BỘ LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH – XÃ HỘI
TRƯỜNG LAO ĐỘNG – XÃ HỘI
TIỂU LUẬN
XÃ HỘI HỌC
Đề tài:
“Về sự tác động của q trình đơ thị hố ở Việt Nam
đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội của Hà Nội”
Giáo viên hướng dẫn
: Nguyễn Thanh Huyền
Người trình bày
: Lê Thanh Hương
1
Hà Nội, ngày 25 tháng 05 năm 2008
2
I.
ĐẶT VẤN ĐỀ :
Từ 1990 đô thị Việt Nam mới bắt đầu phát triển. Từ đó đến nay, đặc biệt là
vài năm trở lại đây tốc độ đơ thị hóa càng diễn ra nhanh chóng. Những năm
đầu 1990 tỷ lệ đơ thị hóa hàng năm chỉ đạt khoảng 17-18% nhưng nay mức độ
đơ thị hóa đã tăng lên 27%/năm.
Bước vào thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố, hội nhập kinh tế quốc tế và
trước các tác động của tiến trình tồn cầu hố, tốc độ đơ thị hố đang diễn ra
khá nhanh, làm biến đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của đất nước. Trong tiến trình
đó, văn hố đơ thị Việt Nam đang có những thay đổi theo hướng hiện đại.
Đây là giai đoạn có những thay đổi và phát triển toàn diện về mọi mặt đời
sống kinh tế xã hội của Hà Nội, đơ thị hố của Hà Nội có sự phát triển vượt bậc
:
- Dân số Hà Nội tăng mạnh, lượng người nhập cư vào Hà Nội tăng cao trong
đó lượng người nhập cư vì lý do kinh tế chiếm tỷ lệ lớn. Điều này cũng khẳng
định tính tích cực của q trình đơ thị hố của Hà Nội hiện nay, sự tăng tốc độ
đơ thị hoá đi liền với tăng trưởng kinh tế, hạn chế được hiện tượng đơ thị hố
giả
tạo.
-Tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục ở mức cao trong nhiều năm, thu nhập bình
quân trên đầu người của người dân thành phố ngày càng được cải thiện. Đời
sống người dân tăng, nhu cầu nhà ở bùng nổ là một nguyên nhân làm quá trình
xây dựng phát triển mạnh mẽ, làm thay đổi diện mạo của đơ thị.
- Q trình đơ thị hóa mạnh mẽ của thành phố đã tác động đến vùng ven một
cách mạnh mẽ, làm thay đổi nhanh chóng nhiều mặt của vùng ven đô Hà Nội,
đồng thời trong quá trình phát triển cũng đã hình thành nên các khu đô thị mới
vùng
ven.
- Do yêu cầu tất yếu của q trình đơ thị hóa, nhiều quận mới được thành lập,
địa
giới
hành
chính
khu
vực
nội
đơ
có
nhiều
biến
động.
- Hà Nội ngày càng củng cố vai trị là trung tâm chính trị lớn nhất cả nước. Các
tính chất tạo thị khác như kinh tế công nghiệp, thương mại, du lịch, văn hố
cũng tác động đến q trình đơ thị hố. Sức hút của các nhân tố cơng nghiệp
3
hiện đang là chủ đạo thể hiện đặc trưng của giai đoạn phát triển cơng nghiệp
hố, tuy nhiên sức hút của các yếu tố khác như thương mại , dịch vụ, văn hố
đang
ngày
càng
tăng.
- Q trình đơ thị hố của Hà Nội cũng đang nảy sinh nhiều yếu tố bất cập
- Đơ thị hố của Hà Nội diễn ra theo đúng quy luật.
- Những biến động phức tạp, tác động tiêu cực của q trình đơ thị hố gần đây
cũng cho thấy các khái niệm đơ thị hố cịn chưa phản ánh được q trình đơ
thị
hố
trong
bối
cảnh
đặc
thù
của
đơ
thị
Hà
Nội.
- Xu hướng đơ thị hố trên khía cạnh vùng là đặc điểm mang tính tất yếu giai
đoạn hiện nay, tuy nhiên các nghiên cứu về xu hướng này còn mờ nhạt, chưa
làm rõ được những quan hệ có tính quy luật của Hà Nội với các vùng lân cận.
Đơ thị hóa song hành với q trình cơng nghiệp hóa ở nước ta đang từng
ngày làm đổi thay diện mạo đất nước, cung cấp những công năng đô thị đa
dạng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cuộc sống hiện đại. Nhưng, ở một
bình diện khác, làn sóng đơ thị hóa tự phát trên diện rộng cũng làm nảy sinh
nhiều bất cập và để lại những hậu quả nặng nề về mặt xã hội, quy hoạch, kiến
trúc, sản xuất, hệ sinh thái..., gây nên nhiều áp lực đối với sự phát triển của đất
nước.
4
II. NỘI DUNG:
1. Khái niệm :
Tuỳ theo mỗi quốc gia mà đô thị được định nghĩa khác nhau. Ở Việt
Nam,theo Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 5 tháng 10 năm 2001 của Chính
phủ Việt Nam về việc phân loại đơ thị và cấp quản lý đô thị:
Đô thị là khu dân cư tập trung có những đặc điểm sau:
Về cấp quản lý, đô thị là thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quyết định thành lập;
Về trình độ phát triển, đơ thị phải đạt được những tiêu chuẩn sau:
Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chun ngành, có vai trị thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ như: vùng liên
tỉnh, vùng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc vùng trong tỉnh, trong
thành phố trực thuộc Trung ương; vùng huyện hoặc tiểu vùng trong huyện.
Đối với khu vực nội thành phố, nội thị xã, thị trấn tỷ lệ lao động phi nông
nghiệp tối thiểu phải đạt 65% tổng số lao động; cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt
động của dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy chuẩn thiết kế quy
hoạch xây dựng quy định cho từng loại đô thị, quy mơ dân số ít nhất là 4000
người và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km².
Đô thị hố là sự mở rộng của đơ thị, tính theo tỷ lệ phần trăm giữa số dân
đô thị hay diện tích đơ thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng hay khu
vực. Nó cũng có thể tính theo tỷ lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo thời gian.
Nếu tính theo cách đầu thì nó cịn được gọi là mức độ đơ thị hố; cịn theo
cách thứ hai, nó có tên là tốc độ đơ thị hố.
Các q trình đơ thị hóa gồm:
Sự mở rộng tự nhiên của dân cư hiện có. Thơng thường q trình này
khơng phải là tác nhân mạnh vì mức độ tăng trưởng dân cư tự nhiên của thành
phố thường thấp hơn nông thôn.
5
Sự chuyển dịch dân cư từ nông thôn ra thành thị, hoặc như là sự nhập cư
đến đô thị
Sự kết hợp của các yếu tố trên.
Một khu đô thị là một khu vực có mật độ gia tăng các cơng trình kiến trúc
do con người xây dựng so với các khu vực xung quanh nó. Các đơ thị có thể là
thành phố, thị xã, hay vùng đô thị nhưng thuật từ này thông thường không mở
rộng đến các khu định cư nông thôn như làng, xã, ấp.
Các đô thị được thành lập và phát triển thêm qua q trình đơ thị hóa. Đo
đạt tầm rộng của một đơ thị sẽ giúp ích cho việc phân tích mật độ dân số, sự
mở rộng đô thị, và biết được các số liệu về dân số nông thôn và thành thị.
Không như một đô thị, một vùng đô thị không chỉ bao gồm đơ thị mà cịn
bao gồm các thành phố vệ tinh cộng vùng đất nơng thơn nằm xung quanh có
liên hệ về kinh tế xã hội với thành phố đô thị cốt lỏi, tiêu biểu là mối quan hệ từ
công ăn việc làm đến việc đáp xe hàng ngày ra vào mà trong đó thành phố đơ
thị cốt lỏi là thị trường lao động chính. Thật ra, các đơ thị kết hợp và phát triển
như trung tâm hoạt động kinh tế/dân số trong một vùng đô thị lớn hơn.
Các vùng đô thị thường thường được định nghĩa bằng việc sử dụng các
quận hoặc các đơn vị chính trị cấp quận làm đơn vị nền tảng. Quận có chiều
hướng hình thành các ranh giới chính trị bất di bất dịch. Các kinh tế gia thường
thích làm việc với các thống kê xã hội và kinh tế dựa vào các vùng đô thị. Các
đơ thị được dùng để thống kê thích hợp hơn trong việc tính tốn việc sử dụng tỉ
lệ đất qn bình trên đầu người và mật độ dân cư (theo Dumlao & Felizmenio
1976)
6
2. Thực trạng :
Đơ thị hóa song hành với q trình cơng nghiệp hóa ở nước ta đang từng
ngày làm đổi thay diện mạo đất nước, cung cấp những công năng đô thị đa
dạng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cuộc sống hiện đại. Nhưng, ở một
bình diện khác, làn sóng
đơ thị hóa tự phát trên
diện rộng cũng làm nảy
sinh nhiều bất cập và để
lại những hậu quả nặng
nề về mặt xã hội, quy
hoạch,
kiến
trúc,
sản
xuất, hệ sinh thái..., gây
nên nhiều áp lực đối với
sự phát triển của đất
nước.
Ở Việt Nam, q trình đơ thị hóa lại xảy ra nhiều năm trước q trình cơng
nghiệp hóa, khiến cho mơ hình và tư duy đô thị gặp nhiều khủng hoảng. Nghịch
lý này có thể bắt nguồn từ nguyên nhân do sức ép nhà ở sau chiến tranh và
tình trạng đầu cơ đất. Sự phát triển ngược trên khiến hệ thống đô thị ở Việt
Nam ngày càng lộ rõ những yếu kém, đi liền với các hệ quả, có thể được gọi là
"căn bệnh đô thị" như: kiến trúc thiếu đồng bộ, giao thông tắc nghẽn, nước thải
sinh hoạt, di dân tự do và các vấn đề xã hội nan giải khác... Quy hoạch ngày
càng xa rời mục đích gốc - vốn phải phục vụ nhu cầu và thói quen của đại bộ
phận dân cư.
7
Hà Nội có tới hàng chục vạn người sống chen chúc trong các ngõ hẻm chật
chội, thiếu các nhu cầu tối thiểu về
nước sạch, hạ tầng kỹ thuật, chưa
nói đến các nhu cầu về việc làm,
giáo dục, chăm sóc sức khỏe, môi
trường sống... Các khu đô thị mới
được phát triển mạnh ở khu vực
ven đô thường là các dự án nhỏ lẻ,
không đồng bộ, hầu như chỉ xây
nhà ở để bán, xa nơi làm việc,
trường học, bệnh viện, chợ và các
trung tâm giao tiếp nên cư dân vẫn
đổ vào trung tâm cũ theo giao thông
hướng tâm. Điều này càng trở nên
nan giải khi dịng người nhập cư
khơng chính thức từ nơng thơn ra
thành phố tăng song hành với q
trình
đơ
thị
hố
phát
triển
nhanh
hiện
nay
ở
Hà
Nội.
Bước ra vùng ngoại vi thành phố, có thể cảm nhận thấy một sự đứt gãy,
phá vỡ lớn trong cảnh quan khu vực ven đơ, vốn có cấu trúc rất đẹp, tạo dựng
nên từ sự phối kết hợp hài hịa của khơng gian kiến trúc nơng thơn truyền
thống. Tình trạng bê-tơng hóa ven lộ, ven đê, ven đường cao tốc và trong các
làng bộc lộ rõ sự không theo kịp của việc quy hoạch nông thôn hiện nay.
Diện mạo kiến trúc hiện nay đặc trưng bởi các loại hình kiến trúc như: nhà
chia lơ, khách sạn, văn phịng cho th, khu cơng nghiệp tập trung và các khu
đô thị mới cao tầng, trong đó, phong cách, tính thẩm mỹ và cơng năng dường
như lại có sự sụt giảm đáng kể so với thời kỳ trước đây. Tính tổng thể vốn là
nền tảng cho vẻ đẹp đô thị, nhưng hiện nay, diện mạo kiến trúc được xây dựng
từ "ngôn ngữ" kiến trúc chắp vá, thiếu tính đồng bộ dẫn đến việc xé lẻ khơng
gian đơ thị thành những mảnh riêng biệt. Đây chính là khoảng tối của diện mạo
kiến trúc đô thị hiện nay. Diện mạo kiến trúc trên là thực tiễn phản ánh học
thuật và lý luận đô thị, kiến trúc vẫn còn nhiều khoảng trống.
8
Áp lực từ q trình đơ thị hóa hiện nay rất lớn: Tính đến năm 2005, có
khoảng 20 triệu người sống ở đô thị nhưng đến năm 2020, con số này sẽ là
khoảng 70 triệu người. Điều này cũng đồng nghĩa, chúng ta phải lo cho 50 triệu
dân cư đô thị có nhà ở, việc làm và các dịch vụ đời sống khác. Hay tính theo
quỹ đất cứ 100m²/đầu người thì cần tới 500 nghìn héc-ta đất dành cho đơ thị,
trong đó, theo số liệu của Hiệp hội Đơ thị Việt Nam dự báo, chỉ riêng về dịch vụ
tối thiểu cho 3 hạng mục cấp nước, thoát nước và thu gom xử lý chất thải rắn
đã cần khoản tiền đầu tư khổng lồ: 8,9 tỉ USD (năm 2010) và 13 tỉ USD (năm
2020). Những yếu tố khác cũng rất quan trọng phải tính cho tương lai sắp tới
như: cần bao nhiêu nhà ở, trường học, bệnh viện... hiện nay vẫn chưa có số
liệu chính thức nào được cơng bố từ phía các cơ quan quản lý nhà nước. Sẽ là
quá muộn nếu chúng ta khơng có những quyết sách đúng đắn về đơ thị hố ở
Hà Nội.
Kể từ khi Đảng chủ trương đổi mới,
đất nước đã vượt qua khủng hoảng,
nhiều lĩnh vực đã đạt được tốc độ phát
triển tốt. Nhưng, về xây dựng lại chưa
tạo ra được cho đất nước một bức
tranh đẹp.
Có thể nước ta có nhiều đặc điểm
khơng giống các nước khi khởi đầu tiến
trình đơ thị hố. Thực tế, việc sao chép
những mơ hình đơ thị hiện đại của các
nước tiên tiến đang bộc lộ những độ
Không nhiều các khu đô thị được
quy hoạch đồng bộ, mới chỉ có các
khu để ở
vênh nhất định. Đặc biệt, thực tiễn phát triển đơ thị khá "nóng" ở nước ta thời
gian qua đang bộc lộ những khiếm khuyết, báo trước khả năng có thể xảy ra
"khủng hoảng đơ thị".
Bộ Xây dựng, cơ quan chuyên ngành được giao trách nhiệm, đã tỏ ra “đuối
sức” trước nhiều vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra trong cơn lốc xây dựng và
phát triển đô thị hiện thời.
9
Thăng Long – Hà Nội với nghìn năm lịch sử phong phú; hào hùng, với văn
hố được tích luỹ nhiều đời, không phải thủ đô nào trên thế giới cũng có được.
Hà Nội khơng nhất thiết phải lựa chọn mơ hình đầu tàu kinh tế, việc mà nhiều
địa phương có nhiều thuận lợi và có khả năng làm tốt hơn Hà Nội nhiều.
Mặt khác, mơ hình đơ thị cực lớn với động lực cơng nghiệp là một mơ hình
đơ thị đã cũ, nhiều sai lầm mà phương Tây đang phải từ bỏ. Chính những
thành phố có hàm lượng văn hố cao, có đời sống đơ thị giàu tính nhân văn, có
thiên nhiên trong lành, có nhịp sống hợp lý, làm giàu bằng kinh tế tri thức mới là
mơ hình mà các nước đi trước chúng ta đang tìm kiếm.
Hà Nội có đủ những yếu tố, đủ để xây dựng cho mình một thành phố như
thế. Thay vì, chọn một mơ hình đơ thị khổng lồ với vơ vàn vấn nạn, từ tắc
nghẽn giao thông đến ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội, thị trường đất đai rối
loạn cản trở phát triển kinh tế như nhiều đô thị lớn trên thế giới đang gặp. Hà
Nội nên chọn cho mình mơ hình một thành phố lịch sử, văn hố, đầu tàu về
khoa học – kỹ thuật tiên tiến, có quy mơ vừa phải, hợp lý, có mơi trường đơ thị
trong lành, văn minh, công bằng, dân chủ, đủ năng lực khai thác, ứng dụng
những thành tựu khoa học tiên tiến của thời đại trong xây dựng, quản lý vận
hành, ngõ hầu tạo dựng một môi trường sống lý tưởng. Một mô hình đơ thị
khơng cần nhiều đất đai mà cần nhiều hơn những giá trị đạo đức, nhân văn,
nhân tài và chất xám. Đấy mới chính là “Hướng nhìn - Tầm nhìn” của nghìn
năm Thăng Long và của thời đại.
Hà Nội phải là nơi làm gương cho cả
nước trong việc quy hoạch và xây dựng
một thành phố nhân ái, văn minh mà vẫn
giàu có, năng động; sẵn sàng thích ứng
với mọi đổi thay của thời cuộc và tạo ra
cho chính mình những bản sắc, bản sắc
của một Thủ đô Việt Nam.
Dân số đơ thị ở Việt nam hiện nay có
khoảng 15 triệu với tỉ lệ đơ thị hố
10
1 gian bếp của người nghèo ở
phường Ô Chợ Dừa, Đống Đa, HN
khoảng 25%, thuộc loại thấp trong khu vực ASEAN và trên thế giới. Dự báo về
tốc độ đơ thị hố ở Việt Nam trong 10-20 năm tới, sẽ dao động trong khoảng
30-45%, dân số đô thị lên tới trên 45 triệu ngườ . Hiện nay Việt Nam có khoảng
700 điểm đơ thị được hình thành chủ yếu – rõ nét từ 300 – 400 năm nay và
được phân loại theo 5 cấp (từ đô thị đặc biệt đến đô thị loại 5).
Những đặc điểm nổi bật của q trình đơ thị hố ở Việt nam – sự hình thành
theo mơ hình chuyển hóa kinh tế - xã hội và đặc trưng về văn hóa, địa lí của
từng Vùng. Những đơ thị Việt Nam chủ yếu được hình thành từ chế độ phong
kiến và được mở rộng theo kiểu mẫu qui hoạch thuộc địa của Pháp. Những đô
thị này được tiếp tục chịu ảnh hưởng của mơ hình qui hoạch đơ thị từ các nước
Đông âu trong các giai đoạn tiếp theo và đang được quy hoạch, quản lí theo
mơ hình tập trung, chịu khống chế nhiều từ trung ương hay cấp tỉnh, thành phố.
Hiện nay, các đô thị ở Hà Nội đang có xu hướng mời chun gia nước ngồi để
lập mơ hình phát triển các thành phố theo các nước đã phát triển. Ranh giới và
sự liên kết giữa nông thôn và thành thị không rõ nét, tạo ra hiện tượng đơ thị
hố gi tạo và thiếu việc làm tại khu vực nơng thơn, từ đó đã tạo ra làn sóng di
dân tự do vào khu vực đơ thị, đặc biệt là các đơ thị lớn và trung bình. Nhìn
chung, tốc độ đơ thị hố chậm - kéo dài và chịu nhiều ảnh hưởng của tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Cấu trúc khơng gian đơ thị trong q trình chuyển hố dễ
chấp nhận xu hướng hồ nhập – thậm chí mang phong cách “nhập khẩu” từ
nước ngồi hay từ các vùng đồng bằng sang các khu vực miền núi, nhưng vẫn
cịn lưu giữ yếu tố chính về cấu trúc khơng gian và lối sống truyền thống.
Hướng tới mơ hình Đơ thị tương thích trong q trình đơ thị hóa. Đề xuất
một dạng đơ thị có thể có kh ả năng biến đổi một cách tương thích với sự thay
đổi của sinh thái tự nhiên, bối cảnh kinh tế xã hội, nhu cầu của người dân đô
thị, tuỳ theo đặc trưng của từng vùng đô thị khác nhau về văn hố, khả năng
đầu tư, trình độ quản lí. Đơ thị tương thích là một kiểu mơ hình phát triển được
dựa trên khả năng biến đổi tổng hợp của từng đô thị.
Do tính chất tập trung dân cư và thành phần phức tạp của các nhóm dân cư
đơ thị, những tệ nạn xã hội phổ biến nhất hiện nay đều được phát sinh và phát
triển ở các trung tâm đô thị lớn: trộm cắp, giết người, nghiện hút, mãi
dâm...Vấn đề nhà ở: với tốc độ tăng dân số đô thị như hiện nay thì vấn đề nhà
11
ở đô thị trở nên khủng hoảng. Dân số đô thị tăng nhanh trong khi quy họach đô
thị không phát triển đồng bộ dẫn đến việc thiếu nhà ở cho người dân đơ thị là
đương nhiên.
Các khu ổ chuột
hình thành là do sự
đáp ứng không đủ
nhu cầu nhà ở cho
người dân đô thị, đặc
biệt là tầng lớp nghèo
của đô thị và những
người mới nhập cư
từ nông thôn.Các khu
ổ chuột không chỉ
làm mất mỹ quan đô
thị, mà vấn đề vệ
sinh môi trường ở đây cũng đáng được lưu tâm. Vấn đề kém vệ sinh, xả rác,
thiếu hụt thiết bị tiện nghi như nhà vệ sinh, nước thải sinh hoạt gây ảnh hưởng
trực tiếp đến vấn đề ô nhiễm môi trường và giảm chất lượng cuộc sống đô thị.
Nét nổi bật trong q trình đơ thị hóa ở Hà Nội là q trình tập trung dân cư
đơ thị. Năm 2007, quy mơ dân số của Hà Nội là 3.398,9 nghìn người, tăng 1,12
lần so với năm 2001, trong đó, dân số thành thị gia tăng nhanh (xấp xỉ 1,3 lần
so với năm 2001), nhưng dân số
nơng thơn lại có xu hướng giảm.
Ngun nhân chủ yếu của tình
trạng này là sự gia tăng cơ học từ
nơng thơn ra thành thị. Trung bình
mỗi ngày có hàng nghìn người từ
các địa phương về Hà Nội để tìm
kiếm việc làm, sinh sống và thụ
hưởng các dịch vụ đô thị. Quy mô
dân số mở rộng đã làm cho mật độ
dân số tăng nhanh và mất cân đối.
12
Năm 2007, mật độ dân số toàn thành phố là 3.490 người/km², trong đó mật độ
cao nhất là ở các quận nội thành.
Cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước, trong giai đoạn 2001-2007, Hà
Nội cũng đạt mức tăng trưởng cao với mức tăng bình quân 11,5%/năm. Các
ngành kinh tế đều tăng khá, trong đó giá trị sản phẩm cơng nghiệp bình qn
tăng 12,7%/năm, dịch vụ tăng 10,5%/năm và nơng nghiệp tăng 2,7%/năm. Cơ
cấu ngành kinh tế có chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỷ trọng cơng
nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Tỷ trọng ngành công nghiệp tăng từ
38,5% năm 2001 lên 41,5% năm 2007, trong khi tỷ lệ này ở nhóm ngành nơng
nghiệp giảm từ 3,8% xuống cịn 2,7%. Các ngành cơng nghiệp chế biến và
công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu như: Cơ khí, điện tử, may mặc, giày
dép… đang được đầu tư phát triển. Tuy nhiên, các sản phẩm trên đều tiêu thụ
nhiều ngun liệu, q trình sản xuất gây ơ nhiễm nên đã có những tác động
tiêu cực tới mơi trường khơng khí ở Hà Nội.
Một là, hoạt động sản xuất cơng nghiệp:Với tốc độ tăng trưởng bình qn
12,7%/năm , hoạt động sản xuất công nghiệp được coi là một trong những
nguồn chính gây ơ nhiễm mơi trường khơng khí ở Hà Nội. Kết quả điều tra 400
cơ sở công nghiệp đang hoạt động trên địa bàn thành phố cho thấy: Gần 200
cơ sở có tiềm năng thải các chất thải gây ơ nhiễm khơng khí, trong đó chủ yếu
là các cơ sở công nghiệp cũ (được xây dựng từ những năm 80 của thế kỷ XX)
với công nghệ lạc hậu và hầu như chưa có thiết bị xử lý khí thải độc hại. Trước
đây, các cơ sở này nằm ở ngoại thành hay ven nội, thì nay đã nằm ngay trong
nội thành, giữa các khu dân cư đông đúc do q trình mở rộng ranh giới đơ thị.
Những cơ sở mới được xây dựng tập trung ở các khu công nghiệp, nhưng
chưa xử lý triệt để các khí thải độc hại nên vẫn gây ô nhiễm môi trường xung
quanh. Các khí thải độc hại phát sinh
từ những cơ sở này chủ yếu do q
trình chuyển hóa năng lượng (đốt
than, xăng và dầu các loại). Theo Sở
Tài nguyên, Môi trường và Nhà đất Hà
Nội, hàng năm các cơ sở công nghiệp
ở Hà Nội tiêu thụ khoảng 240.000 tấn
13
than, 250.000 tấn xăng, dầu và thải vào bầu không khí hơn 80.000 tấn bụi khói,
10.000 tấn khí SO2, 19.000 tấn khí NO2, 46.000 tấn khí CO, gây ảnh hưởng
xấu đến chất lượng mơi trường khơng khí một số khu vực của thành phố. Trong
đó, các cơ sở sản xuất thuộc ngành hoá chất, dệt và chế biến thực phẩm gây ô
nhiễm lớn nhất.
Hai là, các hoạt động giao thông vận tải: Trong thời gian qua, số lượng các
phương tiện giao thông ở Hà Nội tăng nhanh. Năm 2001, thành phố có gần 1
triệu xe máy và hơn 100.000 ơ tô. Cuối năm 2007, con số này đã tăng gấp đôi,
với khoảng 1,9 triệu xe máy và 200.000 ô tô. Tốc độ phát triển của các phương
tiện giao thông giai đoạn 2001-2007 là 12%/năm đối với xe ô tô, 15%/năm đối
với xe máy. Nguyên nhân của sự gia tăng này là do phát triển kinh tế và mở
rộng quy mô dân số, làm tăng nhu cầu đi lại. Theo đánh giá của các chun gia
mơi trường, ơ nhiễm khơng khí ở đô thị do giao thông gây ra chiếm tỷ lệ khoảng
70%. Lưu lượng xe lớn và chất lượng nhiên liệu sử dụng chưa tốt (hàm lượng
benzen khoảng 5% so với 1% ở các nước trong khu vực; hàm lượng lưu huỳnh
trong diezen chiếm từ 0,5-1% so với 0,05% ở các nước trong khu vực) là
những nguyên nhân chính gây ra tình trạng ơ nhiễm.
Ba là, các hoạt động xây dựng đơ thị và sinh hoạt cộng đồng: Q trình đơ
thị hóa đang diễn ra mạnh với các hoạt động xây dựng mới, sửa chữa và cải
tạo nhà ở; mở rộng và nâng cấp hệ thống giao thông. Theo số liệu thống kê,
trên địa bàn Hà Nội ln có trên 1.000 cơng trình xây dựng lớn nhỏ được thi
cơng; mỗi tháng có khoảng 10.000 m2 đường bị đào bới (để thi cơng các cơng
trình hạ tầng kỹ thuật). Các hoạt động xây dựng này thường xuyên phát tán bụi
vào môi trường, khiến cho tình trạng ơ nhiễm khơng khí thêm trầm trọng. Bên
cạnh đó, hoạt động sinh hoạt của nhân dân cũng ảnh hưởng khơng nhỏ đến
mơi trường khơng khí (đun nấu bằng than, dầu, đặc biệt là than tổ ong), ước
tính góp vào khoảng 10% chất thải gây ơ nhiễm mơi trường khơng khí ở Hà
Nội.
Hiện trạng mơi trường khơng khí:
Ơ nhiễm bụi: Giống như nhiều đơ thị
khác trong cả nước, Hà Nội bị ô nhiễm bụi
14
tới mức báo động. Tại khu vực nội thành, chất lượng mơi trường khơng khí có
biểu hiện suy thối. Số liệu quan trắc qua các năm ghi nhận: Nồng độ bụi tăng
rõ rệt và đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Đặc biệt, tại các nút giao thông,
nồng độ bụi cao hơn tiêu chuẩn cho phép 2-2,5 lần, điển hình là Ngã tư Kim
Liên (đường Giải Phóng), nồng độ bụi cao hơn 2-3 lần so với tiêu chuẩn cho
phép (0,2 mg/m³).
15
Kết quả quan trắc mơi trường khơng khí tại các khu, cụm công nghiệp cũng
cho thấy: Nồng độ bụi lơ lửng tại hầu hết các khu vực đều có xu hướng gia
tăng liên tục, vượt quá chỉ tiêu cho phép 2,5-4,5 lần. Trong đó, gia tăng đặc biệt
mạnh là các khu vực: Từ Liêm, Văn Điển, Pháp Vân và Mai Động. ơ nhiễm
khơng khí ở Hà Nội chủ yếu là do bụi từ đường bộ, bụi thứ cấp của các
phương tiện vận tải tham gia giao
thông và của hoạt động xây
dựng. Tại Hà Nội, vào nhưng
năm 1996-1997 ô nhiễm trầm
trọng đã xảy ra ở xung quanh các
nhà máy thuộc khu cơng nghiệp
Thượng Đình với đường kính khu
vực ơ nhiễm khoảng 1700 mét và
nồng độ bụi lớn hơn tiêu chuẩn
cho phép khoảng 2-4 lần; xung
quanh các nhà máy thuộc khu
công nghiệp Minh Khai – Mai Động, khu vực ơ nhiễm có đường kính khoảng
2500 mét và nồng độ bụi cũng cao hơn tiêu chuẩn cho phép 2-3 lần. Cũng tại
khu công nghiệp Thượng Đình, kết quả đo đạc các năm 1997-1998 cho thấy
nồng độ SO2 trong khơng khí vượt tiêu chuẩn cho phép 2-4 lần.
Ơ nhiễm khí độc hại (SO2, CO, NO2): Theo số liệu của Sở Tài nguyên,
Môi trường và Nhà đất Hà Nội, nồng độ khí SO2, NO2, CO trong các khu dân
cư đô thị ở nội và ngoại thành đều nhỏ hơn tiêu chuẩn, tức là chưa có hiện
tượng ơ nhiễm khí độc hại. Tuy nhiên, ở một số nút giao thông lớn trong thành
phố như Ngã Tư Sở, Ngã Tư Vọng, Ngã tư Kim Liên… nồng độ CO đang có xu
hướng tăng và ở mức xấp xỉ giới hạn cho phép. Nguyên nhân của tình trạng
này là do lưu lượng xe tham gia giao thông quá lớn, chất lượng xe lưu hành
không đảm bảo (59% số xe máy lưu hành tại Hà Nội không đạt tiêu chuẩn về
khí thải) và hiện tượng tắc nghẽn xảy ra thường xuyên tại các nút giao thông.
Khi xảy ra ách tắc, vận tốc của các phương tiện giao thông dừng ở mức 5
km/h, thậm chí bằng 0. Trong tình trạng này, xe máy và ô tô con sẽ thải ra một
lượng khí CO nhiều gấp 5 lần; xe buýt, xe tải nhiều gấp 3,6 lần so với khi chạy
ở tốc độ 30 km/h.
16
Ô nhiễm tiếng ồn: Trong thời gian gần đây, tiếng ồn giao thơng ở Hà Nội có
xu hướng tăng do sự phát triển mạnh mẽ các phương tiện vận tải. Mặc dù
thành phố đã có một số biện pháp bố trí phân luồng giao thơng, cải tạo và nâng
cấp một số tuyến đường, cấm hoạt động các loại xe lam, xe công nông (là
những phương tiện gây tiếng ồn lớn) nhưng tiếng ồn giao thơng vẫn chưa có
xu hướng giảm.
Tại Hà Nội, đang thực hiện gói thầu CP7A nhằm cải thiện hệ thống thoát
nước ở Hà Nội trên hệ thống sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét, tức lần thực
hiện các biện pháp xử lý nước thải hữu hiệu như đã đề ra trong quy hoạch tổng
thể thoát nước của Hà Nội thì đến năm 2010 hầu hết các con sơng ở Hà Nội có
chỉ tiêu BOD dưới 25 mg/lít; cịn nếu khơng có biện pháp cải thiện mơi trường
rõ rệt thì chỉ số BOD sẽ tăng gấp đơi so với thời kỳ 1992-1994 và khoảng 1,8
lần so với thời kỳ 1997-1998, trong đó sơng Lừ sẽ bị ơ nhiễm nặng nhất với chỉ
số BOD là 130 mg/l, khá nhất là sơng Sét thì cũng là 54 mg/l; trong đó tiêu
chuẩn cho phép đối với nước loại A không quá 4 mg/l, với nước loại B khơng
q 25 mg/lít.
Hà Nội cũng đang tiến hành dự án cải tạo môi trường đối với khu công
nghiệp Minh Khai – Vĩnh Tuy, di dời các nhà máy ra khỏi vùng đô thị đông dân,
áp dụng nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”, “Trường hợp tính lệ phí
nước thải của một xí nghiệp cơng
nghiệp”. Thành phố Hồ Chí Minh lập
dự án xây dựng các nhà máy xử lý
chất thải công nghiệp v.v...
Các giải pháp sẽ chỉ có tác dụng
giảm bớt ơ nhiễm môi trường nếu
mọi người cùng coi trọng và bảo vệ
môi trường bằng y thức và hành
động cụ thể của mỗi người.
Kiến trúc tổng thể đô thị đang bị rạn vỡ, nhà ống xây dựng tràn lan, thiếu
vắng không gian công cộng, sự biến mất của các làng trong đô thị... là những
"vết sẹo" của Hà Nội
17
Kiến trúc sư Hoàng Thúc Hào, giảng viên ĐH Xây dựng thẳng thắn, Hà Nội
đang phải “hứng” chịu 7 vết sẹo chính. Đó là: cấu trúc tổng thể đơ thị đang bị
rạn vỡ; các tuyến phố nhà ống xây dựng tràn lan; sự hỗn tạp trong khu phố cổ;
thiếu vắng không gian công cộng; hệ thống mặt nước bị thu hẹp; sự biến mất
của các làng trong đô thị" và cái gọi là "khu đô thị mới" mọc lên như nấm:
Năm 1986, Hà Nội chỉ có xấp xỉ hai triệu dân, hệ thống ao hồ đan xen khắp
nơi, trung tâm thành phố lác đác vài nhà cao tầng, cấu trúc khu phố cổ chưa bị
phá vỡ... Nhưng đến năm 2008, khi Thăng Long sắp 1.000 tuổi, dân số đã tăng
lên gấp 3, ôtô xe máy tràn ngập, hệ thống hạ tầng q tải.
Trong những năm qua, q trình đơ thị hóa làm cho tỷ lệ tăng dân số cơ học
và tự nhiên của Hà Nội ngày càng tăng. Làn sóng các tỉnh tràn về lao động,
sinh sống ở Thủ đô đã làm đa dạng hoá bản sắc, văn hoá, lối sống và một phần
nào tác động tiêu cực đến với đời sống kinh tế - xã hội Hà Nội. Mật độ dân số
Hà Nội cao (2767 người/km 2) so với cả nước (231người/ km 2). Hiện nay tỷ lệ
đô thị hóa của Hà Nội ở mức 57% (tồn quốc 21%).
Tỷ lệ dân thành thị tăng
chậm,
khoảng
gần
0,7%/năm trong các năm
qua. Năm 1990, dân số Hà
Nội
là
2.051.900
người
trong đó dân đơ thị chiếm
50%. Đến năm 1995 dân số
là 2.335.400 người, trong
đó dân đơ thị chiếm 52,3%.
Năm 1996, tỷ lệ dân số đô Những cái cổng như thế này đang dần nhường chỗ
thị là 53,9%, năm 1997 là cho những ngôi nhà với phong cách kiến trúc "tuỳ
56,1%. Theo kết quả cuộc hứng" (Thơn Đình Thơn, xã Mỹ Đình, Hà Nội).
tổng điều tra dân số và nhà
ở ngày 01/4/1999, dân số Hà Nội có 2.672.122 người, trong đó dân thành thị là
1.538.905 người, chiếm 57,59%. Dự báo, tiến trình đơ thị hố sẽ tăng nhanh,
đến năm 2010 dân số Hà Nội vào khoảng 3.200.000 người, trong đó dân đơ thị
chiếm 80%, và năm 2020 là 92,5% .
18
Tình trạng sử dụng đất nơng nghiệp vào mục đích xây dựng đơ thị thiếu kế
hoạch có thể dẫn đến nguy cơ về an ninh lương thực quốc gia. Dự báo đến
năm 2020, diện tích đơ thị vào khoảng 460.000 ha, chiếm 1,4 % diện tích đất tự
nhiên cả nước. Mục tiêu đảm bảo 40 triệu tấn lương thực cho 100 triệu dân khó
có thể đạt được.
Sự chênh lệch về văn hoá và mức sống giữa các tầng lớp cư dân đô thị
ngày càng lớn, dẫn đến sự mất cân bằng trong sinh thái đô thị, nhất là giữa dân
số và việc làm, giữa dân số và thu nhập, giữa dân số và kết cấu hạ tầng…Cơ
chế thị trường đã làm cho dân cư đô thị nước ta bị phân hoá sâu sắc, một bộ
phận dân cư giàu lên nhanh chóng bên cạnh tầng lớp nghèo, lang thang cơ
nhỡ, sống tạm bợ trong các khu nhà ổ chuột, thiếu các điều kiện tối thiểu,
khơng có cơ hội được hưởng đầy đủ các chính sách an sinh xã hội. Một kết
quả nghiên cứu vấn đề nghèo đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: mức
sống của người nghèo thấp hơn người giàu 7 lần. Do thu nhập thấp, các hộ
nghèo phải dành 80% thu nhập chi cho bữa ăn hằng ngày (nhưng vẫn khơng
đủ), chỉ cịn 20% dành cho học hành, chữa bệnh, đi lại; gần 20% trẻ em trong
độ tuổi không được đến trường, cũng gần bằng số đó là con của các hộ nghèo
phải bỏ học, số trẻ em suy dinh dưỡng chiếm 38,8%. Các vấn đề này tác động
tiêu cực đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tình cảm và tâm lý dân cư đơ thị, từ
đó có thể dẫn đến các phức tạp xã hội. Sự mất cân bằng này cần phải được
khắc phục bằng các chính sách về quản lý đơ thị của các ngành chức năng và
chính quyền các đơ thị.
Theo Hội Nơng dân Việt Nam, trong quá trình xây dựng các khu công
nghiệp, khu đô thị, cơ sở hạ tầng, mỗi năm cả nước có gần 200.000 ha đất
nơng nghiệp bị chuyển đổi mục
đích sử dụng, tương ứng mỗi
hộ có khoảng 1,5 lao động mất
việc làm.
Tại Hà Nội, theo Hội nông
dân, việc chuyển đổi mục đích
đất nơng nghiệp tăng liên tục, tỷ
lệ với số dự án được phê duyệt.
19
Đất, vườn làng Nghĩa Đô đang dần bị xẻ,
bán để xây nhà cao tầng.
Năm 2001 thành phố thu hồi 733 ha cho 159 dự án; năm 2002 lấy 1.003 ha cho
194 dự án; năm 2003 lấy 1.424 ha cho 260 dự án và năm vừa qua ước thu hồi
1.980 ha cho 280 dự án. Cùng với số đất bị thu hồi, tình trạng nơng dân khơng
có việc làm trở nên bức xúc hơn bao giờ hết. Bình qn mỗi năm có khoảng
13-15 nghìn lao động khơng có việc, phần lớn lại chưa qua đào tạo nghề.
Một trong những vấn đề được quan tâm nhất là ngày càng nhiều nông dân
bị mất đất do q trình đơ thị hố. Khơng nghề, khơng việc làm, nông dân đổ xô
ra thành phố tạo ra sức ép cho đô thị.
Đại biểu Bùi Ngọc Thanh đưa ra một phép tính khiến nhiều người giật mình.
Mỗi năm có khoảng 80.000 -100.000 ha đất nơng nghiệp bị chuyển đổi mục
đích sử dụng. Nếu tính trung bình một lao động ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ
có khoảng 400-500 m2 đất canh tác như hiện nay thì mỗi năm mất đi khoảng
1,5-2 triệu chỗ làm. Ông Thanh biểu dương cách làm của tỉnh Hải Dương là
thống kê số lao động bị mất đất, rồi cho họ đi đào tạo nghề, sau đó bố trí việc ở
những nhà máy nằm trên phần đất nông nghiệp vừa bị thu hồi.
Đại biểu Nguyễn Thị Hồng Xinh rất đồng tình với ý kiến của ơng Thanh và
cho rằng việc nông dân mất đất, bỏ làng quê ra thành thị sẽ góp phần làm phát
sinh thêm nhiều tệ nạn xã hội. Bà Xinh đề nghị Quốc hội cho điều tra lại tồn bộ
số nơng dân mất việc làm do bị thu hồi đất để có chính sách hỗ trợ kịp thời.
Trong nghị định 22 của Chính phủ quy định, nếu nông dân bị thu hồi đất trắng
thì phải tạo việc làm bằng 3,6 triệu đồng. Tuy nhiên, người nơng dân mất đất đa
số lớn tuổi, trình độ văn hố thấp, rất khó tạo việc làm. Cịn 3,6 triệu đồng thì
chỉ ăn vài tháng là hết.
Vấn đề chậm ban hành văn bản pháp luật cũng được nhiều đại biểu bàn
tới. Đại biểu Lê Xuân Thân phản ánh một thực tế là các luật đất đai, xây dựng,
thuỷ sản, hợp tác xã và những văn bản luật quan trọng khác đã thông qua từ
lâu, song cho tới nay vẫn nằm chờ nghị định hướng dẫn thi hành. Một văn bản
luật có khoảng 10 nghị định, thời gian chờ ban hành mỗi nghị định lại quá lâu,
như vậy luật khó đi vào cuộc sống. Là người đứng đầu thành phố Hà Nội, chịu
trách nhiệm triển khai thực hiện các văn bản dưới luật, đại biểu Hoàng Văn
Nghiên cho rằng cải cách hành chính hiện nay thiếu những văn bản nền.
20
Theo Cơng ty Mơi trường
đơ thị, q trình đơ thị
hố đã làm nhiều hồ bị
san
lấp,
nhiều
sơng,
mương bị thu hẹp diện
tích. Đây là nguyên nhân
làm giảm khả năng chứa,
thoát nước và làm mất
cân bằng hệ sinh thái ao
hồ ở Hà Nội.
Trước đây, Hà Nội có khoảng 200 ao hồ, nay chỉ cịn khoảng 100 ao hồ lớn
nhỏ, trong đó 18 hồ có khả năng điều tiết và thốt nước. Cơng ty Thốt nước
chỉ được quản lý mực nước hồ, trong khi nhiều đơn vị lại đang khai thác hồ vào
các mục đích khác, nên việc hạ mức nước hồ vào các ngày mưa nhiều không
được đáp ứng kịp thời, đã gây úng ngập cho thành phố.
3.
Giải pháp:
Một số giải pháp trước mắt:
- Tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển đô thị đến
2020 và các năm tiếp theo phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, phát triển bền vững, giữ vững bản sắc văn hố dân tộc. Phát triển đơ
thị phải coi trọng bảo tồn và tơn tạo các di tích lịch sử, văn hố, các cơng trình
kiến trúc và danh lam thắng cảnh, phát triển đô thị theo kiến trúc hiện đại kết
hợp với kiến trúc truyền thống.
- Khẩn trương hồn thiện quy hoạch khơng gian văn hố đơ thị (nội đô và
ven đô) đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của nhân dân. Phải
tạo ra được các thiết chế văn hố - thơng tin của Nhà nước và xã hội trong một
khơng gian văn hố hợp lý. Đối với vùng ngoại ô, việc quy hoạch khơng gian
văn hố nên xây dựng tập trung, ở nội đơ có thể phân tán nhưng phải đảm bảo
sự liên hoàn giữa các khối kiến trúc.
21
- Khuyến khích sáng tạo văn hố đơ thị bằng các chính sách ưu tiên đầu tư
cho sáng tác, thẩm định và quản lý hoạt động biểu diễn, triển lãm, xuất bản,
báo chí cả chuyên nghiệp và nghiệp dư. Tập trung ưu tiên đầu tư cho các hoạt
động văn hoá, xây dựng thành phố Hà Nội trở thành các trung tâm văn hoá
quốc gia và khu vực.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về văn hoá đơ thị, kết hợp
với cơng tác phịng chống các biểu hiện và hành vi phi văn hoá, bài trừ tệ nạn
xã hội. Nhà nước cần hoàn thiện pháp luật về văn hoá. Hiện nay, hệ thống các
văn bản pháp luật về văn hoá đang phân tán (quản lý bảo tồn, phát triển các giá
trị văn hoá vật thể và phi vật thể; quản lý hoạt động văn hoá chuyên nghiệp và
quần chúng; quản lý dịch vụ văn hoá; quản lý mơi trường văn hố và xây dựng
gia đình văn hố), chưa được quy định trong một bộ luật thống nhất. Đẩy mạnh
việc phân cấp cơng tác quản lý văn hố theo hướng tăng cường cho cấp quận
và phường kết hợp cơng tác kiểm tra, phịng ngừa, phát hiện, xử lý các vi
phạm, phòng chống tệ nạn xã hội và chống xâm nhập các nguồn văn hoá lai
căng, xa lạ với văn hoá dân tộc.
- Đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận tư tưởng- văn hoá, kiên quyết phản bác
các luận điệu sai trái phản cách mạng thực hiện âm mưu “diễn biến hồ bình”
của các thế lực thù địch.
Về lâu dài :
Chiến lược đô thị của Hà Nội phải hướng tới mục tiêu bảo đảm cân đối giữa
tính hiện đại với tính bền vững của tự nhiên - con người - xã hội, thơng qua
việc lựa chọn các mơ hình định cư tiên tiến, phù hợp đặc thù của Việt Nam ở
đô thị, nông thôn, miền núi, các vùng biên giới, hải đảo; bảo đảm sự hài hịa
giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của dân tộc, trên cơ sở tìm kiếm những
phương thức phát triển đơ thị tiết kiệm đất, đô thị xanh, đô thị sinh thái... thay
thế cho mơ hình đơ thị cịn tồn tại nhiều bất cập hiện nay của chúng ta.
Các cơ quan quản lý nhà nước cần đổi mới nhận thức về đơ thị hóa, từ đó
đổi mới về hoạch định chính sách, chiến lược và quy hoạch đô thị trên cơ sở
một tầm nhìn dài hạn, khoa học và tổng thể. Việc lựa chọn các mơ hình định cư
tiến bộ cho đô thị và nông thôn, phù hợp với Việt Nam trong giai đoạn công
22
nghiệp hóa, hiện đại hóa phải được tiêu chuẩn hóa và nghiên cứu ứng dụng
ngay từ bây giờ, mặc dù đã là muộn.
Lập các quyết sách cho phát triển đô thị cần có dữ liệu khoa học để cân đối
nguồn tài nguyên như: đất, nước, năng lượng... Trong đó, nguồn tài nguyên đất
đang cạn kiệt cần đặc biệt chú ý, nhằm bảo đảm an ninh lương thực, cũng như
giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh từ nó. Nguồn lực và sự dịch chuyển kinh
tế đô thị phải được nghiên cứu để tăng trưởng kinh tế đồng bộ với chất lượng
cuộc sống dân cư. Xem xét lại các chính sách, kiến trúc và quy trình thực hiện
các dự án đô thị, cũng như những quy định trái với thực tiễn cuộc sống, nhằm
đẩy mạnh công tác chuẩn bị đầu tư cho xây dựng đô thị.
Trước thực tiễn người làm công tác chuyên môn liên quan đến vấn đề đô thị
còn hạn chế trong việc cập nhật lý luận, các phương tiện kỹ thuật, công nghệ
mới cũng như các vấn đề của thực tiễn đô thị (dẫn đến phương pháp xây dựng
lạc hậu, lãng phí, trình độ các cơng ty xây dựng cũng như khâu thẩm định chất
lượng cơng trình hạn chế), cần nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ quy hoạch
và kiến trúc như một khâu trọng yếu trong quá trình đổi mới về chiến lược phát
triển đô thị của Việt Nam.
Quy hoạch đô thị là một lĩnh vực đa ngành, tiếp cận và xử lý nhiều phạm trù
tri thức, tác động nhiều chiều đến nhiều mặt của cuộc sống và ảnh hưởng trực
tiếp đến quá trình phát triển chung của đất nước. Vì vậy, mở rộng đến đâu, mở
rộng như thế nào, mở rộng để làm gì, rất cần được nghiên cứu với sự phối hợp
của nhiều ngành, tham khảo và sử dụng một cách nghiêm túc những kết quả
nghiên cứu lâu nay của các ngành khoa học khác, thì mới mong có được một
dự báo đủ căn cứ, đáng tin cậy, có tầm nhìn lâu dài. Do đó nên việc cơng khai
trước cơng luận để thu thập ý kiến rộng rãi là một cách nên làm trong tiến trình
dân chủ.
23
III. KẾT LUẬN:
Nhìn vào góc độ phát triển kinh tế, đơ thị hóa là một xu hướng phát triển tất
yếu. Ngày nay, để hòa nhập vào nền kinh tế thế giới, nhu cầu cơ cấu lại nền
kinh tế, tiến hành cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước (nghĩa là khuếch
chương và thúc đẩy q trình đơ thị hóa) ở Việt Nam cũng là một xu thế hợp
quy luật và cần được huy động mọi tiềm lực để phát triển.
Với mục tiêu ấy, hơn hai thập lỷ qua, dưới tác động của công cuộc đổi mới,
cải tổ nền kinh tế theo định hướng thị trường, chính sách mở cửa, thu hút vốn
đầu tư nước ngịai đã có những tác động trực tiếp đến mọi mặt của đời sống
đô thị, đã và đang diễn ra những biến đổi quan trọng trong cơ cấu kinh tế, cơ
cấu xã hội, cơ cấu lao động nghề nghiệp cũng như những khuôn mẫu của đời
sống đô thị trong điều kiện mới . Bên cạnh đó là những tác động mạnh mẽ đến
sự thay đổi bộ mặt kiến trúc, quy họach, giao thông, nhịp sống đô thị cũng đang
được bộc lộ.
Bên cạnh những tác động tích cực khơng thể phủ nhận được ở giác độ kinh
tế, đơ thị hóa cũng bộc lộ một số hệ quả không thể tránh khỏi ở các đô thị đặc
biệt là ở đô thị lớn Hà Nội. Về mặt quản lý, tốc độ đơ thị hóa q nhanh như
hiện nay đang là vấn đề thách đố đối với Chính phủ cũng như các nhà quản lý
đơ thị trong việc tìm ra giải pháp và khả năng điều tiết quá trình này hiện nay và
trong tương lai. Về mặt xã hội, đơ thị hóa đã thể hiện những mặt trái, những
khuyết tật của mình. Trong thời gian qua, đơ thị hóa trên địa bàn Hà Nội đã diễn
ra với tốc độ cao, trên bình diện rộng, gây ra những biến động lớn trên địa bàn.
Để tránh một cuộc khủng hoảng đô thị Đảng và nhà nước ta nên có các chính
sách ngay từ bây giờ.
24
Tài liệu tham khảo :
1. />2. />3. />4. />5. />6. />7. />8. Báo Khoa học và Đời sống, số 20, ngày 31/3/2003
9. Báo Lao Động số 262 Ngày 10/11/2007
10. Cục Bảo vệ Môi trường, Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam
năm 2005.
11. Hiện trạng mơi trường khơng khí ở Việt Nam (2005).
12. JICA, Định hướng Quy hoạch tổng thể phát triển Thủ đô Hà Nội đến
năm 2020.
13. Quản lý môi trường đô thị và khu công nghiệp.
14. Báo cáo tổng quan diễn biến môi trường thành phố Hà Nội từ 1995
đến nay (2007).
25