Một số vấn đề lý luận và thực tiễn lượng hóa giá trị tài nguyên, môi trường ở Việt Nam
TS. Đỗ Nam Thắng
Phó Viện trưởng, Viện Khoa học quản lý môi trường
Tổng cục Môi trường
Lượng giá tài nguyên, môi trường là quá trình phân tích, đánh giá các giá trị về mặt lý-hóa-
sinh của các thành phần tài nguyên, môi trường và quy đổi các giá trị này sang đơn vị tiền tệ. Kết
quả của lượng giá là các thông tin về giá trị tài nguyên, môi trường bằng đơn vị tiền tệ nhằm giúp
cho quá trình hoạch định chính sách. Các kết quả của việc lượng giá tài nguyên, môi trường ngày
càng trở thành một yếu tố đầu vào quan trọng cho việc hoạch định chính sách tài nguyên, môi
trường, ở Việt Nam, lượng giá tài nguyên-môi trường là một môn khoa học khá non trẻ và mới
được thực hiện trong thời gian gần đây. Bài viết này điểm lại một số cơ sở lý luận và thực tiễn của
các phương pháp lượng giá tài nguyên, môi trường, từ đó đúc rút một số bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam nhằm đẩy mạnh áp dụng lượng giá tài nguyên, môi trường trong thời gian tới.
1. Một số vấn đề lý luận
1.1 Vai trò của lượng hóa giá trị tài nguyên, môi trường trong công tác quản lý
Lượng hóa giá trị tài nguyên, môi trường (hay còn gọi tắt là lượng giá) được tiến hành từ
những năm 1970 và ngày càng trở nên phổ biến ở các nước phát triển nhằm phục vụ cho công tác
bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên, môi trường. Lượng giá tài nguyên, môi trường là quá
trình phân tích, đánh giá các giá trị về mặt lý - hóa - sinh của các thành phần tài nguyên, môi
trường và quy đổi các giá trị này sang đơn vị tiền tệ. Kết quả của lượng giá là các thông tin về giá
trị tài nguyên, môi trường bằng đơn vị tiền tệ nhằm giúp cho quá trình hoạch định chính sách. Các
kết quả của việc lượng giá tài nguyên, môi trường ngày càng trở thành một yếu tố đầu vào quan
trọng cho việc hoạch định chính sách tài nguyên, môi trường với những lý do: Thứ nhất, thông tin
lượng giá giúp cho các nhà quản lý tính toán được lợi ích và chi phí của các phương án sử dụng tài
nguyên khác nhau, từ đó lựa chọn được phương án phân bổ tài nguyên thích hợp, mang lại lợi ích
lớn nhất cho xã hội và cộng đồng; Thứ hai, việc lượng giá giúp cho việc lý giải các hạng mục đầu
tư cho bảo tồn vì lợi ích chung của xã hội vì nó cho biết lợi ích bằng tiền của công tác bảo tồn;
Thứ ba, qua việc cung cấp thông tin về giá trị các dòng lợi ích của môi trường, lượng giá hỗ trợ
quá trình triển khai cơ chế chi trả cho các dịch vụ môi trường; Thứ tư, lượng giá tài nguyên, môi
trường sẽ giúp cho quá trình hoạch định chính sách về các vấn đề phát triển, cụ thể là lựa chọn
phương án bảo tồn hay thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội trong những bối cảnh cụ thể.
Ngoài ra, thông tin kinh tế về giá trị tài nguyên, môi trường cũng giúp xác định được mức thiệt hại
khi có sự cố ô nhiễm, suy thoái tài nguyên, môi trường.
1.2. Các phương pháp lượng giá tài nguyên, môi trường
Dựa trên cơ sở lý thuyết kinh tế vi mô, các nhà kinh tế học đã phát triển các phương pháp
lượng giá tài nguyên, môi trường. Có thể chia các phương pháp lượng giá thành 4 nhóm sau đây:
*Các phương pháp dựa vào thị trường thực
*Các phương pháp dựa vào thị trường thay thế
*Các phương pháp dựa vào thị trường giả định
- Phương pháp chuyển giao giá trị
1.2.1. Các phương pháp dựa vào thị trường thực
Phương pháp giá thị trường (MP)
Phương pháp giá thị trường ước tính giá trị kinh tế của các thành phần tài nguyên, môi
trường được trao đổi, mua bán trên thị trường. Ưu điểm chính của phương pháp này là dễ thu thập
số liệu và dễ tính toán. Nhược điểm chính của phương pháp này là không tính toán được nhiều giá
trị tài nguyên, môi trường không được trao đổi, mua bán trên thị trường, ví dụ như giá trị về cảnh
quan, giá trị đa dạng sinh học.
Phương pháp chi phí thay thế (RC)
Phương pháp chi phí thay thế ước lượng giá trị của các dịch vụ sinh thái gần giống với chi
phí để cung ứng hàng hóa và dịch vụ tương đương do con người tạo ra.
Phương pháp chi phí thiệt hại tránh được (AC)
Phương pháp chi phí thiệt hại tránh được sử dụng thông tin về những thiệt hại có thể tránh
được hoặc giá trị của những tài sản được hệ sinh thái bảo vệ khi có sự cố môi trường xảy ra. Ví dụ,
nếu một khu rừng có khả năng phòng hộ bão cho cộng đồng thì giá trị của khu rừng đó có thể
được tính bằng những thiệt hại về tài sản mà cộng đồng tránh được nếu cơn bão xảy ra trong
trường hợp không có rừng bảo vệ.
1.2.2. Các phương pháp dựa vào thị trường thay thế
Có một số hàng hóa và dịch vụ của tài nguyên, môi trường mặc dù được giao dịch trên thị
trường nhưng giá thị trường không phản ánh đầy đủ giá trị của các hàng hóa và dịch vụ này. Khi
đó, người ta phải xác định giá trị của hàng hóa, dịch vụ mà tài nguyên và môi trường đó cung cấp
dựa vào việc phân tích thông tin trên thị trường thay thế. Có hai phương pháp truyền thống thuộc
nhóm này là chi phí du lịch và giá trị hưởng thụ.
Phương pháp chi phí du lịch (TCM) Chi phí du lịch là phương pháp được thiết kế và áp dụng
để lượng hóa giá trị giải trí của môi trường và các hệ sinh thái. Giả thiết cơ bản của TCM là chi phí
tham quan một điểm du lịch phần nào phản ánh được giá trị giải trí của nơi đó (Garrod and Willis
1999). Mặc dù không quan sát trực tiếp được sự mua bán chất lượng hàng hóa môi trường của du
khách nhưng chúng ta có thể thu nhận được thông tin về hành vi lựa chọn của du khách để hưởng
thụ tài nguyên, môi trường. Thông qua việc ước lượng đường cầu du lịch cá nhân, các nhà kinh tế
học có thể ước tính phần phúc lợi của cá nhân hay xã hội thu được từ việc sử dụng tài nguyên, môi
trường.
Phương pháp giá trị hưởng thụ (HPM)
Phương pháp giá trị hưởng thụ được sử dụng để ước tính giá trị của môi trường ẩn trong giá
thị trường của một số loại hàng hóa và dịch vụ thông thường. Ví dụ như thông qua phân tích sự
khác biệt giữa giá đất/nhà ở khu vực có dịch vụ sinh thái và các khu vực khác, ta có thể ước tính
được giá trị của dịch vụ sinh thái đó mang lại.
1.2.3. Các phương pháp dựa vào thị trường giả định
Với những hàng hóa và dịch vụ của tài nguyên, môi trường không có thị trường và không có
giá cả, các nhà nghiên cứu phải xây dựng các thị trường giả định và quan sát hành vi của cá nhân
trên các thị trường này để tính phúc lợi khi tham gia thị trường, từ đó ước tính giá trị của các hàng
hóa và dịch vụ môi trường. Nhóm phương pháp này thường được sử dụng để xác định các giá trị
phi sử dụng của tài nguyên, môi trường.
Phương pháp đánh giá phụ thuộc tình huống giả định (CVM)
Trong CVM, các kịch bản giả định về chất lượng tài nguyên, môi trường được sử dụng để
nghiên cứu hành vi và sự lựa chọn tiêu dùng của cá nhân, qua đó ước lượng được sự thay đổi trong
phúc lợi của cá nhân khi chất lượng môi trường thay đổi và tính được thặng dư tiêu dùng của cá
nhân khi tham gia thị trường giả định. CVM có thể ước tính được những giá trị tài nguyên, môi
trường không có giao dịch trên thị trường, ví dụ như giá trị về đa dạng sinh học, giá trị văn hóa,
sức khỏe. Tuy nhiên, để có được kết quả đáng tin cậy, CVM đòi hỏi nhiều công phu trong thiết kế
kịch bản và phân tích mô hình.
Phương pháp mô hình lựa chọn (CM)
Mô hình lựa chọn là phương pháp lượng giá thông qua tuyên bố về sở thích được sử dụng để
lượng hóa giá trị phi sử dụng của tài nguyên thông qua việc xây dựng hai hay nhiều kịch bản giả
định, mỗi kịch bản có nhiều thuộc tính khác nhau. Thông qua sự lựa chọn của cá nhân với từng
kịch bản, nhà nghiên cứu có thể ước lượng được phúc lợi cá nhân khi tham gia kịch bản và sự
đánh đổi về giá tri giữa các thuộc tính trong các kịch bản. Cũng giống với CVM, CM có thể ước
tính được các giá trị tài nguyên, môi trường không được giao dịch trên thị trường. Ưu điểm của
CM so với CVM là CM có thể tạo ra kết quả với độ chính xác cao hơn. Tuy nhiên, CM cũng đòi
hỏi nhiều công phu trong thiết kế bảng hỏi và đặc biệt là phân tích số liệu.
1.2.4. Phương pháp chuyển giao giá trị
Phương pháp chuyển giao giá trị là việc sử dụng kết quả lượng hóa giá trị của một địa điểm
nghiên cứu sang một địa điểm khác. Phương pháp này sử dụng cho những tài nguyên có đặc điểm
sinh thái tương tự như nhau, đặc biệt là trong bối cảnh cần số liệu gấp mà không đủ thời gian và
kinh phí để tiến hành nghiên cứu mới. Tuy nhiên, khi thực hiện phương pháp này cần lưu ý đến độ
chính xác của nghiên cứu trước đây, cũng như những biến động về mặt không gian và thời gian
giữa hai nghiên cứu.
2. Thực tiễn lượng giá tài nguyên, môi trường ở Việt Nam
Ở Việt Nam, lượng giá tài nguyên, môi trường là một môn khoa học khá non trẻ và mới
được thực hiện trong thời gian gần đây. Đã có một số nghiên cứu áp dụng các phương pháp lượng
giá. Tác giả Mai Trọng Nhuận và các cộng sự (2000) sử dụng phương pháp giá thị trường để đánh
giá giá trị kinh tế của một số vùng đất ngập nước ven biển Việt Nam. Cũng sử dụng phương pháp
này, tác giả Đỗ Nam Thắng và Jeff Bennett (2005) đã tính toán giá trị sử dụng trực tiếp của tài
nguyên đất ngập nước Đồng bằng sông Cửu Long. Tác giả Lê Thu Hoa và các cộng sự (2006) sử
dụng kỹ thuật giá thị trường để tính toán giá trị nuôi tôm tại Xuân Thủy, Nam Định. Có thể nói,
MP là phương pháp lượng hóa giá trị môi trường được sử dụng phổ biến nhất ở Việt Nam hiện
nay.
Gần đây, một số phương pháp thị trường thay thế và thị trường giả định cũng bắt đầu được
áp dụng thử nghiệm. Có thể kể đến nghiên cứu của Nguyễn Đức Thành và Lê Thị Hải (1997) về
giá trị du lịch của Vườn quốc gia (VQG) Cúc Phương sử dụng TCM; Phạm Khánh Nam và Trần
Võ Hùng Sơn (2005) về giá trị của tài nguyên nước ở thành phố Hồ Chí Minh; Đinh Đức Trường
(2010) về giá trị đất ngập nước Xuân Thủy. Đặc biệt, phương pháp lượng giá phức tạp nhất-
phương pháp CM - cũng đã được thực hiện trong nghiên cứu của Trần Hữu Tuấn (2007) để xác
định giá trị khu di tích Mỹ Sơn; Đỗ Nam Thắng (2008) để xác định giá trị bảo tồn ở Tràm Chim.
Mới đây nhất, Viện Khoa học quản lý môi trường - Tổng cục Môi trường đã thực hiện Đề tài
khoa học công nghệ "Xây dựng cơ sở khoa học và phương pháp luận lượng hóa giá trị kinh tế các
VQG phục vụ công tác quản lý và phát triển bền vững" với mục tiêu làm rõ cơ sở khả năng áp
dụng phương pháp lượng giá tài nguyên, môi trường ở Việt Nam (Đỗ Nam Thắng và cộng sự
2010). Trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm của một số nghiên cứu trong và ngoài nước, Đề tài đã xây
dựng quy trình lượng giá và áp dụng thử nghiệm cho Tam Đảo. Giá trị của VQG Tam Đảo được
ước tính trong năm 2010 là 11.665 tỷ đồng cho toàn VQG và 333 triệu đồng cho 1 hecta. Giá trị sử
dụng gián tiếp là 73,09 triệu đồng/ha. Giá trị phi sử dụng là 32,63 triệu đồng/ha. Trong các giá trị
sử dụng của VQG Tam Đảo, giá trị sử dụng trực tiếp là lớn nhất (227 triệu đồng/ha; chiếm
68,28%) trong đó chủ yếu là giá trị gỗ. Tiếp đó là giá trị sử dụng gián tiếp (73 triệu đồng/ha; chiếm
21,93%) và giá trị phi sử dụng là thấp nhất (33 triệu đồng/ha, chiếm 9,79%) (Hình 2).
3. Một số bài học về lượng giá tài nguyên, môi trường
Qua nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, tác giả Đỗ Nam Thắng và cộng
sự (2010) đã rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về lượng hóa giá trị kinh tế của tài
nguyên, môi trường như sau:
Thứ nhất, lượng giá tài nguyên, môi trường đòi hỏi khối lượng lớn thông tin nền về các điều
kiện tự nhiên, môi trường, kinh tế, xã hội. Đây là khó khăn không những ở Việt Nam mà ngay cả ở
các quốc gia phát triển. Để có được thông tin nền này cần có các điều tra cơ bản và hệ cơ sở dữ
liệu đầy đủ về tài nguyên, môi trường, đặc biệt là số liệu biến động qua các năm để so sánh được
sự thay đổi về chất lượng môi trường cũng như thay đổi về các giá trị kinh tế.
Thứ hai, trên thực tế rất khó có được số liệu nền đầy đủ. Vì vậy, thông thường khó có thể
lượng hóa được giá trị kinh tế tổng thể của tài nguyên, môi trường. Các nghiên cứu mặc dù áp
dụng cách tiếp cận giá trị tổng thể song cần nêu rõ những giá trị nào lượng hóa được và những giá
trị nào không lượng hóa được trong phạm vi nghiên cứu của mình.
Thứ ba, để tiến hành lượng giá tài nguyên cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên gia về
sinh thái, chuyên gia kinh tế môi trường và các nhà quản lý. Chuyên gia sinh thái giúp xác định số
liệu nền của tài nguyên về sinh thái, môi trường, đa dạng sinh học. Trên cơ sở này, các chuyên gia
kinh tế môi trường sẽ dùng các phương pháp, mô hình kinh tế để lượng hóa các giá trị. Vai trò của
nhà quản lý cũng rất quan trọng trong việc đưa ra các mục tiêu quản lý cần đạt được, các khó khăn
tồn tại trong việc quản lý tài nguyên, môi trường để từ đó các chuyên gia kinh tế môi trường thiết
kế các kịch bản quản lý nhằm lượng hóa các giá trị của tài nguyên, môi trường.
Thứ tư, việc lựa chọn phương pháp lượng giá tài nguyên, môi trường cần dựa vào một số
tiêu chí như mục tiêu lượng giá, các giá trị cần lượng giá, nguồn lực sẵn có về chuyên gia, thời