Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Hội nhập việc làm, nghề nghiệp của thanh niên khảo sát trên địa bàn thành phố ninh bình, tỉnh ninh bình (giai đoạn 2005 2011)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.94 KB, 29 trang )

Hội nhập việc làm, nghề nghiệp của thanh niên
- Khảo sát trên địa bàn thành phố Ninh Bình,
tỉnh Ninh Bình (Giai đoạn 2005-2011)

Đinh Thị Mai Trâm

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Khoa Xã hội học
Chuyên ngành: Xã hội học; Mã số: 60 31 30
Người hướng dẫn: TS. Trương An Quốc
Năm bảo vệ: 2012

Abstract. Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài “hội nhập việc làm và nghề
nghiệp”. Chỉ ra nhu cầu về việc làm, nghề nghiệp của thanh niên. Làm rõ thực trạng khả
năng đáp ứng (trình độ, kỹ năng) đối với việc làm, nghề nghiệp của thanh niên trong
thời kỳ hội nhập trên địa bàn thành phố Ninh Bình. Cách thức thanh niên trên địa bàn
nghiên cứu tìm kiếm việc làm, lựa chọn nghề nghiệp.

Keywords. Xã hội học; Việc làm; Nghề nghiệp; Thanh niên; Ninh Bình

Content.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hội nhập với thế giới và khu vực đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng đưa đến
không ít những thách thức đối với nước ta. Đặc biệt với việc gia nhập tổ chức Thương
mại thế giới WTO, bộ mặt kinh tế của đất nước cũng có nhiều thay đổi, tạo ra nhiều
việc làm cho người lao động nhưng cũng đòi hỏi người lao động phải chủ động và tích
cực hơn trong việc tìm kiếm việc làm và thích ứng với những việc làm mới, nghề
nghiệp mới. Do vậy, sự cạnh tranh trên thị trường lao động ngày càng khốc liệt đối với
những người đang tìm kiếm việc làm và cả giữa những người đang có việc làm muốn
duy trì hay cố gắng tìm một công việc tốt hơn. Điều này đặc biệt quan trọng đối với
thanh niên, những người có nhu cầu rất lớn về việc làm, có trình độ, năng lực, sự nhanh


nhạy và khả năng thích ứng cao với cái mới nhưng cũng là người đang chịu áp lực rất
lớn về việc làm, thiếu việc làm và thất nghiệp.
Ninh Bình là một thành phố trong những năm vừa qua có tốc độ tăng trưởng kinh
tế khá mạnh, sự phát triển kinh tế đã tạo ra nhiều việc làm cho người lao động đặc biệt
là những loại hình việc làm mới trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Nhưng đây cũng
là thành phố có số người trong độ tuổi lao động rất lớn đặc biệt là tầng lớp thanh niên và
họ cũng đang gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại trong việc tìm kiếm việc làm, lựa chọn
nghề nghiệp cho bản thân. Cùng với sự thay đổi của cơ cấu, tính chất việc làm, những
yêu cầu mới trên thị trường lao động, đòi hỏi thanh niên phải có những điều chỉnh để
thích ứng. Chính vì vậy, tác giả đã quyết định nghiên cứu đề tài: “Hội nhập việc làm,
nghề nghiệp của thanh niên – khảo sát trên địa bàn Thành phố Ninh Bình, tỉnh
Ninh Bình (Giai đoạn 2005-2011)” với mong muốn góp phần đưa lại một cái nhìn khái
quát về những nhu cầu và sự lựa chọn của họ về việc làm, nghề nghiệp; Thực trạng khả
năng đáp ứng của thanh niên trước những yêu cầu, đòi hỏi về việc làm, nghề nghiệp
trong thời kỳ hội nhập cũng như cách thức họ tìm kiếm việc làm để từ đó các nhà hoạch
định chính sách và các nhà quản lý có những giải pháp để sử dụng hợp lý nguồn lao
động này.
2. Ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học:
Với đề tài này, tác giả đã sử dụng các khái niệm cơ bản của xã hội học: hành
động xã hội, quan hệ xã hội, cơ cấu xã hội, vai trò… cùng một số lý thuyết như: Lý
thuyết Tương tác xã hội, lý thuyết Trao đổi xã hội và sự lựa chọn hợp lý, lý thuyết Vốn
xã hội. Đồng thời kết quả nghiên cứu thu được dựa trên cơ sở việc sử dụng các phương
pháp nghiên cứu xã hội học. Chính vì vậy, việc thực hiện đề tài này góp phần đưa hệ
thống lý thuyết, lý luận xã hội học vào nghiên cứu thực tiễn. Và cũng chính thông qua
nghiên cứu thực tiễn góp phần bổ sung, hoàn thiện và làm phong phú thêm hệ thống lý
thuyết xã hội học.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Đưa lại một cái nhìn tổng quan về khả năng đáp ứng yêu cầu việc làm, nghề
nghiệp của họ trong thời kỳ hội nhập; Nhu cầu và sự lựa chọn của thanh niên đối với

việc làm, nghề nghiệp, bên cạnh đó là cách thức họ tìm kiếm việc làm thông qua những
thông tin, số liệu điều tra cụ thể trên địa bàn nghiên cứu trong giai đoạn 2005 – 2011,
đặc biệt với sự tác động của việc gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế WTO (ngày
chính thức có hiệu lực 11/1/2007).
Đồng thời đưa ra được một số những khuyến nghị giúp cho chính những người
thanh niên đang có nhu cầu tìm kiếm việc làm có cơ hội tìm được việc làm, lựa chọn
được nghề nghiệp phù hợp trong thời kỳ hội nhập; Còn các nhà quản lý, hoạch định
chính sách có những giải pháp để sử dụng tốt hơn nữa lực lượng lao động này.
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
“Hội nhập việc làm, nghề nghiệp của thanh niên – khảo sát trên địa bàn Thành
phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình (Giai đoạn 2005-2011)”
3.2. Khách thể nghiên cứu:
- Thanh niên trên địa bàn Thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình (độ tuổi từ 15 -
29 tuổi).
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi thời gian: Từ tháng 6 năm 2011 đến tháng 2 năm 2012
- Phạm vi không gian: Thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.
- Phạm vi nội dung:
+ Những nhu cầu về việc làm, nghề nghiệp của thanh niên.
+ Khả năng đáp ứng (trình độ, kỹ năng) của thanh niên đối với việc làm, nghề
nghiệp trong thời kỳ hội nhập.
+ Cách thức tìm kiếm việc làm, lựa chọn nghề nghiệp của thanh niên.
4. Mục tiêu nghiên cứu:
- Chỉ ra nhu cầu về việc làm, nghề nghiệp của thanh niên.
- Làm rõ thực trạng khả năng đáp ứng (trình độ, kỹ năng) đối với việc làm, nghề
nghiệp của thanh niên trong thời kỳ hội nhập trên địa bàn thành phố Ninh Bình.
- Cách thức thanh niên trên địa bàn nghiên cứu tìm kiếm việc làm, lựa chọn nghề
nghiệp.
5. Giả thuyết nghiên cứu:

- Bước vào thời kỳ hội nhập, thanh niên đang gặp nhiều khó khăn trong tìm kiếm
việc làm, lựa chọn nghề nghiệp.
- Thanh niên lựa chọn việc làm, nghề nghiệp chủ yếu theo sự phù hợp với năng
lực bản thân.
- Bước vào thời kỳ hội nhập, thanh niên tìm kiếm việc làm, nghề nghiệp chủ yếu
thông qua mạng lưới xã hội.
- Trình độ chuyên môn và kỹ năng của thanh niên còn chưa đáp ứng được yêu
cầu đối với việc làm, nghề nghiệp trong thời kỳ hội nhập.
6. Phương pháp nghiên cứu:
6.1. Phương pháp luận:
Đề tài nghiên cứu lấy chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng
làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu của mình. Thông qua đó, các hành
động cũng như sự kiện, hiện tượng xảy ra được nhìn nhận và đánh giá dưới góc nhìn
khách quan, khoa học.
Với đề tài: “Hội nhập việc làm, nghề nghiệp của thanh niên – khảo sát trên
địa bàn Thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình (Giai đoạn 2005-2011)” tác giả đã
đặt vấn đề việc làm, nghề nghiệp của thanh niên trong bối cảnh kinh tế - xã hội của đất
nước nói chung và của thành phố Ninh Bình nói riêng đặc biệt là với sự hội nhập kinh tế
thế giới và khu vực tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Mặt khác, vấn đề việc
làm của thanh niên được đặt trong điều kiện cụ thể của địa phương còn được thể hiện ở
sự gia tăng về số lao động hằng năm và cơ cấu về độ tuổi lao động, trong đó có tầng lớp
thanh niên với độ tuổi từ 15-29 tuổi. Điều này có tác động rất lớn tới vấn đề nghiên cứu
của đề tài.
6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
6.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu:
Nhằm đem lại một cái nhìn khách quan, toàn diện về vấn đề nghiên cứu, đề tài sử
dụng những tài liệu, sách báo, công trình nghiên cứu có nội dung liên quan, sau đó
thông qua việc phân tích, đánh giá, tổng hợp, làm phong phú và hoàn thiện hơn cho kết
quả nghiên cứu.
6.2.2. Phương pháp quan sát:

Thông qua quá trình tri giác trực tiếp để thu thập những thông tin cần thiết liên
quan tới đề tài, những hành động, thái độ của thanh niên trong việc tìm kiếm việc làm,
lựa chọn nghề nghiệp cũng như khả năng đáp ứng yêu cầu về việc làm, nghề nghiệp của
họ. Bên cạnh đó là thái độ, hành động của người tuyển dụng lao động đối với vấn đề
này.


6.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu:
Thông qua quá trình tương tác trao đổi trực tiếp giữa người đi phỏng vấn và
người được phỏng vấn, qua đó thu thập những thông tin mang tính định tính cho đề tài
nghiên cứu. Đề tài tiến hành phỏng vấn sâu: Cán bộ ngành Lao động, thương binh và xã
hội: 01 người; Cán bộ Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh: 01 người; Người sử
dụng lao động: 01 người; Trung tâm giới thiệu việc làm: 01 người; Thanh niên đang
làm việc trong cơ quan nhà nước: 01 người; Thanh niên đang làm việc trong công ty cổ
phần: 01 người; Thanh niên đang làm việc trong doanh nghiệp tư nhân: 01 người;
Thanh niên đang làm việc trong công ty có vốn đầu tư nước ngoài: 01 người.
6.2.4. Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi:
Nhằm thu thập được những thông tin định lượng về vấn đề nghiên cứu, đề tài xây
dựng bảng hỏi tập trung vào những nội dung cụ thể như sau:
- Nhu cầu về việc làm, nghề nghiệp của thanh niên.
- Khả năng đáp ứng về việc làm, nghề nghiệp của thanh niên trong thời kỳ hội
nhập.
- Cách thức tìm kiếm việc làm, lựa chọn nghề nghiệp.
6.3. Phương pháp chọn mẫu:
Đề tài tiến hành chọn mẫu theo cụm, sau đó phân tầng theo trình độ học vấn, số
lượng phiếu phát ra: 220 phiếu. Sau khi kiểm tra làm sạch, số phiếu sử dụng là 200
phiếu, cụ thể như sau:
Trình độ
Địa bàn
Tốt nghiệp

THPT
Tốt nghiệp
THCN
Tốt nghiệp
Cao đẳng,
Đại học
Trên Đại
học
Phường Đông Thành
15
40
35
12
Phường Tân Thành
15
40
35
08
Tổng
30
80
70
20





7. Khung lý thuyết:
























HỘI NHẬP VIỆC LÀM, NGHỀ NGHIỆP
CỦA THANH NIÊN
Điều kiện kinh tế-xã hội
(Thời kỳ hội nhập)
Cơ chế, chính
sách
Quan niệm, giá
trị, chuẩn mực

Khoa học,
công nghệ
Nhu cầu về việc
làm, nghề nghiệp
Khả năng đáp ứng yêu cầu
của việc làm, nghề nghiệp
Cách thức tìm việc làm,
lựa chọn nghề nghiệp
Kỹ
năng
Trình độ
chuyên
môn, tay
nghề
Đạo
đức, tác
phong
Vốn xã
hội
Truyền
thông
đại
chúng
Trung
tâm
giới
thiệu
việc
làm
Việc

làm có
thu
nhập
cao
Việc làm
phù hợp
với năng
lực, sở
thích
Việc
làm có
cơ hội
phát
triển
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận:
1.1.1. Lý thuyết xã hội học áp dụng
1.1.1.1. Lý thuyết Tương tác xã hội
Thuyết Tương tác xã hội có nguồn gốc là các quan niệm xã hội học của Max
Weber, G. Simmel, R. Park, và các tác giả nổi bật của thuyết tương tác biểu trưng là
Charles Horton Cooley, George Herbert Mead, Herbert Blumer, Erving Goffman. Luận
điểm gốc của thuyết tương tác biểu trưng là: xã hội được tạo thành từ sự tương tác của
vô số các cá nhân, bất kỳ hành vi và cử chỉ nào của con người đều có vô số các ý nghĩa
khác nhau, hành vi và hoạt động của con người không những phụ thuộc mà còn thay đổi
cùng với các ý nghĩa biểu trưng. Do đó, để hiểu được tương tác xã hội giữa các cá nhân,
giữa con người với xã hội, cần phải nghiên cứu tương tác xã hội, cần phải lý giải được ý
nghĩa của các biểu hiện của mối tương tác đó.
Trong quá trình hội nhập việc làm, nghề nghiệp, thanh niên luôn được đặt trong
mạng lưới các quan hệ xã hội, mỗi mối quan hệ có một ý nghĩa và tương tác xã hội khác

nhau. Những mối tương tác xã hội, hành động tương tác xã hội đó có ý nghĩa đối với họ
trong việc tìm kiếm việc làm và trong quá trình làm việc của họ. Những phẩm chất cá
nhân, năng lực, trình độ, kỹ năng của thanh niên được bộc lộ qua những mối tương tác
xã hội đó. Trong sự đa dạng, phức tạp của những mối quan hệ xã hội thì tương tác xã
hội trong mối quan hệ với bạn bè, đồng nghiệp có ý nghĩa, tầm quan trọng quyết định
đối với việc hội nhập việc làm, nghề nghiệp của thanh niên.
1.1.1.2. Lý thuyết Trao đổi xã hội và sự lựa chọn duy lý
Thuyết lựa chọn duy lý dựa vào tiền đề cho rằng con người luôn hành động một
cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực một cách duy lý
nhằm đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu. Trước khi quyết định một hành động
nào đó con người luôn đặt lên bàn cân để cân đo, đong đếm giữa chi phí và lợi ích mang
lại, nếu chi phí ngang bằng hoặc nhỏ hơn lợi ích thì cá nhân sẽ thực hiện hành động và
ngược lại nếu chi phí lớn hơn thì họ sẽ không thực hiện hành động đó.
Thuyết lựa chọn duy lý đòi hỏi phải phân tích hành động lựa chọn của cá nhân
trong mối liên hệ với cả hệ thống xã hội của nó bao gồm các cá nhân khác với những
nhu cầu và sự mong đợi của họ, các khả năng lựa chọn và các sản phẩm đầu ra của từng
lựa chọn cùng các đặc điểm khác. Do tác động của nhiều yếu tố như vậy mà các hành vi
lựa chọn duy lý của các cá nhân có thể tạo ra những sản phẩm phi lý không mong đợi
của cả nhóm, tập thể.
Bước vào thời kỳ hội nhập, nhiều giá trị và quan niệm của xã hội thay đổi, trong
đó có những giá trị về việc làm, nghề nghiệp. Việc xác định cho mình những giá trị
nghề nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi người, đặc biệt là tầng lớp thanh niên.
Trên cơ sở xác định những giá trị đó, họ có được những sự lựa chọn cho mình về nghề
nghiệp và việc làm.
Tuy nhiên, không phải lúc nào những mong muốn, nguyện vọng về nghề nghiệp
việc làm của họ cũng đạt được. Nó cũng phụ thuộc vào cách thức họ tìm việc làm. Họ
sử dụng những cái mà họ có: trình độ, kỹ năng, bằng cấp, tài chính, mối quan hệ… để
trao đổi, đạt được việc làm mà họ mong muốn.
1.1.1.3. Lý thuyết Vốn xã hội
Vốn xã hội (Social capital) là một thuật ngữ đã được sử dụng từ đầu thế kỷ XX,

nhưng nó chỉ được sử dụng một cách rộng rãi sau công trình của Coleman, Bourdieu và
Putnam vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990. Thuật ngữ này liên quan
đến mạng lưới xã hội, các chuẩn mực và sự tán thành, thừa nhận khiến cho hành động
hợp tác giữa các cá nhân và các cộng đồng được dễ dàng.
Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về vốn xã hội, song nhìn chung vốn xã
hội được xem như là tập hợp các mối quan hệ của mỗi cá nhân trong các mạng lưới xã
hội và khả năng tạo ra các mối quan hệ mới của mỗi cá nhân đó. Vốn xã hội của mỗi cá
nhân được tích lũy trong quá trình xã hội hóa của họ và thông qua sự tương tác giữa các
cá nhân.
Nhờ các mối quan hệ trong mạng lưới xã hội, thanh niên có được những thông
tin từ việc làm, những thông tin này có thể xuất phát từ người thân trong gia đình, anh
em, họ hàng hoặc từ bạn bè. Sự mở rộng của mối quan hệ với sự đa dạng của mạng lưới
xã hội, từ đó thông tin về việc làm phong phú hơn. Trong nhiều trường hợp, những
thông tin từ việc làm lại xuất phát từ những người quen, những mối quan hệ ít thân thiết
hơn. Cùng với những mối quan hệ đã trở nên gắn bó, gần gũi thì những mối quan hệ ban
đầu còn ít thân thiết (sức mạnh của mối quan hệ yếu), những mối quan hệ này có vai
trò, ý nghĩa rất lớn trong việc hỗ trợ để có được việc làm: tư vấn, đưa ra những lời
khuyên, cung cấp tài liệu, cách thức thi tuyển… gia tăng cơ hội có được việc làm.
1.1.2. Các khái niệm công cụ
1.1.2.1. Khái niệm Hội nhập, Hội nhập việc làm, nghề nghiệp
Hội nhập là khái niệm nền tảng của lý thuyết chức năng, nó mô tả phương thức
quan hệ của những đơn vị trong một hệ thống mà vì hệ thống đó, một mặt chúng hành
động một cách tập thể để tránh phá vỡ nó và làm cho nó không thể duy trì được tính ổn
định của mình và mặt khác chúng “hợp tác” để thúc đẩy sự hoạt động của nó như một
thể thống nhất. (T.Parsons, Những tiểu luận về lý thuyết xã hội học).
Hội nhập việc làm không chỉ là tìm được việc làm, đó còn là tìm được một việc
làm phù hợp/tương ứng với/đáp ứng được những gì mà người lao động kỳ vọng, biểu thị
bằng những mục tiêu rõ rệt (được đặt ra và đã, hoặc) cần đạt được;
Không chỉ là tìm một việc làm để có nguồn thu nhập (kiếm sống), đó còn là một
việc làm cho phép hướng tới một tương lai nghề nghiệp xác định, được hiểu là bao gồm

không chỉ những đặc trưng chung, có tính vĩ mô, mà cả những đặc trưng riêng của cá
nhân, có tính chủ thể xã hội;
Không chỉ là tìm thấy và duy trì được một chỗ làm/ một vị thế nhất định trong hệ
thống phân công lao động xã hội (hệ thống kép doanh nghiệp và xã hội) mà, hơn nữa,
còn có được những cơ hội thăng tiến xét theo nghĩa rộng, tức là cho phép (cá nhân) tự
hoàn thiện và phát triển trong công việc, trong nghề nghiệp, trong cuộc sống riêng và
trong xã hội, nói chung.
1.1.2.2. Khái niệm Việc làm
Điều 13, Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy
định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được
thừa nhận là việc làm”.
Như vậy, theo Bộ Luật Lao động thì khái niệm việc làm bao gồm những nội
dung sau: Là hoạt động lao động của con người; hoạt động lao động nhằm mục đích tạo
ra thu nhập (là các khoản nhận được bằng tiền hoặc hiện vật từ việc làm, thường được
tính theo tháng, năm); hoạt động lao động đó không bị pháp luật ngăn cấm.
Việc làm còn là giới hạn xã hội mà trong đó lao động diễn ra. Lao động nằm
trong giới hạn thì tạo việc làm. Ở định nghĩa này, việc làm bao gồm cả điều kiện lao
động, không gian và thời gian nhất định.
1.1.2.3. Khái niệm Nghề nghiệp
Theo Từ điển Tiếng Việt thì nghề nghiệp là một việc làm được một người
chuyên làm trong một thời gian dài, được người đó thực hiện một cách thành thạo, có
chất lượng và hiệu quả.
Ngoài ra, một số định nghĩa khác lại cho rằng: Nghề là một loại hình việc làm,
nghề bao gồm đầy đủ những tính chất của việc làm; Nghề là một thực thể xã hội; Nghề
là một thực thể phát triển và có xu thế biến động ngày một nhanh; Nghề là công việc
được hình thành như là sứ mệnh được thực hiện, đang thực hiện. Một trạng thái như vậy
tức là sự cảm nhận khi hoàn thành một công việc không phải là cái tự nhiên, vốn có của
con người. Trạng thái thoải mãn đó không phải do một nguyên nhân duy nhất là “trả
lương”. Trạng thái đó là kết quả của một quá trình giáo dục lâu dài. Mức độ thoải mãn
với nghề có sự khác ở những người có quá trình giáo dục khác nhau.

1.1.2.4. Khái niệm Thanh niên
Thanh niên là thuật ngữ được đề cập đến trong xã hội học như là một điển hình
về vị thế quy gán, hay một cái nhãn được đặt ra về mặt xã hội chứ không chỉ đơn giản là
điều kiện sinh học của thời tuổi trẻ. Thuật ngữ này được sử dụng theo ba cách: Một cách
rất chung thì nó bao hàm toàn bộ các giai đoạn trong vòng đời, từ lúc còn trẻ đến khi bắt
đầu thành người trưởng thành; một cách hay dùng thay cho thuật ngữ vị thành niên vốn
chưa hợp lý lắm, để chỉ lý thuyết và nhu cầu thanh thiếu niên (tuổi 13-19 tuổi) và quá
trình chuyển thành người lớn; Cách sử dụng hiện nay ít phổ biến hơn để chỉ một tập hợp
những vấn đề giả định về tình cảm và xã hội gắn với việc lớn lên trong xã hội công
nghiệp đô thị
Theo N. O’Higgins, thanh niên là lứa tuổi đang trong thời gian chuyển tiếp giữa
thời thiếu niên và trưởng thành.
Theo cơ cấu lứa tuổi của dân số các nước trên thế giới có những quy định khác
nhau về độ tuổi thanh niên, thông thường từ 15 đến 24, 25, 29 hoặc 34 tuổi. Theo Liên
Hợp Quốc lứa tuổi 15 – 34 là thuộc cơ cấu lao động trẻ. Còn thanh niên thường chỉ tính
trong độ tuổi 15 – 24 để hàm ý ở độ tuổi này thanh niên bao gồm những người rời ghế
nhà trường sớm nhất từ 15 tuổi (kết thúc THCS khi 15 tuổi) và kết thúc việc đào tạo
nghề nghiệp ở cấp Đại học lúc 24 tuổi. Nhiều nước quy định, thanh niên là trong độ tuổi
15-24, riêng Việt Nam quy định ở độ tuổi 15-29 (tuổi còn sinh hoạt trong tổ chức đoàn
Thanh niên).
1.2. Cơ sở thực tiễn:
1.2.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu:
- Hội nhập việc làm nghề nghiệp của người tốt nghiệp đại học (Khảo sát trên địa
bàn thành phố Hà Nội), TS. Trương An Quốc, đề tài cấp Đại học Quốc gia, nghiệm thu:
tháng 12/2006.
- Thanh niên với việc làm và phát triển tài năng, TS Dương Tự Đam, NXB Thanh
niên, năm 2008.
- Thanh niên với hội nhập khu vực và thế giới, PTS. Hồ Đức Việt, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội năm 1997.
- Thị trường lao động và định hướng nghề nghiệp cho thanh niên, TS. Nguyễn

Hữu Dũng, NXB Lao động xã hội, Hà Nội năm 2005.
- Lao động - việc làm trong thời kỳ hội nhập, Bộ Lao động - Thương binh và xã
hội, Viện Khoa học Lao động và xã hội, NXB Lao động – xã hội, năm 2009.
- Định hướng nghề nghiệp và việc làm, Tổng cục Dạy nghề, NXB Lao động - xã
hội, Hà Nội năm 2004.
- Xu hướng việc làm Việt Nam 2009, Trung tâm Quốc gia Dự báo và thông tin thị
trường lao động, Cục Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Hà Nội, tháng 8
năm 2009.
- Xu hướng việc làm Việt Nam 2010, Trung tâm Quốc gia Dự báo và thông tin thị
trường lao động, Cục Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Hà Nội, tháng
10 năm 2010.
- Báo cáo phân tích tình hình sử dụng và dự báo cầu lao động trong các doanh
nghiệp Việt Nam 2011, Trung tâm Quốc gia Dự báo và thông tin thị trường lao động,
Cục Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Hà Nội, tháng 6 năm 2011.
- Từ việc làm ổn định đến ổn định việc làm: người tốt nghiệp đại học chủ động
hơn trong hội nhập, TS. Trương An Quốc, Những vấn đề xã hội học trong sự biến đổi
xã hội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011, tr 254 – 264.
- Vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội qua một số nghiên cứu ở Việt
Nam, GS.TS. Lê Ngọc Hùng, Tạp chí Nghiên cứu con người số 4 (37) 2008, tr 45 – 54.
- Giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập, Nguyễn Thị Kim Ngân, tạp chí Cộng
sản, số 23 (143)/2007.
- Đào tạo nghề nghiệp cho thanh niên – yếu tố quan trọng đảm bảo cho việc giải
quyết vấn đề an sinh và phát triển xã hội, Trần Hồng Lưu, Tạp chí Khoa học và công
nghệ, Đại học Đà Nẵng, Số 5 (40), 2010.
- Luận văn mang mã số: VL2/01462 “Định hướng nghề nghiệp của sinh viên sau
khi ra trường hiện nay (Nghiên cứu tại đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội)”
của tác giả Trần Thị Thu Hiền
- Luận văn mang mã số: VL2/01731 “Định hướng nghề nghiệp và khu vực làm
việc sau khi tốt nghiệp của sinh viên ngoài công lập hiện nay (Nghiên cứu trường hợp
tại đại học dân lập Đông Đô)” của tác giả Nguyễn Thị Minh Phương.

1.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội của địa bàn nghiên cứu
Ninh Bình giáp với Hòa Bình, Hà Nam ở phía bắc, Nam Định ở phía đông qua
sông Đáy, Thanh Hóa ở phía tây, biển (vịnh Bắc Bộ) ở phía đông nam. Trung tâm tỉnh
là thành phố Ninh Bình cách thủ đô Hà Nội 93 km về phía nam.
Trong những năm gần đây kinh tế Ninh Bình liên tục tăng trưởng, năm 2010 chỉ
số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh xếp thứ 11/63, liên tục nằm trong nhóm tỉnh đứng đầu
miền Bắc.
Về tình hình giải quyết việc làm: Bằng sự tác động của các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội và các chính sách khác đã giải quyết việc làm cho 90.160 lượt
người (trong đó xuất khẩu lao động: 7.287 lượt người); bình quân mỗi năm giải quyết
việc làm cho 18.032 lượt người (trong đó xuất khẩu lao động: 1.457 người).
Bảng 1.1. Số lao động được giải quyết việc làm qua các năm.
Chỉ tiêu
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010
Lao động được giải quyết
việc làm
19.337
16.600
17.200
18.065
18.958

Trong đó: Xuất khẩu lao
động
1.667
1.711
1.805
1.189
915
Năm 2010, thành phố Ninh Bình đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế 18,2%; tổng
thu ngân sách trên địa bàn đạt 900 tỷ đồng, tăng gấp 5 lần năm 2005; Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
tăng nhanh, nông nghiệp giảm dần. Giai đoạn 2005-2010: Tỷ trọng công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp và xây dựng chiếm 51%, dịch vụ chiếm 47% và nông nghiệp chiếm 2%
trong cơ cấu kinh tế của thành phố. Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
(theo giá cố định năm 1994) hàng năm đều tăng cao: năm 2005 đạt 700 tỷ đồng, đến
năm 2009 đạt 1.630 tỷ đồng, năm 2010 đạt 1.800 tỷ đồng. Số doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng tăng nhanh, năm 2005 có
154 doanh nghiệp, năm 2011 có 228 doanh nghiệp. Sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và xây dựng ngày càng đa dạng, góp phần đáp ứng nhu cầu thị trường
trong nước và xuất khẩu. Một số sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn tăng trưởng nhanh so với
đầu nhiệm kỳ như: quần áo may sẵn tăng 1,6 lần, giấy tăng 7,1 lần, thép phi tiêu chuẩn
tăng 6,5 lần, đồ gỗ mỹ nghệ tăng 1,7 lần, thêu ren tăng 2,7 lần. Xây dựng đạt tốc độ tăng
trưởng cao, bình quân hàng năm tăng 27%. Số lao động làm việc trong lĩnh vực công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng tăng nhanh, năm 2005 có trên 10.000 lao
động, năm 2011 có trên 16.000 lao động. Hoạt động dịch vụ diễn ra sôi động, hàng hóa
phong phú, đa dạng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.
Chương 2:
HỘI NHẬP VIỆC LÀM, NGHỀ NGHIỆP CỦA THANH NIÊN.
2.1. Nhu cầu về việc làm, nghề nghiệp.
2.1.1. Những khó khăn, trở ngại trong việc tìm kiếm việc làm của thanh niên.
Đánh giá nhu cầu của thanh niên về việc làm, nghề nghiệp của thanh niên phải

được đặt trong mối quan hệ với thị trường lao động Việt Nam: Vào thời điểm điều tra
1/7/2010, cả nước có 50,8 triệu người lao động trở lên thuộc lực lượng lao động chiếm
58,5% tổng dân số, bao gồm 49,5 triệu người có việc làm và 1,3 triệu người thất nghiệp.
Trong khi đó về chất lượng của lực lượng lao động, theo điều tra Lao động Việc làm
năm 2010 cho thấy tỷ trọng lao động nước ta qua đào tạo vẫn còn thấp. Trong tổng số
50,8 triệu người thuộc lực lượng lao động của cả nước chỉ có hơn 7,4 triệu người được
đào tạo, chiếm 14,7% tổng lực lượng lao động. Như vậy, lực lượng lao động nước ta trẻ
và dồi dào nhưng lực lượng chuyên môn kỹ thuật thấp. Về tỷ lệ lao động đang làm việc
đã qua đào tạo: Trong tổng số hơn 49,5 triệu người từ 15 tuổi trở lên đang làm việc của
cả nước, chỉ có gần 7,2 triệu người đã được đào tạo chiếm 14,6%. Hiện cả nước có
85,4% số người đang làm việc được đào tạo để đạt một trình độ chuyên môn kỹ thuật
nào đó. Điều này cho thấy, chất lượng việc làm của Việt Nam còn thấp, đây là một
thách thức lớn của đất nước trong việc đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững.
Phân tích yếu tố cung lao động thanh niên của thị trường lao động thanh niên
phải bắt đầu từ dân số trong độ tuổi thanh niên, phản ánh đúng về số lượng lao động
thanh niên cho thị trường lao động. Dân số trong độ tuổi thanh niên cũng chính là dân
số trong độ tuổi lao động đang có xu hướng tăng lên.
Tác giả đã tiến hành điều tra, khảo sát đánh giá về việc tìm kiếm việc làm, lựa
chọn nghề nghiệp của thanh niên trên địa bàn nghiên cứu. Kết quả khảo sát cho thấy:
Chiếm một tỷ lệ lớn thanh niên được hỏi cho rằng việc tìm kiếm việc làm hiện nay là rất
khó khăn (25,5%) và 59% cho rằng khó khăn, chỉ có một tỷ lệ nhỏ cho đó là việc đơn
giản, dễ dàng với 1,5% và 14% cho rằng việc tìm kiếm được việc làm, lựa chọn nghề
nghiệp là bình thường.
Đồng thời để hiểu rõ hơn về những khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm, lựa
chọn nghề nghiệp hiện nay của thanh niên, bảng hỏi đã đưa ra câu hỏi: Anh (chị) có gặp
khó khăn, trở ngại trong việc tìm kiếm việc làm không? Kết quả điều tra, xử lý bảng hỏi
cho thấy có tới 82% lao động thanh niên cho rằng có gặp khó khăn trong việc tìm kiếm
việc làm. Trong đó, khó khăn, trở ngại mà thanh niên gặp phải chiếm tỷ lệ lớn nhất là số
lượng việc làm ít nhưng số hồ sơ đăng ký quá nhiều chiếm 62,7% số người trả lời có
gặp khó khăn này. Tiếp đó là lý do khó tìm được ngành nghề phù hợp với chuyên môn

đào tạo với 44% số thanh niên trả lời có gặp khó khăn này và có quá ít việc làm như
mong muốn chiếm 28,9%.
Với những khó khăn, trở ngại trong việc tìm kiếm việc làm, đánh giá của thanh
niên ở những trình độ học vấn khác nhau nhưng đều cho rằng khó khăn trở ngại lớn
nhất là số lượng việc làm ít nhưng số hồ sơ đăng ký quá nhiều, tuy nhiên mức độ đánh
giá các khó khăn, trở ngại của việc làm có khác nhau. Về khó khăn: thiếu thông tin về
việc làm thì có tới 90% tốt nghiệp THPT cho rằng có gặp khó khăn này; Số lượng việc
làm ít nhưng số hồ sơ đăng ký quá nhiều thì có tới 67,8% tốt nghiệp trường chuyên
nghiệp và 62,8% trình độ cao đẳng, đại học có gặp khó khó khăn này. Còn lý do không
tìm được ngành nghề phù hợp với chuyên môn đào tạo cũng chiếm tỷ lệ lớn thanh niên
trả lời có gặp khó khăn này với trên 40% ở các trình độ học vấn khác nhau.
2.1.2. Những tiêu chí của việc tìm kiếm việc làm, lựa chọn nghề nghiệp.
2.1.2.1. Đánh giá về những tiêu chí việc làm, nghề nghiệp.
Trong nhóm các tiêu chí về việc làm mà đề tài đưa ra thì các tiêu chí đều được
đánh giá là quan trọng chiếm một tỷ lệ lớn, yếu tố gần nhà được đánh giá ít quan trọng
hơn.
Có thể thấy rằng, lao động thanh niên vẫn đánh giá cao tiêu chí môi trường và
điều kiện làm việc tốt (65% đánh giá là quan trọng) và tiêu chí có thời gian cần thiết để
chăm sóc gia đình bản thân (60,5% đánh giá là quan trọng), tiếp đó mới đến tiêu chí về
cơ hội có thu nhập cao (58% đánh giá là quan trọng), công việc đảm bảo về sự ổn định
cũng được đánh giá rất cao (54,5% cho là quan trọng), cơ hội thăng tiến được đánh giá
về tầm quan trọng có thấp hơn với 49,5% đối tượng trả lời cho là quan trọng, bên cạnh
đó là tiêu chí phù hợp với ngành nghề đào tạo (52% cho là quan trọng), phù hợp với sở
thích (50% cho là quan trọng). Cùng với đó là mức độ phần nào quan trọng, không quan
trọng của các tiêu chí này cũng chiếm tỷ lệ cao hơn các tiêu chí khác. Điều này cũng
cho thấy rằng: trước những khó khăn của việc làm, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường
lao động thì việc tìm được công việc phù hợp với ngành nghề đào tạo, phù hợp với sở
thích là rất khó, do vậy lao động thanh niên trước hết cần một công việc và công việc đó
có môi trường và điều kiện làm việc tốt, ổn định, có thu nhập cao sau đó mới xét đến
tiêu chí phù hợp với ngành nghề đào tạo, sở thích hay cơ hội thăng tiến. Đây là một sự

thích ứng rất linh hoạt của lao động thanh niên trong thời kỳ hội nhập hiện nay.
Như vậy, tiêu chí môi trường và điều kiện làm việc tốt được các bạn thanh niên
đánh giá rất cao và có ý nghĩa quan trọng (28% cho là rất quan trọng và 65% cho là
quan trọng). Bởi vì công việc có môi trường và điều kiện làm việc tốt thì sẽ tạo được
trạng thái thoải mãi trong quá trình làm việc, qua đó sẽ phát huy được sự sáng tạo, sự
hăng say trong lao động, phát huy được năng lực bản thân. Đồng thời, nó còn có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng khác là nó sẽ tạo ra sự gắn bó với công việc, nơi làm việc, đây cũng
là yếu tố quyết định tới chất lượng và hiệu quả công việc.
Bên cạnh đó, tiêu chí cơ hội có thu nhập cao cũng được các bạn thanh niên đánh
giá rất cao với 38% cho là rất quan trọng và 58% cho là quan trọng. Đây chính là thước
đo, sự trả công cho những cố gắng của người lao động. Đồng thời, qua đó, các bạn
thanh niên cũng khẳng định được bản thân mình. Mặt khác, với một công việc có thu
nhập cao, là cơ hội để lao động thanh niên có thể đảm bảo cho mình một cuộc sống tốt
và ổn định với những trang trải chi phí cần thiết.
Việc đánh giá về tầm quan trọng của các yếu tố/tiêu chí về việc làm, nghề nghiệp
này có sự khác biệt giữa nam và nữ cũng như trình độ học vấn của đối tượng điều tra.
Về mức độ rất quan trọng của các yếu tố/tiêu chí thì tỷ lệ thanh niên nam lựa chọn cao
hơn nữ, đặc biệt là ở các yếu tố như cơ hội thăng tiến: có tới 36,5% nam cho là rất quan
trọng và chỉ có 17,3% nữ cho là rất quan trọng; Phù hợp với sở thích: 22,9% nam cho là
rất quan trọng và 14,4% nữ cho là rất quan trọng; Khẳng định được năng lực bản thân:
32,3% nam và 16,3% nữ cho là rất quan trọng. Còn mức độ quan trọng của các yếu
tố/tiêu chí việc làm thì tỷ lệ nữ lựa chọn thường cao hơn nam, đặc biệt là các yếu tố/tiêu
chí: Môi trường và điều kiện làm việc tốt: 58,3% nam cho là quan trọng, trong khi có tới
71,2% nữ cho là quan trọng; Đảm bảo sự ổn định (50% nam và 58,7% nữ cho là quan
trọng); Có thời gian cần thiết để chăm sóc gia đình bản thân (55,2% nam và 65,4% nữ
cho là quan trọng); Gần nhà (31,3% nam và 37,5% nữ cho là quan trọng). Như vậy, có
thể thấy rằng: các tiêu chí như: cơ hội thăng tiến, phù hợp với sở thích, khẳng định được
năng lực bản thân được lao động thanh niên nam đánh giá cao hơn nữ; Còn các yếu tố
như: môi trường và điều kiện làm việc tốt, đảm bảo sự ổn định, có thời gian cần thiết để
chăm sóc gia đình bản thân, gần nhà được nữ thanh niên đánh giá cao hơn nam thanh

niên. Có thể thấy những quan điểm về đặc trưng giới tính như quan niệm về việc nam
giới có thể giành nhiều thời gian cho sự nghiệp và công việc còn nữ giới thì công việc
cần có thời gian để chăm sóc lo cho gia đình… điều này cũng ảnh hưởng tới việc lựa
chọn việc làm, nghề nghiệp của thanh niên.
Tiêu chí tìm việc làm, lựa chọn nghề nghiệp ở nhóm thanh niên có trình độ học
vấn cao hơn, được đào tạo về ngành nghề có sự đánh giá rõ ràng hơn ở nhóm thanh niên
chỉ tốt nghiệp trung học phổ thông. Cụ thể: tiêu chí cơ hội có thu nhập cao có tới 58,3%
trình độ trên đại học, cơ hội thăng tiến (66,7% trên đại học) cho rằng là rất quan trọng;
60% trình độ tốt nghiệp trường chuyên nghiệp và 60,2% trình độ cao đẳng, đại học cho
rằng cơ hội có thu nhập cao là quan trọng. Tiêu chí khẳng định được năng lực bản thân:
58,3% trình độ cao đẳng, đại học cho là quan trọng; Môi trường làm việc tốt với 78,6%
trình độ tốt nghiệp trường chuyên nghiệp và 57,4% trình độ cao đẳng đại học cho là
quan trọng. Còn các tiêu chí: phù hợp với ngành nghề đào tạo, phù hợp với sở thích,
đảm bảo sự ổn định, có thời gian cần thiết để chăm sóc gia đình người thân không có sự
khác biệt lớn về trình độ học vấn.
.2.1.2.2. Mức độ hài lòng về các tiêu chí việc làm, nghề nghiệp.
Bên cạnh việc đánh giá về tầm quan trọng và ý nghĩa của các tiêu chí về việc
làm, nghề nghiệp nhưng không phải ai cũng có được một công việc như mong muốn với
những tiêu chí mình đưa ra. Đề tài đánh giá mức độ hài lòng về công việc hiện tại theo
những tiêu chí của việc làm. Qua khảo sát cho thấy: Mức độ hài lòng về công việc của
thanh niên có sự khác biệt giữa các yếu tố/tiêu chí của việc làm, nghề nghiệp. Trong đó,
lao động thanh niên hài lòng với công việc hiện nay của mình hơn về các tiêu chí: Phù
hợp với ngành nghề đào tạo với 44% hài lòng và 28,5% tương đối hài lòng; Đảm bảo sự
ổn định: 40% hài lòng và 31% tương đối hài lòng; Có thời gian cần thiết để chăm sóc
gia đình, bản thân (39,5% hài lòng và 37% tương đối hài lòng). Mức độ rất hài lòng về
các tiêu chí việc làm chiếm tỷ lệ thấp, cao nhất là tiêu chí Gần nhà với 11%. Thanh niên
không hài lòng với công việc của mình về tiêu chí Cơ hội có thu nhập cao (30,0%) và
Cơ hội thăng tiến (28,5%).
Để hiểu rõ hơn về những tiêu chí việc làm nghề nghiệp cũng như sự hài lòng của
lao động thanh niên trên địa bàn nghiên cứu về công việc họ đang làm, đề tài đã phân

tích về mức thu nhập, tư cách pháp lý trong công việc, cơ quan làm việc: Khi được hỏi
về mức thu nhập/tháng thì lao động thanh niên chủ yếu có mức thu nhập trên 2 triệu đến
4 triệu/tháng chiếm 48,5%, 18,5% thanh niên được hỏi có mức thu nhập từ 1,5 triệu - 2
triệu. Mức thu nhập trên 4 triệu đồng/tháng chiếm tỷ lệ nhỏ (trên 4 triệu - 6 triệu chiếm
10,5% và trên 6 triệu chiếm 6%). Do đó, tiêu chí việc làm: Cơ hội có thu nhập cao
chiếm tỷ lệ lớn thanh niên không hài lòng (30,0%) và tương đối hài lòng (27%).
Về tư cách pháp lý trong công việc: Chiếm tỷ lệ lớn lao động thanh niên làm việc
với tư cách pháp lý của công việc là hợp đồng với 58% (hợp đồng dài hạn 21,8%, hợp
đồng ngắn hạn 36,2%), tiếp đó là hình thức Biên chế nhà nước với 30,5%; Tạm thời và
không có hợp đồng chiếm tỷ lệ nhỏ (11,5%). Điều này cũng phản ánh những khó khăn
trong việc làm, cơ hội có được việc làm, cũng như sự chấp nhận của người lao động để
có được việc làm.
Về cơ quan làm việc: chiếm một tỷ lệ lớn lao động thanh niên làm việc trong cơ
quan nhà nước với 55,4%, làm việc trong doanh nghiệp tư nhân chiếm 14,3%, làm việc
trong công ty TNHH chiếm 13,7%, làm việc trong công ty cổ phần chiếm 12,0%, công
ty có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ nhỏ. Các cơ quan làm việc thuộc nhà nước mặc
dù không đem lại thu nhập cao cho người lao động chiếm 23,4% từ 1,5 triệu - 2 triệu và
68,1% trên 2 triệu - 4 triệu nhưng đông đảo thanh niên vẫn muốn làm việc trong khu
vực này vì có tính ổn định cao.
Bước vào thời kỳ hội nhập việc làm, nghề nghiệp, trong khi việc làm ngày càng
trở nên khó khăn, nhiều thanh niên chấp nhận những công việc có thể chưa được như
mong muốn sau đó trong quá trình làm việc tiếp tục tìm công việc phù hợp và đổi việc.
Khảo sát trên địa bàn nghiên cứu cũng cho thấy: Khi được hỏi về việc thay đổi việc làm
thì 40% đối tượng điều tra chưa đổi việc lần nào, còn 60% đã đổi việc từ 1 lần đến trên
2 lần: đã đổi việc 1 lần chiếm 30,5%, đã đổi việc 2 lần (8,5%), đã đổi việc trên 2 lần
(9%).
Về lý do đổi việc: Có tới 41,4% đối tượng điều tra muốn thay đổi công việc hiện
tại của mình và lý do được đưa ra là: Muốn tìm một công việc tốt hơn (79,5%); Thu
nhập thấp và không ổn định (53,4%); Không phát huy được năng lực (31,5%); Chịu quá
nhiều áp lực từ công việc (24,7%); Điều kiện và môi trường làm việc không tốt

(20,5%).
Như vậy, việc có một công việc tốt là mong muốn của tất cả những người lao
động nói chung và của thanh niên nói riêng. Nhu cầu về việc làm đó phụ thuộc vào
những tiêu chí và giá trị về việc làm đối với mỗi người. Và cũng từ đây nó có thể đem
đến sự hài lòng cho người lao động. Cùng với những tiêu chí về việc làm mà thanh niên
đưa ra hiện nay thì việc sẵn sàng chấp nhận làm những công việc tạm thời sau đó tìm
công việc phù hợp và đổi việc đã chứng tỏ được sự thích ứng linh hoạt của thanh niên
về việc làm, nghề nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
2.2.1. Cách thức tiếp cận với các nguồn thông tin về việc làm.
Khảo sát trên địa bàn nghiên cứu về những nguồn thông tin về việc làm mà lao
động thanh niên thường nhận được. Kết quả điều tra cho thấy: lao động thanh niên nhận
thông tin việc làm chủ yếu là từ bạn bè/ người quen với 74,5% đối tượng điều tra trả lời
có nhận thông tin việc làm từ nguồn này; tiếp đến là nhận thông tin việc làm từ người
thân chiếm 65% đối tượng điều tra trả lời có/35% không nhận thông tin việc làm từ
nguồn này. Mạng internet cũng là nguồn chủ yếu để thanh niên tiếp cận được với những
thông tin về việc làm với 52,5% đối tượng điều tra trả lời có nhận thông tin từ nguồn
này. Còn các nguồn thông tin việc làm từ ti vi, báo, đài, trung tâm giới thiệu việc làm và
các tổ chức, đoàn, hội chiếm một tỷ lệ thấp. Trong đó, chiếm tỷ lệ thấp nhất là nguồn
thông tin việc làm từ các tổ chức, đoàn, hội với 7,0% đối tượng điều tra trả lời có nhận
được thông tin việc làm từ nguồn này.
Đánh giá thông tin việc làm theo các tiêu chí phù hợp và cụ thể, nhận thấy rằng
nguồn thông tin việc làm từ người thân có độ tin cậy về sự phù hợp và cụ thể nhất so
với các nguồn thông tin khác với 34% cho rằng rất phù hợp và 33% cho rằng khá phù
hợp, 40% cho rằng rất cụ thể, chi tiết và 32,5% cho rằng khá cụ thể chi tiết; Tiếp đến là
nguồn thông tin việc làm từ bạn bè/người quen được đánh giá là khá phù hợp (59,5%)
và khá cụ thể, chi tiết (58%). Thông tin việc làm từ mạng internet được đánh giá là
tương đối phù hợp (41%) và tương đối cụ thể, chi tiết (46,5%). Tiếp đó là thông tin việc
làm từ ti vi, báo, đài được đánh giá tương đối phù hợp chiếm tỷ lệ lớn (39,5%). Trung
tâm giới thiệu việc làm được đánh giá là đưa đến những thông tin việc làm tương đối
phù hợp (32,5%), không phù hợp (23,5%), tương đối cụ thể, chi tiết (39%). Nguồn

thông tin được đánh giá có mức độ phù hợp và cụ thể, chi tiết thấp nhất là từ các tổ chức
đoàn, hội (29% cho rằng không phù hợp và 27% cho rằng tương đối phù hợp, 28% cho
rằng tương đối cụ thể, chi tiết và 27,5% cho rằng không cụ thể chi tiết). Bên cạnh đó,
qua khảo sát, tác giả cũng nhận thấy khi được hỏi về “Đánh giá của anh (chị) về thông
tin việc làm từ các nguồn mà anh (chị) nhận được theo các tiêu chí Phù hợp và Cụ thể,
chi tiết thì có một tỷ lệ các phiếu không trả lời/đánh giá về chất lượng của thông tin việc
làm từ trung tâm giới thiệu việc làm và các tổ chức đoàn, hội khá cao với trên 20% đối
tượng điều tra. Do họ không biết, không tiếp cận và nhận được thông tin việc làm từ
những nguồn này. Qua đây có thể thấy rằng những thông tin về việc làm từ trung tâm
giới thiệu việc làm, các tổ chức, đoàn, hội chưa được người lao động đánh giá cao.
Đánh giá thông tin việc làm theo các tiêu chí phù hợp và cụ thể, nhận thấy rằng
nguồn thông tin việc làm từ người thân có độ tin cậy về sự phù hợp và cụ thể nhất so
với các nguồn thông tin khác với 34% cho rằng rất phù hợp và 33% cho rằng khá phù
hợp, 40% cho rằng rất cụ thể, chi tiết và 32,5% cho rằng khá cụ thể chi tiết; Tiếp đến là
nguồn thông tin việc làm từ bạn bè/người quen được đánh giá là khá phù hợp (59,5%)
và khá cụ thể, chi tiết (58%). Thông tin việc làm từ mạng internet được đánh giá là
tương đối phù hợp (41%) và tương đối cụ thể, chi tiết (46,5%). Tiếp đó là thông tin việc
làm từ ti vi, báo, đài được đánh giá tương đối phù hợp chiếm tỷ lệ lớn (39,5%). Trung
tâm giới thiệu việc làm được đánh giá là đưa đến những thông tin việc làm tương đối
phù hợp (32,5%), không phù hợp (23,5%), tương đối cụ thể, chi tiết (39%). Nguồn
thông tin được đánh giá có mức độ phù hợp và cụ thể, chi tiết thấp nhất là từ các tổ chức
đoàn, hội (29% cho rằng không phù hợp và 27% cho rằng tương đối phù hợp, 28% cho
rằng tương đối cụ thể, chi tiết và 27,5% cho rằng không cụ thể chi tiết). Bên cạnh đó,
qua khảo sát, tác giả cũng nhận thấy khi được hỏi về “Đánh giá của anh (chị) về thông
tin việc làm từ các nguồn mà anh (chị) nhận được theo các tiêu chí Phù hợp và Cụ thể,
chi tiết thì có một tỷ lệ các phiếu không trả lời/đánh giá về chất lượng của thông tin việc
làm từ trung tâm giới thiệu việc làm và các tổ chức đoàn, hội khá cao với trên 20% đối
tượng điều tra. Do họ không biết, không tiếp cận và nhận được thông tin việc làm từ
những nguồn này. Qua đây có thể thấy rằng những thông tin về việc làm từ trung tâm
giới thiệu việc làm, các tổ chức, đoàn, hội chưa được người lao động đánh giá cao.

Điều này cũng thể hiện rõ trong kết quả điều tra: Nguồn thông tin việc làm từ
người thân, bạn bè, mạng internet là những nguồn thông tin được đông đảo các bạn
thanh niên tiếp cận, còn các nguồn thông tin từ ti vi, báo, đài, trung tâm giới thiệu việc
làm, các tổ chức đoàn, hội còn chiếm tỷ lệ nhỏ thanh niên tiếp cận. Tuy nhiên tỷ lệ đối
tượng điều tra ở những trình độ học vấn khác nhau có sự khác nhau ở việc tiếp cận các
nguồn thông tin về việc làm, đặc biệt là từ nguồn internet. Thanh niên có trình độ tốt
nghiệp các trường chuyên nghiệp thường nhận thông tin từ bạn bè với 75,7% trả lời
có/24,3% trả lời không nhận thông tin từ nguồn này và 67,1% trả lời có/32,9% trả lời
không nhận thông tin việc làm từ người thân. Đối với thanh niên tốt nghiệp các trường
cao đẳng đại học và trên đại học thì thường tiếp nhận nguồn thông tin từ bạn bè/người
quen chiếm tỷ lệ cao nhất với 74,1% tốt nghiệp cao đẳng, đại học và 58,3% trình độ trên
đại học trả lời có nhận được thông tin từ nguồn này. Với nguồn thông tin việc làm từ
mạng internet thì tỷ lệ thanh niên tốt nghiệp cao đẳng, đại học, trên đại học cao hơn
nhiều so với ở các trình độ khác (62% trình độ cao đẳng, đại học và 50% trên đại học,
nhưng chỉ có 38,6% tốt nghiệp trường chuyên nghiệp). Trong khi nguồn thông tin việc
làm từ trung tâm giới thiệu việc làm chiếm một tỷ lệ lớn thanh niên tốt nghiệp THPT,
tốt nghiệp trường chuyên nghiệp tiếp cận, nhận được (30% tốt nghiệp THPT và 20% tốt
nghiệp trường chuyên nghiệp).
2.2.2. Vai trò, tầm quan trọng của các yếu tố/tiêu chí trong việc tìm kiếm việc
làm.
Khi được hỏi về tầm quan trọng của các yếu tố để có được việc làm thì những
yếu tố như: chuyên ngành đào tạo phù hợp, kết quả học tập, trình độ ngoại ngữ, trình độ
tin học, quan hệ gia đình và kinh nghiệm thực tế là những yếu tố được đánh giá quan
trọng chiếm tỷ lệ lớn. Cụ thể: chuyên ngành đào tạo phù hợp (41% cho là rất quan
trọng, 50,5% cho là quan trọng); kết quả học tập (53% cho là quan trọng); trình độ tin
học (51,5% cho là quan trọng); trình độ ngoại ngữ (51% cho là quan trọng); tiếp đó là
quan hệ gia đình (47,5% cho là quan trọng); kinh nghiệm thực tế (43% cho là quan
trọng).
Chuyên ngành đào tạo phù hợp với 52,9% trình độ cao đẳng, đại học và 50,9%
trên đại học cho là quan trọng; Kết quả học tập (54,6% trình độ cao đẳng, đại học và

50% trường chuyên nghiệp cho là quan trọng, trong khi với tiêu chí này ở trình độ
THPT và trên đại học cho là quan trọng chiếm tỷ lệ thấp hơn). Mặc dù ở các trình độ
học vấn đều đánh giá trình độ ngoại ngữ có ý nghĩa quan trọng chiếm tỷ lệ cao, nhưng ở
trình độ học vấn cao đẳng, đại học và trên đại học lại đặc biệt đánh giá cao sự cần thiết
của yếu tố này với 50% trên đại học và 20,9% trình độ cao đẳng, đại học cho là rất quan
trọng, trong khi tỷ lệ này ở thanh niên tốt nghiệp trường chuyên nghiệp là 12,9% và
10% trình độ THPT đánh giá là rất quan trọng. Quan hệ gia đình: 54,3% tốt nghiệp
trường chuyên nghiệp và 43,5% trình độ cao đẳng, đại học đánh giá là quan trọng; Yếu
tố về kinh nghiệm thực tế: 50,9% trình độ cao đẳng đại học và 37,1% tốt nghiệp trường
chuyên nghiệp cho là quan trọng trong khi chỉ có hơn 20% trình độ THPT và trên đại
học cho rằng yếu tố này là quan trọng. Yếu tố về kinh tế, tài chính: 51,4% tốt nghiệp
trường chuyên nghiệp cho là quan trọng còn ở trình độ cao đẳng, đại học chỉ chiếm
33,3% và trên đại học là 25%.



2.3. Khả năng đáp ứng yêu cầu về việc làm, nghề nghiệp.
2.3.1. Quá trình tuyển dụng
Khi được hỏi về các hình thức người tuyển dụng lao động kiểm tra về trình độ/kỹ
năng, 85,4% đối tượng điều tra trả lời người tuyển dụng kiểm tra trình độ/kỹ năng thông
qua phỏng vấn; 49,5% đối tượng điều tra trả lời kiểm tra thông qua bài thi; 4% đối
tượng điểu tra cho rằng người tuyển dụng không kiểm tra trình độ/kỹ năng. Trong đó,
hình thức kiểm tra thông qua bài thi sẽ thường được người tuyển dụng lao động kiểm tra
kết hợp thông qua hình thức phỏng vấn. Việc không kiểm tra thông qua thi tuyển, thì
người tuyển dụng có thể đánh giá trình độ, khả năng của người lao động thông qua xét
tuyển hồ sơ.
Sau khi được tuyển dụng, người lao động phải thông qua thời gian thử việc, tiếp
tục được đào tạo, tập huấn theo nhu cầu của đơn vị, doanh nghiệp.
2.3.2. Đánh giá về một số trình độ, kỹ năng của thanh niên.
Kỹ năng mềm bao gồm tổng hợp của rất nhiều các kỹ năng khác nhau, nhưng

việc vận dụng kỹ năng nào để đưa lại hiệu quả còn tùy thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể
và cá tính, sự linh hoạt của từng người. Đề tài đánh giá những kỹ năng: giao tiếp, thuyết
trình, làm việc nhóm từ việc nhận thấy đây là những kỹ năng cơ bản, gần gũi, sử dụng
thường xuyên và phổ biến trong quá trình làm việc. Khi được hỏi đánh giá về trình
độ/kỹ năng của thanh niên hiện nay với những kỹ năng cơ bản được đưa ra: trình độ
tiếng Anh, trình độ tin học, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng làm việc
nhóm, chiếm tỷ lệ lớn thanh niên cho rằng những kỹ năng này của họ ở mức trung bình.
Tuy nhiên mỗi trình độ/kỹ năng có những đánh giá ở mức độ khác nhau. Trong đó, trình
độ tin học, kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm của thanh niên được đánh giá tốt hơn.
Trình độ tin học: 56,5% cho rằng trung bình, 29% đánh giá khá tốt; Kỹ năng giao tiếp:
45,5% cho rằng khá tốt và 46% cho rằng kỹ năng này của thanh niên ở mức trung bình;
Làm việc nhóm: 54,5% cho rằng trung bình và 27% cho rằng kỹ năng này khá tốt.
Nhưng trình độ Tiếng Anh và kỹ năng thuyết trình của thanh niên được đánh giá thấp
hơn với 52% cho rằng trung bình và 28% cho rằng yếu về trình độ Tiếng Anh; 50% cho
rằng trung bình và 26% cho rằng yếu về kỹ năng thuyết trình.
Trong quá trình làm việc, để có thể thích ứng với công việc, thanh niên thường
xuyên phải học tập để nâng cao kiến thức, kỹ năng cho mình thông qua việc học tập,
nghiên cứu sách chuyên môn hay học hỏi trao đổi với đồng nghiệp (cùng nơi làm việc,
không cùng nơi làm việc), hỏi ý kiến tìm gặp các thầy cô giáo, các chuyên gia. Mỗi
người có những lựa chọn cho mình có những cách thức để nâng cao trình độ, kỹ năng
cho bản thân. Trong đó, cách thức tìm đọc tài liệu, nghiên cứu sách chuyên môn và học
hỏi, trao đổi với đồng nghiệp, người phụ trách (cùng nơi làm việc) được thanh niên
thường xuyên áp dụng hơn cả. Cụ thể: 20% thanh niên rất thường xuyên tìm đọc tài
liệu, nghiên cứu sách chuyên môn, 37,5% thường xuyên sử dụng cách thức này; 62,5%
thanh niên thường xuyên học hỏi, trao đổi với đồng nghiệp, người phụ trách (cùng nơi
làm việc); 40% thường xuyên học hỏi, trao đổi với bạn bè, đồng nghiệp (không cùng
nơi làm việc); Việc hỏi ý kiến, tìm gặp các thầy, cô giáo, các chuyên gia chiếm tỷ lệ nhỏ
thanh niên áp dụng với 33% thanh niên thỉnh thoảng hỏi ý kiến, 30% một vài lần hỏi ý
kiến, 14,5% chưa bao giờ hỏi ý kiến hay tìm gặp các chuyên gia.
Mối tương quan này cũng được thể hiện rõ trong kết quả điều tra, khảo sát trên

địa bàn nghiên cứu. 63,6% trình độ học vấn trên đại học rất thường xuyên tìm đọc tài
liệu, nghiên cứu sách chuyên môn, trong khi cách thức này ở trình độ cao đẳng đại học
thường xuyên sử dụng chiếm 46,0% và 43,8% trường chuyên nghiệp. Hỏi ý kiến, tìm
gặp các thầy, cô giáo, các chuyên gia là cách thức ít được các bạn thanh niên sử dụng
hơn nhưng có sự khác biệt rõ về trình độ học vấn. Mức độ thường xuyên sử dụng cách
thức này để nâng cao trình độ, kỹ năng cho mình chiếm tỷ lệ cao nhất ở trình độ trên đại
học với 9,1% rất thường xuyên sử dụng và 18,2% thường xuyên sử dụng, 2,1% trình độ
cao đẳng, đại học rất thường xuyên sử dụng và 10,4% trình độ này thường xuyên sử
dụng, trong khi chỉ có 10,9% tốt nghiệp trường chuyên nghiệp thường xuyên sử dụng
cách thức này để nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng cho mình. Học hỏi, trao đổi với
bạn bè, đồng nghiệp (cùng nơi làm việc) là cách thức mà các bạn thanh niên thường sử
dụng với trên 70% thanh niên trình độ tốt nghiệp trường chuyên nghiệp, và tốt nghiệp
cao đẳng, đại học, trên 80% thanh niên tốt nghiệp THPT sử dụng cách thức này. Học
hỏi, trao đổi với bạn bè, đồng nghiệp (không cùng nơi làm việc) cũng chiếm tỷ lệ tương
đối lớn các bạn thanh niên sử dụng để nâng cao trình độ kỹ năng cho mình với 53,1%
trường chuyên nghiệp, 42,7% cao đẳng, đại học, 36,4% trên đại học sử dụng cách thức
này, tốt nghiệp THPT sử dụng cách thức này chiếm tỷ lệ thấp hơn với 16,7%.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
1.1. Nhu cầu về việc làm, nghề nghiệp của thanh niên.
Qua điều tra, khảo sát cho thấy chiếm tỷ lệ lớn 59% thanh niên cho rằng việc tìm
kiếm việc làm, lựa chọn nghề nghiệp của thanh niên là khó khăn và 25,5% cho rằng rất
khó khăn. Trong đó khó khăn, trở ngại lớn nhất mà thanh niên gặp phải trong quá trình
tìm kiếm việc làm là Số lượng việc làm ít nhưng số hồ sơ đăng ký quá nhiều, tiếp đó là
khó khăn Khó tìm được ngành nghề phù hợp với chuyên môn đào tạo.
Thanh niên lựa chọn việc làm với tiêu chí đưa ra là có môi trường và điều kiện
làm việc tốt, đảm bảo sự ổn định tiếp đó là tiêu chí cơ hội có thu nhập cao, còn các tiêu
chí về cơ hội thăng tiến, phù hợp với ngành nghề đào tạo, phù hợp với sở thích, khẳng
định được năng lực bản thân chiếm tỷ lệ nhỏ thanh niên đánh giá cao về mức độ tầm

quan trọng.
Lao động thanh niên sẵn sàng chấp nhận làm những công việc tạm thời sau đó
tìm kiếm và đổi những công việc tốt hơn.
1.2. Cách thức tìm kiếm việc làm, lựa chọn nghề nghiệp.
Để tìm kiếm việc làm, lựa chọn nghề nghiệp thì nguồn thông tin chủ yếu mà
thanh niên tiếp cận được là từ người thân, bạn bè và mạng internet còn thông tin từ các
nguồn tivi, báo, đài, trung tâm giới thiệu việc làm, các tổ chức, đoàn, hội chiếm tỷ lệ
nhỏ thanh niên tiếp cận. Trong đó nguồn thông tin từ mạng internet có sự khác biệt về
trình độ học vấn. Trình độ học vấn cao có khả năng tiếp cận tốt hơn về nguồn thông tin
việc làm trên mạng internet.
Đánh giá tầm quan trọng của các tiêu chí để có được việc làm, thanh niên đánh
giá cao các tiêu chí về kết quả học tập, chuyên ngành đào tạo phù hợp tiếp đến là trình
độ ngoại ngữ và trình độ tin học, quan hệ gia đình. Còn các yếu tố về kinh nghiệm thực
tế, quan hệ cá nhân, các yếu tố về kinh tế, tài chính được đánh giá về mức độ tầm quan
trọng thấp hơn.
1.3. Khả năng đáp ứng về việc làm, nghề nghiệp.
Đánh giá về trình độ, kỹ năng của thanh niên hiện nay (trình độ Tiếng Anh, trình
độ Tin học, Giao tiếp, làm việc nhóm, thuyết trình). Trong đó, kỹ năng giao tiếp của
thanh niên được đánh giá cao hơn, tiếp đó là trình độ Tin học còn các kỹ năng làm việc
nhóm, thuyết trình, trình độ Tiếng Anh được đánh giá thấp hơn. Trong quá trình làm
việc, lao động thanh niên phải trải qua quá trình đào tạo lại của doanh nghiệp, cơ quan,
đơn vị mới có thể đáp ứng được yêu cầu của công việc.
Trong quá trình làm việc, thanh niên cũng phải thường xuyên học tập nâng cao
trình độ, kiến thức, kỹ năng cho mình trong đó cách thức mà thanh niên thường xuyên
áp dụng đó là tìm đọc tài liệu nghiên cứu sách chuyên môn, học hỏi, trao đổi với bạn bè,
đồng nghiệp, người phụ trách (cùng nơi làm việc), tiếp đó là cách thức học hỏi, trao đổi
với bạn bè, đồng nghiệp (không cùng nơi làm việc). Còn cách thức hỏi ý kiến, tìm gặp
các thầy cô giáo, các chuyên gia chiếm tỷ lệ nhỏ thanh niên áp dụng.
2. Khuyến nghị
2.1. Đối với cơ quan Nhà nước, cơ quan chức năng

- Đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội từ đó tạo ra nhiều việc làm
- Thực hiện tốt các chính sách, dự án giải quyết việc làm
- Ban hành chính sách phân luồng học sinh rõ ràng sau khi tốt nghiệp THCS và
THPT
2.2. Đối với các trường THPT, trường chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học
- Đổi mới về nội dung và chương trình đào tạo.
- Đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, định hướng việc làm, nghề nghiệp cho học
sinh, sinh viên
2.3. Đối với các Trung tâm Giới thiệu việc làm.
- Thu thập thông tin và diễn biến của thị trường lao động để có những dự báo về
cung cầu lao động.
- Đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, trở thành cầu nối giữa
người tuyển dụng lao động và người lao động một cách hiệu quả.
- Tổ chức các sàn giao dịch việc làm thường xuyên và có hiệu quả, nâng cao số
lượng và chất lượng việc làm hướng tới đông đảo các tầng lớp, đối tượng.
2.4. Đối với Đoàn thanh niên.
- Thực hiện tốt vai trò là người tư vấn, giúp thanh niên có những định hướng về
việc làm, nghề nghiệp phù hợp với bản thân.
- Đẩy mạnh hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm cho thanh niên.

×