Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Hoàn thiện mục tiêu và chương trình đào tạo du lịch bậc đại học ở Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1012.56 KB, 76 trang )


1
LÊ TUYẾT MAI





CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CỬ NHÂN DU LỊCH
CỦA MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở HÀ NỘI

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường















HÀ NỘI, 2007

2
MỤC LỤC


MỞ ĐẦU . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . trang 3
1. Lý do chọn đề tài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .3
2. Lịch sử vấn đề . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .4
3. Mục đích yêu cầu của đề tài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .7
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .8
6. Bố cục của công trình . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .8
CHƢƠNG 1: DU LỊCH VIỆT NAM VÀ NHU CẦU ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC . . . . . .10
1.1. Sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 10
1.2. Nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch Việt Nam hiện nay 15
Tiểu kết . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 22
CHƢƠNG 2: KHẢO SÁT CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CỬ NHÂN DU LỊCH CỦA MỘT SỐ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Ở HÀ NỘI . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .24
2.1. Khái quát về tình hình đào tạo cử nhân du lịch của một số trƣờng
đại học ở Hà Nội . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 24
2.2. Các chƣơng trình đào tạo du lịch bậc đại học . . . . . . . . . . . . . . . . . . .27
Tiểu kết . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .54
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NỘI DUNG HOÀN THIỆN CHƢƠNG TRÌNH
CỬ NHÂN DU LỊCH . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .56
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện chƣơng trình đào tạo cử nhân du lịch . . . . 56
3.2. Một số nội dung cụ thể để hoàn thiện chƣơng trình đào tạo cử nhân
du lịch . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .64
Tiểu kết . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 71
KẾT LUẬN . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .74




3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, ngành du lịch Việt Nam đang trên
đà phát triển mạnh mẽ. So với nhiều nƣớc trên thế giới, ngành du lịch Việt
Nam chƣa thể trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nƣớc nhƣng thực tế
phát triển trong 15 năm qua đã chứng minh rằng, ngành du lịch càng ngày
càng có vị thế trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Một tƣơng lai sán lạn đang chờ đón ngành du lịch Việt Nam, tuy nhiên
việc đáp ứng điều này đang còn nhiều vấn đề bất cập. Ngoài những điều kiện
vật chất cho ngành du lịch còn nhiều thiếu thốn, một vấn đề bức xúc đang
đặt ra trƣớc mắt các nhà lãnh đạo và quản lý du lịch là nguồn nhân lực còn
hạn hẹp và chƣa có chất lƣợng cao. Ngành du lịch luôn luôn đòi hỏi một đội
ngũ cán bộ năng động, có tay nghề cao, có trình độ hiểu biết rộng. Điều đó
chƣa thể có đƣợc trong ngày hôm nay, thậm chí trong một tƣơng lai gần, đất
nƣớc cũng chƣa thể đáp ứng đƣợc. Để giải quyết vấn đề này, sự nghiệp đào
tạo nhân lực cho ngành du lịch cần đƣợc đẩy mạnh, đặc biệt là đào tạo đại
học. Theo nhận xét chung của các công ty du lịch và khách sạn thì, nguồn
lực du lịch đƣợc đào tạo ở trình độ đại học hiện nay chƣa đáp ứng đƣợc nhu
cầu về chất lƣợng làm việc. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thực trạng này,
trong đó một nguyên nhân quan trọng không thể không đề cập tới, đó là
chƣơng trình đào tạo chƣa đáp ứng đƣợc xu thế hội nhập quốc tế trong
ngành du lịch. Bởi vậy, nghiên cứu sâu về chƣơng trình đào tạo du lịch ở các
trƣờng đại học để từ đó đề xuất những vấn đề về hoàn thiện chƣơng trình
nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại mới là yêu cầu cấp bách mà thực tế của

4
ngành du lịch đang đặt ra. Đề tài nghiên cứu này trƣớc hết xuất phát từ thực
tiễn.
1.2. Ngành nghiên cứu du lịch (du lịch học) là một ngành khoa học mới

phát triển trong một vài thập niên trở lại đây. Số lƣợng các nhà du lịch học
có tên tuổi ở Việt Nam mới chỉ đƣợc tính trên đầu ngón tay, chƣa đáp ứng
đƣợc nhu cầu nghiên cứu về một ngành đang phát triển với tốc độ khá nhanh
nhƣ ngành du lịch. Nhiều vấn đề chƣa đƣợc giới khoa học về du lịch quan
tâm, trong đó có vấn đề nghiên cứu chƣơng trình đào tạo. Tài liệu hiện có
ngày nay chủ yếu là các báo cáo tổng kết về công tác đào tạo ở các trƣờng
đại học. Các cơ quan quản lý ngành du lịch cũng có một số báo cáo tổng kết
có liên quan đến vấn đề đào tạo nguồn nhân lực. Nhƣ vậy trong khoa học về
du lịch hiện nay còn đang trống vắng mảng đề tài về đào tạo nguồn nhân lực.
Đề tài của chúng tôi sẽ góp phần nhỏ trong việc nêu và bƣớc đầu giải quyết
những vƣớng mắc xung quanh công tác đào tạo cán bộ có trình độ cử nhân
cho ngành du lịch hiện nay.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhƣ trên đã nói, ngành khoa học về du lịch hiện còn rất trẻ. Các công
trình nghiên cứu về du lịch hiện nay có những xu hƣớng chính sau đây:
- Xu hƣớng nghiên cứu về tiềm năng và thực trạng của các khu du lịch
để từ đó đề xuất các giải pháp phát triển trong thế ổn định và bền vững.
- Xu hƣớng nghiên cứu về các cơ quan tổ chức hoạt động du lịch, sáng
tạo sản phẩm du lịch mới và khai thác sản phẩm du lịch hiện có. Nhìn chung
đó là các hoạt động dịch vụ du lịch. Mục tiêu của các hoạt động này chủ yếu
vẫn là mục tiêu kinh tế.
- Xu hƣớng nghiên cứu các tuyến, điểm du lịch nhằm mục tiêu xây
dựng quy hoạch du lịch.

5
Nhƣ vậy, rõ ràng đang có một khoảng trống lớn về lĩnh vực đào tạo du
lịch chƣa đƣợc đề cập tới trong khoa học chuyên ngành. Có thể nói, du lịch
học đang vắng bóng những công trình nghiên cứu công phu, hệ thống về
công tác đào tạo nguồn nhân lực. Nhiều vấn đề cụ thể đã đƣợc đặt ra nhƣng

chƣa tìm đƣợc câu trả lời có sức thuyết phục bằng những minh chứng của
quá trình nghiên cứu. Chẳng hạn nhƣ các vấn đề về chất lƣợng đội ngũ
hƣớng dẫn viên, quản trị khách sạn, tổ chức và quản lý tour du lịch có liên
quan đến chƣơng trình, phƣơng pháp đào tạo ở các nhà trƣờng nhƣ thế nào?
Tại sao các nhà trƣờng đại học có đào tạo du lịch chƣa thể đáp ứng đƣợc yêu
cầu của ngành.
Quả thật, những câu hỏi không phải dễ dàng có thể giải đáp trong một
sớm một chiều nếu không có những công trình nghiên cứu công phu trong
nhiều năm.
Những nghiên cứu ban đầu về công tác đào tạo đƣợc thể hiện qua các
báo cáo tổng kết của các cơ sở quản lý và các nhà trƣờng có ngành đào tạo
du lịch.
Trong báo cáo tổng kết ngành năm 2005, Tổng cục Du lịch đã đƣa ra
những con số thống kê về trình độ đào tạo của toàn bộ đội ngũ cán bộ, nhân
viên đang làm việc trong ngành để từ đó, phân tích chất lƣợng và cơ cấu
nguồn nhân lực. Tổng cục Du lịch cũng thống kê số lƣợng các trƣờng có đào
tạo về du lịch. Tuy nhiên, sự phân tích không đi sâu vào hoạt động đào tạo
của các nhà trƣờng mà chủ yếu nhằm khẳng định xu thế phát triển của ngành
trƣớc mắt và trong tƣơng lai, khẳng định thế cạnh tranh của các nhà trƣờng
đem lại mặt tích cực là làm cho chất lƣợng đào tạo các chuyên ngành du lịch
đƣợc nâng lên.
Trong báo cáo tổng kết của các nhà trƣờng, đặc biệt là qua các hội nghị,
hội thảo bàn về đào tạo du lịch, các nhà quản lý, nhà giáo đều khẳng định,

6
chất lƣợng đào tạo các chuyên ngành về du lịch đang từng bƣớc đƣợc cải
thiện, từng bƣớc đáp ứng đƣợc yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nƣớc, song trƣớc xu thế hội nhập với các nƣớc trên thế giới và
trong khu vực, chất lƣợng đào tạo hiện nay vẫn chƣa thể đáp ứng đƣợc yêu
cầu của thực tế. Các báo cáo đều thống nhất ý kiến cho rằng, nguyên nhân

chính là do nhà trƣờng thiếu hụt một đội ngũ giảng viên đủ mạnh để hoàn
thành sứ mạng đào tạo du lịch cho nhà trƣờng. Đƣơng nhiên, vấn đề giảng
viên đặt ra với hai nội dung cơ bản: trình độ chuyên môn và phƣơng pháp
giảng dạy. Mọi ngƣời đều cho rằng, phƣơng pháp giảng dạy trong các nhà
trƣờng hiện nay quá lạc hậu. Thầy nói, trò ghi là việc làm gần nhƣ duy nhất
trong giờ học, không phát huy đƣợc sự năng động, chủ động sáng tạo của
sinh viên, không rèn luyện cho sinh viên một sự nhanh nhạy, thích nghi kịp
thời với hoàn cảnh, với sự cạnh tranh vốn là đặc điểm nổi bật của thị trƣờng
du lịch.
Vấn đề chất lƣợng đào tạo còn phụ thuộc vào cơ sở vật chất, trang thiết
bị của nhà trƣờng. Tình trạng chung của các nhà trƣờng hiện nay, theo báo
cáo thƣờng niên của các trƣờng đại học, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
đào tạo du lịch còn rất yếu kém, thậm chí có những trƣờng, đặc biệt là các
trƣờng dân lập, gần nhƣ là số không. Ngoài ra, còn vấn đề giáo trình, tài liệu
tham khảo, các cơ sở thực hành cũng đang trong tình trạng bắt đầu xây
dựng.
Chỉ có một số báo cáo trong các hội nghị bàn về đào tạo du lịch của
Khoa Du lịch Trƣờng Đại học Dân lập Văn Lang năm 2001, Khoa Văn hóa
du lịch Trƣờng Đại học Văn hóa Hà Nội năm 2003, Khoa Du lịch Trƣờng
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm
2005 đề cập đến việc đánh giá chƣơng trình đào tạo, tuy nhiên cũng chỉ
trong phạm vi của một chƣơng trình, chƣa đƣa ra cái nhìn tổng thể về

7
chƣơng trình đào tạo ở các trƣờng đại học trong nƣớc hoặc trên địa bàn thủ
đô Hà Nội.
Nhƣ vậy, trong lịch sử nghiên cứu vấn đề, chƣơng trình đào tạo chƣa
bao giờ đƣợc đặt ra nhƣ một đối tƣợng nghiên cứu trực diện của khoa học
chuyên ngành. Những ý kiến đƣợc nêu trong các báo cáo và trong các hội
nghị, hội thảo dù rất quý giá nhƣng chƣa đủ để giải quyết một thực tế đang

đặt ra trong ngành du lịch là cải tiến chƣơng trình nhƣ thế nào để góp phần
nâng cao chất lƣợng đào tạo.

3. Mục đích, yêu cầu của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu nhƣ chính đề tài đã chỉ rõ là nhằm góp
phần “hoàn thiện” chƣơng trình đào tạo bậc đại học. Tuy vậy, mục đích sâu
xa của ngƣời nghiên cứu (tác giả của công trình này) là góp phần nâng cao
chất lƣợng đào tạo cử nhân du lịch ở các trƣờng đại học của Việt Nam nói
chung và đặc biệt là ở Khoa Văn hóa du lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà
Nội.
Yêu cầu của đề tài
Đề tài đặt ra những nhiệm vụ sau đây cần phải giải quyết:
Làm rõ đƣợc nhu cầu nhân lực của ngành du lịch hiện nay và trong
tƣơng lai; vai trò, ý nghĩa của công tác đào tạo nguồn nhân lực của ngành.
Phân tích để nêu bật chỗ mạnh, chỗ yếu của chƣơng trình đào tạo
cử nhân du lịch ở một số trƣờng đại học hiện nay trên địa bàn thủ đô Hà Nội.
Đề xuất đƣợc phƣơng hƣớng và một số nội dung cụ thể để bổ sung,
sửa đổi nhằm hoàn thiện chƣơng trình đào tạo du lịch bậc đại học.



8
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn của đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng, chúng tôi
không thể có điều kiện nghiên cứu chƣơng trình của tất cả các trƣờng đại
học có đào tạo về du lịch ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu đƣợc khuôn định
trong một số trƣờng đại học sau đây ở Hà Nội:
- Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc

gia Hà Nội.
- Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân.
- Trƣờng Đại học Thƣơng mại.
- Viện Đại học Mở Hà Nội.
- Trƣờng Đại học Văn hóa Hà Nội.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu là các văn bản chƣơng trình khung của 5 trƣờng
đại học nhƣ đã trình bày ở trên. Danh từ chƣơng trình mà chúng tôi sử dụng
trong công trình nghiên cứu này đƣợc hiểu là chương trình khung chứ không
phải chương trình chi tiết, nghĩa là mới chỉ đề cập đến tên các học phần chứ
chƣa đề cập đến đề cƣơng chi tiết về nội dung các học phần đó.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Trong công trình này, phƣơng pháp phân tích đóng vai trò quan trọng.
Chúng tôi sẽ tiến hành phân tích nội dung chƣơng trình của các trƣờng đại
học trong danh sách đã định, so sánh chƣơng trình giữa các trƣờng đại học
này với nhau, tổng hợp để tìm ra những ƣu điểm và hạn chế trong chƣơng
trình của từng trƣờng, những ƣu điểm và hạn chế chung của các trƣờng.
- Khảo sát thực tế tại các trƣờng nêu trên: Các đối tƣợng đƣợc khảo sát là
giảng viên, sinh viên đang học, sinh viên đã tốt nghiệp, một số doanh nghiệp
du lịch đang sử dụng nhân lực có trình độ đại học về du lịch.

9

6. Bố cục của công trình
Công trình bao gồm phần mở đầu, 3 chƣơng và kết luận.
Chƣơng 1: Du lịch Việt Nam và nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực.
Chƣơng 2: Khảo sát chƣơng trình đào tạo cử nhân du lịch của một số
trƣờng đại học ở Hà Nội.
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và nội dung hoàn thiện chƣơng trình đào tạo
cử nhân du lịch.

Ngoài các phần chính nêu trên là hệ thống tài liệu tham khảo.



















10
CHƢƠNG 1
DU LỊCH VIỆT NAM
VÀ NHU CẦU ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC

1.1. Sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam
1.1.1. Ngành du lịch Việt Nam trước năm 1990
So với nhiều ngành khác, ngành du lịch Việt Nam tuy ra đời muộn và là
một ngành kinh tế mới phát triển trong khoảng 15 năm trở lại đây nhƣng khá
mạnh mẽ và đã có những đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế

xã hội của đất nƣớc.
Công ty Du lịch Việt Nam, tổ chức Du lịch đầu tiên của nƣớc ta, ra đời
vào ngày 9 tháng 7 năm 1960 (theo Nghị định 26/CP của Hội đồng Chính
phủ). Khi đó, cơ sở vật chất kỹ thuật rất nghèo nàn, lạc hậu; đội ngũ cán bộ
công nhân viên có 112 ngƣời, hầu hết chƣa đƣợc đào tạo về nghiệp vụ du
lịch. Tuy nhiên, những con ngƣời đầu tiên này, với tinh thần trách nhiệm và
lòng nhiệt tình của mình, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ phục vụ các đoàn
khách của Đảng và Chính phủ, đã đặt nền móng cho sự hình thành một
ngành kinh tế mới mẻ của đất nƣớc.
Đến ngày 16 tháng 3 năm 1963, do lƣợng khách ngày một tăng và do
nhu cầu tham quan, du lịch bắt đầu xuất hiện, Công ty Du lịch Việt Nam đã
đƣợc Bộ trƣởng Bộ Ngoại thƣơng giao thêm nhiệm vụ kinh doanh du lịch
nhằm thu thêm ngoại tệ cho đất nƣớc.
Ngày 5 tháng 8 năm 1964, Mỹ đã dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ để tiến
hành cuộc chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc. Nhân dân miền Bắc
bƣớc vào giai đoạn chiến tranh. Tuy nhiên, ngành du lịch Việt Nam không
phải vì thế mà đình trệ hoàn toàn. Một số tour du lịch vẫn đƣợc thực hiện,
chủ yếu là dành cho các khách nƣớc ngoài (từ các nƣớc xã hội chủ nghĩa).

11
Đảng và Nhà nƣớc mặc dù tập trung cao độ vào công việc lãnh đạo toàn dân
kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc song vẫn quan tâm đến phát triển du lịch
Ngày 18 tháng 8 năm 1969, ngành du lịch do Phủ Thủ tƣớng trực tiếp quản
lý. Mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh, kinh phí rất hạn hẹp, ngành du lịch
vẫn đƣợc Nhà nƣớc đầu tƣ, một số tuyến điểm du lịch quan trọng đã đƣợc
xây dựng. Cơ sở vật chất cho các cơ quan du lịch cũng đƣợc tăng cƣờng nhƣ
phƣơng tiện vận chuyển khách, các loại vật tƣ phục vụ du lịch. Về phƣơng
diện tổ chức, Nhà nƣớc đã thành lập ra các bộ phận chuyên phục vụ chuyên
gia nƣớc ngoài, kể cả các chuyên gia quân sự sang làm việc tại Việt Nam.
Du lịch Việt Nam thực sự phát triển nhanh sau khi miền Nam đƣợc

hoàn toàn giải phóng. Hàng loạt khách sạn lớn ở miền Nam, đặc biệt là ở Sài
Gòn đƣợc Nhà nƣớc tiếp thu và giao cho Công ty Du lịch Việt Nam quản lý,
đƣa vào khai thác, sử dụng. Sự thông thƣơng giữa hai miền Nam Bắc là điều
kiện hết sức thuận lợi để phát triển du lịch. Khách nƣớc ngoài bắt đầu đến
Việt Nam nhiều hơn, không chỉ từ các nƣớc xã hội chủ nghĩa mà còn từ các
nƣớc tƣ bản chủ nghĩa.
Đến ngày 27/6/1978, Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội ban hành Quyết nghị
số 262 NQ/QHK6 phê chuẩn việc thành lập Tổng cục Du lịch Việt Nam trực
thuộc Hội đồng Chính phủ. Thủ tƣớng chính phủ đã ban hành Nghị định số
32/CP ngày 23/01/1979 quyết định chính thức thành lập Tổng cục Du lịch
Việt Nam. Sự ra đời của Tổng cục Du lịch Việt Nam đã tạo ra bƣớc ngoặt
lớn trong sự chỉ đạo của Nhà nƣớc đối với hoạt động du lịch Việt Nam.
Dƣới sự chỉ đạo của Tổng cục Du lịch Việt Nam, nhiều công ty du lịch mới
đã ra đời. Cả nƣớc lúc đó có 30 công ty du lịch. Số lƣợng khách sạn, nhà
hàng, phƣơng tiện vận chuyển … tăng lên rất nhiều. Đặc biệt, số lƣợng cán
bộ, nhân viên phục vụ du lịch lên tới hàng vạn ngƣời. Hầu hết các công ty du
lịch đều do Nhà nƣớc quản lý.

12
Về khách du lịch, số lượng cũng tăng nhanh theo từng năm:
+ Khách quốc tế:
- Năm 1986: 54.353 lƣợt ngƣời.
- Năm 1989: 187.573 lƣợt ngƣời.
+ Khách nội địa:
- 1986: 280.000 lƣợt ngƣời.
- 1989: 540.000 lƣợt ngƣời.
Về doanh thu:
- Năm 1986: 215.000.000 đ và 170.000 rúp-đô la Mỹ.
- Năm 1989: 607.000.000 đ và 420.000 rúp-đô la Mỹ. [10]
1.1.2. Ngành du lịch Việt Nam từ năm 1990 đến nay

Có thể nói, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã mở ra một
thời kỳ phát triển mới của đất nƣớc. Đây là đại hội của thời kỳ đổi mới và
mở cửa. Sau 30 năm chiến tranh, đất nƣớc không có điều kiện hội nhập về
kinh tế một cách rộng rãi, thay vì việc nhận viện trợ một chiều từ Liên Xô,
Trung Quốc và các nƣớc xã hội chủ nghĩa anh em khác, chúng ta bắt đầu
phát huy nội lực, phát triển hợp tác quốc tế song phƣơng và đa phƣơng. Sự
chuyển mình của cả đất nƣớc kéo theo sự phát triển của ngành du lịch Việt
Nam.
Để phù hợp với tình hình phát triển của đất nƣớc và xu hƣớng phát triển
trên thế giới, ngày 19/8/2003, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 94/2003/NĐ-CP về Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Tổng cục Du lịch. Các sở Quản lý Nhà nƣớc về Du lịch đã đƣợc
thành lập.
Sau những năm khó khăn về giá- lƣơng-tiền ở những năm cuối của
thập kỷ 80, thế kỷ XX, ngƣời dân thực sự đã có tiền để nghĩ đến việc đi du
lịch. Tuy nhiên do là một ngành mới phát triển nên phải đến những năm

13
1990, Du lịch Việt Nam mới có những bƣớc chuyển mình đáng kể. Hoạt
động kinh doanh du lịch bƣớc đầu đƣợc mở ra ở nhiều ngành, nhiều cơ
quan, không chỉ trong phạm vi các thành phần kinh tế nhà nƣớc mà còn ở cả
những thành phần kinh tế khác. Nhiều công ty, trong đó có cả những công ty
tƣ nhân đã ra đời. Hoạt động du lịch trở nên sôi nổi. Không chỉ các công ty
du lịch hoạt động mà nhiều cơ quan nhà nƣớc, nhiều tập thể dân cƣ cũng tự
tổ chức các chuyến du lịch. Trƣớc xu thế đó, du lịch không chỉ còn đƣợc coi
là một hoạt động văn hoá xã hội thuần tuý mà còn là một ngành kinh tế quan
trọng của đất nƣớc.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam năm 2004, số
lƣợng khách du lịch có sự gia tăng rất lớn: từ năm 1991 đến năm 2000,
khách du lịch quốc tế tăng 7,1 lần, từ 300 nghìn lƣợt lên 2,14 triệu lƣợt;

khách du lịch nội địa tăng 7,5 lần, từ 1,5 triệu lƣợt lên 11,3 triệu lƣợt. Đây là
mức tăng trƣởng khá cao so với các nƣớc trong khu vực và thế giới. Thu
nhập xã hội từ du lịch cũng tăng với tốc độ đáng kể, thƣờng đạt mức trên
30%/năm, năm 1991 là 2.240 tỷ đồng, năm 2000 đạt 17.400 tỷ đồng, năm
2004 đạt 26.000 tỉ đồng, tƣơng đƣơng với 1,8 tỉ USD, tới năm 2005: 30.000
tỉ đồng, tƣơng đƣơng với 2 tỉ USD.
Trong những năm đầu tiên của thế kỷ XXI, nền kinh tế nƣớc ta đi vào
thế ổn định, có những bƣớc phát triển vững chắc làm cơ sở cho hội nhập
quốc tế trên quy mô lớn. Việc đầu tƣ cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ du
lịch vì thế thuận lợi hơn trƣớc rất nhiều. Sự thay đổi bắt đầu ngay từ trong
quan niệm về đầu tƣ. Các nhà lãnh đạo, các nhà kinh tế cho rằng đầu tƣ vào
du lịch càng lớn thì thu lợi nhuận càng nhanh. Điều này đã có thực tế ở các
khu du lịch Đầm Sen, Suối Tiên (Thành phố Hồ Chí Minh). Nhìn lại quá
trình đầu tƣ, chúng ta thấy nhƣ sau:

14
Về kinh doanh khách sạn (theo tài liệu thống kê của Tổng cục Du lịch
tính đến tháng 12 năm 2004):
- Năm 1991 có 11.400 phòng.
- Năm 2000 có 66.000 phòng.
- Năm 2004 có 122.144 phòng.
Điều quan trọng ở đây là chất lƣợng các phòng khách sạn đƣợc nâng lên
rõ rệt. Các khách sạn đã đƣợc xếp loại với những tiêu chuẩn rõ ràng. Quy
trình kiểm tra, đánh giá đƣợc thực hiện khách quan, nghiêm túc. Năm 2004,
toàn quốc có 5.847 cơ sở lƣu trú, trong đó có 2.569 cơ sở đƣợc xếp hạng
khách sạn từ 1 đến 5 sao.
Cùng với sự phát triển nhanh của các cơ sở lƣu trú (khách sạn) là hệ
thống các khu vui chơi giải trí, khu thể thao (đặc biệt là các sân golf) đƣợc
hình thành với chất lƣợng khá tốt.
Nói đến sự phát triển của du lịch, không thể không nói tới sự phát triển

của cơ sở hạ tầng (hệ thống giao thông đƣờng bộ, đƣờng thuỷ, đƣờng không,
hệ thống điện và hệ thống thông tin-truyền thông). Trong những năm qua, cơ
sở hạ tầng của toàn quốc đã phát triển khá nhanh, trực tiếp ảnh hƣởng tốt
đến sự phát triển của du lịch.
Phƣơng tiện đi lại cũng đƣợc hiện đại hóa và tăng nhanh về số lƣợng.
Chỉ tính đến năm 2000, theo thống kê của Tổng cục Du lịch, toàn quốc
đã có tới 194 dự án đầu tƣ của nƣớc ngoài vào Việt Nam với mục đích kinh
doanh du lịch, tổng số vốn là 5.780.000.000. USD. Vốn đầu tƣ của Nhà
nƣớc cho phát triển du lịch chiếm 1% tổng số vốn dành cho các ngành sản
xuất và dịch vụ.
Hơn nhiều ngành kinh tề văn hóa khác, hội nhập quốc tế là nhu cầu thiết
yếu của ngành du lịch. Thiếu hội nhập quốc tế, ngành du lịch sẽ phát triển
chậm và thu nhập hàng năm sẽ bị giảm nghiêm trọng. Trong những năm

15
qua, nhờ sự hội nhập quốc tế, các nƣớc hiểu Việt Nam hơn và vì thế, khách
du lịch đến Việt Nam ngày càng đông hơn, thời gian lƣu trú ngày càng dài
hơn. Tuy vậy, đó chƣa phải là điều quan trọng nhất. Điều quan trọng là
chúng ta đã thực hiện đƣợc những chƣơng trình, mục tiêu chiến lƣợc về sự
hội nhập quốc tế của ngành. Các hoạt động hợp tác song phƣơng và đa
phƣơng đã không ngừng củng cố và nâng cao vị thế của ngành du lịch Việt
Nam. Đất nƣớc chúng ta đã trở thành một điểm đến của du lịch thế giới
trong những năm đầu thế kỷ XXI. Sau đây là một số thành tựu đã đạt đƣợc:
- Thiết lập đƣợc mối quan hệ hợp tác về du lịch trong khối các nƣớc
ASEAN.
- Xây dựng và phát huy đƣợc mối quan hệ hợp tác với Tổ chức du lịch
thế giới (WTO).
- Thực hiện tốt vai trò thành viên của Hiệp hội Lữ hành Châu Á Thái
Bình Dƣơng.
- Xây dựng đƣợc mối quan hệ hợp tác trong các tiểu vùng nhƣ Tiểu

vùng Sông Mê Kông mở rộng (GMS), Tiểu vùng Sông Mê Kông-Sông
Hằng, các tiểu vùng Việt-Lào-Thái, Việt-Lào-Campuchia.
- Ký hiệp định hợp tác du lịch với 20 nƣớc trong và ngoài khu vực
Đông
Nam Á.
Sự phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch nhƣ ta đã thấy, tất yếu đòi
hỏi sự phát triển theo của nguồn nhân lực cả về số lƣợng và chất lƣợng.

1.2. Nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch Việt Nam hiện
nay
Tại Hội nghị phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam và hội
nhập khu vực, các chuyên gia đều thống nhất đánh giá về sự bất cập của

16
nguồn nhân lực du lịch hiện nay. Chúng ta có một đội ngũ mà phần lớn chƣa
đƣợc đào tạo ở trình độ cao và chuyên sâu. Các cán bộ, nhân viên đang làm
việc trong ngành du lịch phần lớn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của khách du
lịch quốc tế. Đối với khách du lịch nội địa, họ cũng chỉ mới đáp ứng đƣợc
một phần. Nếu để tình trạng nguồn nhân lực nhƣ hiện nay, ngành du lịch
Việt Nam rất khó có thể hội nhập đƣợc với thế giới.

1.2.1. Về số lượng
Hội nghị nói trên đã đƣa ra những dự báo về nguồn nhân lực du lịch
cho tƣơng lai nhƣ sau:
“Qua báo cáo của 64 Sở Du lịch, sở Thƣơng mại, Sở Thƣơng mại &
Du lịch về thực trạng và dự báo số lƣợng về cơ cấu nhân lực theo yêu cầu
đối với ngành Du lịch trên địa bàn mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ƣơng, số liệu dự đoán cho thấy số lƣợng lao động du lịch không ngừng gia
tăng do yêu cầu tăng trƣởng của ngành. Hiện nay cả nƣớc có 234.096 lao
động các loại làm việc trực tiếp trong ngành du lịch, đến năm 2010 con số

này lên tới 333.396 ngƣời và tỷ lệ tăng bình quân mỗi năm là 8,5%. Giai
đoạn 2010-2015 sự tăng trƣởng về xu hƣớng có thay đổi đôi chút nhƣng vẫn
giữ ở nhịp độ tăng trƣởng cao. Đến năm 2015 số lao động các loại làm việc
trực tiếp trong ngành du lịch dự báo là 503.202 ngƣời với tốc độ tăng trƣởng
là 10,2% năm. (Tham khảo bảng 1 )

Bảng 1. Thực trạng và số liệu dự báo
về nguồn nhân lực du lịch trên cả nước [15]
Đơn vị : ngƣời





17
TT
Chỉ tiêu
Báo cáo và dự báo theo năm
Năm
2005
(ƣớc)
Năm
2010
Năm
2015
1
Tổng số lao động du lịch
234.096
333.396
503.202

Phân theo trình độ đào tạo
2
Trình độ trên đại học
482
966
2.804
3
Trình độ đại học, cao đẳng
29.844
45.818
71.570
4
Trình độ trung cấp
35.966
49.276
75.716
5
Trình độ sơ cấp
42.364
69.710
103.862
6
Trình độ dƣới sơ cấp (qua đào tạo tại chỗ
hoặc huấn luyện nghiệp vụ ngắn hạn)
125.440
167.626
250.250
Phân theo loại lao động
7
Đội ngũ quản lý của cơ quan quản lý nhà

nƣớc về du lịch
1.572
2.658
3.110
8
Lao động quản lý tại các doanh nghiệp (cấp
trƣởng, phó phòng trở lên)
15.676
22.670
33.156
9
Lao động nghiệp vụ
216.848
308.086
466.936
1-Lễ tân
19.258
25.776
36.114
2-Phục vụ buồng
27.640
37.710
65.318
3-Phục vụ bàn, bar
36.406
56.400
82.432
4-Nhân viên nấu ăn
23.536
24.746

41.768
5-Hướng dẫn viên
Đã được cấp thẻ
5.104
12.666
28.450
Chưa được cấp thẻ
2.854


6-Nhân viên lữ hành, đại lý du lịch
8.092
17.636
28.674
7-Nhân viên khác
93.958
133.134
184.180
Phân theo ngành nghề kinh doanh
10
Khách sạn, nhà hàng
115.050
168.632
240.070
11
Lữ hành, vận chuyển DL
31.036
45.896
63.762
12

Dịch vụ khác
88.010
118.276
199.370
Ghi chú: * Số liệu điều tra tại thời điểm tháng 10/ 2005
* Đối tượng thống kê: Bao gồm tất cả các doanh nghiệp kinh doanh du
lịch không phân biệt loại hình và thành phần kinh tế.

1.2.2. Về chất lượng đào tạo
Lao động có trình độ nghề du lịch sơ cấp chiếm đa số, chiếm tới 20%
trong tổng số và chiếm 26% trong số lao động nghiệp vụ cùng với số lao
động nghề dƣới sơ cấp (qua đào tạo tại chỗ hoặc đào tạo huấn luyện không

18
chính quy), lao động loại này chiếm tới 59%. Số lao động đào tạo ở trình độ
trung cấp chiếm 14%, con số này cho thấy tỷ trọng lao động nghiệp vụ lành
nghề chƣa cao. Đặc biệt lao động nghề bậc cao cần đào tạo ở trình độ cao
đẳng và đại học chỉ chiếm xấp xỉ 11%.
Đi sâu vào đội ngũ lao động nghiệp vụ, là những ngƣời yêu cầu cần
phải qua đào tạo nghề du lịch, hình ảnh dự báo cho thấy đến năm 2010, cả
nƣớc có 308.086 lao động trực tiếp, trong đó phân theo các nghề là : Lễ tân
8,3%, phục vụ buồng 12%, phục vụ bàn, bar 18,3%, nhân viên nấu ăn 8%,
hƣớng dẫn viên chiếm 5,6% và đặc biệt là số lao động nghề chƣa xác định
loại hình chiếm 43%.
Về cơ cấu lao động theo lĩnh vực ngành nghề kinh doanh, số lao động
du lịch chủ yếu làm việc trong lĩnh vực khách sạn, nhà hàng, cơ cấu dự báo
năm 2010 nhƣ sau: Khách sạn, nhà hàng ăn uống chiếm 50,5% ; lữ hành,
vận chuyển khách chiếm 13,7% và dịch vụ giải trí, dịch vụ khác ngày càng
tăng, chiếm 35,4%.
Dự báo số lƣợng lao động nghiệp vụ du lịch đòi hỏi phải qua đào tạo

nghề du lịch đến năm 2010 có tổng số là 206.706 ngƣời, tăng bình quân
8,5% năm so với năm 2005. Cụ thể theo các khu vực năm 2010, khu vực Hà
Nội và phụ cận chiếm 32,8%, khu vực Đông bắc chiếm 6%, Tây Bắc 2,8% ;
Bắc Trung bộ 8,7%, Nam Trung bộ 7,3%, Tây Nguyên 3,5%, Thành phố Hồ
Chí Minh và phụ cận chiếm 34% và Đồng bằng Sông Cửu Long chiếm 5%.
(Tham khảo bảng 1)
Đánh giá về chất lƣợng đào tạo quả thực là một vấn đề khó khăn.
Chúng ta chỉ có thể cảm nhận đƣợc về chất lƣợng đào tạo. Tuy nhiên sự cảm
nhận này lại mang tính chủ quan rất cao. Các nhà doanh nghiệp (ngƣời sử
dụng nguồn nhân lực) thì luôn luôn phàn nàn rằng chất lƣợng đào tạo còn
thấp, thậm chí còn quá thấp, trong khi đó, những ngƣời đào tạo nguồn nhân

19
lực (đại diện các nhà trƣờng) thì lại thƣờng xuyên khẳng định trong các bản
báo cáo sơ kết, tổng kết hàng năm rằng chất lƣợng đào tạo vẫn đi lên, năm
sau khá hơn năm trƣớc. Việc phân tích chất lƣợng cần phải dựa vào quy
trình mang tính tổng hợp cao, trên cơ sở của nhiều thông số nhƣ cơ sở vật
chất, trang thiết bị kỹ thuật, đội ngũ lãnh đạo, đội ngũ giảng viên, chƣơng
trình đào tạo, hệ thống giáo trình và tài liệu tham khảo, phƣơng pháp giảng
dạy và kiểm tra đánh giá, chất lƣợng tuyển sinh đầu vào v.v… Bƣớc đầu,
Tổng cục Du lịch đã có những số liệu điều tra điều tra về khả năng đáp ứng
nhu cầu công việc của các cán bộ đang làm việc trong ngành với tƣ cách là
lao động gián tiếp. (Tham khảo bảng 2).

Bảng 2. Mức độ đáp ứng nhu cầu công việc của đội ngũ lao động [ 22 ]

Các chỉ tiêu
Số
lƣợng
Sở

Điểm đánh
giá trung bình
Kỹ năng giao tiếp, chủ toạ, đàm phán
46
3.0
Kiến thức quản lý, lãnh đạo
46
3.5
Tiếng Anh
46
2.5
Tiếng Pháp
46
1.4
Tiếng Trung
46
1.5
Tiếng Nhật
46
1.1
Tiếng khác
46
1.0
Tin học
46
3.1
Hoạch định chính sách
46
3.1
Quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch

46
3.2
Thống kê du lịch
46
3.2
Quản trị thông tin du lịch
46
2.8
Nghiên cứu thị trƣờng tiếp thị xúc tiến du lịch
46
2.6
Quản lý phát triển các loại hình du lịch
46
2.7
Quản lý nguồn nhân lực
46
3.0
Quản lý khu du lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch
46
2.6
Khai thác sản phẩm du lịch
46
2.5

20
Quản lý bảo vệ môi trƣờng du lịch và phát triển
bền vững
46
2.8
Quản lý kinh doanh du lịch

46
2.8

Chú ý: * Số liệu điều tra năm 2005
* Mức điểm 1= Kém, 2= Yếu, 3=Ttrung bình, 4= Khá, 5= Tốt

Theo bảng số liệu điều tra trên đây, điểm đánh giá trung bình càng lớn
nghĩa là khả năng đáp ứng nhu cầu công việc của ngƣời cán bộ theo chỉ tiêu
đó càng tốt. Phân tích bảng trên, chúng ta thấy một số năng lực của ngƣời
cán bộ làm gián tiếp có vẻ cao hơn các năng lực khác nhƣng cũng chỉ đạt
mức 3 hoặc hơn 3 một chút (mức 1 là kém; mức 2: yếu; mức 3: trung bình;
mức 4: khá; mức 5: tốt). Nhƣ vậy, ở những chỉ tiêu có điểm đánh giá trung
bình cao nhất, ngƣời cán bộ làm gián tiếp trong ngành du lịch cũng mới chỉ
đạt yêu cầu, không có những chỉ số ở mức khá và tốt. Bên cạnh đó còn khá
nhiều chỉ tiêu đạt mức điểm đánh giá thấp (từ 1 đến 2), đặc biệt là khả năng
ngoại ngữ đạt mức dƣới trung bình, thậm chí yếu và kém. Ta có thể đi tới
kết luận là chất lƣợng nguồn lực du lịch trong các cơ quan, đơn vị, ở các bộ
phận lao động gián tiếp, còn hạn chế về nhiều mặt, đặc biệt là ngoại ngữ.
Đây là một rào cản lớn cho quá trình hội nhập quốc tế về du lịch trong hiện
tại và tƣơng lai.

1.2.3. Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực du lịch có trình độ đại học
Nguồn lực du lịch trong khu vực làm việc gián tiếp, tất nhiên, bao
gồm
các trình độ đào tạo khác nhau nhƣng những ngƣời đã tốt nghiệp đại học,
phần lớn công tác trong khu vực này. Vì vậy, hạn chế nêu ở mục trên cũng là
hạn chế của đội ngũ cán bộ đã tốt nghiệp các trƣờng đại học trong nƣớc.

21
Nhƣ vậy, những nhận xét cảm tính của các nhà doanh nghiệp đã sử

dụng nguồn nhân lực từ các trƣờng đại học không phải là nhận xét sai lầm
mà có căn cứ thực tế và đã đƣợc chứng minh bằng điều tra xã hội học. Do
đó, chúng ta quan ngại rằng, quá trình đào tạo ở các trƣờng đại học, nếu
không đƣợc cải tiến thì tình trạng thực tế nhƣ hiện nay sẽ kéo dài, ảnh hƣởng
rất lớn đến sự phát triển của ngành du lịch.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác của ngành, Tổng cục Du lịch
đã đề ra mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực đến năm 2015 nhƣ sau:
- 100% cán bộ quản lý và giám sát đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng chuyên sâu
về du lịch.
- 80% lao động đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng về nghiệp vụ chuyên môn,
ngoại ngữ, tin học.
- 100% cơ sở đào tạo du lịch đào tạo theo chƣơng trình chuẩn quốc gia.
Đây là mục tiêu có thể thực hiện đƣợc với điều kiện có sự đầu tƣ của
Nhà nƣớc về cơ sở vật chất, trang thiết bị tối thiểu trong các nhà trƣờng.
Nhƣ vậy, vấn đề nâng cao chất lƣợng đào tạo đại học về du lịch đang
đƣợc đặt ra nhƣ là một vấn đề cấp bách hiện nay. Vấn đề chất lƣợng thể hiện
qua các yêu cầu sau đây mà các nhà trƣờng cần phải đáp ứng:
a) Kiến thức văn hóa liên quan đến du lịch:
Đây là một lĩnh vực khá rộng, bao gồm nhiều tri thức ở các ngành
khác nhau. Làm thế nào để trong vòng 4 năm (một khoá đào tạo đại học),
sinh viên có thể nắm bắt và sử dụng đƣợc các tri thức văn hóa liên quan đến
du lịch. Vấn đề này cần phải đƣợc giải quyết đối với các trƣờng đào tạo
hƣớng dẫn viên du lịch.
b) Năng lực quản lý và tổ chức hoạt động du lịch:

22
Đây cũng là một lĩnh vực khá phức tạp, bao gồm nhiều năng lực khác
nhau, trong đó có cả năng lực giao tiếp, năng lực marketing, năng lực kinh
doanh v. v… Nói chung là các năng lực về nghiệp vụ du lịch.
c) Năng lực về ngoại ngữ:

Năng lực ngoại ngữ là yêu cầu chung của hầu nhƣ tất cả các ngành.
Tuy nhiên, với du lịch thì yêu cầu này trở nên bức thiết hơn, thậm chí trong
nhiều trƣờng hợp, là nhu cầu không thể thiếu đối với ngƣời cán bộ ở các cơ
sở kinh doanh du lịch.
Tuy nhiên, riêng điểm này, không phải ai cũng nhận thức giống nhau,
vì vậy, có thể có tranh luận, song theo ý kiến chủ quan của chúng tôi thì đây
là nhu cầu tất yếu của ngành du lịch trong thời kỳ mở cửa và hội nhập quốc
tế. Chúng ta không nên xem nhẹ năng lực này.
d) Năng lực nghiên cứu khoa học về du lịch:
Ngoài 3 năng lực mà chúng tôi xem nhƣ là quan trọng nhất mà các
trƣờng đại học cần quan tâm đào tạo, đƣơng nhiên, còn có những năng lực
khác, trong đó có năng lực nghiên cứu khoa học về du lịch. Đây cũng là
năng lực hết sức cần thiết, tầm quan trọng không kém gì 3 năng lực trên, bởi
vì, nhà trƣờng không thể đem đến cho các sinh viên của mình toàn bộ (hay
tất cả) những kiến thức và kỹ năng cần có để khi ra trƣờng, họ có thể làm
việc đƣợc ngay. Đó là một quan niệm đầy tính chất lý tƣởng và không thực
tiễn. Nhà trƣờng chỉ có thể trao cho sinh viên những điều chính yếu, cốt lõi,
cơ bản, những mẫu mực để sinh viên làm chuẩn. Điều quan trọng là, cùng
với nhƣng kiến thức chính yếu trên, nhà trƣờng cần trao cho sinh viên
phƣơng pháp nghiên cứu thực tế để họ có thể tự mình tích luỹ kiến thức
cũng nhƣ kỹ năng thực hành chuyên môn.
Ví dụ: Một sinh viên đƣợc đào tạo thành hƣớng dẫn viên du lịch. Anh
ta có thể học đƣợc trong nhà trƣờng khá nhiều kiến thức về đình, chùa. Khi

23
ra trƣờng, anh ta dẫn đoàn du lịch đến tham quan một ngôi chùa cụ thể mà
anh ta chƣa hề đƣợc học. Trong trƣờng hợp này, nếu không có năng lực
nghiên cứu khoa học về du lịch, anh ta sẽ lúng túng không biết phải thuyết
minh hoặc trả lời các câu hỏi của du khách thế nào. Nhƣng, nếu có năng lực
nghiên cứu khoa học, anh ta có thể tự khảo sát, phân tích, tập hợp tƣ liệu để

xây dựng một bài thuyết minh phong phú, hấp dẫn. Hơn nữa, khi có năng
lực nghiên cứu khoa học, ngƣời hƣớng dẫn viên có thể đƣa ra những tƣ liệu
chân thực và chính xác, tránh đƣợc tình trạng nói liều, không đúng sự thật,
mặc dù khách tham quan có thể không phân biệt đƣợc tri thức mà anh ta đƣa
ra là đúng hay sai.

Tiểu kết
Với sự phát triển nhanh về nhiều phƣơng diện của ngành du lịch trong
thời kỳ mở cửa và hội nhập quốc tế, đồng thời cũng trong thời kỳ nền kinh tế
đang khởi sắc, đời sống trong nhiều bộ phận dân cƣ đƣợc nâng cao, nhiều
vấn đề đã đƣợc đặt ra. Một trong những vấn đề quan trọng nhất là cần có
nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu trƣớc mắt và tƣơng lai của ngành. Để
đáp ứng đƣợc yêu cầu này, công tác đào tạo không thể không có sự cải tiến
để nâng cao chất lƣợng. Nguồn nhân lực đƣợc đào tạo hiện nay mới chỉ đạt
chất lƣợng ở mức trung bình và thấp. Đó là một điều bất cập đáng quan ngại
cho tƣơng lai. Xuất phát từ nhu cầu thực tế, ngành du lịch đang đặt ra những
yêu cầu về năng lực cán bộ nhƣ tri thức văn hóa liên quan đến du lịch, khả
năng quản lý và tổ chức các hoạt động du lịch, khả năng ngoại ngữ, khả
năng nghiên cứu khoa học về du lịch. Các trƣờng đại học, nơi đào tạo nguồn
nhân lực du lịch ở trình độ cao, cần nghiên cứu những nhu cầu này để đáp
ứng bằng quy trình và phƣơng hƣớng đào tạo, trong đó vấn đề chƣơng trình
đƣợc đặt ra nhƣ là một vấn đề tiên quyết.

24
CHƢƠNG 2
KHẢO SÁT CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CỬ NHÂN DU LỊCH
CỦA MỘT SỐ TRƢỜNG ĐẠI HỌC Ở HÀ NỘI

2.1. Khái quát về tình hình đào tạo cử nhân du lịch trong các trƣờng
đại học ở Hà Nội

Trƣớc năm 1989, công tác đào tạo về du lịch trong các trƣờng đại học
ở Việt Nam chƣa đƣợc chính thức công nhận. Khi đó, Trƣờng Đại học
Thƣơng Mại có thành lập Khoa Ăn uống công cộng, song cũng mới chỉ đào
tạo chuyên về kỹ thuật nấu ăn, chƣa gắn với ngành du lịch.
Năm 1989 là năm mở đầu cho việc triển khai đào tạo du lịch ở bậc đại
học. Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân đã chính thức mở chuyên ngành đào
tạo du lịch.
Cho đến nay, trên cả nƣớc đã có khá nhiều trƣờng đại học đang
triển khai đào tạo chuyên ngành du lịch hoặc liên quan đến du lịch. Chủ yếu,
các trƣờng đại học đào tạo du lịch tập trung ở Hà nội và các thành phố lớn
nhƣ thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế. Các địa phƣơng
khác nhƣ Hải Phòng, Đà Lạt, Nha Trang, Cần Thơ, Đồng Nai, Vĩnh Long…
mỗi địa phƣơng có 1 cơ sở. Trong số đó, nhiều trƣờng đã thành lập khoa du
lịch, hoặc khoa du lịch và khách sạn để triển khai đào tạo cử nhân.
Bên cạnh đó, tại nhiều trƣờng, du lịch là một chuyên ngành trực
thuộc các khoa nhƣ khoa Quản trị kinh doanh, khoa Kinh tế. Ngoài ra, ở một
số trƣờng khác, du lịch cũng đƣợc coi là chuyên ngành nhƣng không trực
thuộc khoa nhƣ trên mà đứng độc lập. Xin nêu một vài ví dụ nhƣ sau:
1) Các khoa du lịch (Bao gồm cả Du lịch học, Văn hoá du lịch)
- Khoa Du lịch học, Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn (Đại học
Quốc gia Hà Nội)

25
- Khoa Văn hoá du lịch, Đại học Văn hoá Hà Nội
- Khoa Du lịch, Viện Đại học Mở Hà Nội
- …
2) Các khoa Khách sạn du lịch ( hoặc Khoa Du lịch và Khách sạn)
- Khoa Du lịch và khách sạn, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội
- Khoa Khách sạn - Du lịch, Đại học Thƣơng mại
- … …

3) Các khoa Quản trị kinh doanh (có ngành Du lịch )
- Khoa Quản trị kinh doanh, Đại học Duy Tân Đà Nẵng
- Khoa Quản trị kinh doanh, Đại học dân lập Phƣơng Đông Hà Nội)
- …
4) Các khoa Quản trị kinh doanh du lịch
- Khoa Quản trị kinh doanh du lịch, Đại học Đà Nẵng
- … …
Ngoài ra còn các khoa nhƣ: Khoa Địa lý, Khoa Kinh tế, Khoa Kinh tế
và Quản trị kinh doanh … ở một số trƣờng đại học khác cũng đào tạo ngành
Du lịch.
Qua đó chúng ta thấy, các nhà trƣờng cũng còn tự phát trong việc xây
dựng các tổ chức đào tạo về du lịch. Một số khoa mang tên gọi không phản
ánh nhiệm vụ và nội dung đào tạo ngành này. Nhƣ vậy có nghĩa là, đào tạo
du lịch vẫn chƣa phải nội dung quan trọng nhất của khoa mà chỉ là nội
dung thứ hai hoặc nội dung kèm theo. Điều đó phản ánh tính non trẻ của
ngành đào tạo này. Một số trƣờng vẫn còn coi là bƣớc đầu, mang tính chất
thể nghiệm, thậm chí, trong nhiều năm, chỉ đƣợc coi là chuyên ngành, nằm
trong và thuộc về một ngành đào tạo khác. Ví dụ, ở Trƣờng Đại học Văn
hóa Hà Nội, trƣớc năm 2000, chuyên ngành Văn hóa du lịch thuộc về

×