Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Thực trạng và một số giải pháp marketing du lịch cho thành phố Đà Lạt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.04 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




ĐỖ THỊ LIÊN



THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
MARKETING DU LỊCH CHO THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT





LUẬN VĂN THẠC SỸ DU LỊCH HỌC








HÀ NỘI – 2006

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
___________________________________________________




ĐỖ THỊ LIÊN


THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
MARKETING DU LỊCH CHO THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT


Chuyên ngành: Du lịch
Mã số:


LUẬN VĂN THẠC SỸ DU LỊCH HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN VĂN LƯU






HÀ NỘI - 2006
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 3

5. Đóng góp của luận văn 4
6. Bố cục của luận văn 4

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1.
TỔNG QUAN VỀ ĐÀ LẠT VÀ TIỀM NĂNG DU LỊCH Ở ĐÀ LẠT

1.1. Sự hình thành và phát triển của thành phố Đà Lạt 5
1.1.1. Đà Lạt trước năm 1893 5
1.1.2. Đà Lạt sau chuyến thám hiểm của A. Yersin và thời kỳ đầu xây dựng 6
1.1.3. Đà Lạt thời kỳ được mệnh danh là “Thủ đô mùa hè” 8
1.1.4. Đà Lạt ngày nay 10

1.2. Tiềm năng và nguồn lực phát triển du lịch ở thành phố Đà Lạt. 12
1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên 12
1.2.1.1. Vị trí địa lý 13
1.2.1.2. Địa hình, khí hậu, thuỷ văn 13
1.2.1.3. Tài nguyên động, thực vật 15
1.2.1.4. Cảnh quan tự nhiên và một số thắng cảnh nổi tiếng 16

1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn 20
1.2.2.1 Các công trình kiến trúc, các di tích lịch sử, văn hoá ở Đà Lạt 20
1.2.2.2. Lễ hội dân gian truyền thống 23
1.2.2.3. Các nghề truyền thống 24

1.2.3. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch 27
1.2.3.1. Mạng lưới giao thông vận tải 27
1.2.3.2. Hệ thống cung cấp điện, nước 28
1.2.3.3. Mạng lưới thông tin liên lạc 29


1.2.4. Nhân tố con người - một tiềm năng lớn trong hoạt động kinh doanh du lịch
ở Đà Lạt 29

Chương 2.
HOẠT ĐỘNG MARKETING DU LỊCH CỦA TP. ĐÀ LẠT

2.1. Khái quát tình hình phát triển du lịch Đà Lạt 32
2.1.1. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch 32
2.1.1.1. Các cơ sở phục vụ lưu trú, ăn uống 32
2.1.1.2. Các cơ sở vui chơi giải trí, tham quan du lịch 33
2.1.1.3. Các cơ sở lữ hành - vận chuyển du lịch 34
2.1.2. Thị trường khách du lịch của Đà Lạt trong thời gian qua 34
2.1.2.1. Thị trường khách du lịch quốc tế 34
2.1.2.2. Thị trường khách du lịch nội địa 37
2.1.3. Doanh thu xã hội từ du lịch 41
2.1.4. Lao động trong ngành Du lịch 42
2.1.5. Hoạt động quản lý du lịch ở Đà Lạt 46

2.2. Thực trạng hoạt động marketing du lịch của Đà Lạt 49
2.2.1. Định hướng phát triển du lịch và chiến lược marketing
giai đoạn 2000-2005 49
2.2.1.1. Định hướng phát triển du lịch giai đoạn 2000 – 2005 49
2.2.1.2. Chiến lược marketing du lịch của giai đoạn 2000 – 2005 50
2.2.2. Tình hình thực hiện các chính sách trong chiến lược marketing 51
2.2.2.1. Phân tích thực trạng sản phẩm du lịch của Đà Lạt 51
2.2.2.2. Thực trạng về giá 54
2.2.2.3. Hệ thống phân phối sản phẩm du lịch 56
2.2.2.4. Hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch 57

2.3. Đánh giá tổng quát hoạt động marketing du lịch của

thành phố Đà Lạt 60
2.3.1. Những thành công và nguyên nhân 60
2.3.1.1. Những thành công 60
2.3.1.2. Nguyên nhân 62
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 63
2.3.2.1. Những hạn chế 63
2.3.2.2. Nguyên nhân 65

Chương 3.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP MARKETING DU LỊCH CHO ĐÀ LẠT

3.1 Những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển du lịch của
thành phố Đà Lạt 68
3.1.1. Cơ hội 68
3.1.2. Thách thức 70

3.2. Định hướng phát triển du lịch của thành phố Đà Lạt
giai đoạn 2006 – 2010 72
3.2.1. Quan điểm phát triển 72
3.2.2. Định hướng phát triển 73
3.2.3. Mục tiêu phát triển 76

3.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động marketing 77
3.3.1. Xác định mục tiêu marketing du lịch ở Đà Lạt 77
3.3.2. Xác định thị trường khách mục tiêu của Đà Lạt 79
3.3.3. Chiến lược marketing du lịch cho Đà Lạt trong thời gian tới 84
3.3.3.1. Phát triển hệ thống sản phẩm du lịch đặc thù đủ sức cạnh tranh
trên thị trường đồng thời đa dạng hoá và nâng cao chất lượng
sản phẩm du lịch 84
3.3.3.2. Sử dụng chính sách giá linh hoạt tạo thêm sức hút cho Đà Lạt 91

3.3.3.3. Hoàn thiện kênh phân phối 93
3.3.3.4. Chiến lược xúc tiến, quảng bá 95
3.3.4. Đẩy mạnh đào tạo nhân lực cho hoạt động du lịch nói chung
và cho hoạt động marketing nói riêng 100

3.4. Kiến nghị
3.4.1. Đối với Chính phủ và các cơ quan trung ương 103
3.4.2. Đối với chính quyền và cơ quan quản lý du lịch địa phương 103

KẾT LUẬN
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1: Khách quốc tế đến Đà Lạt-Lâm Đồng giai đoạn 2000-2005 35
Bảng 2: Khách nội địa đến Đà Lạt-Lâm Đồng giai đoạn 2000-2005 38
Bảng 3: So sánh lượng khách đến Lâm Đồng với các tỉnh phụ cận và cả nước 40
Bảng 4: Doanh thu xã hội từ du lịch của Đà Lạt-Lâm Đồng
giai đoạn 2000-2005 41
Bảng 5: Thực trạng và số liệu dự báo về nguồn nhân lực du lịch
Đà Lạt - Lâm Đồng 45
Bảng 6: So sánh đặc điểm của 3 địa phương có tiềm năng du lịch nghỉ dưỡng tại
Việt Nam 87



1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
“DALAT: Dat Aliis Lactitian Aliis Temperiem”, tức là “Cho người này
niềm vui, người kia sự mát lành”. Câu châm ngôn mà người Pháp dành cho

Đà Lạt khi xây dựng ở đây một trung tâm nghỉ dưỡng thật có ý nghĩa và rất
phù hợp với một thành phố trẻ trung, xinh đẹp này. Nhiều người còn cho rằng
xuất xứ tên Đà Lạt là từ việc ghép 5 chữ cái đầu tiên trong câu châm ngôn
trên.
Với khí hậu và phong cảnh đặc trưng, Đà Lạt được ví như một thành
phố của Châu Âu nằm giữa một đất nước nhiệt đới. Ngay từ khi phát hiện ra
cao nguyên Lang Bian, bác sĩ Alexandre Yersin đã đề nghị với toàn quyền
Đông Dương Paul Doumer xây dựng ở đây thành một thành phố nghỉ dưỡng.
Từ đó đến nay Đà Lạt được biết đến như một thành phố du lịch nghỉ dưỡng
mộng mơ và lý tưởng.
Thành phố Đà Lạt - tỉnh Lâm Đồng nằm gần khu vực kinh tế năng
động nhất của đất nước là thành phố Hồ Chí Minh và miền Đông Nam Bộ, lại
có chức năng du lịch định hình rõ nét và khá sớm, nên từ khi Việt Nam thực
hiện công cuộc đổi mới, du lịch Đà Lạt đã thu hút khá đông khách trong và
ngoài nước.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập hiện nay, du lịch Đà Lạt nói riêng
và cả nước nói chung cần phải tạo một vị thế, một hình ảnh, một thương hiệu
vững vàng trong khu vực và trên thế giới. Để làm được điều này cần sự góp
sức từ nhiều bộ, ngành và toàn xã hội, vì du lịch là một ngành kinh tế tổng
hợp, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội
hoá cao. Đặc biệt hơn, trong sự cố gắng từ ngay trong ngành, hoạt động
marketing du lịch cần được đẩy lên ở vị trí hàng đầu.


2
Hoạt động marketing du lịch không chỉ là quảng bá hình ảnh, giới thiệu
sản phẩm mà nó triển khai ngay từ việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm và
phát hiện ra nhu cầu đến việc xây dựng và quảng bá sản phẩm. Có thể nói
rằng hoạt động marketing du lịch ở Đà Lạt đến nay đã có những bước tiến
nhất định thể hiện ở công tác xúc tiến quảng bá du lịch: tham gia các hội chợ,

Festival Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, festival du lịch Hà Nội; tuyên truyền với
các cơ quan thông tấn báo chí, các doanh nghiệp lữ hành ở Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh, Cần Thơ; tổ chức thành công Hội chợ triển lãm Thương mại -
Du lịch Đà Lạt 2004, lễ hội sắc hoa Đà Lạt 2004 và Festival hoa Đà Lạt 2005
- những lễ hội lần đầu tiên được tổ chức ở Việc Nam.
Trên thực tế, ngành du lịch Đà Lạt cũng đang chuyển động với nhiều
dự án đầu tư các công trình khách sạn, khu du lịch trong đó có những dự án
nhiều tham vọng như khu du lịch Đankia - Suối Vàng, khu du lịch Hồ Tuyền
Lâm. Cùng với những dự án này, các đề tài nghiên cứu, khảo cứu về du lịch
Đà Lạt cũng ngày một nhiều. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này phần
lớn đề cập tới cảnh sắc thiên nhiên hơn là những chuyển biến trong hoạt động
kinh tế du lịch. Về hoạt động marketing du lịch ở Đà Lạt cũng đã có một số
bài viết có nói đến ở các mức độ khác nhau, trên một số báo, tạp chí như bài
“Đà Lạt 110 năm, những việc làm thiết thực” hay bài “Những gì còn lại…”
đăng trên Tạp chí du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh số 146+147, tháng 11
– 12 năm 2003; bài “Làm gì để năm 2010 Đà Lạt trở thành thành phố du
lịch chất lượng cao” - Báo Lâm Đồng số 2614 ra ngày 15/3/2006 v.v…
Những bài báo này chủ yếu nói một cách chung chung về các hoạt động xúc
tiến, quảng bá du lịch Đà Lạt, chưa có sự nghiên cứu sâu và hệ thống về các
hoạt động marketing du lịch Đà Lạt.
Là một người xa quê mới nhận công tác về Đà Lạt, tôi có mong muốn
được tìm hiểu về Đà Lạt, cũng là phù hợp với chuyên môn nghiên cứu và


3
giảng dạy của tôi sau này. Vì thế tôi đã chọn đề tài “Thực trạng và một số giải
pháp marketing du lịch cho thành phố Đà Lạt ” làm luận văn thạc sĩ, với hy
vọng trước tiên là tìm hiểu về tiềm năng du lịch ở Đà Lạt và sau đó vận dụng
những kiến thức chuyên môn đưa ra một số giải pháp marketing du lịch cho
Đà Lạt.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tổng quan du lịch ở Đà Lạt và thực
trạng hoạt động marketing du lịch của Đà Lạt, đồng thời nghiên cứu đưa ra
một số giải pháp marketing hiệu quả cho du lịch Đà Lạt.
Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu về tiềm năng du lịch,
hoạt động marketing du lịch của thành phố Đà Lạt - tỉnh Lâm Đồng trong 5
năm gần đây và đề xuất giải pháp cho 5 năm tới.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: góp phần đẩy mạnh hoạt động marketing du lịch
cho Đà Lạt.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Thứ nhất là tìm hiểu tổng quan về Đà Lạt và
hoạt động du lịch ở đây. Thứ hai là nghiên cứu phân tích hiện trạng tổ chức
hoạt động marketing du lịch ở Đà Lạt, chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu những
thách thức, cơ hội Thứ ba là vận dụng lí luận marketing vào thực tiễn, đưa
ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động marketing để phát
triển du lịch Đà Lạt tương xứng với tiềm năng của nó .
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng chủ yếu một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp khảo sát thực tiễn
- Phương pháp so sánh


4
5. Đóng góp của luận văn
- Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của Đà Lạt như một đô
thị với chức năng nghỉ dưỡng.
- Hệ thống hoá tài nguyên du lịch của Đà Lạt.
- Đánh giá thực trạng hoạt động marketing du lịch của thành phố Đà

Lạt, nêu bật những thành công và những hạn chế, từ đó đưa ra một số giải
pháp marketing để đẩy mạnh phát triển du lịch Đà Lạt trở thành một điểm đến
nổi tiếng trong cả nước và khu vực từ những thế mạnh về du lịch của mình.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được bố cục làm 3 chương:

Chương 1. Tổng quan về Đà Lạt và tiềm năng phát triển du
lịch ở Đà Lạt
Chương 2. Hoạt động marketing du lịch của thành phố Đà Lạt
Chương 3. Một số giải pháp tăng cường hoạt động marketing
du lịch cho Đà Lạt





















5
Chương 1.
TỔNG QUAN VỀ ĐÀ LẠT
VÀ TIỀM NĂNG DU LỊCH Ở ĐÀ LẠT

1.1. Sự hình thành và phát triển của thành phố Đà Lạt
1.1.1. Đà Lạt trước năm 1893
Đà Lạt trước năm 1893 là cao nguyên rộng lớn trải dài - cao nguyên
Lang Bian - có hình dáng như một hình elip với đường trục lớn theo hướng
Bắc – Nam. Cả một vùng rộng lớn ấy gồm nhiều ngọn đồi nằm kề, nối tiếp
nhau, sườn đồi này dốc thẳng đứng, sườn đồi kia dốc thoai thoải. Cả vùng đồi
núi này được phủ bởi lớp cỏ ngắn vào mùa khô, cao, dày vào mùa mưa và
thông tùng quanh năm xanh tốt. Dòng nước chảy theo nhiều hướng đa dạng,
nhiều suối thác, hồ ẩn mình dưới một lớp thảo mộc rậm rạp. Đỉnh núi cao
nhất của dãy Lang Bian cũng là đỉnh Lang Bian cao khoảng 2200m sừng sững
ở giữa như một hòn đảo nhỏ nổi lên giữa thông xanh và mây trắng.
Cư dân ở vùng đất này thưa thớt, một vài buôn làng nằm rải rác dưới
chân núi, chủ yếu là người Lạt, Cil và Srê. Cho đến bây giờ vẫn chưa có công
trình cụ thể nào nghiên cứu các bộ tộc này có mặt ở đây tự bao giờ, mà chỉ
ước đoán rằng họ xuất hiện trên cao nguyên này cách đây khoảng 400 -500
năm.
Sự phát hiện một số di chỉ đá mài quanh đèo Prenn thời gian qua cho
thấy từ rất xưa Đà Lạt đã có bóng dáng con người. Nhưng những người ấy có
quan hệ gì với người Lạt, Cil, Srê hay người Kinh thì còn phải chờ các công
trình nghiên cứu khoa học đầy đủ mới có thể xác định được. Song, có một
điều chúng ta có thể biết chắc chắn rằng Đà Lạt, tên gọi của vùng đất xinh đẹp



6
này là do chính bà con dân tộc thiểu số bản địa người Lạt đặt. Ông Cunhăc –
viên công sứ đầu tiên của thành phố này thời kỳ Pháp thuộc, đã thừa nhận như
vậy khi trả lời phỏng vấn về tên gọi Đà Lạt: Ở hồ nước mà dòng suối nhỏ của
bộ tộc Lạt chảy qua người ta gọi là Đà Lạt, theo tiếng của bộ tộc Lạt, Đa hay
Đak có nghĩa là nước. Nhiều nhà nghiên cứu dân tộc học cũng cho rằng Đà
Lạt có gốc là “Đàlàc” phát âm theo tiếng dân tộc thiểu số ở đây, “Đà” là
nước, “Làc” là tên của bộ tộc Lạt, sau đó do quá trình “Việt hoá” đã biến âm
thành Đà Lạt.
Ngày nay, qua các tài liệu còn lưu trữ cho thấy dấu vết các buôn làng
cũ của tổ tiên người Lạt còn để lại ở nhiều nơi: Bon Đơng (quả đồi trường
Cao đẳng Sư phạm), Rhàng Bon Yô (Học viện Lục quân), Klir Towach (ấp
Hồng Lạc), Đa Gút (Bệnh viện Lâm Đồng), Rhàng Pang M’Ly (thác Cam
Ly),…

1.1.2. Đà Lạt sau chuyến thám hiểm của Alexandre Yersin và thời kỳ
đầu xây dựng
Sự hình thành và phát triển của thành phố Đà Lạt được đánh dấu bằng
mốc sự kiện ngày 21 tháng 6 năm 1893, khi bác sĩ Alexandre Yersin trong
chuyến thám hiểm của mình đã đặt chân lên cao nguyên Lang Bian. Ông thực
sự bị ấn tượng mạnh mẽ về khí hậu mát mẻ, trong lành, về cảnh sắc tự nhiên
của vùng này. Điều đó đã hấp dẫn ông, gợi cho ông nhớ lại quê hương Thuỵ
Sĩ của mình.
Trong hồi ký ông mô tả về Lang Bian: một vùng đất phủ toàn cỏ xanh
mướt mắt, mặt đất như những lượn sóng dài làm cho ta có cảm tưởng đang đi
trên một đại dương bị xao động bởi những đợt sóng khổng lồ. Dãy Lang Bian
sừng sững như một hòn đảo và dường như càng lùi xa khi ta đến gần. Những


7

đàn nai lớn vụt bỏ chạy ra xa khi có tiếng động rồi ngoái lại nhìn một cách tò
mò.
Mặc dù bị hấp dẫn bởi vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ mà thơ mộng của cao
nguyên Lang Bian, nhưng vào lúc đó, chắc hẳn Yersin vẫn chưa ngờ rằng
vùng đất này sẽ có một tương lai rạng rỡ.
Vào những năm 1893 – 1894, chính quyền Pháp ở Đông Dương chưa
nghĩ đến việc thành lập các trạm điều dưỡng ở vùng núi. Họ chỉ chú ý đến
việc mở đường giao thông, khai thác tài nguyên vùng núi hoặc chinh phục các
bộ tộc người Thượng để củng cố cho sự bền vững của chế độ thuộc địa.
Sáng kiến thành lập các trạm nghỉ mát vùng núi ở Đông Dương được
Toàn quyền Paul Doumer đưa ra khi ông đến nhậm chức vào năm 1897.
Doumer đã học hỏi kinh nghiệm này từ thực dân Hà Lan ở Inđônêxia và nhất
là từ người Anh ở Ấn Độ. Trong hồi ký Đông Dương thuộc Pháp, ông viết:
“Trong tất cả các thuộc địa vùng nhiệt đới được cai trị một cách hợp lý,
người ta quan tâm đến việc tìm ra những vùng đất có khí hậu gần giống với
khí hậu Châu Âu để người da trắng có thể bảo tồn hay phục hồi sức lực. Các
trạm điều dưỡng ấy được sử dụng làm địa điểm nghỉ mát để khôi phục sức
khoẻ, được dùng làm nơi đặt các công sở, các cơ quan, các đạo quân không
bắt buộc phải bố trí ở các nơi khác”
1
.
Doumer rất mong muốn tìm một hay nhiều nơi tương tự dành cho công
chức và binh sĩ Pháp mệt mỏi, đau yếu vì khí hậu nhiệt đới, tránh được cái
nóng nung người ở đồng bằng, tận hưởng những giây phút yên tĩnh trong
không khí mát lành để phục hồi sức khoẻ. Ông bắt đầu quan tâm tìm kiếm
những nơi nghỉ ngơi như vậy cho người da trắng. Trong thư gửi cho các khâm
sứ, thống sứ, ông nêu 4 điều kiện cần thiết cho một trạm nghỉ dưỡng: độ cao
trên 1200m, nguồn nước dồi dào, đất đai canh tác được và khả năng thiết lập

1

Trương Trổ, “Đà Lạt, thành phố cao nguyên”


8
đường giao thông dễ dàng. Ở miền Bắc, đỉnh Ba Vì được đề nghị nhưng vì
quá chật hẹp và độ ẩm quá cao nên không được chấp nhận. Vũng Tàu nằm
bên bờ biển có khí hậu mát mẻ hơn vùng nội địa cũng được giới thiệu, nhưng
toàn quyền Doumer không thích vì cho rằng vùng lầy Thang Tham dài hàng
chục cây số ở gần Vũng Tàu là môi trường ô nhiễm dễ truyền bệnh sốt rét.
Lúc này, Yersin cũng nhận được thư riêng của toàn quyền Paul Doumer
và ông đã đề xuất nên thiết lập nơi nghỉ dưỡng ở Đà Lạt – Đankia. Sau gần
một năm khảo sát, phái đoàn nghiên cứu đã trình lên Doumer toàn bộ bản
báo cáo chi tiết rất dài cho thấy việc đề nghị chọn cao nguyên Lang Bian của
Yersin là hoàn toàn phù hợp và đúng đắn, mặc dù việc mở đường lên vùng
này có phần khó khăn. Sau cùng, bằng chuyến tháp tùng Toàn quyền Paul
Doumer (1899) lên cao nguyên, Yersin đã tham gia quyết định việc thành lập
trạm điều dưỡng trên cao nguyên Lang Bian - tiền thân của thành phố Đà Lạt
sau này.
Trong thời kỳ đầu, nhiều phái đoàn nghiên cứu đã lên khảo sát cao
nguyên và bắt đầu xây dựng những cơ sở hạ tầng cho một trạm nghỉ dưỡng.
Năm 1907, xây dựng một lữ quán đầu tiên bằng gỗ cho khách vãng lai và sau
này xây dựng thành khách sạn Hồ (hotel du Lac).

1.1.3. Đà Lạt - thời kỳ được mệnh danh là “Thủ đô mùa hè”
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ, những người Âu đã tìm lên
Đà Lạt vì điều kiện khó khăn về quê hương trong những ngày nghỉ phép. Họ
muốn nghỉ dưỡng ở Đà Lạt - một vùng khí hậu lý tưởng gợi nhớ quê hương.
Đường sá lúc này khá thuận tiện, nhưng đáng tiếc là cơ sở vật chất không đáp
ứng đủ nhu cầu của họ.
Trước những yêu cầu nghỉ dưỡng của người Âu ở Đông Dương, các

công trình xây dựng được tiếp tục đầu tư: Lang Bian Palace (1916), nhà máy


9
điện, dưỡng viện thừa sai, trường học, bưu điện, kho bạc, nhà máy nước,
khách sạn và đặc biệt là một đồ án thiết kế thị xã được kiến trúc sư Hébrard
hoàn thành với ý đồ biến Đà Lạt thành thủ phủ của Đông Dương. Đà Lạt được
thể chế hoá như một thị xã nhưng với những dự định về tương lai muốn vươn
tới một trung tâm hành chính văn hoá và du lịch lớn của Đông Dương thì Đà
Lạt rất hấp dẫn đối với nhiều giới từ chính khách đến thương nhân.
Từ năm 1923 đến năm 1940, tốc độ xây dựng được đẩy nhanh, Đà Lạt
bắt đầu thật sự chuyển mình thành một thành phố nghỉ mát với hơn 400 biệt
thự và nhiều khách sạn lớn. Bệnh viện, trường học, hệ thống điện nước,
đường sá cơ bản được hoàn thành. Năm 1935 công ty Du lịch được thành lập,
năm 1936 xuất bản sách giới thiệu du lịch ở Đà Lạt và vùng ven bằng ba thứ
tiếng: Pháp, Anh và Hà Lan, phổ biến rộng rãi khắp Viễn Đông.
Từ năm 1940 đến năm 1945, chiến tranh thế giới lần thứ hai xảy ra, du
khách đổ xô lên Đà Lạt. Thành phố được mệnh danh là “Thủ đô mùa hè” của
Đông Dương. Tốc độ phát triển đô thị cao nhất từ trước đến nay: hơn 500 biệt
thự được xây cất trong vòng 5 năm bằng số biệt thự xây trong 30 năm trước.
Dinh Decoux (dinh II), nhà máy thuỷ điện Ankroet là những công trình tiêu
biểu lúc này.
Ngoài việc xây dựng đô thị, chính quyền còn chú trọng đời sống kinh tế
và văn hoá của Đà Lạt. Về kinh tế, các trục đường giao thông với miền xuôi,
miền ngược được sửa sang và mở rộng. Nhờ thế, việc lưu thông hàng hoá lên
Đà Lạt được nhanh chóng. Người Pháp cũng cho mở rộng diện tích trồng rau,
hoa, các khu dân cư được xây dựng nhiều.
Đời sống văn hoá con người Đà Lạt cũng phát triển nhanh chóng nhờ
hệ thống trường học khá phong phú, các công trình thể thao, các cơ sở lớn của
tôn giáo đều được xây dựng. Cảnh quan Đà Lạt ở khu trung tâm gần như hoàn

chỉnh và được giữ nguyên mãi đến sau này. Năm 1947, đường hàng không Đà


10
Lạt được khởi công, hoàn thành năm 1948, tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển du lịch.

1.1.4. Đà Lạt ngày nay
Sau Đại hội Đảng VI (1986), cả nước bước vào thời kì đổi mới, Đà Lạt
dường như có một luồng sinh khí mới thổi vào. Cho đến những năm 1990, Đà
Lạt thực sự biến đổi và có chiều hướng khởi sắc. Nhiều khách sạn được chỉnh
trang, xây cất, các thắng cảnh, khu du lịch cũng được từng bước đầu tư, tôn
tạo. Đặc biệt là việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và các công trình dân
dụng. Đà Lạt đã hoàn thành dự án cải tạo lưới điện, triển khai dự án vệ sinh
môi trường, xây dựng nhiều trường học, trạm y tế, tập trung chỉnh trang đô
thị, nâng cấp nhiều tuyến đường trong thành phố. Đường giao thông ở Đà Lạt
cũng là một nét hấp dẫn, nó không chỉ là cơ sở hạ tầng mà còn là một cảnh
quan. Những con đường uốn lượn lên, xuống hoặc quanh các thung lũng hoặc
vắt qua các ngọn đồi dưới những rặng thông trông như bức hoạ gây ấn tượng
mạnh mẽ. Để tăng thêm vẻ thơ mộng, duyên dáng cho Đà Lạt, chính quyền
thành phố đã qui hoạch chọn lựa trồng hoa thống nhất theo từng tuyến đường,
từng khu phố, tạo nét đặc trưng, độc đáo riêng như mai anh đào, mimoza, hoa
sứ, hoa trạng nguyên, cẩm tú cầu, kim châm… Ven đường là vậy, trước mỗi
ngôi nhà, mỗi biệt thự xinh xắn đều được tô điểm những vườn hoa kiểng đầy
màu sắc. Nhờ đó, thành phố Đà Lạt đã sạch đẹp, nay trở nên khang trang,
xanh, sạch đẹp và quyến rũ hơn.
Nhìn chung trong những năm gần đây, kinh tế Đà Lạt tăng trưởng khá,
cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt
12%, du lịch, dịch vụ chiếm tỷ trọng xấp xỉ 70% và đạt tốc độ tăng trưởng
bình quân 15%, du lịch – dịch vụ được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn

của thành phố.


11
Trên cơ sở những gì đang có, thành phố Đà Lạt xác định cho mình một
hướng đi trở thành một trung tâm du lịch văn minh, hiện đại. Năm 2002, Thủ
tướng Chính phủ đã có Quyết định số 409/CP phê duyệt điều chỉnh qui hoạch
chung thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận đến năm 2020. Theo qui hoạch này,
tính chất du lịch của thành phố Đà Lạt được điều chỉnh là Trung tâm nghỉ
dưỡng, hội nghị, hội thảo của cả vùng, cả nước và quốc tế; là trung tâm đào
tạo, nghiên cứu khoa học; trung tâm nông nghiệp sạch, sản xuất và chế biến
rau hoa chất lượng cao.
Với tiềm năng du lịch lớn và định hướng phát triển du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, thành phố Đà Lạt hiện có rất nhiều dự án đầu tư cho
du lịch. Từ đầu năm 2003 đến nay, đã có hơn 60 dự án đầu tư vào lĩnh vực du
lịch, trong đó có 45 dự án xây dựng khu du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng,
hội nghị, hội thảo. Khi các dự án hoàn thành sẽ có nhiều sản phẩm du lịch
mới, phong phú, đa dạng. Có nhiều dự án có chất lượng sản phẩm, dịch vụ
cao cấp, hấp dẫn như sân golf, đua ngựa, nghiên cứu thiên văn, dưỡng lão,
nghỉ dưỡng, chữa bệnh, phục hồi chức năng… Đặc biệt, với hai công trình
trọng điểm về du lịch là khu du lịch chuyên đề hồ Tuyền Lâm và khu du lịch
tổng hợp Đankia - Suối Vàng sẽ tạo nên một bộ mặt mới cho du lịch Đà Lạt.
Xây dựng khu du lịch hồ Tuyền Lâm là một trong 22 khu du lịch
chuyên đề của cả nước, Đà Lạt đồng thời cũng xác định phấn đấu phát triển
đây là một đô thị sinh thái, với mục đích khai thác lợi thế của hồ, núi, cảnh
quan, thác nước và tín ngưỡng của Thiền Viện Trúc Lâm phục vụ đông đảo
khách du lịch trong nước và quốc tế muốn du lịch nghỉ dưỡng dài ngày ở đây.
Dự án tiến hành xây dựng các công trình du lịch, dịch vụ trên hồ, dọc sườn
núi,… đặc biệt là khu vực Thiền Viện và phụ cận thì phải giữ được không khí
mát mẻ, yên tĩnh, có cảnh quan hấp dẫn.



12
Với dự án khu nghỉ dưỡng cao cấp Đankia - Suối Vàng, theo dự kiến
những hạng mục công trình chủ yếu bao gồm trung tâm điều hành và dịch vụ
tổng hợp, các khu biệt thự nghỉ dưỡng cao cấp xen lẫn trong rừng cây, khu
lưu trú gia đình, các khách sạn, các khu vui chơi giải trí (sân golf, bể bơi…)
các khu dân cư xen kẽ (chủ yếu giành cho cán bộ công nhân viên trực tiếp làm
việc tại các khu du lịch), các công trình phụ trợ v.v… Ngoài ra, quanh các khu
công trình là rừng cảnh quan, rừng bảo vệ đảm bảo môi trường đặc biệt của
Đà Lạt. Kết hợp khu du lịch – thương mại ở trung tâm Đà Lạt, khu du lịch
nghỉ dưỡng bình dân ở hồ Tuyền Lâm thì khu du lịch nghỉ dưỡng cao cấp
Đankia - Suối Vàng sẽ bổ sung cho sự phát triển bền vững và đồng bộ của du
lịch Đà Lạt.
Cùng với việc đầu tư xây dựng các khu du lịch, đầu tư xây dựng
thương hiệu cho du lịch Đà Lạt cũng được triển khai. Hình ảnh “thành phố
hoa” đang được giới thiệu với du khách trong và ngoài nước thông qua các
hội chợ triển lãm du lịch – thương mại, các festival du lịch ở Huế, Hà Nội, du
lịch biển Nha Trang. Đặc biệt hơn là Festival hoa Đà Lạt sẽ được tổ chức lần
đầu tiên năm 2005, sau đó định kỳ 2 năm tổ chức một lần. Đây sẽ là một sinh
hoạt văn hoá góp phần không nhỏ trong việc tạo dựng hình ảnh và thu hút
khách du lịch trong nước và quốc tế.

1.2. Tiềm năng và nguồn lực phát triển du lịch ở thành phố
Đà Lạt
1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
Tài nguyên du lịch là yếu tố tiền đề quan trọng để hình thành và phát
triển ngành kinh tế du lịch. Một địa phương, một lãnh thổ chỉ có thể phát triển
du lịch khi ở đó hội tụ đủ tài nguyên du lịch cần thiết nhất định. Trên cơ sở
đó, dưới tác động của con người sẽ trở thành những sản phẩm và dịch vụ cụ



13
thể phục vụ cho nhu cầu của khách du lịch. Với thành phố Đà Lạt, tài nguyên
du lịch tự nhiên quả là một lợi thế so sánh khi phát triển sản phẩm du lịch đặc
thù. Vị trí địa lý, cấu trúc địa hình, chế độ khí hậu, thảm che phủ thực vật đã
tạo cho thành phố Đà Lạt những thế mạnh rất lớn trong việc phát triển du lịch.

1.2.1.1. Vị trí địa lý
Thành phố Đà Lạt thuộc tỉnh Lâm Đồng – là một tỉnh nằm ở phía Nam
Tây Nguyên, phía Bắc giáp tỉnh Đắc Lắc; Đông và Đông Bắc giáp các tỉnh
Khánh Hoà, Ninh Thuận; Nam và Đông Nam giáp tỉnh Bình Thuận, Tây Nam
giáp các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, Tây và Tây Bắc giáp tỉnh Đắc Nông. Đà
Lạt nằm trên cao nguyên cao nhất của vùng đất Tây Nguyên – cao nguyên
Lâm Viên - Di Linh (cao 1500m so với mặt nước biển). Với diện tích khoảng
424 km
2
, thành phố Đà Lạt gần các trung tâm công nghiệp, thương mại lớn,
các khu chế xuất ở miền Nam với đường giao thông thuận tiện, nên có nhiều
thuận lợi phát triển du lịch. Từ thành phố Hồ Chí Minh, theo quốc lộ 20,
khoảng 300km là đến Đà Lạt. Từ các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ có thể
theo đường quốc lộ 28 (Bình Thuận - Đà Lạt ), đường 11 (Ninh Thuận - Đà
Lạt) và sắp tới là đường DT723 (Nha Trang - Đà Lạt); các tỉnh Tây Nguyên
đến Đà Lạt theo quốc lộ 27.
1.2.1.2. Địa hình, khí hậu, thuỷ văn
Địa hình: Thành phố Đà Lạt trên cao nguyên 1500m so với mặt nước
biển, cấu trúc địa hình rất đa dạng, đồi núi xen kẽ với bình nguyên và thung
lũng tạo thành nhiều hồ thác hết sức hùng vĩ và thơ mộng. Phía Bắc có dãy
Lang Bian với đỉnh cao nhất là 2167m, phía Tây và Nam là dãy núi Voi cao
1756m, ngọn Lap-Benord (cao 1732m) phía Đông Bắc và ngọn Dansena (cao

1600m) ở phía Đông. Tiếp theo bên trong là những quả đồi đỉnh tròn thấp dần
sườn thoai thoải, xen giữa chúng là những thung lũng. Hồ Xuân Hương nằm


14
giữa được coi là trung tâm của thành phố và vì vậy Đà Lạt gần có dạng lòng
chảo hình bầu dục.
Nằm trên cao và địa hình được cấu tạo phức tạp nên Đà Lạt có được
khí hậu quanh năm mát mẻ và thế mạnh về cảnh quan thiên nhiên. Nhiều
thắng cảnh nổi tiếng như thác Prenn, thung lũng Tình Yêu, hồ Tuyền Lâm,
thác Đatanla, đỉnh núi Lang Bian hùng vĩ, suối Đankia, hồ Xuân Hương…
được nhiều du khách trong nước và quốc tế biết đến.
Khí hậu: chính nhờ vào địa hình đồi núi chập trùng và ở trên độ cao
1500m so với mặt nước biển nên Đà Lạt đã được tạo hoá ban cho một khí hậu
tuyệt vời mà hiếm nơi nào trên đất nước ta có được: Nhiệt độ trung bình cả
năm là 18,5
0
C, dao động từ 16 – 24
0
C. Chế độ mưa ở Đà Lạt cũng ôn hoà
thường bắt đầu giữa tháng 4, từ tháng 6 có những đợt mưa kéo dài, những trận
mưa như vậy thường xảy ra khi có bão hoặc áp thấp ngoài biển Đông. Mùa
mưa kết thúc vào tháng 10 đôi khi là giữa tháng 11. Mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau.
Độ ẩm không khí ở Đà Lạt khá lớn: mùa mưa độ ẩm tương đối trung
bình các tháng là 85%, mùa khô độ ẩm giảm xuống dưới 80%.
Ngoài ra, Đà Lạt còn có nhiều hiện tượng thời tiết như sương mù, mưa
đá và sương muối. Sương mù thường xuất hiện vào các tháng 2, tháng 3,
tháng 4, và tháng 5. Các tháng còn lại cũng có sương mù nhưng không đáng
kể. Có lẽ vì vậy mà Đà Lạt còn có một danh hiệu khác là “thành phố sương

mù” hay “thành phố mờ sương”. Một ngày Đà Lạt có đủ bốn mùa: sáng là
mùa xuân rực rỡ, trưa là hè óng ả, chiều là thu lãng đãng và tối là đông co ro.
Gió ở đây cũng rất hào phóng, những cơn gió nhẹ mát rượi làm cho không khí
thêm phần thoáng đãng trong lành.
Nhìn chung, khí hậu Đà Lạt tuy mang những đặc điểm chung nhất của
khí hậu cận nhiệt đới gió mùa, song lại có đặc điểm riêng của vùng cao


15
nguyên nên khá ôn hoà. Với khí hậu này cùng với nhiều yếu tố khác về địa
hình về môi trường, chứng tỏ Đà Lạt có đủ điều kiện để xây thành một thành
phố nghỉ dưỡng và phát triển được nhiều loại hình du lịch.
Điều kiện thuỷ văn: nhiều người cho rằng sở dĩ Đà Lạt có một nguồn
nước khá dồi dào và phong phú là nhờ có nhiều dải núi rừng vây bọc. Ở phía
Bắc Đà Lạt có khá nhiều con suối lớn đổ vào hồ Suối Vàng, phía Đông có
nhiều con suối nhỏ đổ vào thượng nguồn sông Đa Nhim, ở phía Nam các con
suối đổ về suối Đạ Tam như dòng Đatanla, dòng Prenn góp phần tạo nên
nhiều khung cảnh thiên nhiên thơ mộng cho thành phố cao nguyên này. Chảy
qua khu trung tâm Đà Lạt có suối Cam Ly bắt nguồn từ phía Đông Bắc thành
phố, xuôi về hồ Đa Thiện đến hồ Xuân Hương, sau đó đổ về thác Cam Ly.
Đà Lạt nổi tiếng là thành phố của hồ và thác, song phần lớn hồ ở đây là
hồ nhân tạo. Từ những thung lũng nhỏ, người dân đắp đập ngăn dòng chảy
tạo thành hồ chứa nước vừa để nước sinh hoạt, vừa để cung cấp nước tưới cho
ruộng đồng, tạo nên những thắng cảnh nên thơ của thành phố.

1.2.1.3. Tài nguyên động, thực vật
Nói đến Đà Lạt, trước hết phải nói đến tài nguyên rừng, rừng của Đà
Lạt có một ý nghĩa hết sức quan trọng, chính rừng quyết định sự sống còn của
thành phố du lịch, nghỉ dưỡng. Bên cạnh đó rừng còn là nhân tố quyết định
đến môi trường sinh thái và nguồn nước dự trữ cho địa phương và cả khu vực.

Yếu tố này đã làm cho thành phố Đà Lạt thêm hấp dẫn, lãng mạn, tạo nên tính
đặc trưng riêng của một thành phố “như hoà lẫn trong đồi núi và rừng thông”
tạo nên những cảnh quan đẹp và kỳ thú. Cảnh quan rừng thông là nguồn tài
nguyên luôn tạo nên nét riêng biệt, hài hoà với các hoạt động sản xuất, tham
quan, thư giãn, nghỉ ngơi của cộng đồng dân cư và du khách.


16
Rừng Đà Lạt bao gồm rừng lá kim, rừng thường xanh và rừng hỗn giao.
Rừng lá kim ở Đà Lạt với những quần tụ thông ba lá chiếm một diện tích
đáng kể khoảng gần 10.000 ha. Ngoài thông 3 lá còn có thông 2 lá, đặc biệt
thông 5 lá là một loài cây đặc hữu quí hiếm của Đà Lạt.
Ngoài rừng lá kim, Đà Lạt còn có rừng hỗn giao phân bố khắp nơi
quanh thành phố, nhất là ở các thung lũng, khe suối. Trong rừng này có khá
nhiều loài cây cùng sinh sống như: dẻ, kim giao, chò ngọc lan, chò sót, chò
nước, huỳnh đàn, trắc bách diệp, tùng, thông tràm… Bên cạnh đó là những
loài cây thuốc, cây cảnh như ngũ gia bì, thanh mai, đỗ quyên, bướm bạc, trang
bông trắng, trang bông đỏ, địa lan, phong lan.
Trong rừng cảnh quan Đà Lạt, đặc biệt ở các khu rừng hỗn giao còn tồn
tại các loài động vật quí như: cầy bay, sóc bay, vượn, hổ, báo, bò rừng…, có
nhiều loại chim như: bách thanh, sáo sậu, cu gáy, chèo bẻo, gõ kiến… riêng
các loài phường chèo đỏ, bạc má bụng vàng, gõ kiến bụng hung là những loại
chim đặc biệt chỉ thấy xuất hiện ở Đà Lạt. Những năm trước đây, khi bước
chân vào rừng hỗn giao của Đà Lạt có thể bắt gặp ngay nhiều chim, thú rừng
quí, nhưng giờ đây do nạn phá rừng, săn bắt thú rừng quá nhiều và một số tác
nhân khác nên các loài động vật nói trên còn rất ít.

1.2.1.4. Cảnh quan tự nhiên và một số thắng cảnh du lịch nổi tiếng
Cấu trúc địa hình đa dạng và thảm động thực vật phong phú đã tạo cho
cảnh quan tự nhiên Đà Lạt hết sức phong phú và có một sự lôi cuốn đặc biệt.

Những triền đồi nhấp nhô với những rặng thông xanh và thảm cỏ mượt,
những thác nước ầm ào và những hồ nước yên bình, những đồi cao và thung
lũng mộng mơ… tất cả làm cho Đà Lạt có một sức sống riêng và rất hấp dẫn
khách du lịch.


17
Hồ Xuân Hương: Hồ Xuân Hương rộng khoảng 38ha có hình dáng
mảnh trăng lưỡi liềm, là hồ đẹp nhất, ở trung tâm thành phố Đà Lạt. Mặt hồ
phẳng lặng, trong vắt tựa chiếc gương soi, chỉ gợn vài đợt sóng lăn tăn khi có
cơn gió nhẹ thổi qua. Viền quanh hồ là con đường nhựa uốn lượn và bờ cỏ
xanh mượt điểm những cây thông, tùng, anh đào, liễu rủ, tất cả tạo nét duyên
dáng đặc biệt cho hồ và cho thành phố. Hồ Xuân Hương không mang trên
mình nhiều huyền thoại như một số địa danh khác của Đà Lạt. Đây là một hồ
nhân tạo được xây dựng từ năm 1919 với cái tên Pháp là Gran Lake. Năm
1953, theo chủ trương của chính quyền Ngô Đình Diệm cho Việt hoá một số
địa danh ở miền Nam nên hồ đã được mang một cái tên mới là hồ Xuân
Hương. Tên Xuân Hương có ý nghĩa là hương thơm mùa xuân. Nhưng cũng
có ý kiến cho rằng, hồ được lấy tên của nữ sĩ tài hoa – bà chúa thơ nôm nổi
tiếng của Việt Nam - Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương là danh thắng đầu
tiên của Đà Lạt được công nhận là di tích cấp quốc gia.
Đồi Cù: nhiều người cho rằng Đà Lạt sẽ kém phần mỹ lệ nếu thiếu đồi
Cù và hồ Xuân Hương. Đồi Cù như một tấm thảm cỏ xanh mượt trải dài, nhấp
nhô xen lẫn hồ nước nhỏ và những cây thông, cây tùng. Tên đồi Cù không
biết có từ khi nào, nhưng có nhiều cách lý giải hóm hỉnh về tên gọi này. Nếu
nhìn từ xa, những quả đồi ở đây trông giống tấm lưng trần khổng lồ của
những con Cù, cũng có người cho rằng nơi đây là địa điểm chơi golf, hay gọi
là đánh Cù nên có tên là đồi Cù.
Ngay từ năm 1942, khi thiết kế đồ án qui hoạch thành phố Đà Lạt, một
kiến trúc sư người Pháp đã khoanh vùng đồi Cù thành một khu vực thoáng

đãng cho thành phố. Về sau, đồi Cù được xây dựng thành một sân golf 9 lỗ,
sân golf đầu tiên của Việt Nam và khá nổi tiếng ở vùng Đông Nam Á. Khi
còn đương vị, cựu hoàng Bảo Đại thường xuyên ra đây chơi golf cùng các


18
quan chức Pháp. Hiện nay Đồi Cù được xây dựng thành sân golf 18 lỗ, liên
doanh giữa công ty du lịch Lâm Đồng và công ty Danao (Hồng Kông).
Thung lũng Tình Yêu: được biết đến từ thời Pháp với cái tên Vallee
D’amuor. Nơi đây thiên nhiên thơ mộng, phong cảnh hữu tình là chốn hẹn hò
của rất nhiều bạn trẻ. Toàn quyền Đông Dương Varennen và các cặp tình
nhân người Pháp thường đến đây ngắm cảnh, tâm tình vào ngày cuối tuần.
Chính vì vậy mà người Pháp đã đặt cho thắng cảnh này cái tên: Vallee
D’amuor
2
. Năm 1953 được Việt hoá thành tên gọi Thung lũng Tình Yêu.
Năm 1972, một đập ngăn nước được xây dựng tại thung lũng tạo nên
một hồ chứa nước dùng cho sản xuất nông nghiệp khu vực Đa Thiện nên hồ
mang tên là hồ Đa Thiện. Từ trên đồi cao nhìn xuống, Thung lũng Tình Yêu
và hồ Đa Thiện đẹp tựa như một bức tranh. Phía xa, đỉnh Lang Bian ẩn hiện
trong sương, mặt hồ phẳng lặng như gương, soi bóng hàng thông uốn lượn
quanh hồ. Xung quanh Thung lũng Tình Yêu cũng có nhiều đồi thông đẹp
thoai thoải, từ trên đồi có thể phóng tầm mắt ra xa các đồi xung quanh, một
quang cảnh trời mây non nước hữu tình và đầy thơ mộng.
Vườn hoa thành phố: xưa đã từng được nhắc đến với tên gọi vườn
hoa Bích Câu, từ năm 1986 được nâng cấp lên thành công viên hoa thành phố
Đà Lạt. Vườn hoa hiện đang là nơi trưng bày “bộ sưu tập” về hoa lớn nhất và
đầy đủ nhất của Đà Lạt. Thông thường ở các nơi khác hoa nở theo mùa: mùa
thu hoa cúc, mùa xuân hoa đào, hoa lan,… nhưng thật kỳ diệu, phần lớn các
loài hoa ở Đà Lạt nở quanh năm vì khí hậu vừa ôn đới vừa á nhiệt đới. Trăm

hoa đua sắc. Chỉ hoa hồng thôi đã kiêu sa rực rỡ đủ màu : trắng, vàng, hồng
bạch, thiên thanh, xác pháo…bên cạnh cẩm chướng, cẩm tú cầu, tuy-lip, cúc
Nhật, đỗ quyên, trà mi muôn màu. Giống Begonia Rex được đưa từ Ý về lá

2
Trương Phúc Ân – “Bí mật thành phố hoa Đà Lạt”, NXB Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh

×