Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới tại công ty cổ phần chứng khoán Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long - Chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.57 KB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài:
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI TẠI CÔNG TY CỔ
PHẦN CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN NHÀ ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG – CHI NHÁNH HÀ NỘI
Họ và tên sinh viên : Hoàng Minh Đức
Mã sinh viên : CQ500556
Lớp : Tài chính doanh nghiệp 50D
Giáo viên hướng dẫn : Th.S Đặng Ngọc Biên
Hà Nội, tháng 5 năm 2012
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CK Chứng khoán
CTCK Công ty chứng khoán
MHB
Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng
sông Cửu Long
MHBS
Công ty cổ phần chứng khoán ngân hàng
phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long
SGDCK Sở giao dịch chứng khoán
TTCK Thị trường chứng khoán
TTLK Trung tâm lưu ký
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính không thể thiếu được trong
đời sống kinh tế của những nước đang theo cơ chế thị trường và nhất là những nước


đang phát triển đang cần hút nguồn vốn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân. Nhận
thức rõ tầm quan trọng của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế, Chính phủ
Việt Nam quyết tâm phát triển thị trường chứng khoán cả về quy mô và chất lượng
hoạt động nhằm tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển,
góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam. Chính sự sôi động của thị trường
chứng khoán trong những năm gần đây đã kéo theo sự ra đời của hàng loạt các công
ty chứng khoán và sự phát triển của hoạt động môi giới chứng khoán. Môi giới
chứng khoán là một nghiệp vụ không thể thiếu của bất kỳ công ty chứng khoán nào,
là nhân tố quan trọng để tạo nên hình ảnh và uy tín của công ty, tạo điều kiện cho sự
phát triển của các hoạt động khác trong công ty chứng khoán.
Sau hơn 5 năm hoạt động tích cực trên thị trường, công ty cổ phần chứng
khoán MHBS đã đạt được những thành công nhất định nhưng bên cạnh đó vẫn
không thể tránh khỏi những hạn chế trong hoạt động môi giới chứng khoán. Xuất
phát từ tình hình thực tiễn cùng với quá trình thực tập tại MHB, em đã lựa chọn đề
tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới tại công ty cổ phần chứng khoán
Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long - Chi nhánh Hà Nội” làm
luận văn tốt nghiệp.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động môi
giới tại công ty chứng khoán.
Phạm vi nghiên cứu là hoạt động môi giới tại công ty cổ phần chứng khoán
ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ lý luận về hoạt động môi giới tại công
ty chứng khoán. Trên cơ sở đó, nghiên cứu sâu hơn về thực trạng hoạt động môi
1
giới, phân tích đánh giá kết quả, hạn chế và nguyên nhân gây ra các hạn chế hoạt
động môi giới chứng khoán. Từ đó, luận văn đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động môi giới của công ty cổ phần chứng khoán MHB trong thời gian tới.
4. Kết cấu luận văn

Về bố cục, ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được
chia làm 3 phần như sau:
Chương 1: Tổng quan về công ty chứng khoán với hoạt động môi giới của
công ty chứng khoán
Chương 2: Thực trạng về hoạt động môi giới chứng khoán ở công ty cổ
phần chứng khoán MHBS
Chương 3: Một vài giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động môi giới
tại công ty cổ phần chứng khoán MHB
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY
CHỨNG KHOÁN
1.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là một loại hình định chế trung gian đặc biệt trên
thị trường chứng khoán, thực hiện các hoạt động kinh doanh chứng khoán như
ngành nghề kinh doanh chính. Các nghiệp vụ cơ bản của một công ty chứng khoán
đó là nghiệp vụ môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành và tư vấn chứng khoán. Trên
thực tế, một công ty chứng khoán không nhất thiết phải thực hiện đầy đủ các nghiệp
vụ trên tuy nhiên nghiệp vụ môi giới vẫn được coi là nghiệp vụ cơ bản quan trọng
mà hầu hết công ty chứng khoán nào cũng tham gia.
1.1.2. Phân loại công ty chứng khoán
1.1.2.1. Theo mô hình tổ chức kinh doanh
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai mô hình tổ chức của công ty chứng
khoán:
- Mô hình công ty đa năng: Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại
hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh
tiền tệ. Mô hình này chia thành hai loại:
+ Loại đa năng một phần: Các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán
phải lập công ty độc lập tách rời.

Mô hình này có ưu điểm là các công ty được kết hợp kinh doanh các lĩnh vực
khác và kinh doanh chứng khoán, do đó tận dụng được thế mạnh về tài chính, kinh
nghiệm, mạng lưới khách hàng rộng khắp của công ty. Bên cạnh đó, có những quy
định hoạt động riêng rẽ giữa hai hoạt động trên nên có thể hạn chế được rủi ro nếu
có sự biến động của một trong hai thị trường. Mô hình này thường được áp dụng ở
những thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động, chưa có hệ thống pháp luật
hoàn thiện và đồng bộ.
3
+ Loại đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng được kinh doanh chứng
khoán, kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ.
Khác với mô hình chuyên doanh, ưu điểm của mô hình này là công ty có thể
kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro cho hoạt động kinh
doanh và tăng khả năng chịu đựng những biến động bất thường của TTCK.
Tuy nhiên, mô hình đa năng hoàn toàn còn tồn tại một số hạn chế như:
TTCK phát triển chậm vì hoạt động chủ yếu của hệ thống ngân hàng dùng vốn để
cấp tín dụng và dịch vụ thanh toán, do đó ngân hàng thường quan tâm đến lĩnh vực
ngân hàng hơn là lĩnh vực chứng khoán. Hơn nữa trong trường hợp TTCK biến
động mạnh sẽ có thể có tác động xấu đến lĩnh vực kinh doanh tiền tệ do không có
sự tách biệt giữa hai loại hình kinh doanh này.
- Mô hình công ty chuyên doanh: Theo mô hình này, các ngân hàng không
được tham gia kinh doanh chứng khoán. Hoạt động này sẽ do các công ty độc lập,
chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận.
Ưu điểm của mô hình này là hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng do
những ảnh hưởng tiêu cực của TTCK, và các ngân hàng không được sử dụng vốn
huy động để đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán gây lũng đoạn thị trường. Mặt khác,
với sự chuyên môn hoá sẽ tạo điều kiện cho TTCK phát triển. Điển hình của mô
hình này là các CTCK ở Mỹ, Nhật, Hàn Quốc có sự tách bạch giữa hoạt động
ngân hàng và kinh doanh chứng khoán.
Tuy nhiên mô hình này có hạn chế là không tận dụng được những lợi thế
của hệ thống ngân hàng như vốn lớn, kinh nghiệm quản lý lâu năm trên thị trường

tiền tệ.
Hiện nay do xu thế hình thành nên các tập đoàn tài chính khổng lồ nên một
số thị trường cũng cho phép kinh doanh trên nhiều lĩnh vực tiền tệ, chứng khoán,
bảo hiểm, nhưng được tổ chức thành công ty mẹ, công ty con và có sự quản lý giám
sát chặt chẽ và hoạt động tương đối độc lập với nhau, sẽ phát huy tối đa những lợi
thế của ngân hàng, đồng thời do sự tách bạch nghiệp vụ giữa công ty mẹ, công ty
con nên việc chuyên môn hoá trên thị trường ngày càng được nâng cao.
4
1.1.2.2. Phân loại theo tổ chức công ty chứng khoán
Theo quy định hiện nay tại Việt Nam, công ty chứng khoán được tổ chức
dưới 2 mô hình: Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn.
Công ty cổ phần
Công ty chứng khoán cũng như cac doanh nghiệp các cũng phải tuân thủ
luật Doanh nghiệp ban hành năm 2005. Theo đó, đây là một pháp nhân độc lập với
các chủ sở hữu là các cổ đông. Các cổ đông có thể là cá nhân hay tổ chức với số
lượng tối thiểu là 3. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vôn đã góp vào
công ty. Công ty cổ phần chứng khoán cũng được phát hành các loại chứng khoán
như: cổ phiếu, trái phiếu để huy động vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
mình.
Công ty trách nhiệm hữu hạn
Đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, các thành viên góp vốn chịu
trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn cam kết góp của mình. Công ty trách
nhiệm hữu hạn được chia làm 2 loại: công ty trách nhiệm một thành viên, và công
ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Tuy nhiên nhược điểm hơn so với
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ được phát hành trái phiếu mà
không đựơc quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn.
1.1.3. Vai trò của công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là một tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển
của thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ có các
công ty chứng khoán mà các cổ phiếu, trái phiếu… được lưu thông buôn bán tấp

nập trên thị trường, qua đó một lượng vốn rất lớn được đưa vào đầu tư từ những
nguồn vốn phân tán nhỏ lẻ trong công chúng tập hợp lại. Đối với mỗi chủ thể khác
nhau trong nền kinh tế, vai trò của các công ty chứng khoán cũng được nhìn nhận
dưới những góc độ khác nhau.
5
1.1.3.1. Đối với tổ chức phát hành
Thông qua nghiệp vụ tư vấn bảo lãnh phát hành, các CTCK hỗ trợ đắc lực
cho các tổ chức phát hành đưa cổ phiếu ra thị trường, từ đó huy động nguồn vốn lớn
phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh một cách hiệu quả.
1.1.3.2. Đối với nhà đầu tư
Thông qua các dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư như: môi giới, tư vấn đầu tư,
quản lý danh mục đầu tư CTCK có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch,
do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Việc trao đổi chứng khoán qua công ty
chứng khoán thông qua nghiệp vụ môi giới cũng sẽ giảm bớt nhiều rủi ro có thể gặp
phải cho nhà đầu tư, tạo cơ hội cho nhà đầu tư nắm bắt thông tin các cổ phiếu, trái
phiếu trên thị trường, giúp chọn lựa chứng khoán tốt để đầu tư. Mặt khác với trình
độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp, CTCK sẽ giúp các nhà đầu tư thực hiện
các đầu tư một cách hiệu quả hơn.
1.1.3.3. Đối với thị trường chứng khoán
 Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường:
Trên thị trường sơ cấp, các CTCK cùng các nhà phát hành đưa ra mức giá
đầu tiên. Chính vì vậy giá cả của mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có sự tham
gia định giá của các CTCK, các CTCK còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia
điều tiết thị trường. Để bảo vệ những khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích
của chính mình, nhiều CTCK đã dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện
vai trò bình ổn thị trường.
 Góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính
Trên thị trường cấp một, do thực hiện các nghiệp vụ như bảo lãnh phát hành
giúp chứng khoán hoá nguồn vốn, các CTCK không những huy động được nguồn
vốn đưa vào sản xuất, kinh doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh

khoản của các tài sản tài chính được đầu tư. Vì các chứng khoán qua đợt phát hành
sẽ được mua bán giao dịch trên thị trường cấp hai. Điều này giúp giảm rủi ro, tạo
nên tâm lý yên tâm cho nhà đầu tư.
6
Trên thị trường cấp hai, do thực hiện giao dịch mua và bán, các CTCK giúp
người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại, có thể lựa chọn
mua bán được nhiều loại chứng khoán. Những hoạt động đó có thể làm tăng tính
thanh khoản của những tài sản tài chính.
1.1.3.4. Đối với cơ quan quản lý thị trường
Mục tiêu của cơ quan quản lý thị trường là quản lý và bình ổn thị trường
giúp cho thị trường hoạt động một cách có hiệu quả nhất. Các công ty chứng khoán
có vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp các thông tin cho các cơ quan quản lý
để họ thực hiện tốt mục tiêu đó. Các CTCK là công ty hoạt động chuyên nghiệp
trên thị trường do đó nắm được nhiều thông tin về các giao dịch trên thị trường,
thông tin về các loại cổ phiếu, trái phiếu, thông tin về tổ chức phát hành và nhà đầu
tư vì CTCK vừa là người bảo lãnh phát hành vừa là người phát hành chứng khoán
ra công chúng thông qua các hoạt động bảo lãnh và đại lý bảo lãnh phát hành, vừa
là trung tâm mua và bán các chứng khoán. Việc công khai các thông tin vừa là quy
định của hệ thống pháp luật vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các CTCK vì các
công ty chứng khoán cần phải minh bạch trong hoạt động của mình. Nhờ các thông
tin này mà các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng
thao túng, lũng đoạn thị trường để bảo vệ nhà đầu tư.
1.1.4. Điều kiện thành lập và nguyên tắc hoạt động công ty chứng khoán
1.1.4.1. Điều kiện thành lập
 Có trụ sở, có trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh chứng khoán,
đối với ngiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư thì không
phải đáp ứng điều kiện về trang thiết bị.
 Có vốn pháp định theo từng loại hình kinh doanh như sau
o Môi giới chứng khoán 25 tỷ đồng
o Tự doanh 100 tỷ đồng

o Bảo lãnh phát hành 165 tỷ đồng
o Tư vấn 10 tỷ đồng
7
 Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán (nghiệp vụ môi giới, tư vấn, bảo lãnh phát hành, tự
doanh) phải có chứng chỉ hành nghề chứng khoán.
Trường hợp cổ đông sáng lập hoặc thành viên sáng lập là cá nhân phải có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không thuộc trường hợp đang phải chấp hành hình
phạt tù hoặc bị toà án cấm hành nghề kinh doanh, trường hợp là pháp nhân phải
đang hoạt động hợp pháp và có đủ năng lực tài chính để tham gia góp vốn. Các cổ
đông sáng lập hoặc thành viên sáng lập phải sử dụng nguồn vốn của chính mình để
góp vốn thành lập công ty chứng
1.1.4.2. Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán
Hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán dựa trên hai nhóm nguyên
tắc cơ bản đó là nguyên tắc tài chính và nguyên tắc đạo đức.
a. Nhóm nguyên tắc tài chính
CTCK phải đảm bảo một số tiêu chí sau :
- Mức vốn hoạt động: Vốn của một CTCK ít hay nhiều phụ thuộc vào loại tài
sản tài trợ, loại tài sản đó lại quyết định bởi loại hình nghiệp vụ thực hiện. Chẳng
hạn, bảo lãnh phát hành chứng khoán là hình thức kinh doanh mà CTCK cần có
tiềm lực tài chính mạnh, có nhiều vốn, nhất là trường hợp tổ chức bảo lãnh đứng ra
bảo lãnh đợt phát hành lớn. Vì vậy nghiệp vụ bảo lãnh phát hành đòi hỏi vốn phải
đủ lớn. Còn các hoạt động môi giới, tư vấn tài chính do đặc điểm của các hoạt động
này, nên không cần vốn lớn.
Khi công ty chứng khoán kinh doanh càng nhiều nghiệp vụ thì yêu cầu mức
vốn điều lệ tối thiểu càng cao. Trên cơ sở các yếu tố khác nhau như quy mô thị
trường, giao dịch dự kiến, khả năng tài chính của các công ty chứng khoán mà mỗi
quốc gia khác nhau có quy định khác nhau về mức vốn pháp định. Ví dụ, các công
ty chứng khoán Hàn Quốc muốn tham gia ba loại hình kinh doanh: môi giới, tự
doanh, bảo lãnh phát hành chứng khoán phải có vốn điều lệ tối thiểu là 50 tỷ won; ở

Việt Nam, các công ty chứng khoán muốn tham gia bốn loại hình kinh doanh: môi
8
giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng
khoán phải có vốn điều lệ tối thiểu là 300 tỷ.
- Cơ cấu vốn: Cơ cấu vốn cho biết tỷ lệ của tài sản dài hạn và tài sản ngắn
hạn trong tổng vốn như thế nào. Xây dựng cơ cấu vốn phản ánh sử dụng bình quân
1 đồng vốn dành ra bao nhiêu đồng đầu tư hình thành tài sản dài hạn, tài sản ngắn
hạn. Trong cơ cấu vốn, các công ty chứng khoán phụ thuộc nhiều vào các khoản
vay ngắn hạn; phần lớn trong tài sản là các chứng khoán có thể mua, bán, trao đổi
trên thị trường…
- Quản lý vốn và hạn mức kinh doanh: Các CTCK phải tuân thủ các nguyên
tắc về sử dụng vốn và các hạn mức kinh doanh. Các nguyên tắc này khác nhau tuỳ
theo đặc điểm của từng nghiệp vụ mà các công ty chứng khoán thực hiện. Các
nguyên tắc về sử dụng vốn thường bao gồm: cơ cấu vốn (tỷ lệ nợ so với vốn chủ sở
hữu), mức vốn khả dụng phải duy trì, trích lập quỹ bù đắp rủi ro, quỹ dự trữ bổ sung
vốn điều lệ Tại Việt Nam cũng quy định cụ thể về hạn mức kinh doanh để hạn chế
rủi ro đối với các công ty chứng khoán như quy định về mức mua sắm tài sản cố
định, hạn mức đầu tư vào mỗi loại chứng khoán, hạn mức bảo lãnh phát hành.
b. Nhóm nguyên tắc đạo đức
CTCK phải tuân thủ các nguyên tắc đạo đức sau:
- CTCK phải hoạt động dựa trên nguyên tắc trung thực, tận tuỵ, bảo vệ và vì
quyền lợi của khách hàng, ưu tiên bảo vệ lợi ích của khách hàng trước lợi ích của
mình.
- CTCK có nghĩa vụ bảo mật thông tin của khách hàng và chỉ được tiết lộ khi
cơ quan có thẩm quyền yêu cầu.
- CTCK phải giữ nguyên tắc giao dịch công bằng, không được sử dụng bất kì
hành động lừa đảo phi pháp nào, có trách nhiệm thông báo cho khách hàng biết đầy
đủ các thông tin khi có thể xảy ra xung đột lợi ích.
- CTCK không đựơc dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính để kinh
doanh, ngoại trừ trường hợp só tiền đó để phục vụ cho giao dịch của khách hàng.

9
- CTCK phải quản lý tách biệt tài sản của khách hàng và tài khoản của mình
và các tài sản của khách hàng với nhau.
- CTCK khi thực hiện nghiệp vụ tư vấn phải cung cấp thông tin đầy đủ cho
khách hàng và giải thích rõ ràng về các rủi ro mà khách hàng có thể phải gánh chịu,
đồng thời không được khẳng định về mức lợi nhuận của các khoản đầu tư mà họ tư
vấn.
- CTCK không được tiếp nhận bất cứ khoản thù lao nào ngoài các khoản thù
lao thông thường cho dịch vụ của mình.
Ngoài các quy định trên pháp luật các nước cũng có các điều khoản chống
thao túng thị trường như hạn chế sự hợp tác giữa các tổ chức kinh doanh chứng
khoán, cấm các giao dịch mua bán giả tạo và khớp lệnh với mục đích tạo ra một
trạng thái giao dịch tích cực bề ngoài (trên thị trường hay gọi đó là hiện tượng làm
giá của các chứng khoán). CTCK cũng không được đưa ra những lời đồn đại, gian
lận, xúi giục hoặc dùng hành vi lừa đảo khác trong giao dịch chứng khoán.
Bên cạnh các quy định về thao túng thị trường, giao dịch nội gián cũng là
vấn đề được quản lý khá chặt chẽ. Theo đó các CTCK không được phép sử dụng
các thông tin nội bộ mà mình có được để mua bán chứng khoán cho chính mình,
gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng.
1.1.5. Các hoạt động của công ty chứng khoán
1.1.5.1. Các nghiệp vụ chính của công ty chứng khoán
a. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động gián tiếp, đại diện bán, mua chứng
khoán cho khách hàng để được hoa hồng, làm dịch vụ nhận các lệnh mua, lệnh bán
chứng khoán cho khách hàng, chuyển các lệnh mua bán đó vào Sở giao dịch chứng
khoán và hưởng hoa hồng môi giới. Do đó môi, giới vẫn được hiểu là đại diện-
được ủy quyền để thay mặt khách hàng bán mua một, một số loại chứng khoán.
Với tư cách của người môi giới là ngoài việc tiến hành giao dịch theo chỉ thị
khách hang của công ty chứng khoán thường cung cấp các hoạt động tiện ích khác:
- Quản lý tài khoản tiền gửi, tài khoản chứng khoán cho khách hàng;

10
- Quản lý các lệnh giao dịch của khách hàng;
- Vận hành các đầu mối thông tin, tư vấn cho khách hàng về đầu tư chứng
khoán.
b. Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán
Tự doanh chứng khoán là các hoạt động mua, bán chứng khoán cho chính
mình để hưởng lợi nhuận từ việc đầu tư chứng khoán mang lại như chênh lệch giá,
cổ tức, lãi trái phiếu và các quyền khác kèm theo việc sở hữu chứng khoán.
Khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh, công ty chịu trách nhiệm với quyết định
của công ty, tự gánh chịu rủi ro từ quyết định mua, bán chứng khoán của mình.
Hoạt động này thường song hành với dịch vụ môi giới. Vì vậy, khi thực hiện hai
hoạt động này có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa công ty chứng khoán và lợi ích
của khách hàng. Do đó luật pháp các nước yêu cầu phải tách biệt rõ ràng hoạt động
tự doanh chứng khoán và hoạt động môi giới chứng khoán, theo đó công ty chứng
khoán phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công
ty, thậm chí luật pháp ở một số nước còn quy định hai loại hình CTCK là công ty
môi giới chứng khoán chỉ làm chức năng môi giới chứng khoán và CTCK có không
làm nghiệp vụ tự doanh, hoặc tách ra kinh doanh
Ở một vài thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá hoạt động tự doanh của
công ty chứng khoán gắn liền với hoạt động tạo lập của thị trường. Các công ty
chứng khoán phải thực hiện nghiệp vụ tự doanh qua việc mua bán trên thị trường
với vai trò định hướng và điều tiết hoạt động của thị trường, góp phần bình ổn giá
cả trên thị trường.
Giao dịch chứng khóan tự doanh được thực hiện theo phương thức giao dịch
trực tiếp hay gián tiếp.
Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch giữa khách hàng và CTCK theo giá thỏa
thuận trực tiếp. Các đối tác giao dịch do các tổ chức tự “đấu mối”, họ có thể là cá
nhân, hoặc tổ chức (chủ yếu là các công ty chứng khoán). Thời gian giao dịch
thường được thực hiện trong và ngoài giờ giao dịch của Sở giao dịch kể cả ban đêm
11

và ngày nghỉ. Đối tượng giao dịch loại này thường là các trái phiếu, các cổ phiếu
đăng ký giao dịch ở thị trường phi tập trung.
Giao dịch gián tiếp: Công ty chứng khoán đặt các lệnh mua và bán của mình
trên sở giao dịch, lệnh của họ có thể thực hiện với bất kỳ khách hàng nào không xác
định trước.
c. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức, bảo lãnh giúp tổ chức phát
hành thực hiện các thủ tục, trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối
chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán giai đoạn đầu sau phát hành. Quá
trình bao gồm việc tư vấn tài chính, định giá chứng khoán, chuẩn bị hồ sơ xin phép
phát hành, phân phối và điều hòa giá chứng khoán. Tùy theo từng nước, các công ty
có chức năng thực hiện bảo lãnh phát hành thường là các công ty chứng khoán, các
ngân hàng thương mại, các ngân hàng đầu tư, các ngân hàng thương mại và tổ chức
tài chính. Các công ty này có thể tham gia vào đợt bảo lãnh với tư cách là thành
viên tổ hợp nhà bảo lãnh phát hành chính hay đại lý phát hành.
Hiện nay có rất nhiều phương thức bảo lãnh phát hành chứng khoán, và các
phương thức chủ yếu bao gồm:
Bảo lãnh theo phương thức cam kết chắc chắn: Là hình thức bảo lãnh mà tổ
chức bảo lãnh phát hành nhận mua toàn bộ số chứng khoán trong đợt phát hành của
tổ chức phát hành theo giá thỏa thuận, sau đó sẽ bán ra thị trường theo mức giá chào
bán ra công chúng (POP). Mức giá thỏa thuận là mức giá chiết khấu so với mức giá
POP (Giá POP là mức giá đã được xác định qua quá trình tư vấn, nếu là phát hành
ra công chúng thì giá POP đã được ghi trong bản cáo bạch). Thu nhập mà nhà bảo
lãnh nhận được thường được gọi là hoa hồng bảo lãnh. Rủi ro mà tổ chức bảo lãnh
có thể gặp phải khi thực hiện hình thức bảo lãnh này là không bán hết được số
chứng khóa họ đã mua, họ sẽ buộc phải trở thành nhà đầu tư đối với doanh nghiệp
hoặc các khoản hoa hồng bảo lãnh không đủ bù đắp phần chi phí bảo lãnh họ bỏ ra.
Phương thức này thông dụng khi việc mua bán chứng khoán trở nên phổ biến và các
CTCK có thể dự đoán được một cách khá chính xác kết quả của nghiệp vụ nhận bán
12

chứng khoán. Hiện nay TTCK Việt Nam quy định việc phát hành chứng khoán ra
công chúng bắt buộc thông qua nhà bảo lãnh phát hành đây.
Bảo lãnh theo phương thức cố gắng tối đa: Đây là hình thức bảo lãnh mà tổ
chức bảo lãnh phát hành đống vai trò như một đại lý phát hành và cam kết sẽ cố
gắng đến mức tối đa để bán hết số chứng khoán cần phát hành cho tổ chức phát
hành theo mức giá đã được xác định trước. Trường hợp không bán hết, số chứng
khoán còn lại được trả về cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh được hưởng hoa
hồng trên số chứng khoán đã được bán ra.
Đây là phương thức nhận bán ít mạo hiểm hơn so với phương thức trên
thường được các CTCK mới thành lập, không muốn phiêu lưu nhiều, nên chỉ đơn
giản muốn thu lợi nhuận từ hoa hồng được hưởng do bán hộ.
Bảo lãnh theo phương thức tất cả hoặc không: Đây là trường hợp áp dụng
cho tổ chức phát hành chứng khoán cần một số vốn nhất định để giải quyết một mục
tiêu nhất định. Nếu huy động được đủ số vốn cần thiết đó thì sẽ thực hiện phát hành,
nếu không huy động đủ thì sẽ huỷ bỏ. Tiền đặt mua chứng khoán sẽ được trả lại cho
nhà đầu tư và tổ chức bảo lãnh phát hành sẽ không nhận được bất cứ một khoản hoa
hồng nào. Rủi ro của phương thức này được san sẻ cho cả hai bên.
Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: Là phương thức bảo lãnh mà tổ chức
bảo lãnh cam kết nếu chứng khoán không được bán hết, tổ chức bảo lãnh sẽ mua
nốt số chứng khoán còn lại của tổ chức phát hành, sau đó bán ra công chúng.
Đối với tổ chức phát hành nếu theo phương thức bảo lãnh này, sẽ chắc chắn
bán được hết số chứng khoán dự định phát hành ra. Phương thức này thường được
áp dụng đối với các công ty cổ phần lớn, mang tính đại chúng muốn phát hành bổ
sung cổ phiếu thưởng mới để tăng vốn. Phát hành thêm cổ phiếu thường mới sẽ
dành quyền ưu tiên mua cho các cổ động cũ. Công ty áp dụng phương thức bảo lãnh
dự phòng sẽ đảm bảo nếu như các cổ đông cũ không dùng quyền mua cổ phiếu thì
các cổ phiếu không bán được cũng sẽ có tổ chức bảo lãnh mua để sau đó bán ra
công chúng.
13
Tổ chức bảo lãnh cũng chỉ được nhận hoa hồng bảo lãnh khi tổ chức phát

hành không bán được hết số chứng khoán. Khoản thu nhập mang lại cho tổ chức
bảo lãnh cũng không nhiều như hình thức bảo đảm chắc chắn, tuy nhiên rủi ro cũng
thấp hơn do trách nhiệm của tổ chức bảo lãnh cũng giảm hơn. Rủi ro đối với nhà
bảo lãnh đó chính là sự e ngại của thị trường khi các cổ đông cũ không mua các cổ
phiếu mới do có thể công ty không hấp dẫn. Do đó cổ phiếu đó sẽ khó bán hơn trên
thị trường.
Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu-tối đa: Đó là phương thức kết hợp giữa
phương thức cố gắng cao nhất và tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức
phát hành yêu cầu một mức bán tối thiểu, nếu bán dưới mức tối thiểu đợt phát hành
sẽ bị huỷ bỏ, nếu vượt trên mức tối thiểu tổ chức bảo lãnh được phép bán đến mức
tối đa quy định. Do đó tổ chức bảo lãnh chỉ nhận được hoa hồng khi bán được mức
tối thiểu đã cam kết.
Công ty chứng khoán có thể là một tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán
hoặc là thành viên trong tổ bảo lãnh hoặc chỉ là một đại lý phân phối. Khi đợt đợt
bảo lãnh phát hành một khối lượng chứng khoán lớn mà một công ty chứng khoán
không thể thực hiện bảo lãnh hết được, khi đó sẽ hình thành tổ bảo lãnh gồm nhiều
thành viên bảo lãnh sẽ cùng nhau chia sẻ rủi ro, hoa hồng từ đợt bảo lãnh, đợt bảo
lãnh có khả năng thành công cao hơn.
d. Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán
Tư vấn đầu tư chứng khoán là nghiệp vụ có tính phí thông qua một số loại
đầu tư đặc biệt, hoặc chỉ là tư vấn qua bản tin, dịch vụ quản lý tiền khách hàng. Tư
vấn chứng khoán là dịch vụ mà CTCK cung cấp cho khách hàng, nhằm giúp cho
khách hàng tham gia vào các quá trình phân phối, mua bán, niêm yết chứng khoán
trên TTCK dựa trên nền tảng tính chuyên nghiệp của mình nhằm mục đích thu phí
hoa hồng.
Có rất nhiều cách phân loại hoạt động tư vấn nhưng thông thường người ta
quan tâm tới việc phân loại theo đối tượng của tư vấn là: Tư vấn đầu tư chứng
khoán và tư vấn tài chính.
14
Tư vấn đầu tư chứng khoán: Là hoạt động tư vấn liên quan đến chứng khoán

hoặc công bố và phát hành các báo cáo phân tích, đưa ra lời khuyên có liên quan
đến chứng khoán hoặc thực hiện một số công việc có tính chất dịch vụ cho khách
hàng. Tư vấn đầu tư bao gồm: Tư vấn mua bán chứng khoán, tạo dựng danh mục
đầu tư và quản trị điều hành tài sản đầu tư.
Tư vấn tài chính: Là việc CTCK tư vấn cho các doanh nghiệp trong việc xác
định giá trị doanh nghiệp, tái cơ cấu tài chính, phát hành chứng khoán, chia tách,
sáp nhập hợp nhất doanh nghiệp.
1.1.5.2. Các hoạt động phụ trợ của công ty chứng khoán
a. Hoạt động Lưu ký chứng khoán
Lưu ký chứng khoán là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng
và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán đã lưu ký
như: quyền nhận cổ tức, trái tức, cổ phiếu thưởng Đây là một hoạt động hết sức
quan trọng và cần thiết trên TTCK tập trung. Lưu ký chứng khoán đảm bảo quá
trình thanh toán trên SGDCK được nhanh chóng và chính xác, an toàn và giúp cho
CK không bị rách hỏng hay bị thất lạc.
Tại Việt Nam hiện nay hệ thống lưu ký ở Việt Nam được phân thành 2 cấp:
Trong cấp thứ nhất, nhà đầu tư trực tiếp mở tài khoản giao dịch tại các công
ty chứng khoán hoặc tại cá ngân hàng thương mại được Uỷ ban chứng khoán nhà
nước cấp phép hoạt động lưu ký và đã đăng ký làm thành viên lưu ký tại Trung tâm
Lưu ký.
Trong cấp thứ 2, các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại mở tài
khoản tại Trung tâm Lưu ký và trở thành thành viên lưu ký để thực hiện việc ký
gửi, rút chứng chỉ chứng khoán và các hoạt động bù trừ và thanh toán.
b. Hoạt động Quản lý thu nhập của khách hàng
Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ theo dõi
tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả
cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
15
c. Hoạt động Tín dụng
Đây là một hoạt động thông dụng tại các TTCK phát triển. Còn ở các TTCK

mới nổi thì các hoạt động này bị hạn chế. Thậm chí ở một số nước hoạt động này
còn bị cấm. Nghiệp vụ tín dụng của CTCK có thể hiểu là CTCK cho vay chứng
khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống hoặc cho khách hàng vay tiền
để họ thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ.
Cho vay ký quỹ: Là một hình thức của giao dịch bảo chứng, là hình thức cấp
tín dụng của CTCK cho khách hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng
các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ
một phần tiền, số còn lại sẽ do CTCK ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn thoả
thuận khách hàng phải trả hoàn đủ cả gốc và lãi cho CTCK. Trường hợp khách
hàng không trả được nợ thì công ty có quyền bán số chứng khoán đã mua để thu khoản
vay.
Rủi ro đối với CTCK là các CK được thế chấp có thể bị giảm tới mức giá trị của
chúng thấp hơn giá trị khoản vay ký quỹ. Vì thế khi cho vay ký quỹ chứng khoán CTCK
phải có những nguyên tắc riêng để đảm bảo thu hồi vốn tránh tình trạng tập trung vào một
khách hàng hay một loại chứng khoán nhất định.
Nghiệp vụ hỗ trợ bán khống: cũng là một hình thức của giao dịch bảo chứng.
Trong nghiệp vụ này CTCK cho khách hàng vay bằng chứng khoán để bán sau đó khách
hàng sẽ trả nợ bằng chính các chứng khoán sau một thời gian. Để được vay chứng khoán
khách hàng phải thế chấp một số tiền tỷ lệ với giá trị của chứng khoán được vay, thường là
50% giá thị trường của chứng khoán.
Ngoài một số các hoạt động trên hiện nay các CTCK luôn phát triển các sản phầm,
dịch vụ mới phục vụ nhu cầu của khách hàng và xu thế phát triển của khoa học công nghệ:
Dịch vụ ứng trước tiền bán tự động, hay các sản phẩm dịch vụ thông sàn…
1.2. HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI VÀ MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.2.1. Khái niệm về môi giới chứng khoán
16
Môi giới chứng khoán được hiểu là hoạt động trung gian đại diện mua bán
chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó các công ty chứng khoán
sẽ thực hiện nghiệp vụ môi giới sẽ làm dịch vụ nhận các lệnh mua, lệnh bán chứng

khoán của khách hàng, chuyển các lệnh mua, lệnh bán chứng khoán đó vào Sở giao
dịch chứng khoán và hưởng hoa hồng môi giới. Do đó CTCK còn được hiểu là đại
diện - được uỷ quyền thay mặt cho khách hàng để thực hiện mua bán một hoặc một
số loại chứng khoán, tiến hành giao dịch chứng khoán thông qua cơ chế giao dịch
tại SGDCK hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối
với kết quả giao dịch của mình
Tại Việt Nam, theo luật chứng khoán ngày 29/6/2006 thì môi giới chứng
khoán được hiểu là việc công ty chứng khoán làm trung gian thực hiện mua, bán
chứng khoán cho khách hàng.
Hoạt động môi giới tuân theo một số nguyên tắc: ký kết hợp đồng dịch vụ
với khách hang có mở tài khoản chứng khoán cho khách hang thì nhận các lệnh
mua hoặc bán chứng khoán của khách hàng, thanh toán và quyết toán các doanh vụ,
cung cấp các giấy chứng nhận chứng khoán.
Nghề môi giới chứng khoán đòi hỏi những phẩm chất đạo đức nghề nghiệp
cao, với chất lượng công việc tốt. Kỹ năng của người môi giới (xem phụ lục 1: Các
kỹ năng của nhà môi giới) thể hiện qua kỹ năng truyền đạt thông tin, kỹ năng tìm
kiếm khách hàng, kỹ năng khai thác thông tin.
Trong hoạt động môi giới chứng khoán có một số điểm cần lưu ý:
- Quyết định mua bán là của khách hàng đưa ra và người môi giới phải thực
hiện theo lệnh đó;
- Người môi giới đứng tên mình thực hiện các giao dịch chứng khoán theo
lệnh của khách hàng;
- Việc hạch toán cho các giao dịch phải được thực hiện trên các tài khoản sở
hữu của khách hàng;
- Người môi giới được thu phí dịch vụ theo thoả thuận hợp đồng uỷ thác giao
dịch.
17
Kết hợp cùng với hoạt động môi giới, CTCK sẽ chuyển đến khách hàng
những sản phẩm dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán
với nhà đầu tư mua chứng khoán trong những trường hợp nhất định.

1.2.2. Phân loại môi giới chứng khoán
Tuỳ theo qui định của mỗi nước cách thức hoạt động của từng Sở giao dịch
mà người ta có thể phần chia thành nhiều loại nhà môi giới cụ thể như sau:
 Nhà môi giới dịch vụ (Full service broker)
Là loại môi giới có thể cung cấp đầy đủ dịch vụ như mua bán chứng khoán,
giữ hộ cổ phiếu, thu cổ tức, cho khách hàng vay tiền, cho vay cổ phiếu để bán trước,
mua sau và nhất là có thể cung cấp tài liệu, cho ý kiến cố vấn trong việc đầu tư.
 Môi giới chiết khấu( Discount broker)
Là loại môi giới chỉ cung cấp một số dịch vụ như mua bán hộ chứng khoán.
Đối với môi giới loại này thì khoản phí môi giới thấp nhẹ hơn môi giới toàn dịch vụ
vì không có tư vấn, nghiên cứu thị trường.
 Môi giới uỷ nhiệm hay môi giới thừa hành
Đây là những nhân viên của một công ty chứng khoán thành viên của Sở
giao dịch, làm việc hưởng lương của một công ty chứng khoán và được bố trí để
thực hiện các lệnh mua, bán cho các công ty chứng khoán hay cho khách hàng của
công ty chứng khoán trên sàn giao dịch. Vì thế họ có tên chung là môi giới trên sàn.
Các lệnh mua bán được chuyển đến cho các nhà môi giới thừa hành này có thể từ
văn phòng công ty, cũng có thể từ các nhà môi giới đại diện.
 Môi giới độc lập hay môi giới 2 đô la
Môi giới độc lập chính là các môi giới làm việc cho chính họ và hưởng hoa
hồng hay thù lao theo dịch vụ. Môi giới độc lập là một thành viên tự bỏ tiền ra thuê
chỗ tại Sở giao dịch giống như các công ty chứng khoán thành viên. Nhà môi giới
độc lập thường thực hiện các lệnh cho các công ty thành viên khác của Sở giao dịch
khi số lượng giao dịch lớn và vượt quá khả năng đáp ứng của CTCK. Hợp đồng môi
giới sẽ được ký kết giữa CTCK và nhà môi giới độc lập trong đó quy định cụ thể
mức phí môi giới. Ban đầu mức phí này là 2USD/một lô chẵn (100 cổ phần), do đó
18
những nhà môi giới độc lập được gọi là nhà môi giới 2 đola. Trong nhiều trường
hợp, nhà môi giới độc lập còn được gọi là nhà môi giới trên sàn vì hoạt động không
khác gì nhà môi giới thừa hành ngoại trừ việc họ không thuộc về một CTCK nào.

 Nhà môi giới chuyên môn
Tại một số SGDCK quy định mỗi loại chứng khoán được giao dịch ở một
quầy giao dịch cụ thể và những quầy giao dịch được bố trí xung quanh sàn giao
dịch. Trong quầy giao dịch, nhà môi giới được biết đến với nhà môi giới chuyên
môn hay chuyên gia khi thực hiện đồng thời hai nghiệp vụ: Môi giới và tạo lập thị
trường cho một số loại chứng khoán nhất định.
1.2.3. Vai trò của hoạt động môi giới chứng khoán
1.2.3.1. Đối với công ty chứng khoán
 Tạo doanh thu cho công ty
Hoạt động của các nhân viên môi giới cũng đem lại nguồn thu nhập đáng kể
cho các công ty chứng khoán. Các kết quả nghiên cứu cho thấy ở những thị trường
phát triển, 20% trong tổng số những nhà môi giới đã tạo ra 80% nguồn thu từ hoa
hồng cho ngành, tính trung bình một người môi giới hàng đầu điển hình tạo ra
khoản thu từ hoa hồng nhiều gấp 16 lần mức thu của một người môi giới trung bình.
Nguồn thu của người bán hàng gồm: hoa hồng, các khoản tín dụng bán hàng, các
khoản chênh lệch giá mua bán, các khoản chi phí cho các dịch vụ hoặc sản phẩm
đặc biệt, các khoản thu do nỗ lực bán hàng của họ.
 Góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán
Một trong những nhân tố quan trọng làm nâng cao năng lực cạnh tranh của
các đơn vị kinh doanh nói chung và công ty chứng khoán nói riêng là đa dạng hoá
sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ được cung cấp cho khách hàng.
Khi thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán, đóng vai trò làm trung gian đại diện
cho khách hàng tiên hành các giao dịch, công ty chứng khoán có thể nắm bắt được
nhu cầu cũng như mong muốn của khách hàng. Từ đó công ty chứng khoán tiến
hành nghiên cứu cho ra đời những sản phẩm dịch vụ mới, nâng cao chất lượng phục
vụ của sản phẩm hiện có nhằm thoả mãn hơn nữa nhu cầu của khách hàng, thu hút
19
thêm nhiều khách hàng tìm đến, giữ được lượng khách hàng đã có và ngày càng ra
tăng khối lượng tài sản mà khách hàng tin tưởng uỷ thác cho công ty chứng khoán
quản lý. Môi giới chứng khoán với đội ngũ nhân viên thường xuyên tiếp xúc với

khách hàng sẽ tạo nên hình ảnh của công ty chứng khoán làm tăng tính cạnh tranh
của công ty chứng khoán trên thị trường.
1.2.3.2. Đối với nhà đầu tư
 Góp phần làm giảm chi phí giao dịch, chi phí tìm kiếm và xử lý thông tin
Trên thị trường chứng khoán-thị trường của những sản phẩm và dịch vụ bậc
cao- để thẩm định chất lượng và giá cả hàng hóa, người ta cần nguồn chi phí rất lớn
để phục vụ cho việc thu thập, xử lý thông tin, đào tạo kỹ năng phân tích và tiến
hành giao dịch theo một quy trình xác định của hệ thống thị trường đấu giá tập
trung. Các công ty chứng khoán hoạt động chuyên nghiệp với quy mô lớn mới có
khả năng trang trải những chi phí này do được hưởng lợi thế quy mô. Ngoài ra, sự
hiện diện của một tổ chức trung gian chuyên nghiệp làm cầu nối cho các bên gặp
nhau làm giảm đáng kể chi phí tìm kiếm đối tác, chi phí soạn thảo hợp đồng cũng
như chi phí giao dịch.
 Cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng
Khi thực hiện chức năng môi giới chứng khoán, các công ty chứng khoán và
nhân viên môi giới của công ty chứng khoán cung cấp thông tin cho khách hàng
thông tin, loại chứng khoán và cách thức, thời điểm mua bán chứng khoán Dịch
vụ tư vấn đầu tư có thể được công ty chứng khoán cung cấp qua các hình thức:
khuyến cáo, lập báo cáo, tư vấn trực tiếp, hoặc thông qua ấn phẩm về chứng khoán.
Nhờ hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán khách hàng có thể tiếp cận và hiểu rõ các
sản phẩm và dịch vụ sẵn có trên thị trường, hiểu được sản phẩm, dịch vụ nào đáp
ứng được mục tiêu đầu tư và nhu cầu đầu tư của riêng mình. Thông qua các công ty
chứng khoán và nhân viên môi giới, khách hàng được cung cấp thông tin một cách
đầy đủ nhất để lựa chọn sản phẩm, dịch vụ phù hợp, để ra quyết định đầu tư. Các
công ty chứng khoán cung cấp đầy đủ các dịch vụ không chỉ thực hiện mệnh lệnh
của khách hàng, mà còn tham gia nhiều dịch vụ tư vấn khác nhau thông qua việc
20

×