Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Tài nguyên du lịch biển Việt Nam cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.25 MB, 140 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*******

MAI HIÊN


TÀI NGUYÊN DU LỊCH BIỂN VIỆT NAM
CHO PHÁT TRIỂN DU LỊCH NGHỈ DƢỠNG



CHUYÊN NGÀNH: DU LỊCH HỌC
(CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THÍ ĐIỂM)



LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH HỌC



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN PHÚ ĐỨC







HÀ NỘI - 2007






MỤC LỤC
MỤC LỤC
Trang
Danh mục bảng

MỞ ĐẦU
01
CHƢƠNG 1. DU LỊCH NGHỈ DƢỠNG
VÀ TÀI NGUYÊN DU LỊCH NGHỈ DƢỠNG

1.1. Du lịch nghỉ dƣỡng
09
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm loại hình du lịch nghỉ dƣỡng
09
1.1.2. Lịch sử và triển vọng phát triển du lịch nghỉ dƣỡng
15
1.2. Tài nguyên du lịch nghỉ dƣỡng
19
1.2.1. Tài nguyên và các nguồn tài nguyên biển
19
1.2.2. Tài nguyên du lịch
22
1.2.3. Tài nguyên du lịch nghỉ dƣỡng

29
Tiểu kết chương 1
35
CHƢƠNG 2. TÀI NGUYÊN DU LỊCH NGHỈ DƢỠNG BIỂN VIỆT NAM

2.1. Khái quát về biển và tài nguyên biển Việt Nam
37
2.2. Tài nguyên du lịch nghỉ dƣỡng biển Việt Nam
43
2.2.1. Khí hậu hải dƣơng
46
2.2.2. Bãi tắm và mặt nƣớc ven bờ
52
2.2.3. Phong cảnh vùng ven bờ
58
2.2.4. Hải đảo
63
2.2.5 Đánh giá chung
67
Tiểu kết chương 2
82
CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP KHAI THÁC
TÀI NGUYÊN DU LỊCH NGHỈ DƢỠNG BIỂN VIỆT NAM

3.1. Thực trạng khai thác tài nguyên du lịch nghỉ dƣỡng biển
84
3.1.1. Khai thác chƣa tƣơng xứng với tiềm năng và chƣa hiệu quả
84
3.1.2. Các khu nghỉ dƣỡng biển cao cấp hạn chế về số lƣợng và khả
năng cạnh tranh

90
3.2. Giải pháp khai thác hiệu quả tài nguyên
96


3.2.1. Khai thác tài nguyên bền vững
96
3.2.2. Xây dựng các khu nghỉ dƣỡng biển cao cấp
98
Tiểu kết chương 3
101
KẾT LUẬN
103
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC CHỮ

PHỤ LỤC ẢNH













































DANH MỤC BẢNG, ĐỒ THỊ
TT
TÊN BẢNG
TRANG


Bảng phân loại loại hình du lịch theo mục đích chuyến
đi



Mƣời đảo du lịch tốt nhất thế giới năm 2005



Mô hình hoá khái niệm tài nguyên du lịch



Một số biển lớn trên đại dƣơng thế giới



Bảng phân loại các loại hình du lịch biển



Các loại hình du lịch biển và điều kiện tự nhiên liên
quan




Bảng phân loại khí hậu tốt - xấu đối với sức khoẻ



Chỉ tiêu khí hậu sinh học đối với con ngƣời



Nhiệt độ trung bình các vùng địa lý của Việt Nam tại
một số thời điểm trong năm



Lƣợng vi khuẩn, lƣợng bụi, lƣợng CO
2
trong không khí
tại một số vùng biển Việt Nam



Các chỉ tiêu đánh giá bãi tắm



Những điều kiện tốt cho một bãi tắm




Tiêu chuẩn chất lƣợng nƣớc biển ven bờ



Nhiệt độ bình quân nƣớc biển Đông



Sự phân bố nhiệt độ trung bình của lớp nƣớc mặt theo vĩ
độ








DANH MỤC BẢNG, ĐỒ THỊ
TT
TÊN BẢNG

TRANG


Diện tích một số đảo lớn ven bờ biển Việt Nam




Bảng nhiệt độ bình quân tháng



Bảng phân bố lƣợng mƣa trong năm



Số lƣợt khách du lịch quốc tế đến các tỉnh ven biển
giai đoạn 1995 - 2003



Lƣợng khách quốc tế đến Việt Nam giai đoạn 1995-
2003



Số lƣợt khách du lịch nội địa đến các tỉnh ven biển giai
đoạn 1995 - 2003



Thu nhập xã hội từ hoạt động du lịch biển giai đoạn
1995 - 2003



Số lƣợng resort ở Việt Nam tính đến hết năm 2005































MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Biển và đại dƣơng chiếm khoảng 71% diện tích bề mặt trái đất. Con
ngƣời thực chất đang sống trên những hòn đảo khổng lồ giữa các đại d-
ƣơng mênh mông của một quả cầu nƣớc. Đƣợc sinh ra và tiến hoá trên bề
mặt các hòn đảo đó, từ lâu con ngƣời vẫn sống chủ yếu dựa vào diện tích
canh tác hạn chế trên đất liền. Ngày nay, con ngƣời đang đứng trong tƣ thế
tiến chiếm các vùng nƣớc mênh mông, giàu có và khai thác biển trở nên
bức thiết khi các giá trị tài nguyên trên lục địa ngày càng bị suy thoái, cạn
kiệt trƣớc sức ép của gia tăng dân số và tốc độ khai thác. Những hoạt động
của con ngƣời trên biển đã tạo ra một hình thái kinh tế mới - kinh tế biển.
Hội nghị lần thứ tƣ Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khoá X năm
2007 đã ra "Nghị quyết về chiến lƣợc biển đến năm 2020" xác định: "
phấn đấu đưa kinh tế biển đóng góp khoảng 53% - 55% GDP và 55% -
60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước", trong đó mức đóng góp của du
lịch biển trong tổng GDP của nền kinh tế biển vào khoảng 14 - 15%. "Trở
thành một nước mạnh về biển là mục tiêu chiến lược xuất phát từ yêu cầu
và điều kiện khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam". (Nghị quyết 03 NQ/TW của Bộ Chính trị - khoá VII). Nếu không
phát triển kinh tế biển thì Việt Nam sẽ có nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so
với các nƣớc trong khu vực đang vƣơn mạnh ra biển.
Trên phạm vi toàn thế giới, du lịch biển và hải đảo có vị trí đặc biệt
quan trọng trong hoạt động phát triển du lịch và các ngành kinh tế biển.
Theo thống kê của Tổ chức Du lịch Thế giới, hàng năm số lƣợng khách du
lịch quốc tế tham gia vào các hoạt động du lịch biển chiếm khoảng 80%


tổng số khách. Các nƣớc có du lịch biển phát triển nhƣ Pháp, Mỹ, Tây Ban
Nha, Italia là những nƣớc đứng đầu về lƣợng khách quốc tế. Mặt khác,
do sự phân bố về mặt địa lý kinh tế, phần lớn trung tâm công nghiệp, đô thị
lớn ở các nƣớc đều tập trung ở vùng ven biển. Chính vì vậy, ngoài lƣợng

khách quốc tế, một lƣợng khách nội địa còn lớn hơn rất nhiều hàng năm
đƣợc cuốn hút vào hoạt động du lịch biển. Nhiều quốc gia nhƣ Maldies,
Fiji, bang Hawai (Hoa Kỳ), Queenland (Úc) từ lâu coi du lịch biển là
ngành kinh tế chính.
Việt Nam có lợi thế lớn về tài nguyên cho phát triển du lịch biển: đ-
ƣờng bờ biển dài 3260 km, 125 bãi tắm, gần 4000 hòn đảo lớn nhỏ, cùng -
ƣu thế của vùng biển nhiệt đới quanh năm nắng ấm, cát trắng, nƣớc trong,
đa dạng sinh học cao, cảnh quan thiên nhiên nguyên sơ, nền văn hoá lịch
sử lâu đời, giàu bản sắc Dọc chiều dài bờ biển, mỗi đơn vị lãnh thổ vừa
có thế mạnh đặc thù về tài nguyên vừa có khả năng liên kết tạo ra những
sản phẩm du lịch biển hấp dẫn, khả năng cạnh tranh cao. Những năm gần
đây, Việt Nam đƣợc nhiều du khách quốc tế lựa chọn là điểm đến cho mục
đích tham quan, nghỉ dƣỡng biển.
Tuy nhiên, cho đến nay, khai thác tài nguyên du lịch biển ở nƣớc ta
chƣa tƣơng xứng với tiềm năng, chủ yếu mới đƣợc triển khai theo chiều
rộng, chƣa chú trọng đến định hƣớng xây dựng sản phẩm đặc trƣng nên
sản phẩm du lịch biển trùng lặp, ít các sản phẩm du lịch biển cao cấp, khai
thác thiếu tính bền vững. Điều này ảnh hƣởng đến sức hấp dẫn của du lịch
biển Việt Nam và ảnh hƣởng đến mức độ đóng góp của du lịch biển vào
phát triển kinh tế biển với tƣ cách là một trong bốn ngành chủ đạo (giao
thông vận tải - dịch vụ hàng hải, thuỷ sản, dầu khí, du lịch biển).
Tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu "Tài nguyên du lịch biển Việt
Nam cho phát triển du lịch nghỉ dƣỡng" nhằm mục đích đánh giá sự phù
hợp và thuận lợi về tài nguyên du lịch biển cho việc triển khai một loại
hình du lịch cụ thể, hƣớng tới việc xây dựng một loại hình sản phẩm du


lịch biển cao cấp, có sức cạnh tranh cao cho Việt Nam, đồng thời đƣa ra
định hƣớng nhằm sử dụng hiệu quả và tối ƣu nguồn tài nguyên du lịch
biển, phát triển du lịch biển làm đòn bẩy cho phát triển du lịch Việt Nam,

phát triển kinh tế biển và toàn bộ nền kinh tế - xã hội.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục tiêu nêu trên, đề tài tập trung nghiên cứu và làm rõ
những vấn đề chính sau:
- Lý luận về loại hình du lịch nghỉ dƣỡng; thành phần, đặc điểm,
tính chất của tài nguyên du lịch nghỉ dƣỡng biển. Đây là những vấn đề lý
luận làm căn cứ để nhận diện tài nguyên du lịch nghỉ dƣỡng biển ở Việt
Nam.
- Tài nguyên du lịch nghỉ dƣỡng biển Việt Nam: liệt kê, đánh giá sự
phù hợp, sự hấp dẫn của những loại tài nguyên cơ bản; chỉ ra khu vực có
nhiều thuận lợi về mặt tài nguyên; đánh giá điều kiện khai thác tài nguyên.
- Thực trạng khai thác, sử dụng tài nguyên du lịch nghỉ dƣỡng biển.
- Định hƣớng nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng tài nguyên bền
vững.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là tài nguyên du lịch nghỉ dƣỡng
biển Việt Nam.
Đây là một vấn đề tƣơng đối rộng. Vì vậy, phạm vi nghiên cứu đƣợc
giới hạn là những loại tài nguyên thiên nhiên có giá trị khai thác cho loại
hình du lịch nghỉ dƣỡng của vùng bờ biển (coastal zone) Việt Nam.
Có rất nhiều cách xác định vùng bờ biển dựa trên các quan điểm địa
động lực, địa sinh thái, quản lý phát triển Theo quan điểm phát triển du
lịch thì "vùng bờ biển" là khoảng không gian hẹp trong phạm vi tƣơng tác
biển - lục địa mà tại đó có các tài nguyên du lịch thu hút du khách. Đó
thƣờng là vùng bờ biển cát có bãi tắm, các vách biển và dải đất hẹp ven


biển dùng để phát triển cơ sở hạ tầng du lịch, rừng ngập mặn, ám tiêu san
hô, vùng vịnh, đầm phá, cồn cát [25] Các loại tài nguyên du lịch nghỉ
dƣỡng biển chủ yếu đƣợc xác định bao gồm: khí hậu hải dƣơng, bãi tắm,

mặt nƣớc ven bờ, hải đảo và phong cảnh ven bờ (địa hình, thực vật).
Số liệu thống kê đƣợc sử dụng chủ yếu theo các văn bản đã đƣợc
công bố của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch và của Tổng cục Thống kê
từ năm 2000.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu là cách thức cụ thể hay công cụ đƣợc sử
dụng để nghiên cứu một vấn đề nào đó, nhằm mục đích đi đến kết quả một
cách chính xác. Để thực hiện những nội dung nghiên cứu trên, đề tài đã
vận dụng linh hoạt nhiều phƣơng pháp khác nhau. Những phƣơng pháp
chính đƣợc sử dụng trong đề tài là:
- Phƣơng pháp thu thập, hệ thống, tổng hợp, phân tích dữ liệu thứ
cấp
Để có đƣợc cái nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu, tác giả đã tiến
hành thu thập dữ liệu thứ cấp từ các công trình nghiên cứu đƣợc đăng tải
trên các tạp chí, đƣợc in thành sách, trên internet liên quan đến nhiều lĩnh
vực mà trực tiếp là du lịch, hải dƣơng học, khí tƣợng, thuỷ văn. Do kế thừa
kết quả của các công trình đã nghiên cứu trƣớc nên giúp tác giả tiết kiệm
đƣợc nhiều công sức, kinh phí nhƣng thông tin giữa các nguồn tài liệu
thƣờng có sự không nhất quán do thời điểm nghiên cứu và góc độ đánh giá
khác nhau nên đòi hỏi tác giả phải phân loại chúng theo độ tin cậy, theo
tính thời sự rồi tiến hành hệ thống, tổng hợp, phân tích dữ liệu, đƣa ra
những kết luận có căn cứ.
- Phƣơng pháp khảo sát thực địa
Phƣơng pháp thực địa là một trong những phƣơng pháp quan trọng
góp phần làm cho kết quả nghiên cứu mang tính xác thực. Điền dã tại một
số bãi biển của miền Bắc và miền Trung giúp tác giả trực tiếp thẩm nhận


giá trị của tài nguyên, bổ sung thêm thông tin, quan sát việc khai thác sử
dụng tài nguyên làm căn cứ cho việc đề xuất những giải pháp hợp lý và

khả thi.
- Phƣơng pháp lấy ý kiến chuyên gia
Tác giả đã tham khảo ý kiến đánh giá của TS Phạm Trung Lƣơng -
Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch và PGS.TS Nguyễn Chu Hồi - Viện
Kinh tế & Quy hoạch Thuỷ sản, Bộ Thuỷ sản - những tác giả có nhiều
công trình nghiên cứu về biển - về tiềm năng du lịch nghỉ dƣỡng của Việt
Nam và hiện trạng khai thác. Những nhận định của các chuyên gia định
hƣớng nghiên cứu cho tác giả.
- Phƣơng pháp xử lý bằng công cụ tin học
5. Lƣợc sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về biển Đông có lịch sử lâu đời. Các kết quả nghiên cứu
đã đƣợc ghi chép và mô tả trong sử sách nhƣ: Dƣ địa chí của Nguyễn Trãi
(1435), Toản tập thiên nam tứ chí lộ đồ của Đỗ Bá (1630), Phủ biên tạp lục
của Lê Quý Đôn (1776), Lịch triều hiến chƣơng loại chí của Phan Huy
Chú (1821), Phƣơng đình dƣ địa chí của Nguyễn Siêu (1900) Năm 1927,
Viện Hải dƣơng học đƣợc thành lập ở Nha Trang với vị giám đốc đầu tiên
là A.Krempf - một nhà sinh vật học nổi tiếng - đã đánh dấu bƣớc tiến trong
công cuộc nghiên cứu biển Đông. Các công trình nghiên cứu của Viện Hải
dƣơng học tập trung về thuỷ triều, sinh vật và cá biển. Hệ thống cơ quan
quan trắc đƣợc dựng lên ở ven bờ và trên biển có nhiệm vụ thƣờng xuyên
nhiệt độ và độ muối. Năm 1954 thành lập thêm Trạm Nghiên cứu biển ở
Hải Phòng. Kết quả nghiên cứu về biển Đông ngày càng nhiều nhƣ:
"Nguồn lợi sinh vật biển Đông" (1979), "Biển Đông tài nguyên thiên nhiên
và môi trƣờng" của Vũ Trung Tạng (1997); "Thuỷ triều vịnh Bắc
Bộ"(1976), "Thuỷ triều vùng biển Việt Nam" (1984), "Thiên nhiên vùng
biển nƣớc ta" (1978) của tác giả Nguyễn Ngọc Thụy; "Địa lý tự nhiên biển
Đông" (1999) của Nguyễn Văn Âu Thông tin về biển Đông đƣợc cập


nhật phong phú qua báo cáo định kỳ hàng năm của các cơ quan nghiên cứu

về biển chủ yếu nhƣ: Viện Hải dƣơng học Việt Nam, Viện Nghiên cứu hải
sản (Bộ Thuỷ sản), Trung tâm Khí tƣợng thuỷ văn biển, Phân viện Cơ học
biển (thuộc Viện cơ học) Tuy nhiên đây là những tài liệu nghiên cứu
chuyên sâu về biển của những phân ngành kỹ thuật, tài nguyên du lịch biển
đƣợc đề cập đến hết sức sơ sài.
Từ năm 1990 - năm du lịch Việt Nam - đến nay nhiều dự án, đề tài
nghiên cứu đánh giá tài nguyên du lịch đã đƣợc thực hiện nhƣ: “Khai thác
tài nguyên và bảo vệ môi trƣờng du lịch Việt Nam” (1986); “Tổ chức lãnh
thổ du lịch Việt Nam”; “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam
thời kỳ 1995 - 2010” (1995); “Địa lý du lịch” phần “Tổ chức lãnh thổ du
lịch và phân vùng du lịch” (Nguyễn Minh Tuệ và nnk, 1997); “Đặc trƣng
các hệ sinh thái, cơ sở của phát triển du lịch sinh thái Việt Nam” (Nguyễn
Khánh, 1999); “Tổ chức lãnh thổ dải ven biển khu vực trọng điểm miền
Trung Việt Nam” (Nguyễn Quang Mỹ và nnk, 1995). Hầu hết các tỉnh
thành trong cả nƣớc cũng đã tiến hành các dự án điều tra, đánh giá tài
nguyên và các nguồn lực phát triển du lịch phục vụ cho quy hoạch phát
triển du lịch. Song do đặc điểm, phạm vi nghiên cứu của các dự án nên các
công trình nói trên chỉ tiến hành kiểm kê, đánh giá tài nguyên du lịch theo
từng thành phần hay tổng thể tài nguyên với mức độ khái quát. Việc
nghiên cứu tài nguyên du lịch chuyên sâu phục vụ mục đích phát triển các
loại hình du lịch cụ thể còn ít đƣợc quan tâm thực hiện.
Về tài nguyên du lịch biển đảo, Tổng cục Du lịch đã phối hợp chặt
chẽ với các ngành để triển khai nhiều đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà
nƣớc, cấp ngành tiêu biểu là: đề tài cấp Nhà nƣớc "Luận chứng khoa học
kỹ thuật phát triển du lịch biển Việt Nam" (thuộc chƣơng trình điều tra
nghiên cứu biển cấp Nhà nƣớc 48 - B); các đề tài "Luận chứng phát triển
du lịch khu vực Hạ Long - Cát Bà - Đồ Sơn", "Định hƣớng phát triển du
lịch vùng duyên hải Nam Trung Bộ", "Định hƣớng phát triển du lịch sinh



thái Cù Lao Chàm", "Thực trạng và định hƣớng phát triển du lịch khu vực
từ Thanh Hoá đến Quảng Trị" (phối hợp với Đại học Quốc gia Hà Nội);
"Cơ sở khoa học phát triển du lịch vũng - vịnh ở Việt Nam" (phối hợp với
Phân viện Hải dƣơng học Hải Phòng) Kết quả của các nghiên cứu này
không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà bƣớc đầu đã phát huy tác dụng
trong thực tế quy hoạch và phát triển du lịch biển, đặc biệt là trong việc
xây dựng phát triển các khu du lịch, các tuyến điểm du lịch, các sản phẩm
du lịch biển. Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch đã tiến hành lập "Quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch tiểu vùng duyên hải Đông Bắc giai đoạn
2000 - 2020" với các nội dung chính: xác định vai trò của hệ thống đảo ven
bờ Đông Bắc, xác định tiêu chuẩn, chức năng du lịch của hệ thống đảo ven
bờ Đông Bắc, chiến lƣợc phát triển thị trƣờng, chiến lƣợc đầu tƣ phát triển
sản phẩm du lịch, định hƣớng tổ chức không gian du lịch. Tuy nhiên, bản
quy hoạch này chƣa đánh giá đƣợc hết thực tế giá trị của khu vực đảo còn
ở dạng tiềm ẩn, định hƣớng bảo tồn và khai thác các giá trị còn chƣa toàn
diện. Năm 2003, Tổng cục Du lịch đã phối hợp với chuyên gia của Tổ
chức Thƣơng mại Thế giới WTO triển khai giai đoạn đầu dự án Quy hoạch
tổng thể phát triển du lịch đảo Phú Quốc. Ngày 25/7/2007, tại Mũi Né
(Phan Thiết) Tổng cục Du lịch Việt Nam và Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình
Thuận tổ chức hội thảo “Quản lý và phát triển du lịch biển đảo” để thu
thập thêm thông tin nhằm hoàn chỉnh đề án phát triển du lịch biển đảo
trình chính phủ vào cuối năm 2007.
Các công trình đánh giá tài nguyên biển đảo Việt Nam có chung kết
luận về sự đa dạng, phong phú, giá trị sử dụng cao của tài nguyên biển đảo
Việt Nam và khẳng định tiềm năng về tài nguyên cho phép Việt Nam phát
triển nhiều loại hình du lịch biển. Những nhận định còn chung chung và
định tính nhƣ "có thể nói dọc ven bờ biển nƣớc ta, hầu nhƣ quanh năm và
khắp nơi đều có thể tìm đƣợc những nơi nghỉ mát khá tốt, những bãi tắm
đẹp hay những cảnh đồng núi, hang động ngoạn mục ". Tuy nhiên rõ ràng



mức độ phù hợp, mức độ thuận lợi về mặt tài nguyên cho các loại hình du
lịch giữa các khu vực là không nhƣ nhau. Chƣa có công trình nghiên cứu
nào đi sâu xây dựng các tiêu chí đánh giá tài nguyên cho loại hình và chỉ ra
đƣợc vùng nào thuận lợi cho du lịch thể thao giải trí biển hay vùng nào
thuận lợi cho du lịch nghỉ dƣỡng biển để định hƣớng cho việc đầu tƣ khai
thác tài nguyên.
Lựa chọn đề tài "Tài nguyên du lịch biển Việt Nam cho phát triển du
lịch nghỉ dƣỡng" với mục đích đánh giá sự phù hợp, thuận lợi về tài
nguyên du lịch biển cho việc triển khai một loại hình du lịch cụ thể là một
hƣớng nghiên cứu tiên phong, có ý nghĩa về mặt lý luận cũng nhƣ thực tiễn
đối với ngành Du lịch.
Để tiến hành đánh giá tài nguyên du lịch biển đảo Việt Nam một
cách đầy đủ, cần thiết phải tổ chức khảo sát quy mô, kiểm kê, đánh giá chi
tiết từng loại tài nguyên và từng điểm tài nguyên trên toàn lãnh thổ quốc
gia theo một hệ tiêu chí đã xác định. Việc làm này đòi hỏi phải áp dụng
những phƣơng pháp và công nghệ khoa học của các lĩnh vực khác nhau,
đòi hỏi phải hết sức công phu, tỉ mỉ, tốn nhiều thời gian, kinh phí, vƣợt qua
khả năng của một cá nhân khi nghiên cứu. Vì vậy, trong đề tài này tác giả
chủ yếu kế thừa các kết quả của một số nghiên cứu đánh giá trƣớc đây rồi
tổng hợp, đƣa ra những nhận xét của cá nhân trên quan điểm của một
ngƣời nghiên cứu và làm du lịch.
6. Bố cục của đề tài
Luận văn đƣợc cấu tạo thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Du lịch nghỉ dƣỡng và tài nguyên du lịch nghỉ dƣỡng
Chƣơng 2: Tài nguyên du lịch nghỉ dƣỡng biển Việt Nam
Chƣơng 3: Thực trạng và định hƣớng khai thác tài nguyên du lịch nghỉ
dƣỡng biển Việt Nam












CHƢƠNG 1
DU LỊCH NGHỈ DƢỠNG VÀ TÀI NGUYÊN DU LỊCH NGHỈ
DƢỠNG
1.1. Du lịch nghỉ dƣỡng (leisure tourism)
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm loại hình du lịch nghỉ dƣỡng
Theo tác giả Trƣơng Sỹ Qu‎ý, loại hình du lịch đƣợc định nghĩa nhƣ
sau:
"Loại hình du lịch được hiểu là một tập hợp các sản phẩm du lịch có
những đặc điểm giống nhau, hoặc vì chúng thoả mãn những nhu cầu, động
cơ du lịch tương tự, hoặc được bán cho cùng một nhóm khách hàng, hoặc
vì chúng có cùng một cách phân phối, một cách tổ chức như nhau, hoặc đ-
ược xếp chung theo một mức giá bán nào đó". [20]
Có thể dựa vào các tiêu thức: mục đích chuyến đi; thời gian đi du
lịch, vị trí địa lý của nơi đến du lịch; phƣơng tiện lƣu trú đƣợc sử dụng
để phân chia thành các loại hình du lịch. Cũng có thể căn cứ vào các tiêu
chí trên để làm sáng tỏ khái niệm về một loại hình du lịch cụ thể và để
phân biệt với các loại hình du lịch khác.
Loại hình du lịch nghỉ dƣỡng là tập hợp các sản phẩm du lịch
nhằm thoả mãn nhu cầu, động cơ du lịch để nghỉ ngơi, an dƣỡng, phục
hồi sức khoẻ.
Chuyến đi của con ngƣời có thể có mục đích thuần túy du lịch tức là

chỉ nhằm nghỉ ngơi, giải trí, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung


quanh; cũng có chuyến đi vì mục đích khác nhƣng có kết hợp tham gia
hoạt động du lịch vào khoảng thời gian rỗi trong chuyến đi.‎ Theo mục đích
chuyến đi có thể phân thành hai loại hình: du lịch thuần túy và du lịch kết
hợp. Nghỉ dƣỡng đƣợc xếp vào loại thuần túy du lịch. Nhu cầu chính làm
nảy sinh hình thức du lịch nghỉ dƣỡng là sự cần thiết phải nghỉ ngơi, d-
ƣỡng sức để phục hồi thể lực và tinh thần.

Bảng 1.1: Bảng phân loại loại hình du lịch theo mục đích chuyến đi [48]

Cùng có mục đích đi du lịch vì sức khoẻ, ngoài loại hình du lịch
nghỉ dƣỡng còn có loại hình du lịch chữa bệnh hay còn đƣợc gọi là du lịch
y tế (medical tourism). Du lịch chữa bệnh là hình thức đi du lịch để điều trị
một căn bệnh nào đó, từ đơn giản nhƣ làm răng, loại bỏ mỡ thừa đến phức
tạp nhƣ giải phẫu, cấy ghép các bộ phận cơ thể. Có các dạng: chữa bệnh
bằng khí hậu (khí hậu núi, khí hậu biển); chữa bệnh bằng nƣớc khoáng
(tắm nƣớc khoáng, uống nƣớc khoáng); chữa bệnh bằng bùn; chữa bệnh
bằng hoa quả; chữa bệnh bằng sữa (đặc biệt là sữa ngựa) Để các liệu
pháp chữa trị hiệu quả, du khách cần nghỉ ngơi, tĩnh dƣỡng. Vì vậy dẫn
đến sự ra đời của các trung tâm du lịch nghỉ dƣỡng - chữa bệnh. Có một số
Mục đích chuyến đi
Thuần tú‎y du lịch
Mục đích kết hợp
Tham quan
Giải trí
Nghỉ dƣỡng
Thể thao
Khám phá

Học tập nghiên cứu
Thể thao
Kinh doanh
Công tác
Chữa bênh
Thăm thân
Tín ngƣỡng
Khác


học giả xếp du lịch nghỉ dƣỡng và du lịch chữa bệnh vào cùng một nhóm
du lịch sức khoẻ (heath tourism).
Song khác với việc đi điều dƣỡng thông thƣờng, khách hàng của du
lịch nghỉ dƣỡng hay du lịch chữa bệnh mang tâm lý của ngƣời muốn h-
ƣởng thụ, ngƣời đi chơi nhiều hơn tâm lý của một ngƣời có bệnh cần điều
trị. Họ là ngƣời nêu ra yêu cầu và đòi hỏi sự phục vụ chu đáo. Địa điểm họ
lựa chọn không phải là những trạm điều dƣỡng hay bệnh viện "lạnh ngắt"
mà họ tìm đến những nơi vừa có thể nằm dài tắm nắng dƣới hàng cọ ven
biển, thăm thú các cảnh đẹp xung quanh vừa có thể nghỉ dƣỡng, chữa
bệnh. Trên phạm vi thế giới hiện tại, dòng khách du lịch chữa bệnh chảy từ
các nƣớc Bắc Mỹ, Trung Đông, Tây Âu sang Ấn Độ, các nƣớc Đông Ấn
và Nam Mỹ vì đó là ba khu vực không chỉ có chất lƣợng y tế, chăm sóc
sức khoẻ ngang bằng với bất cứ nơi nào trên thế giới, giá cả thấp mà còn
có nhiều điểm du lịch hấp dẫn, nhiều địa chỉ để mua sắm, khám phá và
những bãi biển lý tƣởng. Mặt khác, nếu khách du lịch nghỉ dƣỡng coi
trọng yếu tố khí hậu, chất lƣợng môi trƣờng, mức độ tiện nghi của cơ sở hạ
tầng và sự đồng bộ của các dịch vụ thì với khách đi du lịch chữa bệnh, mối
quan tâm số một là sự an toàn, hiệu quả của các phƣơng pháp điều trị, tiếp
theo mới là các ƣu tiên khác.
Địa chỉ cho các chuyến nghỉ dƣỡng thƣờng các bãi biển, các vùng

ven bờ nƣớc, vùng núi, vùng nông thôn Căn cứ theo vị trí địa lý của
điểm du lịch mà tiếp tục chia du lịch nghỉ dƣỡng thành: du lịch nghỉ
dƣỡng biển, du lịch nghỉ dƣỡng núi, du lịch nghỉ dƣỡng hồ, sông,
suối
Du khách của du lịch nghỉ dƣỡng chủ yếu là nhóm đối tƣợng có
thời gian nghỉ dài, có khả năng chi trả cao đến từ các đô thị, các nƣớc
kinh tế phát triển.
Nhà bác học ngƣời Anh, tiến sỹ Abraham Maslow trong bài "Lý
thuyết về động lực của con ngƣời" đăng trên tạp chí "Tâm sinh lý học của


con ngƣời" năm 1943 đã xếp nhu cầu nghỉ ngơi vào nhóm nhu cầu sinh lý,
đó là nhu cầu mang tính phổ biến. Tuy nhiên, giữa ngƣời dân sống ở thành
phố và ngƣời dân sống ở nông thôn thì nhóm cƣ dân đô thị có nhu cầu nghỉ
ngơi lớn hơn. Môi trƣờng sống công nghiệp với máy móc, thiết bị, động
cơ, khói bụi, tiếng ồn tách con ngƣời ra khỏi các điều kiện tự nhiên,
nhiều trƣờng hợp làm giảm sút chất lƣợng môi trƣờng, ảnh hƣởng xấu tới
sức khoẻ của con ngƣời. Những tác động tiêu cực của quá trình đô thị hoá
nhƣ mật độ dân số cao, sự phức tạp trong các mối quan hệ xã hội, sức ép
của công việc, giao thông ách tắc càng gia tăng nhu cầu nghỉ ngơi du lịch
của ngƣời dân thành phố. Họ tìm đến các địa phƣơng có không khí trong
lành, mát mẻ, môi trƣờng tự nhiên sạch sẽ, cảnh vật thanh bình nhƣ ở vùng
núi, vùng biển, nông thôn để đƣợc thay đổi không khí, thƣ giãn thoải mái
giữa thiên nhiên và mong muốn phục hồi sức khoẻ.
Cƣ dân đô thị so với cƣ dân nông thôn ngoài khác biệt về mức độ,
cấp độ của nhu cầu nghỉ dƣỡng thì cƣ dân đô thị thƣờng có mức thu nhập
cao hơn. Họ có khả năng kinh tế để làm thoả mãn nhu cầu nghỉ dƣỡng của
mình, biến mong muốn thành hiện thực.
Ở các nƣớc có nền kinh tế chậm phát triển, nhìn chung nhu cầu nghỉ
ngơi du lịch hạn chế. Trong khi đó, nhu cầu nghỉ ngơi du lịch ở các nƣớc

kinh tế phát triển rất đa dạng. Bên cạnh nhu cầu giải trí cuối tuần, hàng
năm nhân dân còn đòi hỏi những đợt nghỉ dài ngày ở vùng biển, trên núi,
trong nƣớc hoặc ở nƣớc ngoài. Mức lƣơng, phúc lợi, chính sách xã hội của
ngƣời dân ở các nƣớc phát triển thuận lợi ngay cả cho những ngƣời có mức
thu nhập trung bình cũng có thể thực hiện những kỳ nghỉ dài ngày, sang
trọng tại các nƣớc kinh tế chậm phát triển hơn.
Căn cứ theo độ tuổi thì khách hàng tiềm năng nhất của loại hình du
lịch nghỉ dƣỡng là nhóm đối tƣợng trong độ tuổi thứ ba. Đó là những ng-
ƣời về hƣu có nhiều thời gian rỗi, có tiền tích lũy, kinh tế độc lập lại ở độ


tuổi mà sức khoẻ giảm sút nên rất quan tâm tới sức khoẻ, đặc biệt có nhu
cầu đi du lịch nghỉ dƣỡng.
Khách hàng tiềm năng của du lịch nghỉ dƣỡng ngoài ra còn phải kể
đến những đôi tình nhân có nhu cầu đi hƣởng tuần trăng mật, kỷ niệm đám
cƣới bạc, vàng ở những khu nghỉ dƣỡng đẹp và tiện nghi để đƣợc thêm
nhiều thời gian bên nhau và tăng thêm "gia vị" cho cuộc sống lứa đôi.
Du khách nghỉ dƣỡng thƣờng yêu cầu nhiều dịch vụ, các dịch vụ
có chất lƣợng cao và sự đồng bộ về chất lƣợng giữa các dịch vụ.
Với một số loại hình du lịch nhƣ du lịch nghiên cứu khoa học, du
lịch sinh thái, để đạt đƣợc mục đích tìm hiểu về thế giới tự nhiên và những
nền văn hoá bản địa, du khách không đặt cao vấn đề ăn uống hay chỗ ở, họ
có thể chấp nhận sự thiếu thốn về cơ sở vật chất. Song đối với du lịch nghỉ
dƣỡng, họ quan tâm đến chất lƣợng bữa ăn, chất lƣợng của giấc ngủ, chất
lƣợng của các bài tập vận động vì từng yếu tố đều có ảnh hƣởng tới sức
khoẻ của họ và sự đồng bộ của chúng làm nên chất lƣợng của kỳ nghỉ. Khu
nghỉ dƣỡng ngoài việc phải toạ lạc ở nơi có phong cảnh thiên nhiên đẹp,
còn cần phải có thiết bị và tiện nghi phù hợp nhƣ bể bơi, phòng massage,
phòng điều dƣỡng đƣợc xây dựng trên một cơ sở hạ tầng đảm bảo.
Trong thời gian nghỉ dƣỡng tƣơng đối dài, du khách có thể không

làm gì ngoài việc tắm nắng trên bãi biển, ngồi thiền tịnh trong những túp
lều gỗ giữa rừng và yêu cầu đƣợc tôn trọng sở thích cá nhân hoặc cũng có
thể kết hợp tham quan một vài địa điểm tự chọn, tham gia những hoạt động
thể thao giải trí nếu những hoạt động đó theo quan niệm của họ là hữu ích
cho việc phục hồi sức khoẻ. Không nhƣ các loại hình du lịch khác, du
khách của du lịch nghỉ dƣỡng thƣờng không di chuyển nhiều, không cần
phải đi theo lịch trình cố định cũng nhƣ chịu sự thúc ép về thời gian.
Du lịch nghỉ dƣỡng thuộc loại hình du lịch dài ngày.
Theo độ dài của chuyến du lịch, ngƣời ta phân thành du lịch ngắn
ngày và du lịch dài ngày. Các chuyến du lịch đƣợc thực hiện trong thời


gian dƣới một tuần lễ đƣợc coi là du lịch ngắn ngày. Thời gian của một
chuyến du lịch dài ngày thƣờng kéo dài từ một tuần đến dƣới một năm.
Thuộc loại hình du lịch dài ngày, phải kể đến các chuyến thám hiểm của
các nhà nghiên cứu, các chuyến viễn du bằng tàu biển và những chuyến
nghỉ dƣỡng, chữa bệnh.
Tác giả Nguyễn Văn Đính, trong cuốn "Giáo trình kinh tế du lịch",
Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, năm 2004, trang 115, có đoạn: "Tại một
khu nghỉ mát biển có nhiều nguồn nước khoáng có giá trị, ở đó phát triển
mạnh hai loại hình du lịch: du lịch nghỉ biển vào mùa hè và du lịch nghỉ d-
ưỡng vào mùa đông dẫn đến ở đó có hai mùa du lịch ". Có sự phân biệt
trong quan niệm về du lịch nghỉ biển và du lịch nghỉ dƣỡng biển. Căn cứ
để phân biệt loại hình du lịch nghỉ dƣỡng biển với nghỉ biển là thời gian
nghỉ dài, cũng nhƣ việc sử dụng các dịch vụ cao cấp hơn cho mục đích
phục hồi sức khoẻ.
Loại hình lƣu trú đặc trƣng của du lịch nghỉ dƣỡng là resort.
Resort (khu nghỉ dưỡng) là một loại hình lƣu trú có chức năng phục
vụ nhu cầu du lịch nghỉ dƣỡng và hoạt động thể thao giải trí của khách.
Resort đƣợc phân biệt với các loại hình lƣu trú khác bởi quy mô lớn

(có những resort có diện tích bằng cả một thành phố nhỏ) với hoạt động
tổng hợp của nhiều loại dịch vụ nhƣ phục vụ ăn uống, phòng nghỉ, thể
thao, giải trí và mua sắm. Tại các resort, ngƣời ta nỗ lực làm tất cả để cung
cấp đầy đủ các phƣơng tiện và tiện nghi nhằm giữ chân khách trong suốt
kỳ nghỉ dài mà không cần phải tìm đến một dịch vụ nào khác.
Resort thƣờng là những khu biệt lập, nằm ở những khu vực xa trung
tâm thành phố, xa khu vực tập trung đông dân cƣ, khí hậu trong lành. Trên
thực tế, chúng ta thấy rằng tại trung tâm đô thị lớn nhƣ Hà Nội có rất
nhiều lợi thế về các cơ sở lƣu trú cao cấp nhƣng không xây khu nghỉ
dƣỡng, trong khi tỉnh phụ cận nhƣ Hoà Bình lại có thể mở rộng các khu
nghỉ dƣỡng.


Resort có các loại: seaside resort nằm ven biển; ski resort toạ lạc
trong vùng núi cao có tuyết phủ dày thích hợp để làm các đƣờng trƣợt
tuyết; golf resort với các sân golf đi kèm; mega resort tổng hợp các loại
hình dịch vụ lƣu trú đƣợc trang trí và thiết kế tuân theo một chủ đề nào
đó


1.1.2 Lịch sử và triển vọng phát triển du lịch nghỉ dƣỡng
Du lịch xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài ngƣời, buổi ban đầu
thƣờng đi kèm với các hoạt động truyền giáo, buôn bán hoặc thám hiểm
các vùng đất mới. Từ cuối thế kỷ XVII, do thành quả của cuộc đại cách
mạng khoa học kỹ thuật dẫn đến sự bắt đầu của hình thái xã hội công
nghiệp. Hoạt động sản xuất của con ngƣời đƣợc thay đổi tận gốc. Lao động
chân tay giảm xuống với tốc độ nhanh chóng song cƣờng độ, sự căng
thẳng trong lao động lại tăng lên với tốc độ tƣơng ứng. Sự tập trung quá
đông số ngƣời trong các trung tâm công nghiệp lớn, bầu không khí bị các
xí nghiệp công nghiệp làm bẩn, ô nhiễm tiếng ồn làm các bệnh trầm cảm,

thần kinh, bệnh tim mạch xuất hiện hàng loạt. Mọi ngƣời quan tâm tích
cực hơn đến việc giữ gìn và bảo vệ sức khoẻ. Sản xuất công nghiệp cũng
nâng cao thu nhập, ngƣời lao động có khả năng thanh toán cho các kỳ nghỉ
ở xa nhà. Các tổ chức sản xuất kinh doanh, các tổ chức công đoàn, nghiệp
đoàn dành quỹ phúc lợi, bảo hiểm cho các thành viên đi tham quan, nghỉ
dƣỡng ở trong nƣớc và nƣớc ngoài nhằm tái tạo sức lao động, thực chất là
vì muốn tăng hiệu quả sản xuất.
Nƣớc Anh là nƣớc công nghiệp đầu tiên trên thế giới. Du lịch nghỉ
dƣỡng đƣợc coi là "tác phẩm" của ngƣời Anh. Trong lịch sử resort, seaside
resort xuất hiện sớm nhất, từ đầu thế kỷ XIX, với việc hoàng thái tử
Regent biến Brighton trên bờ biển phía nam nƣớc Anh trở thành một nơi
dành cho khách thập phƣơng. Sau đó, dƣới sự bảo trợ lâu dài của triều đại


nữ hoàng Victoria, nơi này trở thành cơ sở lƣu trú cao cấp ven biển dành
cho những ngƣời đủ giàu để có thể biến nơi đây thành nhà của họ. [62] Khi
ngƣời Anh đi chơi xa thì nơi đầu tiên họ nghĩ đến là nƣớc Pháp láng giềng.
Một trong những khu nghỉ dƣỡng xuất hiện sớm nhất và nổi tiếng nhất dọc
theo bờ biển ở Nice có cái tên: Promenade des Anglais (có nghĩa là nơi dạo
chơi của ngƣời Anh).
Ngƣời Anh cũng là ngƣời đầu tiên chỉ ra giá trị du lịch của vùng Địa
Trung Hải với ba chữ S (sea, sand, sun). Theo bƣớc ngƣời Anh, mỗi dịp hè
du khách Hà Lan, Đức, Bỉ, Thụy Sĩ đổ về bờ Địa Trung Hải của Pháp từ
Roussillon đến Côte d
'
Azur, bờ Địa Trung Hải của Italia, của Hy Lạp
Resort xuất hiện ngày càng nhiều tại các nƣớc Châu Âu. Vị trí đặt resort
thiên về những chỗ mà từ đó có thể quan sát đƣợc cảnh đẹp nhƣ những quả
đồi xếp theo hình móng ngựa vây quanh các vịnh nhỏ, các mũi đất hay
những hòn đảo biệt lập.

Sau đó, có sự chia sẻ dòng khách nghỉ biển sang vùng bờ Đại Tây
Dƣơng của Bồ Đào Nha, bờ Đại Tây Dƣơng của Tây Ban Nha từ Costa de
Sol đến Costa Brava
Nửa sau thế kỷ XIX, đặc biệt từ năm 1880, các trạm nghỉ dƣỡng
biển không những phát triển dọc bờ biển của các nƣớc phát triển mà ở cả
một số nƣớc đang phát triển nhƣ Ai Cập, Giamaica, Mêhicô
Từ những năm 60 của thế kỷ XX, chính sách về những kỳ nghỉ đông
có lƣơng ra đời, có thêm dòng khách nghỉ dƣỡng về các vùng tuyết phủ
trên dãy Alpes, Pirrénees, Jura, Carpate kéo theo sự ra đời của các trung
tâm nghỉ dƣỡng núi.
Sang thế kỷ XXI, với đà phát triển của khoa học kỹ thuật và công
nghệ, con ngƣời cố gắng làm cho cuộc sống cá nhân trở nên dễ chịu và
thuận tiện hơn bằng cách tạo ra những môi trƣờng kỹ thuật nhỏ bao quanh
mình, làm cho cuộc sống của chính mình ngày càng xa rời tự nhiên. Trong
khi đó với tƣ cách là một thực thể của tự nhiên, con ngƣời lại muốn quay


về gần thiên nhiên. Môi trƣờng tự nhiên trong lành trở thành một mặt hàng
"xa xỉ" ao ƣớc với nhiều ngƣời. Các loại hình du lịch trở về với thiên nhiên
đang trở thành một xu thế và nhu cầu phổ biến của con ngƣời, đặc biệt khi
cuộc sống của họ ngày càng đầy đủ. Địa chỉ cho những chuyến trở về với
thiên nhiên đó thƣờng là những nơi có không khí trong lành, khí hậu dễ
chịu, phong cảnh ngoạn mục nhƣ các bãi biển, các vùng ven bờ nƣớc, vùng
núi, vùng nông thôn hay các khu rừng nguyên sinh Xu hƣớng giảm giờ
lao động, giảm tuổi về hƣu, tăng các phúc lợi xã hội tạo điều kiện cho du
khách thực hiện mong ƣớc về các chuyến nghỉ dƣỡng dài ngày. Cơ cấu độ
tuổi thay đổi, tỷ trọng dân ở độ tuổi thứ ba gia tăng tại các nƣớc có nền
kinh tế phát triển trên thế giới, cung cấp lƣợng khách lớn và ổn định cho
du lịch nghỉ dƣỡng.
Trên phạm vi toàn thế giới, hiện nay hƣớng vận động của khách du

lịch nghỉ dƣỡng toả đi khắp nơi trên toàn cầu. Ngoài những địa chỉ quen
thuộc, dòng du khách bắt đầu hƣớng sự quan tâm sang khu vực Thái Bình
Dƣơng. Du khách Châu Âu, Bắc Mỹ bị cuốn hút mạnh bởi những Phuket
(Thái Lan), Mandivơ, Bali (Inđônêxia), Sentosa (Singapo) những khu
nghỉ dƣỡng biển triển vọng của Đông Nam Á.
Bảng 1.2: Mƣời đảo du lịch tốt nhất thế giới năm 2005

Thứ
hạng
Xếp hạng
2004
Tên bình chọn
Quốc gia
Điểm
1
1+
Bali

Indonexia
89.83
2
6
Santorini
Thuộc quần đảo
Cyclades, Hy Lạp
86.30
3
3
Maui


Hawai, Mỹ
85.64
4
2
Kaui

Hawai, Mỹ
85.03
5
10
Great Barrier Reef
islands

84.50
6
*
Vancouver island

Canada
84.49
7
*
Cyclades
Hy Lạp
84.46



8
7

Sicily
Italy
84.30
9
5
Hawai

Mỹ
84.25
10
9
Mount Desert island, Maine
Mỹ
83.67

(Nguồn: Travel & Leisure)
( + đảo đã 5 hoặc hơn 5 lần lọt vào Top ten
* có nghĩa là năm trước đảo này không có trong danh sách đề
cử)
Du khách ngày càng quan tâm hơn đến các hải đảo. Với họ, hải đảo
là một hệ sinh thái hoàn chỉnh có rừng, có biển, có bãi cát và chan hoà ánh
nắng mặt trời, tài nguyên đa dạng phong phú, cảnh quan đảo biển tráng lệ,
khí hậu trong lành đến độ tinh khiết là thiên đƣờng cho du lịch nghỉ
dƣỡng và khám phá.
Tại Việt Nam, du lịch nghỉ dƣỡng phát triển mạnh trong thời kỳ thực
dân Pháp đô hộ. Để phục vụ cho nhu cầu nghỉ dƣỡng của sỹ quan Pháp,
hàng loạt các biệt thự, nhà nghỉ đƣợc xây dựng ven các bãi biển, vùng hồ,
vùng núi, gần các khu nƣớc khoáng, những nơi có khí hậu dễ chịu, tiêu
biểu nhƣ ở Đồ Sơn, Vũng Tàu, Sầm Sơn, Đà Lạt, Tam Đảo, Ba Vì, Quang
Hanh, Kim Bôi Những vị vua cuối triều Nguyễn là những vị vua sành về

thƣởng ngoạn. Khải Định chọn Lăng Cô là nơi nghỉ mát và đặt tên là Hành
cung Tịnh Viên. Còn Bảo Đại xây biệt thự nghỉ dƣỡng ở hầu khắp những
nơi có cảnh đẹp và khí hậu ôn hoà nhƣ ở Hải Phòng, Đà Lạt Cho đến
những năm 60 của thế kỷ XX, ngành du lịch Việt Nam chƣa phát triển
nhiều loại hình du lịch, chủ yếu là loại hình tắm và nghỉ dƣỡng biển. Đối
tƣợng đƣợc hƣởng chế độ nghỉ dƣỡng hạn chế trong số ít quan chức nhà
nƣớc và một số chuyên gia nƣớc ngoài làm việc tại Việt Nam. Du lịch mới
chỉ thực sự đƣợc khuấy động từ khoảng 1990 đến nay. Trƣớc đó, tâm lý
nghi ngại ngƣời ngoại quốc (sự e ngại về sự nhập cảnh của các phần tử xấu
gián điệp ) làm cho cánh cửa mở ra thế giới không đƣợc rộng thoáng.
Còn du lịch trong nƣớc hầu nhƣ không tồn tại vì sự đi lại không dễ dàng.
Mỗi một bộ, ngành đều dùng công quỹ xây dựng cho mình những nhà nghỉ


để hàng năm đến mùa hè đón tiếp những cán bộ công nhân viên chức đƣợc
phân phối đi nghỉ mát, mọi chi phí do công đoàn bao cấp. Những cải thiện
về chính sách đối ngoại đã giúp cho ngành du lịch phát triển nhanh.
Ngày nay, du lịch ngày càng đƣợc ghi nhận nhƣ một sở thích, một
hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con ngƣời. Đối với xã hội, du lịch có vai
trò giữ gìn, phục hồi sức khoẻ và tăng cƣờng sức sống cho ngƣời dân.
Trong một chừng mực nào đó du lịch có tác dụng hạn chế bệnh tật, kéo dài
tuổi thọ và khả năng lao động của con ngƣời. Theo các công trình nghiên
cứu về y sinh học của Crivosev, Dorin, 1981, nhờ chế độ nghỉ ngơi và du
lịch tối ƣu, bệnh tật của dân cƣ giảm trung bình 30%. Phát triển loại hình
du lịch nghỉ dƣỡng khơi dậy một trào lƣu nghỉ ngơi giải trí tích cực, góp
phần vào việc hồi phục sức khoẻ cũng nhƣ khả năng lao động, đảm bảo tái
sản xuất và mở rộng lực lƣợng lao động với hiệu quả kinh tế rõ ràng.
Việc tiếp xúc, tắm mình trong thiên nhiên, đƣợc cảm nhận một cách
trực giác sự hùng vĩ, trong lành, tƣơi mát và nên thơ của các cảnh quan tự
nhiên có ý nghĩa to lớn đối với du khách. Nó tạo điều kiện cho họ hiểu biết

sâu sắc về tự nhiên, thấy đƣợc giá trị của thiên nhiên đối với đời sống con
ngƣời. Điều này có nghĩa là bằng thực tiễn phong phú, du lịch nghỉ dƣỡng
sẽ góp phần rất tích cực vào sự nghiệp giáo dục môi trƣờng.
Phát triển du lịch nghỉ dƣỡng ngoài việc làm thay đổi diện mạo cơ
sở hạ tầng còn góp phần cải tạo chất lƣợng môi trƣờng của địa phƣơng.
Dựa vào xu hƣớng gia tăng nhu cầu nghỉ dƣỡng của con ngƣời, dựa
vào việc nhìn nhận của các quốc gia về lợi ích kinh tế - xã hội - môi trƣờng
của loại hình này, có thể khẳng định du lịch nghỉ dƣỡng sẽ tiếp tục phát
triển và phát triển mạnh hơn nữa trong tƣơng lai.
1.2. Tài nguyên du lịch nghỉ dƣỡng
1.2.1. Tài nguyên và các nguồn tài nguyên biển


Tài nguyên hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm tất cả những nguồn
nguyên liệu, năng lƣợng, thông tin có trên trái đất và trong không gian vũ
trụ mà con ngƣời có thể sử dụng phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển
của xã hội loài ngƣời. [30] Yếu tố quy định của tài nguyên là khả năng
phục vụ cho cuộc sống của con ngƣời hay nói cách khác phải có giá trị sử
dụng.
Căn cứ theo nguồn gốc hình thành, tài nguyên đƣợc phân loại thành
tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn. Tài nguyên thiên nhiên là
các dạng vật chất đƣợc tạo thành trong suốt quá trình hình thành và phát
triển của tự nhiên và sinh vật. Các dạng vật chất này cung cấp nguyên
nhiên vật liệu hỗ trợ và phục vụ cho các nhu cầu phát triển của con ngƣời.
Tài nguyên nhân văn là loại tài nguyên do lao động của con ngƣời tạo ra
nhƣ nhà cửa, ruộng vƣờn, xe cộ, đô thị, nông thôn và các dạng vật chất
khác
Căn cứ theo khả năng phục hồi, tài nguyên đƣợc phân loại thành tài
nguyên có khả năng phục hồi và tài nguyên không có khả năng phục hồi.
Tài nguyên có khả năng phục hồi là các dạng tài nguyên mà thiên nhiên có

thể tạo ra liên tục và đƣợc con ngƣời sử dụng lâu dài nhƣ rừng, các loài
thuỷ hải sản ở sông hồ, biển, độ phì nhiêu của đất Tài nguyên không có
khả năng tự phục hồi gồm các khoáng vật hay các nguyên nhiên vật liệu
nhƣ than, dầu mỏ, gas tự nhiên đƣợc tạo thành trong suốt quá trình hình
thành và phát triển của vỏ trái đất. Các tài nguyên này có một khối lƣợng
nhất định và bị hao hụt dần sau khi đƣợc khai thác để phục vụ cho sự phát
triển kinh tế, khoa học kỹ thuật của nhân loại. Trong suốt quá trình sống,
con ngƣời đã liên tục can thiệp vào giới tự nhiên, do đó một số trƣờng hợp
tài nguyên có khả năng phục hồi sẽ biến thành tài nguyên không có khả
năng phục hồi. Vì vậy, khái niệm tài nguyên có thể phục hồi và không thể
phục hồi chỉ mang ý‎nghĩa tƣơng đối mà thôi.
* Các nguồn tài nguyên biển

×