Tải bản đầy đủ (.pdf) (239 trang)

Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo với đời sống kinh tế - xã hội của người Mường tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.71 MB, 239 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN ANH DŨNG

CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA XỐ ĐĨI
GIẢM NGHÈO VỚI ĐỜI SỐNG KINH TẾ-XÃ HỘI
CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH PHÚ THỌ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI-2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN ANH DŨNG

CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA XỐ ĐĨI
GIẢM NGHÈO VỚI ĐỜI SỐNG KINH TẾ-XÃ HỘI
CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH PHÚ THỌ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH DÂN TỘC HỌC
MÃ SỐ: 62 22 70 01

TẬP THỂ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS, TS HOÀNG LƯƠNG


2. PGS, TS PHẠM QUANG HOAN

HÀ NỘI-2009


i

MỤC LỤC
Mở đầu

Trang
1

Chương 1: Những vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu về đói
nghèo

9

1.1. Những vấn đề lý luận

6

1.2. Các phương pháp nghiên cứu

25

Chương 2: Vài nét về người Mường ở tỉnh Phú Thọ và thực trạng đói
nghèo của họ

30


2.1. Người Mường ở tỉnh Phú Thọ

30

2.2. Về tình hình đói nghèo của người Mường ở tỉnh Phú Thọ trước năm 1999

39

Chương 3: Quá Trình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xóa
đói giảm nghèo ở vùng người Mường tỉnh Phú Thọ

55

3.1. Quá trình hình thành Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam

55

3.2. Các chủ trương của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Phú Thọ và các huyện
Thanh Sơn, Yên Lập về xóa đói giảm nghèo

68

3.3. Những thành quả của cơng cuộc xóa đói giảm nghèo ở vùng người
Mường tỉnh Phú Thọ và tác động của chúng

73

3.4. Những hạn chế và bất cập của công cuộc XĐGN


114

Chương 4: Từ kết quả của chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN
đến phương hướng thực hiện chương trình trong tương lai

129

4.1. Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN giai đoạn 2005 - 2010, cơ sở

129

để tiếp tục thực hiện công cuộc XĐGN ở các vùng, miền của đất nước
4.2. Một số vấn đề đặt ra với công cuộc xóa đói giảm nghèo hiện nay ở

133

vùng người Mường tỉnh Phú Thọ từ góc độ Dân tộc học
Kết luận

163

Danh mục cơng trình đã cơng bố của tác giả liên quan đến luận án

168

Tài liệu tham khảo

169


Phụ lục

179


ii

DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Mức độ cư trú tập trung của người Mường ở tỉnh Phú Thọ

33

Bảng 2.2: Nguyên nhân đói nghèo ở hai huyện Thanh Sơn và Yên Lập

43

Bảng 2.3: Một số nguyên nhân của đói nghèo ở huyện Thanh Sơn

51


iii

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
ATK

: An toàn khu

BCĐ


: Ban chỉ đạo

BCH TW

: Ban Chấp hành Trung ương

BĐH

: Ban điều hành

CNH, HĐH

: Cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa

CSDT

: Chính sách dân tộc

CSHT

: Cơ sở hạ tầng

CTQG

: Chính trị Quốc gia

DTTS

: Dân tộc thiểu số


ĐBKK

: Đặc biệt khó khăn

HĐND

: Hội đồng nhân dân

HA

: héc - ta

HTX

: Hợp tác xã

KHKT

: Khoa học kỹ thụât

KHXH

: Khoa học xã hội

KHXH và NVQG : Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia
LĐTB & XH

: Lao động, Thương binh và xã hội


NHCSXH

: Ngân hàng chính sách xã hội

NH NN & PTNN : Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NXB.

: Nhà xuất bản

NV- LĐTBXH

: Nội vụ, Lao động - Thương binh xã hội

QLDA

: Quản lý dự án


iv

QLDACT

: Quản lý dự án chương trình

THCS

: Trung học cơ sở

THPT


: Trung học phổ thông

TTCX

: Trung tâm cụm xã

PTNT

: Phát triển nông thôn

Tr.

: trang

TW

: Trung ương

UBND

: Ủy ban nhân dân

VHDT

: Văn hóa dân tộc

VHTT

: Văn hóa thơng tin


WB

: Ngân hàng thế giới

XDCB

: Xây dựng cơ bản

XĐGN

: Xóa đói giảm nghèo


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
1.1. Cuối những năm 80 của thế kỷ XX, Việt Nam nổi lên là một trong
những nước nghèo nhất thế giới. Mặc dù là một nước nông nghiệp, nhưng
Việt Nam lại ln lâm vào tình trạng thiếu lương thực, hàng năm phải nhập
khẩu gạo, số hộ đói nghèo chiếm trên 50%; ở các tỉnh miền núi và vùng các
DTTS, con số này cịn lớn hơn rất nhiều.
Song chỉ sau khơng đầy 10 năm từ giữa thập kỷ 90 trở đi, Việt Nam lại
nổi lên như là một nước đi tiên phong trong cơng cuộc chống đói nghèo nhờ
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và sự hỗ trợ tích cực của cộng đồng quốc tế.
Chương trình quốc gia XĐGN đã nhanh chóng làm thay đổi bộ mặt kinh tế
các vùng thơn q, góp phần vào phát triển con người, như tạo cơng ăn việc
làm, tăng thu nhập, giảm dần tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em, tạo ra bình
đẳng trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, từng bước thiết lập hệ thống an
sinh xã hội tốt hơn và ngày càng nâng cao vị thế của những người lao động ở

mọi vùng miền trong việc tham gia các quyết định phát triển kinh tế- xã hội
của địa phương. ở các vùng miền núi, vùng dân tộc thiểu số, công cuộc
XĐGN cũng đạt những kết quả khả quan hơn.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, công cuộc XĐGN ở Việt Nam còn
nhiều hạn chế. Số hộ nghèo theo chuẩn mới vẫn chiếm 22%; con số này lớn
hơn ở miền núi và vùng các DTTS là 28,6 %.
Những kết quả cũng như những hạn chế của công cuộc XĐGN biểu hiện
đa dạng ở các tộc người, các địa phương có các điều kiện về địa lý, dân cư,
lịch sử - văn hóa khác nhau và liên quan chặt chẽ đến các yếu tố này, cần
được xem xét một cách thấu đáo để rút ra được những bài học kinh nghiệm
cho việc chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ mang ý nghĩa chính trị - xã hội to lớn


2

này, để nhân dân các dân tộc ở các địa phương, vùng miền từng bước thoát
nghèo, vươn lên làm giàu, ngày càng có cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn. Đây
là một trong những lý do đầu tiên để tôi hướng đề tài Luận án nghiên cứu vào
vấn đề này.
1.2. Trong cộng đồng 54 tộc người ở nước ta, người Mường là một
trong những tộc người bản địa, có nguồn gốc thân thuộc về lịch sử - văn hóa
với người Việt. Ngồi tỉnh Hịa Bình là “trung tâm sinh sống chính, người
Mường cịn cư trú tập trung tại một số tỉnh khác, trong đó có tỉnh Phú Thọ (số
lượng dân số của tộc người này đứng thứ hai trong tỉnh, tại hai huyện Thanh
Sơn và Yên Lập, người Mường chiếm trên 60%). Đây là nơi trung chuyển
giữa miền núi và đồng bằng, một trong những địa bàn liên quan đến q trình
lập nước của tổ tiên ta. Trong cơng cuộc XĐGN, người Mường ở tỉnh Phú
Thọ cũng có nhiều cố gắng để hướng tới và đạt tới một cuộc sống ngày càng
được cải thiện tốt hơn. Nghiên cứu việc thực hiện các chương trình mục tiêu
quốc gia về XĐGN ở vùng người Mường tỉnh Phú Thọ nhằm có một đánh giá

xác thực, tạo cơ sở khoa học cho việc tiếp tục đề ra và hồn thiện các chính
sách XĐGN và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các chính sách đó đối với người
Mường, để đồng bào sớm có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc và văn minh,
sát cánh cùng các dân tộc khác xây dựng địa phương thành tỉnh giàu mạnh,
đóng góp tích cực vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước theo hướng
CNH, HĐH .
Chính vì những lý do trên, tơi chọn vấn đề “Chương trình mục tiêu
quốc gia xóa đói giảm nghèo đối với đời sống kinh tế- xã hội của người
Mường tỉnh Phú Thọ” làm đề tài Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Dân tộc
học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc nghiên cứu người Mường ở Việt Nam và người Mường ở tỉnh Phú


3

Thọ đã được nhiều học giả trong và ngoài nước đề cập dưới các góc độ khác
nhau. Dưới góc độ Dân tộc học, tiêu biểu nhất là các tác phẩm khảo luận
chung về tộc người này như Les Mường- Geographie humaine étociologie
(Người Mường - địa lý xã hội và nhân văn) của J. Cusinier [36], “Dân tộc
Mường” trong cuốn Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc)” do
Viện Dân tộc học biên soạn [102], Người Mường trên đất Tổ Hùng Vương là
cuốn sách ảnh do UBND tỉnh Phú Thọ và Trung KHXH và NVQG biên soạn
[86], Gia đình và hơn nhân của dân tộc Mường ở tỉnh Phú Thọ của Nguyễn
Ngọc Thanh [44] vốn là Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Dân tộc học,
Tổ chức xã hội cổ truyền và những biến đổi của nó ở người Mường Thanh
Sơn, Phú Thọ của Hà Văn Linh [31] v. v. Ngồi ra cịn có một số cuốn sách
giới thiệu các mặt văn hóa, văn học nghệ thuật của người Mường như ở vùng
đất này như Địa chí Vĩnh Phú của Nguyễn Xuân Lân [29], Địa chí Vĩnh Phú văn hóa dân gian vùng đất Tổ do Sở Văn hóa Thơng tin tỉnh Vĩnh Phú xuất
bản [39], Văn hiến làng xã vùng đất Tổ Hùng Vương của Vũ Kim Biên [4].

Các tác phẩm này chủ yếu đề cập đến các khía cạnh mơi trường sống, lịch sử
và văn hóa truyền thống của người Mường, khơng bàn đến vấn đề đói nghèo
của tộc người này.
Vấn đề thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN cũng đã
được triển khai nghiên cứu, tiêu biểu là các công trình sau:
- Hội thảo nghiên cứu giảm nghèo ở nơng thôn, từ cách tiếp cận vĩ mô.
Sách giới thiệu 45 báo cáo tham luận trình bày tại Hội thảo cùng tên do Viện
Dân tộc (ủy ban Dân tộc Trung ương), Chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà
Lan tổ chức tại Đà Nẵng (tháng 5 - 2002). Các báo cáo tập trung thành 4 nhóm:
xóa đói giảm nghèo và bảo vệ tài ngun mơi trường; xóa đói giảm nghèo và
giới, phát triển con người, xóa đói giảm nghèo và vấn đề chính sách, thể chế
cộng đồng; xóa đói giảm nghèo và áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ [12].


4

- Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay - thực
trạng và giải pháp của Hà Quế Lâm dựa vào các số liệu thống kê và điều tra
xã hội học, các cứ liệu được thẩm định và đánh giá qua các cuộc hội thảo và
báo cáo chuyên đề về công tác XĐGN trong những năm cuối cùng của thế kỷ
XX đã khái quát về thực trạng đói nghèo ở vùng dân tộc thiểu số, các chương
trình, dự án của Đảng và Nhà nước giúp cho các hộ đói nghèo ở nước ta thốt
khỏi nghèo đói; trên cơ sở đó, đưa ra một số khuyến nghị về định hướng và
giải pháp XĐGN ở vùng DTTS [28].
- Một số vấn đề giảm nghèo ở các dân tộc thiểu số Việt Nam do Bùi
Minh Đạo chủ biên cuốn sách tập trung phản ánh tình hình nghèo đói và các
phương pháp giảm nghèo ở các dân tộc thiểu số Việt Nam, đồng thời. Cuốn
sách cũng chỉ ra được những kinh nghiệm và kỹ năng nghiên cứu vấn đề giảm
nghèo bằng các phương pháp khác nhau, trong đó phương pháp đánh giá nơng
thơn có sự tham gia của người dân là chính yếu và xun suốt [16]. Tác giả

cịn tiếp tục nghiên cứu và trình bày những ý tưởng về XĐGN tại một địa bàn
có tầm quan trọng chiến lược là Tây Nguyên, trong một cuốn sách có tiêu đề
Thực trạng đói nghèo và một số giải pháp giảm nghèo đối với các dân tộc
thiểu số tại chỗ Tây Nguyên [15].
- Năm 2004, Nhà xuất bản Nông nghiệp công bố cuốn Lắng nghe người
nghèo nói [103]. Cuốn sách này là kết quả của chương trình hợp tác nghiên
cứu giữa Viện Kinh tế học (Trung tâm KHXH và NVQG, nay là Viện KHXH
Việt Nam) và tổ chức Action Aid. Nội dung của cuốn sách phản ánh cuộc
sống của những người “đói kinh niên” ở các dân tộc: Kinh, Thái, Khơ Mú,
Hmông, Khơ me, Chăm, Ra- glai thuộc các tỉnh: Lai Châu, Sơn La, Hà Tĩnh,
Ninh Thuận, thành phố Hồ Chí Minh, Trà Vinh, từ đó đưa ra một số khuyến
nghị, giải pháp để giúp những người “đói kinh niên” hịa nhập vào cộng đồng.
- Kỷ yếu hội thảo Xóa đói giảm nghèo - vấn đề và giải pháp ở vùng dân


5

tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam. Sách do Nhà xuất bản Nông nghiệp ấn hành,
giới thiệu 17 báo cáo tại hội thảo cùng tên chủ đề, do Viện Dân tộc (ủy ban
Dân tộc Trung ương) và Ngân hàng thế giới phối hợp tổ chức (năm 2004).
Nội dung các báo cáo đề cập đến các vấn đề: nhận thức về nghèo đói, chuẩn
nghèo, đặc điểm nghèo đói các vùng DTTS ở Việt Nam nói chung và vùng
núi phía Bắc nói riêng, giải pháp xóa đói giảm nghèo, vai trị của Chính phủ
và các tổ chức trong nước, quốc tế trong XĐGN ở các vùng DTTS [100].
- Giải pháp cải thiện đời sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số là Kỷ
yếu Hội thảo do Viện Dân tộc thuộc ủy ban Dân tộc và WB tổ chức (năm
2005). Nội dung của các báo cáo trong Hội thảo tập trung vào vấn đề: sự
hưởng ứng, xây dựng, triển khai chương trình XĐGN của các bộ, ngành, đoàn
thể và nhân dân ở các địa phương có các DTTS nhằm giúp đỡ các hộ nghèo,
xã nghèo khắc phục khó khăn; đồng thời đề xuất các kiến nghị để tiếp tục

công cuộc XĐGN ở các vùng DTTS [101]. Cùng liên quan đến nội dung này
cịn có các cuốn: Kinh tế thị trường và sự phân hóa giàu nghèo vùng dân tộc
và miền núi phía Bắc ở nước ta hiện nay của Lê Du Phong và Hoàng Văn
Hoa [35], Các dân tộc thiểu số Việt Nam trong thế kỷ XX, tập hợp bài viết của
các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các vị đứng đầu các tỉnh có DTTS sinh
sống và của một số nhà khoa học [5] có đề cập đến XĐGN ở các địa phương
này…
Đối với vấn XĐGN ở vùng người Mường tỉnh Phú Thọ, có thể nói, cho
đến nay, mới được đề cập đến trong hai luận văn:
- Luận văn Thạc sĩ Khoa học kinh tế Phát triển kinh tế với việc xóa đói
giảm nghèo ở huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (từ 1986 đến nay) của Sa Thị
Quyết hoàn thành từ năm 1999 [38] luận văn phân tích thực trạng phát triển
kinh tế gắn với công cuộc XĐGN ở huyện Thanh Sơn từ đó đưa ra một số giải
pháp cho con đường đi lên phía trước của huyện. Tuy nhiên, Luận văn chỉ đề


6

cập đến vấn đề được bàn trong thời gian 12 năm, từ khi Thanh Sơn cùng cả
nước bước ra khỏi cơ chế quan liêu bao cấp đến năm 1988, khi các cơng việc
của Chương trình 135 chưa được triển khai đồng bộ xuống các xã; hơn nữa,
tác giả chỉ nhìn nhận việc XĐGN dưới góc độ kinh tế học, thơng qua các số
liệu thống kê và các báo cáo tổng kết nhiệm kỳ của cấp ủy và chính quyền địa
phương, không khảo sát dân tộc học tại thực địa.
- Luận văn Cao cấp lý luận chính trị Vấn đề xóa đối giảm nghèo ở huyện
Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ- thực trạng và giải pháp của Bùi Văn Huấn [27],
tuy cũng đưa ra một số đánh giá về thực trạng phát triển kinh tế với XĐGN ở
huyện Thanh Sơn từ năm 1986 đến năm 2002, từ đó đưa ra những quan điểm
cơ bản và giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế gắn với XĐGN ở huyện;
song lại nhìn nhận vấn đề dưới góc độ chính trị, khơng phải góc độ dân tộc

học và cũng chỉ thông qua các số liệu thống kê và các báo cáo tổng kết nhiệm
kỳ của cấp ủy và chính quyền địa phương, khơng khảo sát dân tộc học tại thực
địa.Vì vậy, các khuyến nghị, giải pháp trong Luận văn này mang tính chất
định hướng chung chung, thiếu tính cụ thể, sát thực.
Như vậy, dưới góc độ Dân tộc học, vấn đề XĐGN gắn với việc thực hiện
các chương trình mục tiêu quốc gia ở vùng người Mường tỉnh Phú Thọ gần
như còn bị bỏ ngỏ. Đây cũng là lý do để tôi chọn vấn đề này làm Luận án
Tiến sĩ của mình.
3. Mục đích nghiên cứu của luận án
3.1. Làm rõ thực trạng của việc thực hiện các nhiệm vụ của Chương
trình mục tiêu quốc gia XĐGN ở vùng người Mường tỉnh Phú Thọ từ trước
đến nay (những mặt được cùng tác động của chúng với đời sống kinh tế - xã
hội đối với đồng bào Mường cũng như những hạn chế, những bất cập, cùng
nguyên nhân của chúng dưới góc độ Dân tộc học).
3.2. Tạo cơ sở khoa học và cung cấp các tư liệu để các nhà quản lý và


7

hoạch định chính sách các cấp tham khảo để bổ sung, hồn thiện và đổi mới
các chủ trương, chính sách XĐGN ở vùng người Mường nói riêng, các tộc
người thiểu số khác ở tỉnh Phú Thọ nói chung và nêu một số vấn đề có tính
chất như là những khuyến nghị cho việc tổ chức thực hiện, góp phần đẩy
mạnh và nâng cao hiệu quả của công cuộc XĐGN, giúp đồng bào Mường ở
tỉnh Phú Thọ nhanh chóng thốt nghèo, vươn lên làm giàu, có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc và văn minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là các vấn đề liên quan đến việc thực
hiện các chương trình quốc gia về XĐGN ở vùng người Mường tỉnh Phú Thọ
(các chủ trương, chính sách, sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và chính quyền

các cấp, các bước tổ chức thực hiện, những kết quả đã đạt được, đặc biệt là
những điển hình tiên tiến của đồng bào trong cơng cuộc XĐGN, tác động của
những kết quả đó với đời sống kinh tế- xã hội; cũng như những mặt hạn chế,
bất cập của q trình đó).
Phạm vi nghiên cứu của Luận án về mặt không gian là các huyện: Thanh
Sơn, Yên Lập của tỉnh Phú Thọ, nơi tập trung đông đồng bào Mường sinh sống.
Về thời gian, Luận án nghiên cứu quá trình thực hiện Chương trình mục
tiêu quốc gia XĐGN ở vùng đồng bào Mường tỉnh Phú Thọ, cụ thể ở địa bàn
hai huyện Thanh Sơn và Yên Lập từ năm 1999, khi bắt đầu thực hiện Chương
trình 135 - khâu đột phá quan trọng của cơng cuộc XĐGN đến cuối năm 2005.
5. Nguồn tư liệu của luận án
- Nguồn tư liệu đầu tiên của Luận án là các văn bản nghị quyết, thông tư,
nghị định về các chủ trương, chính sách, xóa đói giảm nghèo của Chính phủ
nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cùng các ban ngành có liên quan
ở Trung ương; các Nghị quyết về công tác XĐGN của Tỉnh, UBND tỉnh Phú
Thọ và ở hai huyện Thanh Sơn, Yên Lập.


8

- Nguồn tư liệu chính của Luận án là tư liệu điền dã. Đó là những tư liệu
thu được từ các cuộc thẩm vấn, trao đổi, điều tra hồi cố với các đối tượng đói
nghèo, các tấm gương về XĐGN, cán bộ lãnh đạo các xã, huyện, các ngành
có liên quan ở các địa bàn được chọn làm điểm nghiên cứu. Luận án còn sử
dụng các báo cáo tổng kết, các số liệu thống kê hằng năm của cấp ủy, chính
quyền và các ban ngành, đồn thể có liên quan của các địa bàn được khảo sát.
- Luận án kế thừa các kết quả nghiên cứu về XĐGN, về người Mường ở
tỉnh Phú Thọ đã được công bố làm nguồn tư liệu.
6. Đóng góp của luận án
- Là cơng trình đầu tiên nghiên cứu về việc thực hiện các chương trình

mục tiêu quốc gia XĐGN ở vùng người Mường tỉnh Phú Thọ. Luận án nghiên
cứu có hệ thống và làm rõ các luận cứ khoa học trong việc bổ sung, hồn
thiện các chủ trương, chính sách XĐGN đối với các DTTS; giúp cho cấp ủy,
chính quyền, các ngành, các cấp ở tỉnh Phú Thọ có thêm những kinh nghiệm
để vận dụng các chủ trương, chính sách chung của Đảng và Nhà nước vào
điều kiện cụ thể của địa phương mình, tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơng
cuộc XĐGN ở vùng người Mường và các tộc người khác trên địa bàn.
- Luận án góp phần vào việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn về đói nghèo và XĐGN ở Việt Nam hiện nay trên bình diện Dân tộc học.
7. Bố cục của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận án được chia
thành 4 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu về đói
nghèo
Chương 2: Vài nét về người Mường ở tỉnh Phú Thọ và thực trạng đói
nghèo của họ
Chương 3: Quá trình thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói


9

giảm nghèo ở vùng người Mường tỉnh Phú Thọ
Chương 4: Từ kết quả của chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN đến
phương hướng thực hiện chương trình trong tương lai.


10

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU VỀ ĐÓI NGHÈO
1.1. Những vấn đề lý luận
1.1.1. Những vấn đề lý luận chung
Luận án được thực hiện trên cơ sở áp dụng phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin về các vấn đề kinh tế - xã
hội; chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân tộc, về XĐGN.
Áp dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin khi xem xét sự phát triển kinh tế - xã hội của một cộng
đồng cư dân: Cần phải đặt sự phát triển đó trong mối liên hệ với phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương và của đất nước; đồng thời đặt trong bối cảnh
của toàn cầu hố; mặt khác, sự phát triển đó có mối quan hệ chặt chẽ với đặc
điểm lịch sử, truyền thống văn hố của cư dân. Cụ thể, khi xem xét Chương
trình mục tiêu quốc gia xố đói giảm nghèo với đời sống kinh tế - xã hội của
người Mường ở tỉnh Phú Thọ, cần đặt trong đặc điểm tự nhiên, xã hội; trong
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của huyện, của tỉnh Phú Thọ và của Việt
Nam. Sự phát triển đó cịn chịu ảnh hưởng của tồn cầu hoá, mà thể hiện trực
tiếp là qua tác động của q trình đơ thị hố, của thị trường tự do, của kinh tế
thị trường, của các chương trình, dự án phát triển khác...
Xem xét các vấn đề nêu trên, cần phải đặt trong mối quan hệ truyền
thống lịch sử và văn hoá của tộc người này. Đây là tộc người đã có truyền
thống lịch sử hàng ngàn năm, có nền văn hoá đặc sắc, bảo lưu nhiều yếu tố
văn hoá Việt cổ, trong đó có những giá trị của nền văn hố Đơng Sơn. Tuy
nhiên, đến năm 1954 (khi miền Bắc được giải phóng), nền kinh tế của tộc
người này chủ yếu vẫn là nông nghiệp, theo lối tự cung tự cấp; chưa xuất hiện
đội ngũ thương nhân; trong xã hội, tuy đã phân chia thành quý tộc và bình dân


11

song sự phân hoá giai cấp chưa sâu sắc. Sau khi hồ bình lập lại cho đến trước

đổi mới, sự đổi thay trong nông thôn người Mường ở Phú Thọ vẫn diễn ra rất
chậm chạp. Tất cả những yếu tố trên có ảnh hưởng nhất định tới cơng cuộc
xố đói giảm nghèo hiện nay của người Mường tại vùng này.
Khi nghiên cứu Chương trình mục tiêu quốc gia xố đói giảm nghèo với
đời sống kinh tế - xã hội của người Mường tỉnh Phú Thọ, cần phải đặt trong
bối cảnh của đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn
đề dân tộc và XĐGN.
Trong đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân
tộc, trọng tâm là vấn đề đại đoàn kết dân tộc, bình đẳng dân tộc và giúp đỡ nhau
cùng phát triển giữa các dân tộc. Đại đoàn kết và bình đẳng dân tộc đảm bảo cơ
sở vững chắc cho sự ổn định để phát triển. Mặt khác, giúp đỡ nhau cùng phát
triển không chỉ là trách nhiệm hay đạo đức của các tộc người trong một quốc gia
đa dân tộc mà cịn tiếp tục vun đắp cho đại đồn kết và bình đẳng về dân tộc.
Trên cơ sở các đường lối, chính sách cơ bản nêu trên, Đảng và Nhà nước
Việt Nam đã thực hiện những chính sách XĐGN với các dân tộc, trong đó
trọng tâm là các tộc thiểu số. Các chính sách này được thể hiện qua rất nhiều
những chương trình, dự án. Trong bối cảnh hiện nay, đồn kết, bình đẳng giữa
các dân tộc phải được khẳng định qua sự phát triển. Do đặc thù về xuất phát
điểm trước khi tiến hành CNH, HĐH đất nước như đã nêu; do bị nhiều hạn chế
về cơ hội nên đến nay, hầu hết các vùng dân tộc thiểu số của Việt Nam đều
trong tình trạng kém phát triển. Bởi vậy, để hoà nhịp cùng sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước trước hết cần thực hiện công cuộc XĐGN ở các dân tộc thiểu
số.
Về cách tiếp cận, nghiên cứu Chương trình mục tiêu quốc gia xố đói
giảm nghèo với đời sống kinh tế - xã hội của người Mường tỉnh Phú Thọ, luận
án được thực hiện trên cơ sở các cách tiếp cận sau:


12


Tiếp cận Dân tộc học: Đó là xem xét các yếu tố tộc người (cụ thể ở đây là
của người Mường), trong đó tập trung vào yếu tố văn hóa có ảnh hưởng như thế
nào đến đói nghèo và cách tiếp nhận các chủ trương chính sách XĐGN của
Đảng và Nhà nước cùng hiệu quả của sự tiếp nhận đó ở vùng người Mường tỉnh
Phú Thọ. Ở đây, văn hoá tộc người được xem xét dưới những khía cạnh như các
tập quán canh tác, trợ giúp, trao đổi, mua bán, tiêu dùng...
Trong tiếp cận Dân tộc học, Luận án còn chú trọng đến quan hệ tộc
người (gồm quan hệ nội bộ tộc người và quan hệ giữa các tộc người) với đói
nghèo. Các huyện Thanh Sơn, Yên Lập của tỉnh Phú Thọ là địa bàn cư trú của
ba tộc người chính (Kinh, Mường và Dao). Trong quá khứ cũng như hiện tại,
các tộc người này từng có quan hệ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội với
nhau; cùng đoàn kết, tương trợ lẫn nhau để xây dựng vùng đất này. Ngày nay,
với sự hỗ trợ của Đảng và Nhà nước, nhân dân các dân tộc đang sát cánh cùng
nhau trong công cuộc XĐGN. Để thấy được những mặt thuận và không thuận
của công cuộc XĐGN tại vùng đồng bào Mường, Luận án xem xét quan hệ
giữa người Mường với các tộc người Kinh và Dao trên địa bàn, trong đó tập
trung vào mối quan hệ kinh tế.
Tiếp cận phát triển con người: Cách tiếp cận này nhằm phân tích và trả
lời các câu hỏi sau:
Khả năng của người Mường tỉnh Phú Thọ trong việc tiếp nhận các chính
sách xóa đói giảm nghèo, cụ thể là tiếp nhận các nguồn lực phát triển và các
dịch vụ xã hội do cơng cuộc XĐGN đem lại; có những bất cập gì trong việc
tiếp nhận đó; vì sao có hộ gia đình thoát nghèo, vươn lên làm giàu, trong khi
một bộ phận khác khó hịa nhập vào tiến trình phát triển của địa phương, của
đất nước, khó thốt khỏi đói nghèo hoặc bị tái đói nghèo ?
Các ứng xử của các tổ chức xã hội nhằm giúp đỡ các nhóm hộ nghèo
thực hiện được quyền của mình trong các chương trình XĐGN.


13


Tiếp cận lịch sử cuộc sống hay lịch sử kinh tế địa phương và lịch sử
kinh tế gia đình: Cách tiếp cận này nhằm tìm hiểu mối quan hệ mật thiết giữa
các yếu tố kinh tế, xã hội, nhân khẩu, phong tục tập quán, tín ngưỡng, quan hệ
cộng đồng tác động đến đói nghèo cũng như khả năng tiếp cận các chính sách
XĐGN của các hộ nghèo; thấy được mối quan hệ giữa các yếu tố nội lực với
các tác động bên ngồi tới q trình thực hiện XĐGN ở những vùng này.
Tiếp cận hệ thống (gắn với tiếp cận liên ngành): Đặt vấn đề đói nghèo
trong mối liên hệ với nhiều yếu tố, như môi trường sống, lịch sử cư dân, thể
chế chính trị - xã hội (nhất là các chủ trương chính sách của Nhà nước ở mỗi
thời điểm), với văn hóa, tín ngưỡng và tơn giáo của mỗi cộng đồng dân cư...
1.1.2. Những vấn đề lý luận về đói nghèo
1.1.2.1. Khái niệm “Đói nghèo”
Để tìm hiểu thực trạng đói nghèo và tìm ra các ngun nhân của đói
nghèo của mỗi tộc người, mỗi cộng đồng cư dân, cần thiết phải có những
quan niệm chung về đói nghèo, từ đó hình thành các chủ trương, chính sách
nhằm XĐGN phù hợp với từng tộc người, từng vùng và từng địa phương.
Tuỳ theo quan niệm và cách tiếp cận mà có những định nghĩa khác nhau
về đói nghèo.
Theo quan điểm của UNDP, đói nghèo là tổng hợp của nhiều yếu tố: đói
nghèo khơng chỉ là thiếu thu nhập, mà cịn là sức khoẻ yếu, bị mù chữ, thiếu
tiếp cận với những dịch vụ xã hội cơ bản, ít cơ hội tham gia vào quá trình ảnh
hưởng tới đời sống của con người [104].
Theo Báo cáo Phát triển Việt Nam 2004, “Nghèo đói là tình trạng kiệt
quệ bao gồm nhiều khía cạnh, từ thu nhập hạn chế đến tính dễ bị tổn thương
khi gặp phải những tai ương bất ngờ và ít có khả năng tham gia vào q trình
ra quyết định chung” [105, tr. 11]. Vẫn trong báo cáo này, ở trang 7, lại có


14


cách diễn đạt khác: “Nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện.
Thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo
tiêu dùng những lúc khó khăn, và dễ bị tổn thương trước những đột biến bất
lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và những khó khăn tới những người có
khả năng giải quyết, ít được tham gia vào q trình ra quyết định, cảm giác bị
sỉ nhục, khơng được người khác tơn trọng...”.
Cịn theo Bùi Minh Đạo “... với nghĩa tương đối, nghèo đói là phạm trù
chỉ mức sống của một cộng đồng hay nhóm dân cư khác trong một quốc gia,
kể cả quốc gia nghèo khó nhất, vì thế, khơng thể xố bỏ được tình trạng này.
Một định nghĩa khác cho rằng nghèo đói là kết quả của tình trạng bất bình
đẳng về xã hội và kinh tế trong q trình phát triển của nhân loại, có thể xố
bỏ được bằng cách chính phủ và tổ chức quốc tế thực hiện những chính sách
và cơ chế phù hợp nhằm xố bỏ chính sự bất bình đằng về xã hội và kinh tế
đó. Hiểu một cách chung nhất thì nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư
vì những lý do nào đó khơng được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản
của con người, những nhu cầu mà xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát
triển kinh tế, xã hội và phong tục tập qn của chính xã hội đó” [15, tr 44 45]
Từ những định nghĩa trên đây, có thể khái quát: Đói nghèo là tình trạng
của một cá nhân hay nhóm người không được hưởng thụ những nhu cầu cơ
bản, tối thiểu của cuộc sống đã được xã hội thừa nhận - tùy theo trình độ phát
triển kinh tế ở từng quốc gia, vùng miền, dân tộc.
Các nhu cầu cơ bản, tối thiểu của cuộc sống bao gồm:
Nhu cầu về ăn: Thể hiện ở số lượng và chất lượng lương thực, thực
phẩm dùng hằng ngày, trong đó có thể định lượng bằng việc tiêu thụ calo
(mức tối thiểu là 2.100 calo/ người/ ngày).


15


Nhu cầu về mặc: Thể hiện ở số lượng và chất lượng quần áo (cùng các
đồ dùng khác) có khả năng ứng phó với các thay đổi của khí hậu, thời tiết
từng mùa.
Nhu cầu về ở: Thể hiện ở chất lượng nhà ở cùng các trang thiết bị trong
nhà có khả năng ứng phó với các điều kiện của thời tiết và khả năng chống đỡ
trước những thiên tai bất thường (bão, lũ, hạn hán ...).
Nhu cầu về vệ sinh: Các điều kiện về vệ sinh (nguồn nước sạch cho sinh
hoạt, các trang thiết bị vệ sinh...) bảo đảm cho con người giữ được sức khỏe, có
khả năng phịng ngừa bệnh tật hay không bị tác động xấu của bệnh tật. Nhu cầu
về vệ sinh có liên quan quan trực tiếp đến các nhu cầu về ăn, ở, mặc và y tế.
Nhu cầu y tế: Khả năng được tiếp cận các dịch vụ y tế (khám, chữa bệnh,
sử dụng các loại thuốc) để giữ gìn, phục hồi và nâng cao sức khỏe khi bệnh
tật xảy ra.
Nhu cầu về giáo dục đào tạo: Khả năng được học hành cho con em và
bản thân để nâng cao kiến thức về cuộc sống, được trang bị hay nâng cao một
lĩnh vực chuyên môn để có thể sống.
Nhu cầu về đi lại, giao tiếp: Khơng có các phương tiện hay khơng đủ
tiền để th các phương tiện cần thiết cho các nhu cầu bình thường của cuộc
sống hay để giải quyết các quan hệ riêng, do vậy, những người thuộc tình
cảnh này thường có ít các mối quan hệ xã hội.
Nhu cầu về giải trí, về văn hóa tinh thần: Khả năng được tiếp cận các
dịch vụ vui chơi giải trí, về văn hóa, thể dục thể thao.
Khi nói đến đói nghèo, cần phân biệt hai dạng: Nghèo tuyệt đối và nghèo
tương đối.
Nghèo tuyệt đối là tình trạng khơng được đáp ứng các nhu cầu tối thiểu
nhằm duy trì cuộc sống. Trong trường hợp này, nghèo tuyệt đối đồng nghĩa với
tình trạng đói và thiếu đói, tức có mức sống dưới mức tối thiểu, không đảm bảo


16


nhu cầu vật chất, đặc biệt là nhu cầu về dinh dưỡng và năng lượng để duy trì
cuộc sống. Đó là những hộ hằng năm thiếu ăn từ 1- 2 tháng, hay bị nợ cộng đồng
các khoản khác nhau mà khơng có khả năng chi trả. Nhiều trường hợp thiếu đói
từ 3- 5 tháng trở lên và kéo dài từ năm này qua năm khác, gọi là đói kinh niên.
Nghèo tương đối là tình trạng có mức sống dưới trung bình của cộng
đồng tại một địa phương được xem xét, khả năng tiếp cận hoặc được đáp ứng
các nhu cầu cơ bản và tối thiểu của cuộc sống rất hạn chế.
Cả nghèo tuyệt đối và tương đối đều phản ánh sự bất bình đẳng về mức
sống. Do nhu cầu về vật chất và tinh thần của các tầng lớp cư dân khác nhau
và biến động tùy thuộc vào các nhóm thu nhập, các giai đoạn phát triển, các
điều kiện về tự nhiên, lịch sử nên sự đói nghèo cũng tùy thuộc vào các mức
độ mà nhu cầu của cuộc sống được áp dụng.
1.1.2.2. Các tiêu chí đánh giá đói nghèo
Đói nghèo chỉ là khái niệm tương đối, vì nó biểu hiện những mức độ
khác nhau, theo những tiêu chí khác nhau ở từng quốc gia, dân tộc, vùng miền
và từng giai đoạn lịch sử, tương ứng với biến đổi về sự phát triển kinh tế-xã
hội. Một người hay một cộng đồng được coi là nghèo ở nước này, vùng này
nhưng lại có thể là “trung bình” hay “giàu” ở nước khác, vùng khác; hay các
điều kiện ăn, mặc, ở, giáo dục, y tế ... ở thời điểm này có thể được xem là tiêu
chí của sự “giàu”, nhưng ở một giai đoạn sau lại là bình thường của cuộc
sống. Khi xem xét tình trạng đói nghèo và xác định tiêu chí đói nghèo ở mỗi
quốc gia, vùng miền hay cộng đồng cư dân, phải thống nhất một số quan điểm
sau:
- Trước hết, phải xem xét điều kiện kinh tế, trong đó, dấu hiệu về mức
sống, thể hiện ở các nhu cầu cơ bản, tối thiểu về đời sống vật chất.
- Xác định tiêu chí đánh giá thực trạng đói nghèo phải dựa vào thu nhập
bình qn tính theo đầu người trong tháng hoặc từng năm của từng vùng



17

miền, thể hiện ở các khu vực nông thôn và đơ thị, miền núi và đồng bằng.
Tiêu chí này liên hệ mật thiết với tiêu chí về chế độ dinh dưỡng năng lượng
(tức số ca lo của mỗi người trong mỗi ngày).
- Cụ thể hóa tiêu chí thành số lượng dùng làm thước đo bằng cách quy ra
hiện vật, vật phẩm tiêu dùng, thường được tính bằng lượng lương thực (phổ
biến nhất quy ra gạo) bình quân đầu người hằng năm (hoặc hằng tháng); hoặc
bằng giá trị tiền bình quân đầu người tương đương với gạo ở từng thời điểm.
- Từ chỉ số thu nhập chia ra các khoản tiêu dùng phản ánh mức độ được
đáp ứng các yêu cầu tối thiểu của cuộc sống, xem số chi cho ăn uống chiếm tỷ
lệ bao nhiêu trong tổng cơ cấu tiêu dùng của đối tượng cư dân được xem xét,
từ đó thấy được thực trạng đói nghèo và độ chênh có tính chất vùng, khu vực,
giữa các đối tượng được nghiên cứu khác nhau.
Khi xét vấn đề giàu nghèo trên bình diện kinh tế, các nhà nghiên cứu xác
định thước đo giàu nghèo thường bắt đầu từ việc vạch ra giới hạn của nghèo
khổ, được biểu hiện bằng thu nhập tính theo đầu người của gia đình. Nếu các
gia đình có bình quân thu nhập đầu người dưới giới hạn nghèo khổ thì được
coi là đói nghèo; cịn quy mơ của nghèo khổ được tính theo tỷ lệ số hộ nghèo
đói trong tổng số hộ của địa phương hay toàn quốc gia.
Từ sự phân tích định tính đến phân tích định lượng, các nhà xã hội học
và các nhà kinh tế học đã đưa ra cách tính phổ biến trên thế giới:
- Cách thứ nhất: Giới hạn nghèo khổ được xác định tương đương với
mức thu nhập của những người làm dịch vụ xã hội trong những năm đầu của
thập kỷ 60 của thế kỷ XX.
- Cách thứ hai: Lấy số liệu chi lương thực, thực phẩm đủ sống cho một
gia đình nhân với 3 lần sẽ ra mức giới hạn nghèo khổ (còn gọi là thu nhập tối
thiểu của đời sống).
Ngồi ra, một số nước cịn căn cứ vào lượng ca lo tối thiểu cần thiết cho



18

cơ thể con người mỗi ngày để tìm giới hạn của sự nghèo khổ. Người nào có
mức tiêu dùng bình quân một ngày thấp hơn mức calo hấp thụ thì được coi là
nghèo đói. Tiêu chí về ngưỡng nghèo theo Ngân hàng Thế giới là dưới 2.100
calo/người/ngày (năm 1991).
Hiện nay, Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ
giàu nghèo của các quốc gia bằng thu nhập quốc dân tính theo đầu người theo
hai cách:
- Phương pháp ATLAS: Tính thu nhập bằng USD và theo tỷ giá hối đoái.
- Phương pháp PPP (Purcha sinh Power Padity): Xem xét sức mua của
cư dân theo USD.
Việc nhận diện người đói nghèo, hộ đói nghèo và hiện trạng đói nghèo
của cư dân nơng thơn, nhất là ở các nước nơng nghiệp lạc hậu cịn có thể xác
định ở trạng thái kinh tế tự nhiên của họ.
Ở Việt Nam, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội và hiện trạng đời sống
trung bình phổ biến của cư dân, các nhà nghiên cứu và chính sách đã xác lập
các chỉ tiêu đánh giá về đói nghèo căn cứ vào thu nhập, nhà ở và các tiện nghi
sinh hoạt - tư liệu sản xuất và vốn liếng tích lũy. Mỗi yếu tố trong tiêu chí này
có những vị thế khác nhau:
- Thu nhập và nhà ở là hai căn cứ quan trọng nhất, chúng phản ánh trực
tiếp mức sống hay mức độ thực hiện các nhu cầu tối thiểu của đời sống.
- Tư liệu sản xuất và vốn liếng được tích lũy cho thấy tình cảnh thực sự
của người nghèo và các hộ đói nghèo, chúng giúp cho phân biệt rõ ràng hơn
giữa người giàu và người nghèo, hộ giàu và hộ nghèo ở các vùng nông thôn
và đô thị.
Trong khi đó, vào năm 1995, WB đưa ra ngưỡng nghèo của Việt Nam là
mức chi tiêu cần thiết cho hộ gia đình đủ mua lương thực, thực phẩm để bảo
đảm đủ 2.100 calo/ngày/người. Số chi tiêu lương thực, thực phẩm này chiếm



19

khoảng 70% tổng thu nhập, còn lại 30% để chi về mặc, đi lại, giáo dục và y tế.
Căn cứ vào điều kiện riêng của đất nước, Việt Nam đã đưa ra chuẩn để
xác định nghèo, có điều chỉnh theo từng vùng miền và từng thời điểm. Các
chuẩn nghèo ở Việt Nam đã qua 3 lần thay đổi:
Lần thứ nhất: Theo quy định tại Thông tư số 1751/LĐTBXH ngày 20
tháng 5 năm 1997 của Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội, hộ đói là hộ
khơng đủ cơm ăn, khơng đủ áo mặc, con cái thất học, khơng có tiền để chữa
bệnh, nhà ở rách nát; quy đổi bằng gạo thì các hộ này có mức thu bình qn
đầu người dưới 13 kg gạo/tháng, quy thành tiền là 45.000 đồng. Hộ nghèo là
hộ thiếu ăn nhưng không đứt bữa, khơng đủ áo lành và áo ấm, khơng có khả
năng phát triển sản xuất; tính theo thu nhập thì ở vùng nông thôn miền núi và
hải đảo bằng dưới 15 kg gạo/người/tháng, tương đương với 55.000 đồng;
tương tự, đối với vùng nông thôn đồng bằng và trung du là dưới 20 kg gạo và
70.000 đồng; đối với thành thị là dưới 25 kg gạo và 90.000 đồng.
Lần thứ hai: Theo quy định tại Quyết định số 1134 - 2000/QĐ LĐTBXH ngày 01 tháng 11 năm 2000 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương
binh - Xã hội (áp dụng từ ngày 01 tháng 01 năm 2001), hộ nghèo ở vùng nơng
thơn miền núi có thu nhập 80.000 đồng/người/tháng; tương tự, ở vùng đồng
bằng là 100.000 đồng và ở đô thị là 150.000 đồng.
Lần thứ ba: Quyết định 170/2005/ QĐ- TTg ngày 8/7/2005 của Thủ
tướng Chính phủ quy định hộ nghèo ở khu vực nơng thơn có thu nhập đầu
người một tháng từ 200.000 đồng trở xuống; ở khu vực thành thị là 260.000 đồng.
Các văn bản của các ban ngành có liên quan đến XĐGN cũng đưa ra các
khái niệm “Xã nghèo” và “Vùng nghèo”. Xã nghèo là xã có tỷ lệ số hộ đói
nghèo chiếm từ 40% trở lên, thiếu cơ sở hạ tầng (giao thơng đi lại khó khăn,
khơng có điện thắp sáng, thiếu nước sạch cho sinh hoạt, khơng có đủ các cơng
trình dân sinh kinh tế như trường học, trạm y tế, chợ xã hoặc chợ liên xã.



×