế tương tác với người khác. Các biểu hiện của cơ chế này là việc đặt
mình vào vị trí của người khác, đóng vai người khác và đóng vai/nhập vai vào sự
vật. Trong mối quan hệ với xã hội, nhờ “cái tôi” mà con người có một loạt các khả
năng hành động quan trọng. Thứ nhất, cá nhân có thể tự tách ra khỏi bản thân để
nhìn mình như một người khác, tự đặt mình đối lập với người khác. Nhờ vậy, cá
nhân có thể phối hợp, thống nhất hành động của mình với hành động của người
khác. Thứ hai, con người có thể đặt mình vào vị trí của người khác, có thể đóng vai,
nhập vai để hiểu người khác, để tham gia vào quá trình xã hội, hội nhập xã hội.
Đồng thời, Mead quan niệm thành tố cơ bản của tương tác xã hội là biểu tượng: là
một loại kích thích mà phản ứng đáp lại của nó đã được đem lại từ trước. Do trong
quan hệ tương tác, điệu bộ, cử chỉ của người này là sự kích thích làm nảy sinh phản
ứng đáp lại từ phía người khác.
Trong khi đó, Erving Goffman cho rằng cá nhân thường tìm cách hiểu bằng
được họ cần phải làm gì và phải thể hiện như thế nào để không bị đánh mất “cái tôi”,
đánh mất mình. Do vậy, bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào, mọi người luôn có xu hướng
thu thập các thông tin về bối cảnh đó, nhất là về những người tham gia với tư cách
là thành viên và những đối tác của họ. Goffman chỉ rõ, cá nhân có nhu cầu và nhiệm
vụ điều khiển ấn tượng, tức là luôn tìm cách để định hướng, dẫn dắt và tạo ra ấn
tượng tốt đẹp về bản thân mình ở người khác. Ông làm rõ quan niệm cuộc đời là sân
khấu, mỗi tình huống là một cảnh, một đoạn kịch, trong đó, mỗi cá nhân thể hiện,
đóng vai diễn của mình. Đồng thời, Goffman cho rằng sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi
tương tác xã hội là tương tác xã hội trực tiếp giữa các cá nhân mà ông gọi là tương

12



tác xã hội mặt đối mặt. Tương tác xã hội giữa các nhóm xã hội hay các tổ chức đều
phải diễn ra thông qua mối tương tác xã hội trực tiếp mặt đối mặt. Theo Goffman đó
là quá trình tương tác xảy ra khi hai hay nhiều cá nhân hiện diện với nhau. Ông cho
rằng bất kỳ mối tương tác xã hội nào cũng bao gồm một số thành tố cơ bản là: các
cá nhân riêng lẻ hoặc nhóm các cá nhân, các mối tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp
thông qua phương tiện, khung cảnh diễn ra sự tương tác, các hoạt động chính và các
sự kiện xã hội.
Trong quá trình hội nhập việc làm, nghề nghiệp, thanh niên luôn được đặt
trong mạng lưới các quan hệ xã hội, mỗi mối quan hệ có một ý nghĩa và tương tác
xã hội khác nhau. Những mối tương tác xã hội, hành động tương tác xã hội đó có ý
nghĩa đối với họ trong việc tìm kiếm việc làm và trong quá trình làm việc của họ.
Những phẩm chất cá nhân, năng lực, trình độ, kỹ năng của thanh niên được bộc lộ
qua những mối tương tác xã hội đó. Từ những đặc điểm và năng lực cá nhân đã
quyết định tới sự phù hợp với công việc, lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân, cơ hội
có được việc làm và khả năng đáp ứng được trước những yêu cầu, đòi hỏi của việc
làm, những thay đổi của công việc: tính chất, công nghệ, tổ chức… Trong sự đa
dạng, phức tạp của những mối quan hệ xã hội thì tương tác xã hội trong mối quan
hệ với bạn bè, đồng nghiệp có ý nghĩa, tầm quan trọng quyết định đối với việc hội
nhập việc làm, nghề nghiệp của thanh niên.
1.1.1.2. Lý thuyết Trao đổi xã hội và sự lựa chọn duy lý
Thuyết lựa chọn duy lý dựa vào tiên đề cho rằng con người luôn hành động
một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực một cách
duy lý nhằm đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu. Trước khi quyết định một
hành động nào đó con người luôn đặt lên bàn cân để cân đo, đong đếm giữa chi phí
và lợi ích mang lại, nếu chi phí ngang bằng hoặc nhỏ hơn lợi ích thì cá nhân sẽ thực
hiện hành động và ngược lại nếu chi phí lớn hơn thì họ sẽ không thực hiện hành
động đó.

13



Thuyết lựa chọn duy lý đòi hỏi phải phân tích hành động lựa chọn của cá
nhân trong mối liên hệ với cả hệ thống xã hội của nó bao gồm các cá nhân khác với
những nhu cầu và sự mong đợi của họ, các khả năng lựa chọn và các sản phẩm đầu
ra của từng lựa chọn cùng các đặc điểm khác. Do tác động của nhiều yếu tố như vậy
mà các hành vi lựa chọn duy lý của các cá nhân có thể tạo ra những sản phẩm phi lý
không mong đợi của cả nhóm, tập thể.
G. Homans, nhà xã hội học người Mỹ đã đưa ra một số định đề cơ bản về
hành vi người như sau:
Định đề phần thưởng: đối với tất cả các hành động của con người, hành động
nào càng thường xuyên được khen thưởng thì càng có khả năng được lặp lại.
Định đề kích thích: nếu một (nhóm) kích thích nào trước đây đã từng khiến
cho một hành động nào đấy được khen thưởng thì một (nhóm) kích thích mới càng
giống với kích thích đó bao nhiêu thì càng có khả năng làm cho hành động tương tự
như trước đây được lặp lại bấy nhiêu.
Định đề giá trị: kết quả của hành động càng có giá trị cao đối với chủ thể bao
nhiêu thì chủ thể càng có xu hướng thực hiện hành động đó bấy nhiêu.
Định đề duy lý: cá nhân sẽ lựa chọn hành động nào mà giá trị của kết quả
hành động đó và khả năng đạt được kết quả đó là lớn nhất.
Định đề giá trị suy giảm: càng thường xuyên nhận được một phần thưởng
nào đó bao nhiêu, thì giá trị của nó càng giảm đi bấy nhiêu đối với chủ thể hành
động.
Định đề mong đợi: nếu sự mong đợi của con người được thực hiện thì người
ta sẽ hài lòng, còn nếu không được thực hiện thì cá nhân sẽ bực tức, không hài lòng.
Như vậy, con người luôn xem xét, lựa chọn hành động nào có thể đem lại
phần thưởng lớn nhất và có giá trị lớn nhất và luôn có xu hướng nhân bội giá trị của
kết quả hành động với khả năng hiện thực hóa hành động đó.

14



Khác với Homans, Blau quan tâm nghiên cứu sự trao đổi xã hội trong mối
quan hệ với cấu trúc vĩ mô. Trao đổi xã hội tạo ra mối quan hệ gắn kết, thiện chí, tin
cậy, nhất trí trong xã hội, tạo ra mối quan hệ quyền lực giữa các bên tham gia trao
đổi. Đồng thời, trao đổi xã hội có giá trị nội sinh, các bên tham gia sẵn sàng cho -
nhận những giá trị không ngang giá nhau. Bên cạnh đó, các bên tham gia luôn có xu
hướng tạo ra ấn tượng tốt đẹp với nhau. Blau còn cho rằng quan hệ thực sự là quan
hệ “xã hội” đem lại sự dễ chịu, thoải mái, tự nguyện chủ yếu là quan hệ xã hội diễn
ra giữa những người ngang bằng nhau về vị thế xã hội. Theo ông, quan hệ bất bình
đẳng tức là sự trao đổi giữa các bên không ngang nhau về vị thế sẽ đỡ căng thẳng
hơn nếu sự bất bình đẳng là có thật và được nhận thức một cách đầy đủ. Trao đổi xã
hội còn là sự thỏa thuận ngầm, hiểu ngầm và sự chờ đợi ngầm những gì sẽ được
nhận lại khi đem trao cái gì đó cho người khác.
Bước vào thời kỳ hội nhập, nhiều giá trị và quan niệm của xã hội thay đổi,
trong đó có những giá trị về việc làm, nghề nghiệp. Việc xác định cho mình những
giá trị nghề nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi người, đặc biệt là tầng lớp
thanh niên. Trên cơ sở xác định những giá trị đó, họ có được những sự lựa chọn cho
mình về nghề nghiệp và việc làm. Những sự lựa chọn, nhu cầu của họ được định
hướng và xác định đúng đắn, phù hợp với năng lực, khả năng, sở thích, điều kiện
của bản thân sẽ có ý nghĩa rất lớn tới việc họ có được việc làm cũng như sự gắn bó,
tâm huyết với công việc, với nghề, từ đó có được những thành công trong nghề
nghiệp.
Tuy nhiên, không phải lúc nào những mong muốn, nguyện vọng về nghề
nghiệp việc làm của họ cũng đạt được. Nó cũng phụ thuộc vào cách thức họ tìm
việc làm. Họ sử dụng những cái mà họ có: trình độ, kỹ năng, bằng cấp, tài chính,
mối quan hệ… để trao đổi, đạt được việc làm mà họ mong muốn.
1.1.1.3. Lý thuyết Vốn xã hội
Vốn xã hội (Social capital) là một thuật ngữ đã được sử dụng từ đầu thế kỷ
XX, nhưng nó chỉ được sử dụng một cách rộng rãi sau công trình của Coleman,


15


Bourdieu và Putnam vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990. Thuật ngữ
này liên quan đến mạng lưới xã hội, các chuẩn mực và sự tán thành, thừa nhận
khiến cho hành động hợp tác giữa các cá nhân và các cộng đồng được dễ dàng.
Pierre Bourdieu đưa ra định nghĩa về vốn xã hội: “Là tổng hợp các nguồn lực,
hữu hình hay vô hình hoặc sự tích lũy của một cá nhân hay một nhóm bởi một mạng
lưới bền vững của các mối quan hệ qua lại có mức độ thể chế hóa nhiều hay ít đã
được thừa nhận. Phải thừa nhận rằng vốn có thể mang đến một sự khác biệt về các
hình thức mà không thể thiếu được trong việc giải thích cấu trúc và những động lực
về sự khác biệt giữa các xã hội” (Bourdieu và Wacquant, 1992, tr119).[38]
Nhà xã hội học người Mỹ, Jame Coleman, tương tự như Bourdieu, đưa ra
một khái niệm rất rộng về vốn xã hội mà không dựa vào cơ sở nghiên cứu lĩnh vực
hẹp “Vốn xã hội được định nghĩa bằng chức năng của nó. Nó không phải là những
thực thể riêng lẻ mà là những thực thể đa dạng, với hai thành tố chung: chúng bao
gồm một số khía cạnh của cấu trúc xã hội và tất nhiên là chúng linh hoạt trong các
hành động của các tác nhân – dù các tác nhân hoặc liên kết các tác nhân – trong cấu
trúc đó. Cũng giống như các hình thức khác của vốn, nhờ vốn xã hội có thể đạt
được những mục tiêu cụ thể mà nếu không có vốn xã hội thì không thể đạt được”
(Halpern, 2005, tr 39).[38]
Khác với các định nghĩa trên đề cập đến cấp độ vĩ mô của vốn xã hội, thì
Putnam, một giáo sư xã hội học ở Đại học Harvard lại nhấn mạnh khía cạnh vi mô
của vốn xã hội: “Những mối liên hệ trong mạng kết nối giữa các cá thể từng con
người với nhau, giữa cá thể con người và xã hội, về những mối quan hệ tạo ra sự có
đi và có lại, sự tin cậy nhau về những chuẩn mực hình thành từ những mối quan hệ
này. Với nghĩa như vậy, vốn xã hội liên quan mật thiết đến phẩm chất công dân”
(Putnam, 2000). [38]
Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về vốn xã hội, song nhìn chung vốn
xã hội được xem như là tập hợp các mối quan hệ của mỗi cá nhân trong các mạng

lưới xã hội và khả năng tạo ra các mối quan hệ mới của mỗi cá nhân đó. Vốn xã hội

16


của mỗi cá nhân được tích lũy trong quá trình xã hội hóa của họ và thông qua sự
tương tác giữa các cá nhân. Vốn xã hội được duy trì, phát triển và tạo ra những lợi
ích mà người sở hữu nó mong muốn như khả năng tiếp cận và huy động các nguồn
lực được gắn vào các mối quan hệ, chia sẻ thông tin, kiến thức, cơ hội việc làm, tình
cảm, các chuẩn mực, giá trị.
Vốn xã hội được xây dựng trên cơ sở các cá nhân cùng chia sẻ những chuẩn
mực và quy tắc để tạo ra sự tin cậy lẫn nhau. Sự tin cậy này cho phép các cá nhân
quan hệ và hợp tác với nhau để tạo ra các mạng lưới xã hội. Tuy nhiên, khả năng
tạo ra vốn xã hội là khác nhau ở mỗi cá nhân, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
gia đình, dòng họ, nơi cư trú (nông thôn, đô thị), học vấn, giới tính, địa vị xã hội,
tôn giáo…
Coleman đã đưa ra một số hình thức của vốn xã hội như sau: Lòng tin, sự kỳ
vọng, trách nhiệm được thể hiện trong quan hệ xã hội và nhờ chúng mà hành động
được thực hiện đều là những hình thái của vốn xã hội; Thông tin được phát triển và
trao đổi trong quan hệ giữa người này với người khác mà nhờ nó hành động được
thực hiện cũng là hình thái của vốn xã hội; Những chuẩn mực xã hội có hiệu lực mà
nhờ nó hành động được thực hiện. Dưới hình thái là những chuẩn mực, vốn xã hội
có thể khuyến khích hoặc kiềm chế hành động của các cá nhân, nhóm xã hội; Quyền
lực hay uy tín cũng được xem là một hình thái của vốn xã hội, bởi vì khi giao quyền
kiểm soát hành động cho một người nào đó, điều này cũng có nghĩa là đã tạo ra vốn
xã hội cho người đó.
Vốn xã hội được xem là một dạng vốn được sử hữu bởi các thành viên của
một nhóm hay mạng lưới xã hội. Do vậy, vốn xã hội cũng có những đặc trưng cơ
bản của “vốn” như “tích lũy”, “đầu tư” và “sinh lợi”. Tính tích lũy được thể hiện ở
chỗ các mối quan hệ xã hội được tạo thành và được tích lũy qua thời gian để tạo

thành vốn. Vì vậy, vốn xã hội đòi hỏi phải có sự đầu tư, ít nhất là về thời gian để
duy trì và phát triển các mối quan hệ. Từ đó, các lợi ích vật chất và tinh thần mà các
cá nhân mong đợi sẽ được sản sinh thông qua sự tương tác giữa các cá nhân trong

17


cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, vốn xã hội còn có đặc trưng của một “tài sản công”
mà mỗi thành viên của một nhóm hay mạng lưới xã hội có thể tiếp cận được và huy
động cho các mục đích riêng. Đây là đặc trưng để phân biệt vốn xã hội với các loại
vốn khác. Đồng thời, vốn xã hội chỉ tồn tại và sinh ra lợi ích khi có một sự tương
tác được lặp lại giữa ít nhất hai cá nhân. Bởi vì, thông qua sự tương tác lặp đó thì
vốn xã hội mới được duy trì và sản sinh ra các lợi ích, trong khi đó vốn con người
(kiến thức, kỹ năng, tay nghề) có thể tự sản sinh ra lợi ích mà không cần tương tác
với các cá nhân khác. Ngoài ra vốn xã hội còn chứa đựng các yếu tố ngoại sinh như
các chuẩn mực, quy tắc, giá trị mà các cá nhân cùng chia sẻ để tạo ra sự tin cậy lẫn
nhau, nhờ đó mà các quan hệ xã hội và các mạng lưới xã hội được hình thành. Với
các đặc trưng như vậy nên vốn xã hội có thể sẽ bị nghèo đi nếu ít có sự đầu tư và
không thể sản sinh ra lợi ích nếu không có sự chia sẻ hay tiếp cận và huy động các
nguồn lực được gắn vào mạng lưới xã hội.
Thuyết mạng lưới xã hội là một nhánh của khoa học xã hội đã được ứng
dụng cho một phạm vi rộng của tổ chức con người, từ những nhóm nhỏ cho đến
toàn bộ quốc gia. Thuật ngữ “mạng lưới” liên quan đến chuỗi các vật thể, điểm mấu
chốt và một bản đồ miêu tả về mối quan hệ giữa các vật thể. Theo cách thức của
mạng lưới xã hội thì các vật thể liên quan đến con người hoặc những nhóm người.
Mối quan hệ đó có thể có định hướng một chiều hoặc hai chiều.
Mạng lưới xã hội có thể chia theo những cấp độ khác nhau (vi mô, trung gian,
vĩ mô) và mạng lưới xã hội của các cá nhân cũng có thể khác nhau. Điều này tùy
thuộc vào vốn xã hội và vốn con người của cá nhân.
Trong mạng lưới xã hội, vốn con người nằm ở các đầu mối còn vốn xã hội

nằm ở các đường liên hệ, quan hệ giữa các đầu mối. Người ta có thể phân chia
mạng lưới xã hội thành mạng lưới vi mô (quan hệ xã hội trong các nhóm nhỏ) và
mạng lưới xã hội vĩ mô (quan hệ xã hội trong các nhóm lớn, cộng đồng, xã hội).
Khái niệm vốn xã hội có quan hệ bổ sung với cách tiếp cận “quan hệ mạnh-
yếu”. Cách tiếp cận quan hệ mạnh-yếu cụ thể hơn, chú ý đến quan hệ giữa các cá

18


nhân và chú ý đến cái được trao đổi. Granovetter đưa ra giả thuyết “Sức mạnh của
quan hệ yếu” từ góc nhìn chức năng “cầu nối” (“bridging”) – chức năng truyền
thông tin từ xã hội này đến xã hội kia – của những người quan hệ yếu [35, tr 1364].
Theo Granovetter, những người thuộc nhóm quan hệ mạnh (hay nói đúng hơn là
quan hệ với những người gần gũi, thường xuyên gặp gỡ) thì có mức độ “đồng chất”
cao về mạng lưới xã hội, họ có khả năng thuộc vào mạng lưới xã hội giống nhau.
Trong khi đó, những người có quan hệ yếu (hay nói đúng hơn là quan hệ với những
người hiếm khi gặp) thì mức độ “đồng chất” thấp, họ có khả năng thuộc vào mạng
lưới xã hội khác. Xã hội hoặc thế giới xung quanh mình và xã hội hoặc thế giới của
người khác tất nhiên có khác biệt về mặt thông tin. Cho nên người ta có thể biết
được những thông tin mới nhiều hơn qua những người có quan hệ yếu [35, tr 205].
Những người có quan hệ yếu có giá trị thông tin. Granovetter nói một cá nhân có ít
quan hệ yếu sẽ bị tước mất cơ hội tiếp cận những thông tin của cơ cấu xã hội khác
và sẽ bị giới hạn ở những thông tin cục bộ, thậm chí bị giới hạn ở cách nhìn của
người thân. Nghĩa là các cá nhân đó bị cách ly với những ý tưởng mới họ rơi vào
thế bất lợi trong thị trường lao động [35, tr 202].
Trong bối cảnh hội nhập với thế giới và khu vực, cùng với sự phát triển về
kinh tế đã tác động tới việc làm, nghề nghiệp: số lượng, cơ cấu, loại hình, tính
chất… Do đó để có được việc làm, nghề nghiệp đặc biệt là những việc làm phù hợp
với nguyện vọng, mong muốn của bản thân thì mỗi thanh niên trong thị trường lao
động bên cạnh việc học tập về trình độ, kỹ năng thì họ cần có đến vốn xã hội, các

mối quan hệ trong mạng lưới xã hội của họ để có được việc làm. Cách thức họ tìm
kiếm việc làm có ý nghĩa quyết định tới việc họ có được việc làm.
Do có sự chuyển hóa lẫn nhau giữa vốn văn hóa, vốn tài chính, vốn xã hội,
họ có thể sử dụng vốn văn hóa, vốn tài chính để có được vốn xã hội và cũng có thể
sử dụng vốn xã hội để có được vốn văn hóa và tài chính. Những thanh niên có vốn
con người cao thường dễ dàng hơn trong việc thiết lập và duy trì các mối quan hệ và
những mối quan hệ đó cũng thường hướng đến những người có vốn con người cao.
Chính vốn xã hội này góp phần gia tăng cơ hội có được việc làm của họ.

×