Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Du lịch Khánh Hòa tiềm năng, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 125 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





THÂN TRỌNG THỤY









DU LỊCH KHÁNH HÒA:TIỀM NĂNG, THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP






LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH













Hà Nội - 2012


MỤC LỤC

Danh mục các từ và các cụm từ viết tắt i
Danh mục các bảng biểu ii
Danh mục các bản đồ iii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 1
3. Phạm vi nghiên cứu 2
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4
6. Những đóng góp chính của đề tài 7
7. Cấu trúc luận văn 7
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH 8
1.1. Cơ sở lý luận 8
1.1.1. Một khái niệm cơ bản về du lịch 8
1.1.2. Chức năng của du lịch 14
1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới phát triển du lịch 16

1.1.4. Chỉ tiêu đánh giá sự phát triển du lịch 23
1.1.4.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá nguồn lực phát triển du lịch 24
1.1.4.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá thực trạng phát triển du lịch 25
1.2. Cơ sở thực tiễn về phát triển du lịch 28
1.2.1 Thực tiễn veà hoạt động du lịch Việt Nam 28
1.2.1.1 Khách du lịch 28
1.2.1.2.Doanh thu 30
1.2.1.3.Cơ sở lưu trú 31
1.2.1.4.Nguồn nhân lực phục vụ du lịch 31
1.2.1.5.Xúc tiến quảng bá, phát triển sản phẩm du lịch 32
1.2.2 . Thực tiễn phát triển du lịch vùng du lịch duyên hải Nam Trung Bộ 32
Tiểu kết chƣơng 1 36

Chƣơng 2. TIỀM NĂNG & THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỦA TỈNH
KHÁNH HÒA 37
2.1. Tiềm năng phát triển du lịch của tỉnh Khánh Hòa 37
2.1.1. Vị trí địa lí 37
2.1.2. Tài nguyên du lịch 37
2.1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên 37
2.1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn 47
2.1.3. Cơ sở hạ tầng 59
2.1.3.1 Mạng lưới giao thông 59
2.1.3.2.Hệ thống Cấp, thoát nước 61
2.1.3.3.Hệ thống cấp điện 61
2.1.3.4.Hệ thống thơng tin lin lạc 61
2.1.4. Các điều kiện kinh tế -xã hội khác 61
2.1.4.1.Chính sách phát triển du lịch 61
2.1.4.2. Tình hình phát triển kinh tế –xã hội 62
2.2. Thực trạng phát triển du lịch của tỉnh Khánh Hòa 63
2.2.1. Khái quát chung về du lịch Khánh Hòa 63

2.2.2. Vị trí của du lịch Khánh Hòa trong nền kinh tế của Tỉnh 64
2.2.3. Thực trạng phát triển du lịch theo ngành 65
2.2.3.1. Nguồn khách 65
2.2.3.2. Doanh thu 68
2.2.3.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật 69
2.2.3.4. Lao động 71
2.2.3.5. Hợp tác và đầu tư 72
2.2.3.6.Xúc tiến, quảng bá du lịch 73
2.2.4. Thực trạng phát triển du lịch theo lãnh thổ 74
2.2.4.1. Điểm du lịch 74
2.2.4.2. Tuyến du lịch 75
2.2.4.3. Cụm du lịch 77
2.2.5. Đánh giá chung về thực trạng phát triển du lịch của tỉnh Khánh Hòa 79

Tiểu kết chƣơng 2 82
Chƣơng 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỦA TỈNH
KHÁNH HÒA ĐẾN NĂM 2020 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030 83
3.1. Các định hƣớng phát triển du lịch 83
3.1.1. Định hướng chung 83
3.1.1.1.Quan điểm và mục tiêu phát triển du lịch tỉnh Khánh Hòa tới năm 2020 và
tầm nhìn đến đến năm 2030 83
3.1.2.Căn cứ của định hướng 86
3.1.3. Định hướng cụ thể 87
3.1.3.1. Theo ngành 87
3.1.2.2. Theo lãnh thổ 95
3.2. Các giải pháp phát triển du lịch Khánh Hòa đến năm 2020, tầm nhìn đến
Năm 2030 102
3.2.1. Nhóm một số giải pháp chung phát triển du lịch Khánh Hòa 102
3.2.1.1 Giải pháp về công tác quy hoạch du lịch 102
3.2.1.2.Giải pháp đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch 102

3.2.1.3.Giải pháp tăng cường công tác xúc tiến quảng bá du lịch, hợp tác liên kết vùng
,tìm kiếm và mở rộng thị trường 103
3.2.1.4.Giải pháp về đào tạo phát triển nguồn nhân lực 105
3.2.1.5. Giải pháp bảo vệ tài nguyên du lịch và phát triển bền vững 106
3.2.1.6.Giải pháp về đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng KHCN và hợp tác quốc tế 107
3.2.1.7 Giải pháp về công tác tổ chức quản lý 108
3.2.1.8. Giải pháp về thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch 108
3.2.2.Nhóm giải pháp hoạt động của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa 109
3.2.2.1.Giải pháp chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường 109
3.2.2.2.Giải pháp tăng cường xã hội hóa phát triển du lịch 109
3.2.2.3. Giải pháp về liên kết cộng đồng địa phương 110
3.2.2.4. Giải pháp về tăng cường quảng cáo, khuyến mại 110
Tiểu kết chƣơng 3 111
KẾT LUẬN 112

DANH MỤC CÁC TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT
CSVC-KT
Cty TNHH
ĐGTĐMT
IUCN
GDP
HĐND
KNM
QL
MICE

TSS
TCLT
TCLTDL
TNDL

TP
TX
UNWTO
UBND
WTO
VDLDHNTB
Cơ sở vật chất – kỹ thuật
Công ty trách nhiệm hữu hạn
Đánh giá tác động môi trường
Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới
(International Union for conservation of Nature)
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
Hội đồng nhân dân
Khu nghỉ mát
Quốc lộ
Hội họp-Khen thưởng-Hội nghị/Hội thảo-Sự kiện/Hội chợ
(Meetings-Incentives-Congresses/Conventions-Events/Exhibition)
Chất rắn lơ lửng
Tổ chức lãnh thổ
Tổ chức lãnh thổ du lịch
Tài nguyên du lịch
Thành phố
Thị xã
Tổ chức du lịch thế giới (United Nations World Tourism Organization)
Ủy ban nhân dân
Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization)
Vùng du lịch Nam Trung bộ
Sở VH-TT&DL: Sở Văn hóa , thể thao & du lịch

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1.Chỉ tiêu số lượng khách du lịch cả nước giai đoạn 2000 -2011 30
Bảng 1.2. Đóng góp du lịch vào GDP cả nước giai đoạn 2000 -2010 31
Bảng 1.3. Số lao động trong ngành du lịch Việt Nam giai đoạn 2000 -2010 32
Bảng 1.4 Khách du lịch đến vùng DH Nam Trung Bộ giai đoạn 2000 -2010 34
Bảng 1.5 Số lao động trong ngành du lịch vùng DHNTB giai đoạn 2000 -2010 35
Bảng 2.1. Số lượng di tích cấp tỉnh phân theo đơn vị hành chính huyện của
tỉnh Khánh Hòa 50
Bảng 2.2. Di tích lịch sử văn hóa, thắng cảnh được xếp hạng quốc gia của
Khánh Hòa 51
Bảng2.3: Quy mô và cơ cấu GDP tỉnh Khánh Hòa phân theo ngành kinh tế
giai đoạn 2000 – 2010 (Giá thực tế) 64
Bảng 2.4. Lượng khách du lịch đến Khánh Hòa thời kỳ 2000 -2011 66
Bảng 2.5. So sánh lượng khách du lịch đến Khánh Hòa với các tỉnh lân cận 68
Bảng 2.6. Doanh thu ngành du lịch Khánh Hòa thời kỳ 2000 – 2011 69
Bảng 2.7. Hiện trạng cơ sở lưu trú của Khánh Hòa giai đoạn 2000 – 2011 70
Bảng 2.8. Số lao động trong ngành du lịch Khánh Hòa giai đoạn 2000 -2010 71
Bảng 3.1. Dự báo khách du lịch đến Khánh Hoà 87
Bảng 3.2. Dự kiến chi tiêu trung bình mỗi ngày của một du khách đến
Khánh Hòa 88
Bảng 3.3. Dự báo cơ cấu chi tiêu của khách du lịch 88
Bảng 3.4. Dự báo thu nhập du lịch của tỉnh Khánh Hoà 89
Bảng 3.5. Dự báo chỉ tiêu GDP và vốn đầu tư cho du lịch tỉnh Khánh Hòa 90
Bảng 3.6. Dự báo nhu cầu phòng lưu trú của du lịch Khánh Hòa 91
Bảng 3.7. Dự báo nhu cầu lao động trong du lịch của Khánh Hòa 92
Bảng 3.8. Dự báo khách, nhu cầu vốn đầu tư du lịch của các cụm du lịch 101
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
1. Biểu đồ 1.1: Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010 29
2. Biểu đồ 1.2: Khách du lịch nội địa giai đoạn 2000 – 2010 30
DANH MỤC CÁC BẢN ĐỒ
1. Bản đồ hành chính tỉnh Khánh Hòa . 38

2. Bản đồ tài nguyên du lịch tỉnh Khánh Hòa. 41
3. Bản đồ thực trạng hoạt động du lịch tỉnh Khánh Hòa. 64
- 1 -
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua hơn 52 năm hình thành và phát triển, đến nay du lịch Việt Nam đã có
những thành công nhất định và trở thành ngành kinh tế có vị trí khá quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, năm 2011 mang lại nguồn thu trên 6,2 tỷ USD/năm, góp
phần không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội của nước ta. Nghị quyết đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định: “tập trung phát triển một số ngành dịch
vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như du lịch, hàng hải, hàng
không, viễn thông, công nghệ thông tin, y tế. Hình thành một số trung tâm dịch vụ,
du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế, đa dạng hóa sản phẩm và các loại hình du
lịch, nâng cao chất lượng để đạt tiêu chuẩn quốc tế”[75]
Sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành du lịch trong thời gian qua đã góp
phần làm tăng tỷ trọng GDP trong ngành dịch vụ, tăng thu ngoại tệ, tạo thêm nhiều
việc làm, xóa đói giảm nghèo, khôi phục nhiều ngành nghề, làng nghề truyền thống,
truyền thống văn hóa, bộ mặt đô thị nhiều địa phương được tô điểm ngày càng đẹp
hơn đã tác động tổng hợp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy nhiều
ngành kinh tế khác phát triển, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của nhiều vùng,
địa phương trong cả nước
Khánh Hòa là một tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ, hội đủ các dạng địa hình cơ
bản:vùng núi bán sơn địa, đồng bằng duyên hải, biển, bờ biển và các đảo, quần đảo.
Khánh Hòa như hình ảnh của đất nước Việt Nam thu nhỏ, có rừng núi, đồng bằng,
miền ven biển duyên hải. Đặc biệt với đường bờ biển dài 385km, với nhiều bãi tắm
đẹp, cùng nhiều cảnh đẹp và truyền thống văn hóa lâu đời, đã đem lại cho Khánh
Hòa một tiềm năng to lớn để phát triển dịch vụ,du lịch. Tuy nhiên, trong những năm
qua, sự phát triển du lịch Khánh Hòa vẫn chưa tương xứng với tiềm năng hiện có và
đang đứng trước những thách thức mới. Đó là việc khai thác, quản lý các nguồn tài
nguyên du lịch, sản phẩm còn đơn điệu, chất lượng còn nhiều hạn chế. Điều đó làm

ảnh hưởng đến thương hiệu, doanh thu du lịch và sức thu hút du khách đến với
Khánh Hòa, nhất là khách du lịch quốc tế
Xuất phát từ những thực tiễn đó và để hiểu thêm điều kiện, khả năng, thực
trạng du lịch của tỉnh Khánh Hòa, tôi đã lựa chọn đề tài “Du lịch Khánh Hòa tiềm
năng, thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn
đánh thức được tiềm năng, tìm được hướng đi mới cho ngành du lịch Khánh Hòa
trong xu thế hội nhập giữa các vùng, các khu vực và quốc tế
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
*Mục tiêu:
Trên cơ sở vận dụng lí luận và thực tiễn phát triển du lịch của thế giới và
Việt Nam, luận văn tập trung đánh giá các tiềm năng và phân tích thực trạng phát
- 2 -
triển du lịch của tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2000 -2010. Từ đó đề xuất các giải pháp
phát triển đến năm 2015và tầm nhìn đến năm 2030 nhằm khai thác hiệu quả tiềm
năng phong phú và đa dạng của du lịch Khánh Hòa, hướng đến mục tiêu phát triển
có hiệu quả và bền vững.
* Nhiệm vụ của đề tài luận văn:
- Tổng quan những vấn đề lí luận và cơ sở thực tiễn về pht triển du lịch của
thế giới và ở Việt Nam để vận dụng vào nghiên cứu tại địa bàn tỉnh Khánh Hòa.
- Kiểm kê, đánh giá tiềm năng du lịch ở các địa phương tỉnh Khánh Hòa và
phân tích thực trạng phát triển du lịch của tỉnh giai đoạn 2000 -2010. Từ đó làm
sáng tỏ những lợi thế so sánh và hạn chế đối với việc tổ chức và phát triển du lịch
của tỉnh
- Đề xuất các giải pháp khả thi phát triển du lịch đến năm 2015, tầm nhìn đến
năm 2030 nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng và tài nguyên du lịch của tỉnh Khánh
Hòa.
3. Phạm vi nghiên cứu
*Về nội dung
Đề tài tập trung đánh giá tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng, các điều kiện phát
triển du lịch và thực trạng hoạt động du lịch theo hai khía cạnh ngành và lãnh

thổ(các tuyến, điểm, cụm, khu du lịch và trung tâm du lịch của tỉnh Khánh Hòa)
*Về phạm vi lãnh thổ
Phạm vi nghiên cứu là toàn bộ địa giới hành chính tỉnh Khánh Hòa (gồm 2
thành phố, 1 thị xã và 6 huyện). Ngoài ra đề tài còn mở rộng nghiên cứu sang một
số tỉnh lân cận để thấy được mối liên hệ so sánh giữa các tỉnh, đặc biệt là các tỉnh
trong khu vực duyên hải Nam Trung Bộ
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, do hạn chế về nguồn tài liệu nên đề tài
chưa thể hiện cụ thể tình hình du lịch của huyện đảo Trường Sa.
*Về thời gian
Đề tài tập trung thu thập số liệu, điều tra, nghiên cứu, phân tích nguồn số liệu
trong giai đoạn từ năm 2000 - 2010; dự báo đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm
2030.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở nước ngoài
Từ khi du lịch xuất hiện và khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong đời
sống kinh tế –xã hội của mỗi quốc gia, khu vực. Do đó Du lịch đã trở thành đối
tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên thế giới, dưới nhiều khía cạnh và góc
độ khác nhau
- 3 -
Theo Nguyễn Minh Tuệ [55], những nghiên cứu đầu tiên của các nhà địa lí du
lịch được tiến hành ở Đức từ năm 1930. Tiếp đó là các công trình đánh giá các tổng
thể tự nhiên phục vụ giải trí của Mukhina(1973), nghiên cứu sức chứa và sự ổn định
của các điểm du lịch của Khadaxkia (1972) và Sepfer(1973), các nhà địa lý và cảnh
quan học của của trường Đại học tổng hợp Matxco7va như E.D Xmirnova,
V.B.Nhefedova …đã nghiên cứu các vùng cho mục đích nghỉ dưỡng trên lãnh thổ
Liên Xô (cũ). Các nhà nghiên cứu Tiệp Khắc như Mariot(1971), Salavikova(1973)
đã tiến hành đánh giá và thành lập bản đồ tài nguyên du lịch nhân văn. Ngoài ra các
nhà địa lý Mỹ như Bo6hart(1971) và nhà địa lý Anh như H.Robinson(1976)…cũng
đã tiến hành đánh giá các loại tài nguyên thiên nhiên phục vụ mục đích du lịch. Bên
cạnh đó những nhà khoa học người Ba Lan như Kostroviky (1970), Vacdunxka

(1973) đã xác định dung lượng tối ưu khách du lịch cho một lãnh thổ.
Tóm lại, nhiều nhà địa lí du lịch đã xác định đối tượng nghiên cứu của địa lí
du lịch là hệ thống lãnh thổ hoặc thể tổng hợp lãnh thổ du lịch. Như vậy, đã xác
định các hệ thống địa bàn phát triển du lịch trên lãnh thổ và phân tích cơ cấu tổng
hợp các yếu tố trên địa bàn để phát triển du lịch.
Ở Việt Nam
Lịch sử ngành du lịch Việt Nam được đánh dấu từ năm 1960, từ đó đến nay
các công trình nghiên cứu về địa lý du lịch nhìn chung chưa nhiều. Phần lớn tập
trung các vấn đề về tổ chức lãnh thổ không gian du lịch. Qua đó làm sáng tỏ được
nhiều vấn đề từ cơ sở lý luận đến thực tiễn trong nghiên cứu tài nguyên và sử dụng
lãnh thổ du lịch, từ quy mô lãnh thổ cấp huyện, tỉnh, vùng đến cả nước.Nhiều công
trình nghiên cứu có giá trị đến lĩnh vực này được thực hiện như:
Đề tài: “Tổ chức lãnh thổ du lịch Việt Nam” của Viện nghiên cứu phát triển du
lịch do Vũ Tuấn Cảnh làm chủ nhiệm (1991).” Quy hoạch tổng thể phát triển du
lịch Việt Nam 1995 – 2010” của Viện nghiên cứu phát triển du lịch (1994).” Quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng du lịch Bắc Bộ, vùng du lịch Bắc Trung Bộ,
vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020”, Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2000). “Cơ sở lý luận phương pháp
nghiên cứu các điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch biển Việt Nam” do Nguyễn
Trần Cầu và Lê Thông chủ trì (1993); “Quy hoạch quốc gia và vùng, phương pháp
luận và phương pháp nghiên cứu ” do Vũ Tuấn Cảnh và Lê Thông (1994); “Địa lí
du lịch Việt Nam” – Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên) (2010); “Tổ chức lãnh thổ du
lịch” – Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ (1999); “Tài nguyên và môi trường du lịch
Việt Nam” do Phạm Trung Lương chủ biên (2000)…
Nhiều địa phương cũng có triển khai xây dựng quy hoạch tổng thể cho phát
triển du lịch như :Lạng Sơn, Hải Phòng, Hà Nội, Bình Định, Khánh Hòa, Lâm
Đồng, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP.Hồ Chí Minh…Ngoài ra, còn có nhiều công trình
- 4 -
nghiên cứu, một số dự án, đề tài cấp Nhà nước, các báo cáo trong các cuộc hội thảo
về du lịch của Việt Nam. Dưới góc độ địa lí học, ở trình độ thạc sĩ cũng có nhiều

luận văn nghiên cứu theo hướng này
Ở Khánh Hòa
Đối với tỉnh Khánh Hòa, trong những năm gần đây, khi du lịch được xác
định là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, hàng loạt các công trình nghiên cứu đã
được tiến hành. Tuy vậy, các công trình này chỉ tập trung giới thiệu các điểm du
lịch giàu tiềm năng và những định hướng cho quy hoạch phát triển. Sau đây là một
số công trình nghiên cứu có giá trị: “ Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Khánh Hòa đến năm 2020”, Sở Kế hoạch - Đầu tư Khánh Hòa (2005).”
Chương trình phát triển du lịch Khánh Hòa giai đoạn 2001- 2005 và 2006 – 2010”,
UBND tỉnh (2001) và Sở Du lịch - Thương mại Khánh Hòa (2006). Quy hoạch tổng
thể Du lịch tỉnh Khánh Hòa 2001 - 2020 (2001), điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát
triển du lịch tỉnh Khánh Hòa đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 (2006),
Sở Du lịch - Thương mại Khánh Hòa.
Nhìn một cách tổng thể, kể từ cuối thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, các
công trình nghiên cứu ở Việt Nam nói chung và tỉnh Khánh Hòa nói riêng đã đề cập
đến rất nhiều khía cạnh của phát triển du lịch. Tuy nhiên, dưới góc độ kinh tế du
lịch, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ sự phát triển của du lịch Khánh
Hòa. Việc nghiên cứu đánh giá tổng quan hoạt động du lịch tỉnh Khánh Hòa mà
đặc biệt là phân tích tiềm năng, thực trạng hoạt động du lịch và đề xuất các giải
pháp tối ưu nhằm khai thác hiệu quả du lịch Khánh Hòa hầu như chưa được nghiên
cứu đầy đủ và cập nhật.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Những quan điểm chủ yếu
-Quan điểm hệ thống
Đây là quan điểm được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu du lịch. Theo quan
điểm này, mỗi đối tượng nghiên cứu được coi là một hệ thống, có nhiều yếu tố cấu
thành và có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi nghiên cứu đối tượng phải đặt nó
trong mối tương quan với đối tượng khác, với các cấp phân vị cao thấp khách nhau.
Với ý nghĩa đó, đề tài xác định du lịch Khánh Hòa là một bộ phận của hệ thống du
lịch cao hơn, là một mắt xích trong vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ, cũng

như hệ thống du lịch của cả nước. Đồng thời, nó bao gồm các cấp phân vị thấp hơn
là các điểm, tuyến, cụm, khu du lịch. Chỉ cần một thay đổi nhỏ của các phân hệ sẽ
tác động đến hoạt động, phát triển chung của toàn hệ thống
-Quan điểm tổng hợp
Xuất phát từ chỗ coi hệ thống lãnh thổ du lịch là một hệ thống xã hội, được thành
tạo bởi nhiều thành tố tự nhiên, văn hóa, lịch sử, con người có quan hệ mật thiết và
- 5 -
gắn bó với nhau một cách hoàn chỉnh theo từng phân công chức năng. Quan điểm
này được vận dụng trong đề tài nhằm:
- Nghiên cứu một cách tổng hợp các nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn
ảnh hưởng đến sự phát triển của du lịch tỉnh Khánh Hòa.
- Nghiên cứu sự kết hợp có quy luật của các hợp phần trên cơ sở phân tích tổng hợp
các hợp phần đó của hệ thống lãnh thổ du lịch, từ đó có thể nhìn nhận, đánh giá các
đối tượng du lịch một cách đồng bộ, đạt được những giá trị về mặt kinh tế –xã hội
và môi trường
-Quan điểm phát triển bền vững
Quan điểm này đòi hỏi sự phát triển phải đạt được sự bền vững về ba mặt: Kinh
tế,xã hội và môi trường. Theo đó việc khai thác các nguồn tài nguyên du lịch, tổ
chức hoạt động du lịch chắc chắn sẽ dẫn đến sự tác động nhiều mặt cả tích cực lẫn
tiêu cực đến môi truờng tự nhiên cũng như môi trường xã hội nhân văn. Do đó, cần
có những biện pháp tổ chức, quản lý chặt chẽ để ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu
cực đến môi trường tự nhiên –văn hóa-xã hội của địa bàn tỉnh Khánh Hòa
-Quan điểm lãnh thổ
Quan điểm lãnh thổ cho rằng các đối tượng nghiên cứu được phân bố trên
phạm vi không gian lãnh thổ nhất định và có đặc điểm riêng. Xem xét hoạt động du
lịch trong mối quan hệ với đặc điểm lãnh thổ nhằm khái quát được đặc trưng của du
lịch trên từng địa bàn nghiên cứu. Và để mang lại hiệu quả tổ chức kinh doanh du
lịch, cần tìm ra sự khac biệt trong từng đơn vị lãnh thổ từ đó tạo ra được sản phẩm
du lịch đặc trưng, khai thác thế mạnh, khắc phục những hạn chế.
-Quan điểm lịch sử và viễn cảnh

Mỗi một hiện tượng địa lí kinh tế - xã hội nói chung và địa lí du lịch nói riêng
đều tồn tại trong một thời gian nhất định, nghĩa là có quá trình phát sinh, phát triển
và suy vong. Nghệ An là mảnh đất có nền văn hóa bản địa đặc sắc được hình thành
lâu đời, cùng với truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường và nét độc đáo của
thiên nhiên tạo cho vùng đất này một giá trị riêng. Các đặc điểm này được khai thác
phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và ngành du lịch của tỉnh Nghệ
An nói riêng. Sử dụng quan điểm lịch sử, viễn cảnh để tìm hiểu quá trình khai thác,
thực trạng phát triển của hoạt động du lịch tỉnh nhà; từ đó nhằm tiếp tục kế thừa,
phát huy những thành quả, rút ra bài học kinh nghiệm và có kế hoạch phát triển
trong tương lai.
Ngoài ba quan điểm chủ đạo trên, trong đề tài còn đề cập một số quan điểm
khác như quan điểm kinh tế, quan điểm sinh thái, quan điểm dự báo.
Các phương pháp nghiên cứu chính
-Phương pháp thu thập, xử lí phân tích tài liệu
- 6 -
Phương pháp này cho phéo kế thừa, tích lũy thành tựu của quá khứ. Đây là
phương pháp được sử dụng hầu như xuyên suốt trong đề tài, bao gồm hai giai đoạn:
thu thập tài liệu và xử lí tài liệu. Nguồn tài liệu được sử dụng trong đề tài có thể
gồm các dạng: tài liệu chuyên khảo, các văn bản pháp luật, nghị quyết, nghị định; số
liệu thống kê từ các cơ quan ban ngành; một số luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu
của các tác giả đi trước; và một số trang báo điện tử Kết quả của quá trình thu
thập và xử lí tài liệu sẽ ảnh hưởng đến kết quả của quá trình nghiên cứu, tính chính
xác và tính khoa học của đề tài.
-Phương pháp thực địa
Sử dụng phương pháp này để có được cái nhìn trực quan, xác thực và toàn
diện về vấn đề; tránh được những kết luận chủ quan, thiếu cơ sở thực tiễn và có cơ
hội để so sánh, kiểm chứng độ chính xác của những tư liệu thu thập trong phòng.
Quá trình thực hiện đề tài đòi hỏi phải tiến hành nhiều đợt thực địa đến các tuyến,
điểm du lịch. Trong đó, lựa chọn một số điểm du lịch gần địa bàn thành phố, một số
điểm ở các huyện vùng xa; một số điểm du lịch đã được khai thác và một số điểm

tiềm năng. Đồng thời, trực tiếp gặp gỡ thu thập thông tin, kiến thức không có trên
sách vở từ người dân bản địa, các cơ quan ban ngành
-Phương pháp thống kê du lịch
Việc thống kê số lượng khách, doanh thu hay cân đối giữa cơ cấu nhu cầu du
lịch với các khả năng về tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch có ý
nghĩa quan trọng trong quá trình xác định hiệu quả kinh tế du lịch của địa bàn
nghiên cứu.
-Phương pháp điều tra xã hội học
Phương pháp điều tra xã hội học bao gồm ba hình thức: phỏng vấn trực tiếp cá
nhân, đơn vị; phỏng vấn qua điện thoại và phỏng vấn bằng phiếu điều tra. Trong
quá trình nghiên cứu, hình thức thứ ba được chúng tôi áp dụng nhiều nhất do có
nhiều ưu điểm như: tiết kiệm chi phí, không qua khâu trung gian nên những câu trả
lời là chắc chắn và xác thực, đặc biệt là những vấn đề tế nhị.
-Phương pháp dự báo
Với đề tài nghiên cứu sự phát triển du lịch cần có những dự báo về thị trường
khách như số lượng, chất lượng khách…; về nhu cầu của thị trường cũng như dự
báo các chỉ tiêu phát triển du lịch của địa bàn nghiên cứu trong tương lai để phù hợp
với xu thế phát triển du lịch trong nước và thế giới.
-Phương pháp bản đồ - GIS
Với đặc thù là môn khoa học nghiên cứu khía cạnh lãnh thổ của các đối
tượng địa lí và du lịch, phương pháp bản đồ cho ta thấy sự phân bố không gian của
đối tượng. Có thể nói, bản đồ là điểm khởi đầu và kết thúc của hoạt động nghiên
cứu; cho phép khai thác thông tin trên hệ thống bản đồ đã được xây dựng và tiến
- 7 -
hành thể hiện các kết quả nghiên cứu lên bản đồ. Theo mục tiêu nghiên cứu, đề tài
sẽ xây dựng hệ thống các bản đồ tài nguyên, bản đồ thực trạng tỉnh Khánh Hòa. Và
để có được kết quả nhanh và chính xác, với sự hỗ trợ đắc lực của kỹ thuật máy tính,
đề tài đã sử dụng GIS để xây dựng hệ thống bản đồ.
6.Những đóng góp chính của đề tài
-Tổng quan và hệ thống hóa vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch

trên cơ sở đó vận dụng vào nghiên cứu cụ thể trên địa bàn của tỉnh Khánh Hòa.
-Phân tích, đánh giá tiềm năng và đưa ra bức tranh về thực trạng hoạt động
du lịch của tỉnh Khánh Hòa. Trên cơ sở đó tìm ra những mặt thuận lợi và khó khăn
liên quan đến sự phát triển du lịch của tỉnh Khánh Hòa hiện nay.
-Đề xuất được những giải pháp cụ thể nhằm mục đích góp phần vào việc
khai thác tài nguyên để phát triển du lịch tỉnh Khánh Hòa hiệu quả và bền vững
7.Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các bảng biểu, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển du lịch
Chương 2. Tiềm năng, thực trạng phát triển du lịch của tỉnh Khánh Hòa
Chương 3. Định hướng và giải pháp phát triển du lịch của tỉnh Khánh Hòa đến
năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2030
- 8 -
Chƣơng 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về du lịch
a.Khái niệm về du lịch
Du lịch đã và đang ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế xã hội của các
quốc gia, là bộ phận cấu thành lên đời sống vật chất –tinh thần của con người hiện
đại. Mặc dù hoạt động du lịch đã có nguồn gốc hình thành từ lâu đời và phát triển
với tốc độ rất nhanh, nhưng cho đến nay, khái niệm “du lịch” vẫn chưa được thể
hiện thống nhất trên toàn thế giới. Do hoàn cảnh (thời gian, khu vực) và dưới mỗi
góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người có một cách hiểu riêng về du lịch. Đúng
như Giáo sư, Tiến sĩ Berneker -một chuyên gia về du lịch đã nhận định: “Đối với du
lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”. [43, 55]
Thuật ngữ “du lịch” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là đi một vòng.
Thuật ngữ này được La Tinh hóa thành tornus và sau đó thành tourisme (tiếng
Pháp), tourism (tiếng Anh) – xuất hiện khoảng năm 1800, mypuzm (tiếng Nga).

Trong tiếng Việt, thuật ngữ tourism được dịch thông qua tiếng Hán: Du có nghĩa là
đi chơi, lịch có nghĩa là từng trải. Tuy nhiên, người Trung Quốc gọi tourism là du
lãm với ý nghĩa đi chơi để nâng cao nhận thức [40].
Về khái niệm, có thể thấy sự biến đổi nhận thức thông qua một số khái niệm
du lịch tiêu biểu sau đây:
Theo UNWTO: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt
động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở
bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình.
Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ”. [40, 54]
Theo Nguyễn Cao Thường và Tô Đăng Hải: “Du lịch là một ngành kinh tế xã
hội, dịch vụ, có nhiệm vụ phục vụ nhu cầu tham quan, giải trí nghỉ ngơi, có hoặc
không kết hợp với các hoạt động nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác” [trích
dẫn theo Trần Đức Thanh 1998]
Năm 1930, Glusman (Thụy Sĩ) định nghĩa: Du lịch là sự chinh phục không
gian của những người hướng đến những điểm nhất định nhưng không phải là nơi ở
thường xuyên của họ. Cho rằng du lịch không chỉ là hiện tượng di chuyển của cư
dân mà phải là tất cả những gì có liên quan đế sự di chuyển đó. Năm 1941,
Hunziker và Kraff (Thụy Sĩ) cho rằng: Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và hiện
tượng bắt nguồn từ cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của các cá nhân tại những
nơi không phải là nơi ở và nơi làm việc thường xuyên của họ [40]
- 9 -
Theo Michael Coltman (Mỹ): “Du lịch là sự kết hợp và tương tác của 4 nhóm
nhân tố trong quá trình phục vụ du khách bao gồm: du khách, nhà cung ứng dịch vụ
du lịch, cư dân sở tại và chính quyền nơi đón khách du lịch”[55]
Có thể thể hiện mối quan hệ đó bằng sơ đồ sau:






(Nguồn: [15])

Dưới con mắt các nhà kinh tế, du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội
đơn thuần mà nó phải gắn chặt với hoạt động kinh tế. Tuy nhiên mỗi học giả có
những nhận định khác nhau. Các nhà kinh tế du lịch thuộc trường Đại học Kinh tế
Praha (Cộng hòa Séc) mà đại diện là Mariot coi : “du lịch là tổng hợp các hoạt động
kĩ thuật, kinh tế và tổ chức liên quan đến cuộc hành trình của con người và việc lưu
trú của họ ở ngoài nơi ở thường xuyên với nhiều mục đích khác nhau loại trừ mục
đích hành nghề và thăm viếng có tổ chức thường xuyên”.
Theo hội đồng trung ương về du lịch của Cộng hòa Pháp 1978, tiêu chí chính
để phân biệt giữa hoạt động du lịch và hoạt động giải trí đơn thuần là di chuyển từ
24 tiếng trở lên và động cơ tìm sự vui vẻ. Ở đây du lịch là khái niệm thiên về tiếp
cận kinh tế, còn nếu thiên về tiếp cận xã hội thì sẽ có khái niệm giải trí.
Gần đây hơn, trong “Cơ sở địa lí du lịch và dịch vụ tham quan”, với một nội
dung chi tiết, nhà đia lí người Bêlarut – Pirojnik đã đưa ra một khái niệm khá hoàn
thiện: “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian nhàn rỗi liên
quan với sự di chuyển và cư trú tạm thời bên ngoài nơi thường trú nhằm mục đích
nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức,
văn hóa hoặc thể thao, kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế, văn
hóa và dịch vụ”.[55]
Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005) “Du lịch là các hoạt động có liên quan
đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp
ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian
nhất định”. [20]
Như vậy, có thể thấy sự biến đổi trong nhận thức về nội dung bản chất của
thuật ngữ du lịch. Tựu chung lại, du lịch là một khái niệm bao hàm nội dung kép.
Một mặt mang ý nghĩa thông thường là hiện tượng xã hội chỉ việc đi lại của con
người với mục đích nghỉ ngơi, giải trí… Mặt khác, du lịch được nhìn nhận như là
hoạt động gắn chặt với kết quả kinh tế - sản xuất, tiêu thụ do chính nó tạo ra.
Du khách


Nhà cung ứng
dịch vụ du lịch

Dân cƣ sở tại

Chính quyền địa
phƣơng nơi đón
khaùch du lòch
- 10 -
b. Khách du lịch
Khái niệm “Khách du lịch” hay “Du khách”, xuất hiện lần đầu tiên tại Pháp
vào cuối thế kỉ XVIII. Tới nay đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về khách du
lịch. Theo tổ chức Du lịch thế giới, khách du lịch là những người có các đặc trưng:
- Là người đi khỏi nơi cư trú của mình
- Không theo đuổi mục đích kinh tế
- Đi khỏi nơi cư trú từ 24 giờ trở lên
Điểm chung nhất đối với các nước trong cách hiểu khái niệm về khách du lịch
là: Khách du lịch là những người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình đến
một nơi nào đó, quay trở lại với mục đích khác nhau, loại trừ mục đích làm công và
nhận thù lao ở nơi đến; có thời gian lưu lại ở nơi đến từ 24 giờ trở lên (hoặc có sử
dụng dịch vụ lưu trú qua đêm) nhưng không quá thời gian một năm. Khách du lịch
là những người tạm thời ở tại nơi họ đến du lịch với các mục tiêu như nghỉ ngơi,
kinh doanh, hội nghị hoặc thăm gia đình.
Khách du lịch được phân chia làm 2 nhóm cơ bản: khách du lịch quốc tế và
khách du lịch nội địa.
* Khách du lịch quốc tế
Tại hội nghị Liên hiệp quốc về du lịch được tổ chức ở Roma (Ý) năm 1963, Ủy
ban thống kê của Liên hợp quốc đưa ra khái niệm khách du lịch quốc tế: là người
thăm viếng một số nước khác ngoài nơi cư trú của mình với bất kỳ lí do nào ngoài

mục đích hành nghề để nhận thu nhập từ nước được viếng thăm.
Khái niệm khách viếng thăm quốc tế bao gồm hai thành phần: khách du lịch
quốc tế (International tourist) – là người lưu lại tạm thời ở nước ngoài và sống ngoài
nơi cư trú thường xuyên của họ trong thời gian ít nhất là 24 giờ (hoặc sử dụng ít
nhất một tối trọ). Và khách tham quan quốc tế (International excursionist) – là
người lưu lại tạm thời ở nước ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ
trong thời gian ít hơn 24 giờ (hoặc là không sử dụng một tối trọ nào).
* Khách du lịch nội địa:
Định nghĩa khách du lịch nội địa sớm nhất được nêu ra vào năm 1957 và 1958.
Lúc bấy giờ cuộc hội thảo di Cục du lịch của chính phủ Canada cùng Hội liên hợp
tổ chức du lịch chính phủ quốc tế cùng triệu tập và hội nghị của nhóm chuyên gia
thống kê du lịch tổ chức ở Madrid quy định khách nội địa là: “Bất cứ ai cư trú ở
một nước (không xét tới quốc tịch) tới một nơi nào đó ngoài nơi người đó cư trú ở
trong nước người đó để tiến hành du lịch không dưới 24 giờ hoặc không dưới một
đêm, mà mục đích lữ hành không phải là các hoạt động thăm viếng theo đuổi để có
thù lao”[40]. Tuy nhiên, khái niệm khách du lịch nội địa được xác định không
giống nhau ở các nước khác nhau về khoảng cách chuyến đi và thời gian lưu trú.
- 11 -
Căn cứ theo Luật Du lịch Việt Nam (2005), khái niệm: “Khách du lịch là
người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành
nghề để nhận thu nhập ở nơi đến” [20]
c. Tài nguyên du lịch
* Khái niệm tài nguyên du lịch
Theo Pirojnik (Cơ sở địa lí du lịch và dịch vụ tham quan), du lịch là một
ngành định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch là một dạng đặc sắc của tài
nguyên nói chung, khái niệm tài nguyên du lịch luôn gắn liền với khái niệm du lịch.
Theo Luật du lịch Việt Nam năm 2005, khoản 4, điều 4, chương I: “Tài
nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử văn hóa,
công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể sử
dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch,

tuyến du lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch”.[20]
Theo Nguyễn Minh Tuệ: “Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hóa
lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục và phát triển thể lực, trí
tuệ của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ. Những tài nguyên này
được sử dụng trực tiếp và gián tiếp cho việc sản xuất dịch vụ du lịch”[55].
* Đặc điểm tài nguyên du lịch
- Tính phong phú và đa dạng: Đặc điểm này là cơ sở để tạo nên sự phong phú
của sản phẩm du lịch, thỏa mãn nhu cầu đa dạng của khách du lịch.
- Sự kết hợp giữa giá trị hữu hình và vô hình: Tài nguyên du lịch không chỉ có
giá trị vật chất là phương tiện hữu hình, hình thành nên các sản phẩm du lịch, mà
còn chứa đựng những giá trị vô hình. Giá trị này được thể hiện qua sự cảm nhận,
cảm xúc tâm lý và sự thỏa mãn nhu cầu của du khách, đồng thời còn được thể hiện
qua kênh thông tin mà khách du lịch nhận được về sản phẩm.
- Tính dễ khai thác: hầu hết các tài nguyên du lịch vốn đã có sẵn trong tự
nhiên hoặc do con người tạo nên. Do đó, chỉ cần đầu tư không lớn đã có thể tôn tạo,
tăng them vẻ đẹp và tạo ra điều kiện thuận lợi nhằm khai thác và sử dụng hiệu quả
tài nguyên này.
- Tính thời vụ: Thời gian có thể khai thác và thời điểm khai thác các loại tài
nguyên thường không giống nhau và thay đổi trong năm tùy thuộc chủ yếu bởi yếu
tố khí hậu và tập quán dân gian. Điều này đã chi phối và quyết định tính mùa trong
du lịch.
- Tính bất biến về mặt lãnh thổ: đối với sản phẩm được tạo ra từ loại tài
nguyên du lịch này thì du khách phải đến tận nơi để tận hưởng và thưởng thức; tạo
nên lực hút cơ sở hạ tầng, dòng du lịch tập trung đến loại tài nguyên đó và là thế
mạnh đặc trưng của từng địa phương.
- 12 -
- Khả năng sử dụng nhiều lần: nếu tuân theo các quy luật tự nhiên, sử dụng
hợp lý và áp dụng những biện pháp bảo vệ chung thì tài nguyên du lịch là một loại
tài nguyên có khả năng tái tạo và sử dụng lâu dài.
* Phân loại tài nguyên du lịch

Để khai thác hợp lí và có hiệu quả tài nguyên du lịch theo hướng bền vững
cần tiến hành phân loại tài nguyên du lịch một cách phù hợp và mang tính khoa học.
Hiện nay có rất nhiều cách phân loại khác nhau của nhiều tác giả và các cơ quan
nghiên cứu du lịch ở nước ta cũng như quốc tế. Sau đây là một vài cách phân loại:
- Tổ chức du lịch Thế giới (UNWTO,1997) đã xây dựng hệ thống phân loại
tài nguyên du lịch thành 3 loại, 9 nhóm gồm: loại cung cấp tiềm tang (gồm 3 nhóm:
văn hóa kinh điển, tự nhiên kinh điển, vận động); loại cung cấp hiện đại (gồm 3
nhóm: đường sá, thiết bị, hình tượng tổng thể) và loại tài nguyên kĩ thuật (gồm 3
nhóm tính năng: hoạt động du lịch, cách thức và tiềm lực khu vực).
- Ở nước ta, cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, một số
tác giả (Vũ Tuấn Cảnh, Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ, Đặng Duy Lợi, Phạm Trung
Lương…) trong quá trình đánh giá tài nguyên du lịch Việt Nam đã phân chúng
thành hai nhóm:
Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm: địa hình, khí hậu; nguồn nước; sinh vật.
Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm: các di tích văn hóa lịch sử; các lễ hội;
các đối tượng gắn với dân tộc học; các đối tượng văn hóa thể thao và hoạt động
nhận thức khác [55].
d. Sản phẩm du lịch
*Khái niệm sản phẩm du lịch
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, hợp thành bởi nhiều bộ phận kinh
doanh nhằm đáp ứng nhu cầu phong phú, đa dạng của du khách trong chuyến du
lịch. Do đó, sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho du khách; được
tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử
dụng các nguồn lực là: cơ sở vật chất kĩ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng
hay một quốc gia nào đó [15].
Sản phẩm du lịch = Dịch vụ du lịch + Tài nguyên du lịch
Trong đó, tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân
văn. Còn dịch vụ du lịch, xét dưới góc độ là quá trình tiêu dùng của khách du lịch,
có thể được tổng hợp theo các nhóm cơ bản sau:
- Dịch vụ vận chuyển: Du lịch gắn với những chuyến đi và sự di chuyển nên

không thể thiếu loại dịch vụ này. Nó bao gồm việc đưa khách đến điểm du lịch và di
chuyển trong phạm vi điểm đến.
- 13 -
- Dịch vụ lưu trú, ăn uống: cơ sở thuê buồng, giường phục vụ hoạt động nghỉ
ở lại và ăn uống – loại nhu cầu không thể thiếu của du khách. Đây là hoạt động kinh
doanh đáng kể trong du lịch.
- Dịch vụ tham quan, giải trí: là một bộ phận quan trọng tạo nên sự hấp dẫn,
thu hút và lôi kéo khách du lịch. Đảm bảo cho khách du lịch sử dụng tối ưu thời
gian rỗi và tăng thu nhập cho nhà kinh doanh du lịch.
- Hàng hóa tiêu dùng và đồ lưu niệm: đây cũng là hoạt động tăng tính hấp
dẫn, để lại dấu ấn cho sản phẩm du lịch và là nhu cầu không thể thiếu của nhiều du
khách.
- Ngoài ra, còn có các dịch vụ trung gian và dịch vụ bổ sung, bao gồm:
+ Dịch vụ thu gom, sắp xếp các dịch vụ riêng lẻ thành một sản phẩm du lịch.
Thể hiện qua việc các cơ sở mua lại những dịch vụ khác nhau, sắp xếp, phối hợp
chúng thành một chương trình du lịch trọn gói hoặc đơn giản.
+ Dịch vụ bán lẻ sản phẩm du lịch: cung cấp thông tin và bán lẻ các sản
phẩm du lịch cho khách du lịch.
* Đặc trưng cơ bản của sản phẩm du lịch
- Sản phẩm du lịch có tính tổng hợp: nó kết hợp các loại dịch vụ do nhiều
đơn vị cá nhân, thuộc các ngành khác nhau cung cấp.
- Sản phẩm du lịch chủ yếu tồn tại ở dạng vô hình: tuy sản phẩm du lịch bao
gồm cả yểu tố hữu hình và vô hình, nhưng yếu tố hữu hình là hàng hóa chiếm tỉ
trọng nhỏ, trong khi yếu tố vô hình là dịch vụ thường chiếm 80 – 90% về giá trị. Do
đó, việc đánh giá chất lượng sản phẩm du lịch rất khó khăn, thường mang tính chủ
quan và phụ thuộc vào khách du lịch.
- Sản phẩm du lịch thường được tạo ra gắn liền với yếu tố tài nguyên du lịch.
Do đó, không thể đưa sản phẩm du lịch đến nơi có khách du lịch, mà thực tế buộc
khách du lịch phải đến nơi có sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình.
- Phần lớn quá trình tạo ra và tiêu dùng các sản phẩm du lịch trùng nhau về

không gian và thời gian. Không bán được cũng có nghĩa là không thể lưu kho và
hầu như không còn giá trị, do đó phần lớn sản phẩm du lịch tự tiêu hao.
- Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch thường không diễn ra đều đặn mà có thể
tập trung vào thời gian nhất định, tạo nên tính mùa trong hoạt động kinh doanh du
lịch.
- Sản phẩm du lịch không có tính đồng nhất: các nhân viên không thể tạo ra
những sản phẩm như nhau trong những thời gian làm việc khác nhau. Khách du lịch
khác nhau trong những thời gian, bối cảnh khác nhau cũng có những cảm nhận khác
nhau về sản phẩm du lịch [55].
e. Các loại hình du lịch
- 14 -
Có nhiều cách phân loại các loại hình du lịch tùy theo tiêu chí khác nhau, các
chuyên gia du lịch Việt Nam thường phân chia theo các tiêu chí cơ bản sau [55]:
- Theo nhu cầu của khách: du lịch chữa bệnh, nghỉ ngơi, thể thao, văn hóa,
công vụ, tôn giáo, thăm hỏi…
- Theo phạm vi lãnh thổ: du lịch nội địa, du lịch quốc tế.
- Theo vị trí địa lí các cơ sở du lịch: du lịch nghỉ biển, nghỉ núi.
- Theo việc sử dụng các phương tiện giao thông: du lịch xe đạp, máy bay, ô
tô, tàu thủy, tàu hỏa.
- Theo thời gian của cuộc hành trình: du lịch ngắn ngày, dài ngày.
- Theo lứa tuổi: du lịch thanh niên, thiếu niên, gia đình.
- Theo hình thức tổ chức: du lịch có tổ chức, cá nhân.
1.1.2. Chức năng của du lịch
a. Chức năng xã hội
Chức năng xã hội của du lịch thể hiện trước hết ở chỗ, du lịch tạo ra nhiều công
ăn việc làm và là công cụ giảm nghèo khá hiệu quả. Du lịch là ngành thu hút lao
động rất lớn. Theo thống kê của UNWTO, lao động trực tiếp và gián tiếp phục vụ
du lịch hiện chiếm hơn 10,7% tổng lao động trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, hàng
năm, ngành du lịch tạo ra thêm 15.000 – 20.000 chỗ làm việc trực tiếp trong các
khách sạn, nhà hàng và các cơ sở dịch vụ du lịch. Với sự phát triển của du lịch, dân

cư có nhiều cơ hội tìm việc làm ngay tại địa bàn mình sinh sống với thu nhập cao,
và cũng có nhiều cơ hội được đào tạo nghề, được hưởng thụ hạ tầng kỹ thuật tốt.
Du lịch còn góp phần thỏa mãn những nhu cầu tinh thần, nâng cao chất lượng
cuộc sống, phục hồi sức khỏe, tái sản xuất khả năng lao động và tăng cường sức
sống cho nhân dân. Trong một chừng mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế bệnh
tật, kéo dài tuổi thọ và tăng cường khả năng lao động của con người. Theo các công
trình nghiên cứu về y sinh học của Crivosev, Dorin (1981), nhờ chế độ nghỉ ngơi và
du lịch tối ưu, bệnh tật của dân cư giảm trung bình 30%. Đặc biệt, bệnh tim mạch
giảm 50%, bệnh thần kinh giảm 30%, bệnh tiêu hóa giảm 20%. Một số khu điều
dưỡng khẳng định rằng, nước khoáng của những vùng này có thể chữa được bệnh
lao phổi, bệnh scorbut do thiếu Vitamin C, các bệnh về da liễu, chảy máu lợi…
Bên cạnh đó, du lịch còn có tác dụng giáo dục tính thẩm mỹ, tinh thần yêu nước,
khơi dậy lòng tự hào dân tộc khi trực tiếp được tiếp xúc với các thắng cảnh của đất
nước, các công trình văn hóa, di tích lịch sử dân tộc. Đồng thời, du lịch là điều kiện
để mọi người xích lại gần nhau, hiểu nhau hơn và tăng tính đoàn kết cộng đồng. Đối
với quan hệ quốc tế, du lịch là cơ hội để mở rộng, củng cố, thắt chặt tình hữu nghị
thân ái giữa các quốc gia trên thế giới.
b. Chức năng kinh tế
- 15 -
Du lịch đã và đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều nước trên thế
giới, đóng vai trò quan trọng trong việc làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế các
nước. Theo thống kê của UNWTO, thu nhập du lịch chiếm trên 10% GDP của thế
giới [24]. Hơn nữa thu nhập tạo ra trong ngành du lịch là “thu nhập kép”, khi phát
triển một cơ sở dịch vụ này sẽ kéo theo sự phát triển của hàng loạt các hoạt động
kinh tế khác. Theo “Economics of leisure and tourism” (John Tribe): Cứ mỗi USD
tiêu dùng của khách du lịch sẽ tạo ra khoảng 2 – 3 USD thu nhập gia tăng [24]. Du
lịch còn là ngành kinh tế có đóng góp quan trọng vào nguồn thu của chính phủ
thông qua nghĩa vụ thuế. Đây còn là ngành xuất khẩu tại chỗ với nhiều ưu thế nổi
trội, góp phần quan trọng vào việc thu ngoại tệ, cân bằng cán cân thanh toán quốc
tế.

Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, sự phát triển du lịch giúp đa dạng hóa và kích
thích sự phát triển của các ngành kinh tế khác: giao thông vận tải, nông nghiệp,
công nghiệp, thương mại… Ngoài ra, còn tăng cường cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất
kĩ thuật cho cộng đồng. Tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Ở một khía cạnh gián tiếp, du lịch còn tác động đến kinh tế của một quốc gia
thông qua việc phục hồi sức khỏe, khả năng lao động và đảm bảo tái sản xuất mở
rộng lực lượng lao động với hiệu quả kinh tế rõ rệt [54].
c. Chức năng sinh thái
Chức năng sinh thái của du lịch thể hiện qua việc tạo môi trường sống ổn định
về mặt sinh thái, giúp con người sống hòa hợp với thiên nhiên. Tiềm năng tự nhiên
đối với du lịch của lãnh thổ góp phần tối ưu hóa tác động qua lại giữa con người với
môi trường tự nhiên trong điều kiện công nghiệp hóa, đô thị.
Du lịch góp phần vào việc bảo tồn và phát triển các nguồn tài nguyên, giúp khai
thác tốt hơn, có hiệu quả hơn các không gian đẹp, cảnh quan thiên nhiên; thúc đấy
việc nghiên cứu, phát hiện công nhận thêm các vườn quốc gia, các khu bảo tồn mới,
tăng cường đầu tư làm phong phú thêm các không gian du lịch; làm tăng khối lượng
và chất lượng các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Hơn thế nữa, du lịch còn nâng cao nhận thức của con người về giá trị của tự
nhiên, thay đổi thái độ và hành vi đối với môi trường thiên nhiên.
d. Chức năng chính trị
Du lịch như một nhân tố củng cố hòa bình, đẩy mạnh các mối giao lưu quốc tế,
mở rộng sự hiểu biết giữa các dân tộc. Du lịch quốc tế làm cho con người ở các khu
vực khác nhau hiểu biết và xích lại gần nhau. Không phải ngẫu nhiên mà chủ đề về
du lịch được đưa ra năm 1967 là “Du lịch – giấy thông hành của hòa bình”.



- 16 -
1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch
a. Vị trí địa lí

Vị trí địa lí với tư cách là một trong những nguồn lực để phát triển du lịch.
Điều kiện về vị trí địa lí bao gồm:
- Điểm du lịch nằm trong khu vực phát triển du lịch;
- Khoảng cách từ điểm du lịch đến các nguồn gửi khách du lịch ngắn.
Khi phân tích và đánh giá vị trí địa lí, cần đặt nó trong khung cảnh của vùng,
của quốc gia và quốc tế (nếu có). [54]
b. Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch tự nhiên là các đối tượng, hiện tượng trong môi trường tự
nhiên xung quanh chúng ta có sức hấp dẫn phát triển du lịch. Các đối tượng tự
nhiên cần quan tâm khi nghiên cứu du lịch là: địa hình, khí hậu, thủy văn, sinh vật.
















Hình 1.1: Sơ đồ phân loại tài nguyên du lịch
[Nguồn: Địa lí Du lịch Việt Nam-55]

Theo Luật du lịch (Điều 13, chương II): “Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm

các yếu tố địa hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên
có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch”.[20]
- Địa hình: Hình dạng bề mặt đất ảnh hưởng đến du lịch với sự hấp dẫn của danh
thắng tự nhiên, cũng như khả năng xây dựng các cơ sở du lịch thuộc các loại hình
TÀI NGUYÊN
DU LỊCH
Tài nguyên
tự nhiên
Tài nguyên
nhân văn
Địa
hình
Khí
hậu
Thủy
văn
Sinh
vật
Di
tích
VH -
LS
Lễ
hội
Dân
tộc
học
Nhân
văn
khác

DI SẢN THIÊN NHIÊN THẾ GIỚI
DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI
DI SẢN HỖN HỢP
- 17 -
khác nhau. Khi phân tích ảnh hưởng của địa hình với hoạt động du lịch người ta chú
ý đến hai yếu tố là hình thái địa hình và các dạng địa hình đặc biệt.
I.A. Vedenin (1975) cho rằng khu vực có các kiểu địa hình các tương phản về
mặt hình thái thì phong cảnh càng đẹp và được đánh giá càng cao đối với du lịch.
Và trên thực tế, các dạng địa hình tương đối đơn điệu về mặt ngoại hình ít gây được
cảm hứng cho khách du lịch. Trong các dạng địa hình thì miền núi có ý nghĩa lớn
nhất đối với du lịch.
Ngoài các dạng địa hình chính, các dạng địa hình đặc biệt có ý nghĩa đối với du
lịch cần được quan tâm là dạng địa hình Karst và địa hình ven bờ. Một trong những
kiểu Karst được quan tâm nhất đối với du lịch là hang động Karst. Đối với kiểu địa
hình ven bờ đây là dạng tài nguyên có thể khai thác phát triển du lịch với nhiều mục
đích khác nhau thông qua chỉ tiêu đánh giá mức độ thuận lợi của các bãi biển để
phát triển du lịch (chiều dài – rộng, độ mịn của cát, độ dốc, độ trong, độ mặn…).
- Khí hậu: Đối với hoạt động du lịch, đặc điểm khí hậu sinh học có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng. Các chỉ tiêu khí hậu được quan tâm nhất là nhiệt độ không khí và
độ ẩm không khí. Ngoài ra, các tiêu chí sinh học khác được chú ý là yếu tố gió, áp
suất, khí quyển, ánh nắng mặt trời. Bên cạnh đó, cần lưu ý tới những hiện tượng
thời tiết đặc biệt chi phối tới các kế hoạch du lịch. Mỗi loại hình du lịch đòi hỏi
những điều kiện khí hậu khác nhau. Nhìn chung, những nơi có khí hậu điều hòa
thường được khách du lịch ưa thích.
Điều kiện khí hậu còn tác động đến tính mùa trong du lịch. Phụ thuộc vào điều
kiện khí hậu, hoạt động du lịch có thể diễn ra quanh năm hoặc trong một vài tháng.
Các địa phương khác nhau có tính mùa du lịch không như nhau.
Ngoài ra, điều kiện thời tiết cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện các chuyến đi
hoặc các hoạt động du lịch. Yếu tố khí hậu còn tác động gián tiếp đến hoạt động du
lịch qua tác động đến độ bền tài nguyên du lịch, làm phong hóa nhanh các công

trình, các di tích lịch sử - văn hóa và thay đổi diện mạo cảnh quan tự nhiên.
- Thủy văn: Tài nguyên nước phục vụ du lịch bao gồm nước trên mặt, nước dưới
đất và nước khoáng. Trong đó, nguồn nước trên mặt có ý nghĩa to lớn nhất. Ngoài
ra, cần phải nói đến nguồn nước khoáng với những thành phần vật chất đặc biệt (các
nguyên tố hóa học, chất khí, nguyên tố phóng xạ…), hoặc có một số tính chất vật lý
(nhiệt độ, độ pH…) có tác dụng đối với sức khỏe con người; đây là nguồn tài
nguyên có giá trị cho du lịch an dưỡng và chữa bệnh.
- Sinh vật: Tài nguyên sinh vật là dạng tài nguyên đặc biệt, có giá trị tạo nên
cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, hấp dẫn đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ ngơi, giải
trí, khám phá và nâng cao nhận thức cho du khách. Đối với một số loại hình du lịch
như du lịch sinh thái, tham quan, nghiên cứu khoa học thì tài nguyên sinh vật có ý
- 18 -
nghĩa đặc biệt quan trọng ở tính đa dạng sinh học, sự bảo tồn các nguồn gen quý giá
đặc trưng cho các vùng tự nhiên khác nhau trên thế giới.
* Tài nguyên nhân văn
Tài nguyên nhân văn là những đối tượng, hiện tượng do con người tạo ra trong
suốt quá trình tồn tại và có giá trị phục vụ nhu cầu du lịch. Đối với du lịch, người ta
khai thác các giá trị nhân văn sau: các di tích văn hóa – lịch sử, lễ hội, các đối tượng
dân tộc học và các giá trị nhân văn khác.
Theo điều 13, chương II, Luật du lịch năm 2005: “Tài nguyên du lịch nhân văn
gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hóa, các công trình lao động sáng tạo
của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng
phục vụ mục đích du lịch”.
- Các di tích văn hóa – lịch sử:
Ở Việt Nam, theo luật di sản văn hóa (2001) thì: “Di sản văn hóa là những công
trình xây dựng và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc các công trình, địa điểm
có giá trị lịch sử - văn hóa và khoa học”. Di sản văn hóa được phân chia thành di
tích văn hóa – khảo cổ, di tích lịch sử, di tích văn hóa nghệ thuật và các danh lam
thắng cảnh [55].
Khi đánh giá đối tượng nhân văn này, cần quan tâm các tiêu chí: Tổng số di tích

các loại trên lãnh thổ; số di tích được xếp hạng quốc gia; mật độ di tích trên một
đơn vị diện tích [55]. Mỗi chỉ tiêu có một ý nghĩa khác nhau. Chỉ tiêu đầu tiên đánh
giá về số lượng di tích, hai chỉ tiêu sau đánh giá về chất lượng di tích. Đây là những
chỉ tiêu quan trọng để phân tích khả năng khai thác, phát triển du lịch của các di tích
văn hóa – lịch sử.
- Lễ hội
Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hóa tổng hợp hết sức đa dạng và phong
phú, một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân sau thời gian lao động mệt nhọc, hoặc
hướng về một sự kiện trọng đại, ôn lại truyền thống, giải quyết nỗi âu lo Lễ hội là
một yếu tố văn hóa quan trọng trong đời sống xã hội, ở mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc
từng nét văn hóa đó chứa đựng những tính chất, đặc trưng riêng, mang hơi thở vào
cuộc sống của xã hội đó. Nó phù hợp với điều kiện sống cụ thể, nó nảy sinh và bị
chi phối bằng các hình thức, phương thức lao động, hoàn cảnh sống và môi trường
tự nhiên.
Lễ hội gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Thời gian diễn ra lễ hội thường khác
nhau. Nói chung, xuất hiện vào thời điểm thiêng liêng của sự chuyển tiếp giữa các
mùa. Ở một chừng mực nhất định, lễ hội cũng tạo ra tính mùa của du lịch [54].
Phân tích giá trị của lễ hội với du lịch người ta thường tập trung các tiêu chí:
Thời gian diễn ra lễ hội (mùa nào, tháng nào), độ dài của lễ hội; địa điểm tập trung
- 19 -
lễ hội; ý nghĩa của lễ hội (ý nghĩa địa phương, quốc gia) và đặc biệt là khả năng đón
khách và kinh doanh du lịch [55].
- Các đối tượng gắn với dân tộc học
Sự huyền bí, nét đặc sắc của các đối tượng dân tộc học ngày càng thể hiện rõ giá
trị của mình đối với các nhà du lịch trên hành trình tìm kiếm, gặp gỡ, nuôi dưỡng
các nền văn hóa ấy, đồng thời “không ngừng tìm kiếm bản sắc dân tộc mình”. Các
đối tượng dân tộc học có ý nghĩa đối với du lịch là các tập tục lạ về cư trú, về tổ
chức xã hội, về thói quen ăn uống – sinh hoạt, về kiến trúc cổ, các nét truyền thống
trong quy hoạch cư trú và xây dựng, trang phục dân tộc…
Khi đánh giá đối tượng dân tộc, các tiêu chí được quan tâm là: tổng số dân trên

lãnh thổ; các dân tộc và cơ cấu dân tộc; đặc điểm phong tục tập quán của các dân
tộc và khả năng hình thành loại hình, sản phẩm du lịch từ đối tượng đó [55].
- Các tài nguyên nhân văn khác
+ Các làng nghề: làng nghề truyền thống là tinh hoa về mặt công nghệ, kĩ thuật
của một vùng thể hiện qua các sản phẩm có tính khu biệt, qua cách sống, các phong
tục tập quán, văn hóa ứng xử của cộng đồng. Làng nghề và các nghề thủ công
truyền thống từ lâu đã trở thành đối tượng của hoạt động du lịch, nơi con người
hướng tới để khám phá, tìm hiểu và chiêm nghiệm sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
các giá trị vật chất và tinh thần một cách hài hòa và sinh động nhất.
+ Một số các đối tượng văn hóa khác cũng thu hút khách với mục đích tham
quan, nghiên cứu như: trung tâm của các viện khoa học, các thư viện lớn và nổi
tiếng, các thành phố có triển lãm nghệ thuật, các trung tâm thường xuyên tổ chức
liên hoan âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, các cuộc thi đấu thể thao quốc tế, biểu diễn
ba lê, các cuộc thi hoa hậu… Các đối tượng văn hóa thường tập trung ở các thủ đô
và thành phố lớn vì thế các thành phố này mặc nhiên trở thành những trung tâm du
lịch văn hóa của các quốc gia, vùng – khu vực và là hạt nhân của các trung tâm du
lịch.
+ Các thành tựu kinh tế của đất nước hoặc vùng cũng có sức hấp dẫn đặc biệt
đối với khách du lịch…
c.Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là đòn bẩy của mọi hoạt động kinh tế, đối với du lịch cở sở hạ
tầng có vai trò đặc biệt quan trọng, trong đó nổi bật là mạng lưới và phương tiện
giao thông. Ngoài ra, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống cung cấp điện nước cũng
là một phần không thể thiếu, có vai trò phục vụ trực tiếp hoạt động du lịch.
- Hệ thống giao thông vận tải: Du lịch gắn với sự di chuyển của con người, vì
vậy nó phụ thuộc trực tiếp vào giao thông. Về phương diện này, mạng lưới và
phương tiện giao thông là những nhân tố quan trọng hàng đầu.

×