Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Sự ra đời và hoạt động của Đảng Dân chủ Việt Nam trong những năm 1944 - 1964

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.7 KB, 91 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


Phạm Thị Mai Thủy




Sự ra đời và hoạt động của Đảng Dân chủ Việt
Nam trong những năm 1944 - 1964







Luận văn ThS. Lịch sử: 5 03 15

Nghd. : PGS. TS. Phạm Xanh






















LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cao trào đấu tranh giải phóng dân tộc 1939-1945, được Đảng
Cộng sản Đông Dương giúp đỡ, ngày 30-6-1944, Đảng Dân chủ Việt Nam đã
ra đời, tự nguyện đấu tranh theo đường lối và sự lãnh đạo của Đảng tiên
phong của giai cấp công nhân, góp phần làm nên những thắng lợi vĩ đại của
dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Là thành viên tích cực của Mặt trận dân
tộc thống nhất, thành viên của hệ thống chính trị quốc gia, vai trò và đóng
góp to lớn của Đảng Dân chủ Việt Nam trong tiến trình phát triển của cách
mạng Việt Nam trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội không thể
không được đánh giá.
Sự hoạt động của Đảng Dân chủ Việt Nam có ý nghĩa không chỉ là
những đóng góp về mặt vật chất, tinh thần của một bộ phận những người trí
thức, sinh viên, viên chức và những người thuộc tầng lớp trung gian khác đối
với thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Ý nghĩa lớn lao hơn còn ở
chỗ, chính sự tồn tại và quá trình hoạt động của Đảng Dân chủ Việt Nam phụ
trách vận động một bộ phận quần chúng nhân dân là giai cấp tư sản và tầng

lớp trí thức, như một thực thể phát triển có quy luật, có vai trò tích cực đặc
thù của nó. Nghiên cứu tất cả những khía cạnh đó sẽ góp phần về lý luận và
thực tiễn cho công tác vận động, tập hợp lực lượng, tăng cường sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay và sau này
của đất nước.
Việc đánh giá cho đúng ý nghĩa những hoạt động của Đảng Dân chủ
Việt Nam trong tiến trình cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, việc nhìn nhận khách quan vai trò của Đảng Dân chủ trong hệ
thống chính trị với các chính đảng và đoàn thể khác trong Mặt trận, việc xem
xét thực tế diễn biến hoạt động của Đảng Dân chủ trong lịch sử cách mạng
Việt Nam còn cung cấp những chứng cứ khoa học xác thực, góp phần vạch
trần các âm mưu, thủ đoạn tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam
dưới nhiều hình thức, đặc biệt quan trọng trong tình hình thế giới đầy biến
động như hiện nay.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi quyết định tập trung nghiên cứu
sự ra đời và hoạt động của Đảng Dân chủ Việt Nam làm đề tài cho luận văn
của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay, nghiên cứu về Đảng Dân chủ Việt Nam hầu như chưa
được đi sâu mà mới chỉ giới thiệu một cách khái quát, sơ lược trong các giáo
trình Lịch sử Việt Nam. Hai cuốn sách "Ba mươi năm đấu tranh của Đảng
Dân chủ Việt Nam" và "Bốn mươi tư năm hoạt động và cống hiến của Đảng
Dân chủ Việt Nam" do Ban Nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn tư liệu lịch sử
của Đảng Dân chủ Việt Nam ấn hành cũng chỉ giới thiệu về lịch sử ra đời,
hoạt động của Đảng Dân chủ Việt Nam hết sức khái quát và sơ lược. Năm
1991, Luận văn tốt nghiệp khoa lịch sử của sinh viên Đỗ Anh Dũng- Trường
Đại học Tổng hợp (nay là Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn)
cũng mới chỉ dừng lại nghiên cứu "Một thập kỷ hoạt động đầu tiên của Đảng
Dân chủ Việt Nam, 1944-1954" .
3. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

Ngoài nguồn tư liệu là các tập Văn kiện Đảng, Hồ Chí Minh toàn tập,
báo chí cách mạng thời kỳ 1945-1975… luận văn còn được hoàn thành từ
nguồn tư liệu đáng tin cậy đang được lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt
Nam- nơi đã tiếp nhận gần như toàn bộ những tài liệu cơ bản của Đảng Dân
chủ Việt Nam sau khi Đảng này kết thúc hoạt động tháng 10-1988.
Để thực hiện đề tài này, trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, luận văn vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu phân
tích và tổng hợp, kết hợp phương pháp lịch sử và lôgíc
4. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu sự ra đời và hoạt động của Đảng Dân chủ Việt Nam từ 1944
đến 1964; Phân tích làm sáng rõ vai trò, những đóng góp to lớn của Đảng
Dân chủ vào thắng lợi chung của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn từ 1944
đến 1964.
Sau một thời gian thâm nhập các nguồn tài liệu lịch sử về 44 năm hoạt
động của Đảng Dân chủ Việt Nam, tôi nhận thấy với thời gian nghiên cứu
khẩn trương; Nguồn tài liệu tập trung tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam bên
cạnh một số đã được phân loại, đánh số kiểm kê, còn lại hầu như chưa được
phân loại và xử lý, do thời gian và điều kiện bảo quản nên một số tài liệu văn
bản không thể tiếp cận được; Một nguồn tư liệu nữa khá quan trọng là các
nhân chứng lịch sử- những sáng lập viên, Đảng viên của Đảng trong những
ngày đầu khởi nghĩa gần như không còn nữa do vậy luận văn chỉ xin giới
hạn nghiên cứu "Sự ra đời và hoạt động của Đảng Dân chủ Việt Nam trong
những năm 1944 - 1964".
6. Bố cục của luận văn.
Bản luận văn được bố cục như sau: Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư
mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Sự ra đời của Đảng Dân chủ Việt Nam
Chương 2: Hoạt động của Đảng Dân chủ Việt Nam từ 1944 đến 1954
Chương 3: Hoạt động của Đảng Dân chủ Việt Nam từ 1955 đến 1964
Chương 1

SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG DÂN CHỦ VIỆT NAM
1.1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam những năm 1939-1945.
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau, ngày 3-9-
1939, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới lần thứ Hai bắt
đầu. Chiến tranh thế giới nổ ra chi phối đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của
tất cả các nước, trong đó có Việt Nam. Tháng 6-1940, nước Pháp bị phát xít
Đức đánh bại và chiếm đóng. Nhân cơ hội đó, phát xít Nhật nhảy vào Đông
Dương. Ngày 22 -9-1940, Nhật Bản cho quân vượt biên giới Việt-Trung
đánh vào Lạng Sơn, đồng thời cho 6.000 quân theo đường biển đổ bộ lên Đồ
Sơn (Hải Phòng), thực dân Pháp chống cự yếu ớt rồi nhanh chóng đầu hàng
và dâng Đông Dương cho Nhật. Từ đó nhân dân Việt Nam sống kiếp "một cổ
hai tròng".
Thực dân Pháp, tuy bị Nhật khống chế, nhưng chúng vẫn thẳng tay đàn
áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta và tăng cường bóc lột, vơ vét sức
người sức của. Đồng thời chúng thực hiện nhiều âm mưu xảo quyệt, thực
hiện nhiều biện pháp tuyên truyền lừa bịp, phản động nhằm ngăn chặn phong
trào yêu nước của nhân dân ta, xoa dịu lòng căm phẫn của nhân dân ta đối
với chúng bằng cách tung ra các thuyết phản động "Cần lao, Gia đình, Tổ
quốc", "Pháp- Việt phục hưng", "Pháp Nam thân thiện". Nhằm mê hoặc
thanh niên Việt Nam, làm sao nhãng nhiệm vụ cứu nước, tên thực dân
Đuycơroa dựng lên một phong trào thể dục thể thao rầm rộ trên toàn cõi
Đông Dương với khẩu hiệu bịp bợm "Đoàn kết và khoẻ để phụng sự". Chúng
còn thi hành một số "cải cách", tung ra dư luận "tân hoá chế độ" để mua
chuộc, lừa bịp giới trí thức, sinh viên, công chức, quan lại mắc vào bả quan
trường làm tay sai cho chúng.
Còn phát xít Nhật, sau khi xâm lược Việt Nam và Đông Dương, chúng
đã thi hành một âm mưu vô cùng thâm độc, tuyên truyền lừa bịp nhân dân ta
bằng thuyết "Da vàng, đồng chủng, đồng văn" và chủ nghĩa "Đại Đông Á", tổ
chức và nâng đỡ các đảng phái chính trị thân Nhật hoạt động như: Đại Việt
dân chính, Đại Việt quốc xã, Đại Việt Quốc dân Đảng, Việt Nam thống nhất

cách mạng Đến năm 1943, chúng gom các đảng phái và các nhóm tay sai
vào một tổ chức với tên gọi "Việt Nam phục quốc đồng minh hội", năm 1945
chúng đổi là "Đại Việt Quốc gia liên minh" và sau ngày 9-3-1945 lại đổi tên
là "Đại Việt Quốc dân hội". Bọn này ra sức tuyên truyền, quảng bá cho tinh
thần bài Pháp, sợ Nhật, phục Nhật, dùng mọi thủ đoạn từ phỉnh phờ, lừa bịp,
mua chuộc đến khủng bố để lôi kéo trí thức, sinh viên, học sinh, viên chức và
tư sản đi theo và làm tay sai cho Nhật. Sau cuộc đảo chính Pháp (đêm 9-3-
1945), phát xít Nhật bày trò trao trả độc lập cho nhân dân ta bằng cách dựng
lên Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim nhưng vẫn giữ nguyên bộ máy cai trị
của Pháp, thay người Nhật vào vị trí người Pháp. Mặt khác, chúng ra sức đàn
áp, khủng bố, chém giết bừa bãi, ra sức vơ vét nguyên liệu, hàng hoá, lương
thực, trắng trợn tước đoạt tài sản của nhân dân ta, triệt phá sản xuất (bắt nhổ
lúa trồng đay, trồng thầu dầu) làm cho nền kinh tế của ta bị kiệt quệ, cuộc
sống của mọi tầng lớp nhân dân điêu đứng, cùng quẫn, dẫn đến nạn đói
khủng khiếp năm 1945, làm chết gần 2 triệu người.
Trước tình hình thế giới và trong nước có những biến động, ngày 28-1-
1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào
cách mạng Việt Nam. Sau một thời gian chuẩn bị, Người đã chủ trì Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương lần thứ Tám tại Pắc Bó, Hà Quảng, Cao Bằng từ
ngày 10 đến 19-5-1941. Trên cơ sở nhận định đúng đắn tình hình, Hội nghị
đã phát triển những chủ trương của các Hội nghị Trung ương 6 (11/1939),
Hội nghị Trung ương 7 (11/1940) về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và giai cấp, dân tộc và dân chủ. Hội nghị đã đi tới nhận định: Việc giải
phóng dân tộc là trước hết, trên hết: "Trong lúc này nếu không giải quyết
được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể
dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được" {41, 113}. Và giải phóng dân tộc không chỉ là nhiệm vụ của một giai
cấp nào, mà là nhiệm vụ chung của toàn dân tộc Việt Nam: "Muốn làm tròn
nhiệm vụ ấy, trước hết tập trung cho được lực lượng cách mạng toàn cõi

Đông Dương, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông địa chủ, tư bản
bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận,
thu góp toàn lực, đem tất cả ra giành độc lập, tự do cho dân tộc, đánh tan
giặc Pháp-Nhật xâm chiếm nước ta. Sự liên minh tất cả lực lượng các giai
cấp, đảng phái, các nhóm cách mạng cứu nước, các tôn giáo, các dân tộc
chống Pháp-Nhật, đó là công việc cốt yếu của Đảng ta.". {41, 112-113}
Trước đây, vấn đề dân tộc được Đảng ta đặt trong phạm vi toàn Đông
Dương, song Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ Tám (tháng 5-
1941) chỉ đặt vấn đề đó trong khuôn khổ mỗi nước Việt Nam, Lào, Cam- pu-
chia nhằm phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự cường của mỗi dân tộc, đồng
thời cũng không ngừng tăng cường tình đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù
chung của các dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Đảng ta cho rằng, phải vận
dụng một phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, để "làm sao đánh thức
được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân (hơn hết là dân tộc Việt Nam)
" {41, 112}. Theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết
định thành lập mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, lấy tên là "Việt Nam Độc
lập Đồng minh" (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh) nhằm đoàn kết và tập hợp
mọi lực lượng yêu nước, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo đứng lên
chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc.
Ngày 6 tháng 6 năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã gửi thư kêu gọi
đồng bào đoàn kết, đứng lên đấu tranh cứu nước. Người viết "Trong lúc
quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta phải đoàn kết lại
đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi
lửa nóng" {49, 198}. Tháng 10-1941, Tổng bộ Việt Minh công bố Tuyên
ngôn, Chương trình và Điều lệ, nói rõ tôn chỉ, mục đích của mình:" Liên hiệp
hết thảy các từng lớp nhân dân, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu
hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Nhật -
Pháp giành quyền độc lập cho xứ sở " {49, 149}. Mặt trận Việt Minh chính
là một tổ chức quần chúng rộng rãi bao gồm các đảng phái chính trị, các đoàn
thể đại diện cho các giai tầng xã hội, các giới, các hội nghề nghiệp và các

nhân sĩ yêu nước.
Dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh, tại các vùng căn cứ địa cách
mạng, công cuộc chuẩn bị mọi mặt để tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
được xúc tiến mạnh mẽ, gấp rút. Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương
đẩy mạnh và mở rộng phong trào cách mạng ở thành thị, vận động và tranh
thủ trí thức, sinh viên, học sinh, viên chức và tư sản dân tộc ngả theo cách
mạng, ủng hộ Việt Minh. Năm 1943 Đảng đưa ra bản "Đề cương văn hoá
Việt Nam" nhằm chống lại văn hoá phản động, đồi truỵ, lừa bịp của Nhật,
Pháp và tập hợp đông đảo những nhà văn hoá, văn nghệ, trí thức đi theo con
đường đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng văn hoá và giải phóng chính
mình.
Những sự kiện quan trọng trên đây đã thúc đẩy phong trào đấu tranh
cách mạng mạnh mẽ trong công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động
khác, đồng thời có tác động đến các tầng lớp trung gian trong xã hội Việt
Nam.
1.2. Sự ra đời của Đảng Dân chủ Việt Nam
Trong bối cảnh và điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam những năm 1939-
1945, các tầng lớp trí thức, sinh viên, viên chức và một số người thuộc các
tầng lớp trung gian khác ở thành thị đã có những chuyển biến về tinh thần
yêu nước, ý thức dân tộc và khả năng tham gia đấu tranh chống đế quốc,
phong kiến. Nhưng đứng trước cuộc vận động cách mạng rất quyết liệt của
nhân dân, sự chống đối vừa tàn bạo, vừa thâm độc, xảo quyệt của thực dân
Pháp, phát xít Nhật và bọn tay sai của chúng, cho nên xu hướng chính trị và
sự hoạt động của họ diễn ra khá phức tạp. Một số trí thức, sinh viên, viên
chức, tư sản dân tộc, tuy chán ghét thực dân Pháp nhưng lại rất mơ hồ đối với
phát xít Nhật, có xu hướng dựa vào Nhật để đuổi Pháp, có người tham gia
Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim và hoạt động trong các tổ chức thân
Nhật, có người muốn vận động tổ chức nhà nước theo kiểu quân chủ lập
hiến, giữ Bảo Đại ở lại làm vua, có người lại muốn theo kiểu quân chủ lập
hiến như ở Pháp, Mỹ…

Thời kỳ này trong giới trí thức đã hình thành nhiều nhóm và tổ chức
khác nhau như nhóm tập san "Khoa học" ở Hà Nội, nhóm báo "Thanh niên"
ở Sài Gòn, Tổ chức hướng đạo, Hội truyền bá quốc ngữ, nhóm tạp chí
"Thanh nghị", Tổng hội Sinh viên Đông Dương…
- Tổ chức Hướng đạo của Hoàng Đạo Thúy, Tạ Quang Bửu, trừ một số
ít là tay sai của Pháp- Nhật, còn phần đông anh em ghét Pháp, ghét Nhật,
nhưng họ cũng không có phương hướng hoạt động rõ rệt, chỉ xoay quanh
những hoạt động hợp pháp.
- Hội Truyền bá Quốc ngữ do Nguyễn Văn Tố làm Hội trưởng có một
số người có cảm tình với cách mạng, với mặt trận Việt Minh nhưng trước sự
khủng bố gay gắt của Pháp - Nhật, sự chiến đấu gian khổ của những người
cách mạng, họ còn tỏ ra do dự.
- Nhóm trí thức cấp tiến Thanh Nghị do những cựu sinh viên của trường
Đại học Đông Dương gồm Phan Anh, Vũ Đình Hòe, Vũ Văn Hiền…đứng
đầu, với những trăn trở phụng sự đất nước bấy lâu nung nấu tâm can, tháng
5/1941 họ cho ra đời báo Thanh Nghị- Tạp chí văn chương-chính trị và kinh
tế xuất bản từ tháng 5/1941 đến tháng 8/1945. Tờ báo đặt ra và nghiên cứu
nhiều vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội thiết yếu đối với công cuộc kiến thiết
quốc gia trong tương lai.
- Nổi lên trong đó là nhóm của ông Dương Đức Hiền được hình thành
từ đầu năm 1941 gồm những trí thức đã tốt nghiệp các trường Đại học Luật,
Y, Dược, Khoa học, Nông Lâm và những sinh viên người Bắc, Trung, Nam
bộ hoạt động trong Tổng hội Sinh viên Đông Dương. Họ là những người có
tinh thần yêu nước, có tình cảm dân tộc nồng nàn, chán ghét chế độ thống trị
của thực dân Pháp và căm thù sự xâm lược tàn bạo của phát xít Nhật, có ý
thức vận động phong trào yêu nước và muốn tìm con đường đấu tranh cứu
nước, giải phóng dân tộc.
Hoạt động của nhóm trí thức Dương Đức Hiền trong buổi đầu là những
hình thức hợp pháp, mang đặc trưng của giới thanh niên, học sinh, sinh viên.
Ngày hội sinh viên họ tổ chức diễu xe hoa, manơcanh hóa trang làm tưng

bằng khắp các phố phường Hà Nội. Họ còn cùng nhau tiến hành các hoạt
động quy mô lớn nhằm tập hợp lớp trẻ như tổ chức trại hè, nói chuyện, đi
thăm các di tích lịch sử và lồng vào đó các nội dung yêu nước.
Năm 1941, nhóm tổ chức trại hè thanh niên ở Bằng Trì (cách thị trấn
Sầm Sơn, Thanh Hoá khoảng 6 km), năm 1942, tổ chức trại ở làng Tương
Mai và năm 1943 ở làng Khương Hạ (ngoại thành Hà Nội). Trong các trại hè
đều tổ chức các buổi nói chuyện, trao đổi nhằm khơi gợi trong anh em trí
thức và học sinh, sinh viên, viên chức lòng yêu nước, tình cảm dân tộc, tinh
thần tự hào về truyền thống bất khuất chống xâm lược của cha ông, đề cao ý
thức sống gần gũi và giúp đỡ nhân dân lao động bị đế quốc, thực dân, phát
xít và phong kiến bóc lột tàn nhẫn, đồng thời còn có ý tập hợp những người
cùng chí hướng, bàn bạc, tìm con đường đấu tranh cứu nước, giải phóng dân
tộc. Trong các trại hè còn tổ chức tổ chức những ngày khám bệnh, phát thuốc
cho đồng bào nghèo, tổ chức truyền bá pháp luật để đồng bào biết mà đấu
tranh hợp pháp, chống lại bọn quan lại, hào lý ức hiếp, truyền bá cách ăn ở
giữ vệ sinh, phòng bệnh, chích thuốc v.v
Chú trọng đến việc giáo dục tinh thần yêu nước cho học sinh, sinh viên,
cùng với việc tổ chức trọng thể lễ giỗ tổ Hùng Vương để các sinh viên quê ở
ba miền Bắc-Trung -Nam cùng nhau thắp hương trầm trở về với cội nguồn
dân tộc, giữ trọn khí phách giống nòi, nhóm còn tổ chức đi thăm các di tích
lịch sử như Bạch Đằng, Lam Sơn , tổ chức diễn thuyết về những vấn đề lịch
sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, trách nhiệm của thanh niên, trí thức,
sinh viên đối với thời cuộc; diễn những vở kịch lịch sử chống ngoại xâm như
vở "Đêm Lam Sơn", "Hội nghị Diên Hồng", sáng tác những bài hát có nội
dung yêu nước, thương nòi, khuyến khích thanh niên tập thể dục, thể thao,
mong cho giống nòi cường tráng
Những anh em trí thức, sinh viên quê ở miền Nam trong nhóm của luật
sư Dương Đức Hiền mỗi dịp về Nam Bộ nghỉ hè đã vận dụng những kinh
nghiệm ở Hà Nội, tổ chức những hoạt động yêu nước bằng các hình thức
diễn thuyết về những chủ đề "Bình Ngô Đại cáo", "Cách mạng quốc gia",

diễn những vở kịch lịch sử chống ngoại xâm như vở "Đêm Lam Sơn", "Nợ
Mê Linh", hăng hái hoạt động xã hội, đi vào các xóm đồng bào nghèo truyền
bá quốc ngữ, pháp luật Những hoạt động này được giới trí thức, sinh viên,
học sinh, viên chức, tư sản dân tộc ở Sài Gòn- Chợ Lớn, Mỹ Tho, Cần Thơ
ủng hộ và hăng hái tham gia.
Hoạt động của nhóm trí thức Dương Đức Hiền ở ngoài Bắc cũng như ở
trong Nam là những hoạt động tuy mang tính chất tự phát, chưa có nội dung
cách mạng sâu sắc, nhưng đã góp phần khơi gợi lòng yêu nước, tinh thần tự
hào dân tộc, ý thức chống xâm lược, chống chế độ cường quyền bất công,
yêu thương đồng bào trong giới trí thức, sinh viên, học sinh, viên chức, tư
sản dân tộc và đã gây được tiếng vang trong một số thành phố. Chính quyền
thực dân Pháp lo sợ, tìm cách đối phó bằng nhiều thủ đoạn: mua chuộc, lôi
kéo, doạ dẫm, kiểm duyệt gắt gao nội dung các vở kịch, các bài diễn thuyết,
cho tay chân đi kích động chia rẽ, khủng bố Sở Liêm phóng Hà Nội đã gọi
ông Dương Đức Hiền đến để đe doạ, bọn Đại Việt Nguyễn Tường Tam, bọn
Quốc Dân đảng Vũ Hồng Khanh cũng đã gặp gỡ ông để thuyết phục, lôi
kéo Song chúng đã không ngăn cản được anh em tiếp tục hoạt động.
Trong quá trình hăng hái hoạt động như vậy, một vấn đề cấp bách
thường xuyên đặt ra cho anh em trong nhóm trí thức Dương Đức Hiền suy
nghĩ, bàn bạc là: Hoạt động của nhóm như thế cũng chỉ là những hoạt động
có tính chất xã hội, công khai, hợp pháp, sẽ giải quyết được những vấn đề gì
cho nước, cho dân? Làm thế nào để đánh đuổi bọn thực dân Pháp, phát xít
Nhật, giành lại độc lập, tự do, cơm áo cho đồng bào? Phải đi theo con đường
nào, phải dựa vào lực lượng nào? phải đoàn kết với những ai để có sức mạnh
đấu tranh, đạt được nguyện vọng? và anh em vẫn chưa thấy rõ đường đi.
Lúc này Đảng Cộng sản Đông Dương thực hiện chủ trương: tranh thủ,
vận động trí thức, tư sản dân tộc và các tầng lớp trung gian ở thành thị (nhất
là ở các thành phố lớn) ngả theo cách mạng, ủng hộ mặt trận Việt Minh.
Đảng đã chú ý đến hoạt động của nhóm trí thức Dương Đức Hiền và cử cán
bộ đến gặp gỡ, đưa chương trình hoạt động, điều lệ tổ chức của Mặt trận Việt

Minh cho nhóm nghiên cứu. Nhiều cuộc gặp gỡ bí mật đã diễn ra để trao đổi,
giúp nhóm nhận rõ tình hình thế giới và tình hình trong nước, nhận rõ âm
mưu của thực dân Pháp, phát xít Nhật và tình thế thất bại cuối cùng của
chúng, nhận rõ lực lượng cách mạng to lớn và khí thế đấu tranh mạnh mẽ của
quần chúng công nông, con đường đấu tranh cách mạng đúng đắn của Mặt
trận Việt Minh và việc cần phải đoàn kết chặt chẽ với những người cộng sản,
với công nông, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng của nhân dân lao động
vùng lên đánh đuổi phát xít Nhật và thực dân Pháp, giải phóng cho dân tộc.
Trải qua thời gian hoạt động thực tế với những thử thách gay gắt trong
thời cuộc, những suy nghĩ tìm tòi, đến lúc này, ông Dương Đức Hiền và anh
em trong nhóm đều nhất trí: con đường đấu tranh cách mạng của Mặt trận
Việt Minh là con đường đúng đắn nhất.
Khi đã chọn được con đường cách mạng đúng với chí hướng yêu nước
và cứu nước của mình, ông Dương Đức Hiền và một số anh em trong nhóm
đã tham gia Mặt trận Việt Minh với tư cách cá nhân, đồng thời tiếp tục cùng
nhau vận động, tập hợp trí thức, sinh viên viên chức yêu nước và các tầng
lớp trung gian khác ở thành thị đi theo cách mạng, ủng hộ Việt Minh và theo
sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Đông Dương, chuẩn bị những điều kiện cần
thiết tiến tới thành lập một tổ chức cách mạng tiêu biểu cho tinh thần yêu
nước và tiến bộ của các tầng lớp đó.
Tháng 2 năm 1944, nhóm trí thức Dương Đức Hiền đã có sự phân công:
Anh em quê ở Bắc bộ thì hoạt động ở ngoài Bắc, còn anh em quê ở Nam bộ
thì về Nam vận động trí thức, sinh viên, học sinh, viên chức trong đó để có sự
phối hợp hoạt động của hai miền. Đoàn về Nam có các đồng chí: Đặng Ngọc
Tốt, Trần Bửu Kiếm, Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Việt Nam,
Lê Văn Nhàn, Vương Văn Lễ, Tạ Bá Tòng.v.v Đoàn tổ chức đi bằng xe
đạp xuyên Việt, từ Hà Nội đến Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ với lý do công
khai "do chiến tranh, việc học hành có nhiều trắc trở, anh em phải nghỉ học
về quê hương và phương tiện giao thông lúc này khó khăn nên phải đi bằng
xe đạp".

Đoàn đi đến thị xã Ninh Bình thì bị bọn mật thám Pháp bắt giữ và đưa
trở lại Hà Nội, giam tại nhà pha Hoả Lò. Nhưng sau những trận tra hỏi,
không lấy được chứng cứ gì để trị tội, bọn chúng phải thả ra, anh em lại tiếp
tục lên đường về Nam.
Các anh em còn lại ở ngoài Bắc hoạt động rất tích cực và ngày càng
tập hợp được nhiều người có cùng chí hướng. Trước điều kiện chủ quan và
khách quan đã chín muồi, ngày 30 tháng 6 năm 1944, ông Dương Đức Hiền
đã bí mật triệu tập một cuộc họp gồm 8 người: luật sư Dương Đức Hiền, bác
sĩ Nha khoa Nguyễn Dương Hồng, nhà thơ, kỹ sư canh nông Cù Huy Cận,
bác sĩ Huỳnh Bá Nhung tại một lớp học của trường Hoài Đức sơ tán (để
tránh các trận oanh tạc của máy bay quân đồng minh đánh phá các cơ sở
quân sự của Nhật ở Hà Nội) tại làng Thanh Xuân, cách thị xã Hà Đông 2 km,
nằm ngay ven đường Hà Đông đi Hà Nội. Cuộc họp bí mật này đã quyết định
thành lập một tổ chức cách mạng, đặt tên là "Việt Nam Dân chủ Đảng" (sau
đổi tên là Đảng Dân chủ Việt Nam) và thông qua Cương lĩnh, Chương trình
hành động, Điều lệ đầu tiên của Đảng.
Trong Điều lệ Đảng Dân chủ Việt Nam ghi rõ:
"- Tôn chỉ: Đoàn kết thảy những người Việt Nam tiên tiến, không phân
đẳng cấp, thành tâm liên minh với các lực lượng cách mạng chân chính của
dân tộc Việt Nam để làm cho quốc gia Việt Nam được hoàn toàn độc lập và
thực hiện chủ nghĩa tân dân chủ trên đất Việt Nam.
- Điều kiện gia nhập Đảng: Muốn vào Đảng phải là người Việt Nam
giàu lòng yêu nước, không phân biệt nam nữ, đẳng cấp, nghề nghiệp, tín
ngưỡng"
- Nguyên tắc tổ chức: Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung,
nghĩa là:
+ Các cơ quan chỉ huy cấp nào đều do đại biểu cấp ấy bầu ra.
+ Tất cả các chủ trương hoặc công việc đều quyết định theo sự thoả
thuận của đa số.
- Hệ thống tổ chức:

a/ Từ 5 đến 9 đảng viên họp thành 1 Chi.
Các Chi trong một làng, một phố, một công sở, trường học, nhà máy, trại
lính họp thành một Bộ làng, Bộ phố, Bộ sở, Bộ trường, Bộ trại Trong
một Bộ lại chia ra thành từng giới: giới Thanh niên, giới Công chức, giới
Công nhân, giới Thương gia nghề tự do
b/ Tất cả các Bộ làng trong một Tổng họp thành Đảng bộ Tổng bầu ra
Ban Chấp hành Tổng hay Ban Tổng bộ để điều khiển công việc của toàn
Tổng.
c/ Tất cả Đảng bộ trong một Huyện, Phủ, Châu hay Quận họp thành
Đảng bộ huyện, phủ, châu hay quận, cử ra Ban Chấp hành của Huyện hay
Huyện bộ, của Phủ hay Phủ bộ, của Châu hay Châu bộ, của Quận hay Quận
bộ để điều hành công việc các cấp bộ ấy.
d/ Tất cả Đảng bộ huyện, phủ, châu, quận trong một tỉnh họp thành
Đảng bộ tỉnh, cử đại biểu họp hội đồng hàng tỉnh, bầu ra Ban chấp hành tỉnh
hay Tỉnh bộ, điều khiển công việc toàn tỉnh.
e/ Tất cả Đảng bộ tỉnh trong một xứ họp thành Đảng bộ xứ, cử đại biểu
họp thành toàn xứ đại biểu đại hội bầu ra Ban chấp hành xứ hay Xứ bộ để
điều khiển công việc toàn xứ.
g/ Tất cả các xứ bộ các xứ họp thành Đảng, cử đại biểu họp toàn quốc
đại biểu đại hội, bầu ra Ban chấp hành Trung ương để chỉ huy toàn Đảng.
Chú ý: Thành phố lớn coi ngang một tỉnh, những chi trong một phố họp
thành bộ phố, cử ra Ban chấp hành thành phố hay Phố bộ.
- Sinh hoạt của cơ quan chỉ huy Đảng:
+ Ban Chấp hành bầu ra Ban Chủ nhiệm, có thể bầu ra Ban Chuyên môn
giúp việc.
+ Thời hạn phụ trách: Ban Chấp hành của Đảng từ làng đến huyện 3
tháng cử lại một lần, từ Tỉnh bộ đến Xứ bộ 6 tháng cử lại một lần. Ban chấp
hành Trung ương 1 năm cử lại một lần" [29].
Hội nghị đã thông qua cương lĩnh, chương trình hành động đầu tiên của
Đảng là: Khôi phục độc lập và kiến thiết quốc gia.

Về Khôi phục độc lập, Chương trình hành động đã xác định: Đấu tranh
giành độc lập dân tộc trông cậy phần chính vào tinh thần đấu tranh của quốc
dân. Đảng liên hợp với các lực lượng cách mạng khác trong nước huy động
quần chúng nổi dậy cho tới khi quốc gia hoàn toàn độc lập. Một phần nữa
dựa vào sự liên kết với các nước dân chủ chân chính.
Về kiến thiết quốc gia, chương trình hành động nêu rõ: quyền lợi và
nhiệm vụ của nhân dân và tổ chức quốc gia:
- Nhân dân được quyền tự do, dân chủ như tự do ngôn luận, hội họp, họp
đoàn, xuất dương Những tự do ấy sẽ được pháp luật bảo đảm. Có quyền
bình đẳng nam, nữ, binh lính, thường dân, giầu, nghèo, mỗi công dân đều
được giáo dục hoàn bị, sinh sống đầy đủ và tham dự chính quyền.
- Nghĩa vụ của nhân dân phải trọng luật pháp và quyền lợi của quốc gia;
dự vào việc quốc phòng.
Về tổ chức quốc gia: Chính thể lấy nguyên tắc dân chủ tập trung làm căn
bản. Trong chính thể ấy, quyền quản trị địa phương (làng, tổng, huyện, tỉnh)
thuộc quyền hội đồng địa phương do dân trực tiếp bầu ra. Quyền quản trị
toàn quốc do Quốc hội, đại biểu quốc hội do toàn dân trực tiếp bầu ra.
- Quốc phòng: Thi hành luật cưỡng bách đầu quân. Chú trọng việc giáo
dục quân đội.
- Kinh tế: Bảo vệ, khuyếch trương canh nông, kỹ nghệ, thương mại.
Quốc hữu hoá đại kỹ nghệ và kỹ nghệ quốc phòng.
- Giáo dục: Cải cách chế độ giáo dục để nâng cao trình độ trí thức của
quốc dân và phổ cập học thức trong tất cả các tầng lớp nhân dân. Mở các
trường chuyên môn, binh bị, đại học. Tổ chức du học ngoại quốc. Tổ chức
bình dân giáo dục. Miễn học phí cho hết thảy học sinh
- Xã hội: Đảm bảo cho nhân dân có việc làm tương ứng với tài đức của
mình, được hưởng số lương đúng với giá trị công việc, đảm bảo cho người
công nhân sinh sống đầy đủ {5}.
Cùng với việc xây dựng hệ thống tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến cơ
sở, tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung (các cơ quan chỉ huy cấp nào

đều do đại biểu cấp ấy bầu ra; tất cả các chủ trương hoặc công việc đều quyết
định theo sự thoả thuận của đa số), Hội nghị thành lập Đảng Dân chủ Việt
Nam đã thông qua Cương lĩnh, Chương trình hành động đầu tiên của Đảng.
Đặt cơ sở trên tư tưởng liên minh với các lực lượng cách mạng để tranh đấu
cho độc lập dân tộc và xây dựng chế độ dân chủ mới, tuy còn sơ lược nhưng
Cương lĩnh, Chương trình hành động đầu tiên của Đảng đã xác định rõ mục
tiêu đấu tranh cơ bản là: Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh
phúc", phù hợp nguyện vọng của mọi tầng lớp yêu nước, tiến bộ lúc bấy giờ.
Đảng lại xây dựng tổ chức phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng giải
phóng dân tộc do mặt trận Việt Minh lãnh đạo, do đó tổ chức hoạt động của
Đảng đã nhanh chóng gây được ảnh hưởng, nhất là các tầng lớp trung gian ở
thành phố và thị xã.
Sau hội nghị thành lập ở Thanh Xuân, các đồng chí sáng lập Đảng Dân
chủ Việt Nam đã bí mật tổ chức một số Hội nghị để bàn về phương hướng
hoạt động cụ thể. Đầu tháng 7 năm 1944, lấy danh nghĩa một chính đảng
cách mạng, Đảng Dân chủ Việt Nam đã tự nguyện gia nhập Mặt trận Việt
Minh. Từ đó, Đảng luôn luôn đoàn kết chặt chẽ với các tổ chức cách mạng
trong Mặt trận, góp phần vận động đấu tranh cách mạng chống Nhật, chống
Pháp, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, giải
phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước.
*
Trong bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam những năm 1939-1945 và được
Đảng Cộng sản Đông Dương giúp đỡ, ngày 30-6-1944, Đảng Dân chủ Việt
Nam đã ra đời. Đó là một trong những sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ của
phong trào cách mạng nước ta, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt
Nam, một đảng phái dân chủ được thành lập trong thời kỳ bí mật, tự nguyện
đấu tranh theo đường lối và sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp
công nhân, góp phần tăng cường lực lượng cách mạng, vận động tầng lớp trí
thức và công chức, các tầng lớp trung gian khác ở đô thị ngả theo cách mạng.
Đánh giá tác dụng sự ra đời và hoạt động của Đảng Dân chủ, trong Báo Cáo

chính trị Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II Đảng Lao động Việt Nam
(tháng 2- 1951) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Đảng lại giúp cho những
anh em trí thức tiến bộ thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam, thu hút những
người thanh niên trí thức và công chức Việt Nam và làm mau tan rã hàng
ngũ bọn Đại Việt thân Nhật". {54, 158}
Trong hoàn cảnh và điều kiện lịch sử nước ta những năm đầu thập kỷ 40
của thế kỷ XX, việc phân hoá, tranh thủ được các tầng lớp trung gian ở thành
thị, giác ngộ, giúp họ nhận rõ bộ mặt xâm lược tàn bạo, xảo quyệt, thâm độc
của kẻ thù, ngả hẳn về hàng ngũ đấu tranh của nhân dân là một yêu cầu quan
trọng và rất cấp bách của cuộc vận động cách mạng. Phân hoá, tranh thủ
được các tầng lớp ấy sẽ tạo thêm được lực lượng làm thất bại chính sách
nguy hiểm của phát xít Nhật với chủ thuyết "Đại Đông Á" bịp bợm và luận
điều tuyên truyền xảo quyệt cho Việt Nam độc lập giả hiệu của chúng, đánh
bại âm mưu của thực dân Pháp hòng lợi dụng ảnh hưởng cũ, mua chuộc, lôi
kéo những tầng lớp có quan hệ với chúng để làm cơ sở xã hội hòng tiếp tục
duy trì ách thống trị trên đất nước ta. Đồng thời vạch rõ bộ mặt đê hèn, bán
nước hại dân của các đảng phái phản động như "Đại Việt" tay sai của Nhật,
"Quốc Dân Đảng" tay sai của Tưởng Giới Thạch, tay sai của Pháp, cô lập cao
độ kẻ thù Nhật, Pháp và những bọn phản động ngoan cố nhất, tạo thêm
những điều kiện thuận lợi tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền thành
công.
Đảng Dân chủ Việt Nam ra đời chính là biểu hiện một cách sinh động sự
gặp gỡ giữa một bên là yêu cầu khách quan của cách mạng, sự cần thiết phải
mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc, tập hợp thêm lực lượng yêu nước trong
các tầng lớp trung gian ở thành thị, và một bên là một số người trong các tầng
lớp ấy đã trải qua một quá trình phân hóa tiến bộ, luôn trăn trở trước vận
mệnh của đất nước và lựa chọn đường đi. Đồng thời, nó mang một ý nghĩa
chính trị sâu sắc, biến chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng Cộng sản
Đông Dương, của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ khả năng thành hiện thực.
Đảng Dân chủ Việt Nam ra đời và hoạt động góp phần mở rộng và

tăng cường phong trào cách mạng ở thành thị, đặc biệt là ở một số thành phố
lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Chợ Lớn. , mở ra một bước ngoặt
quan trọng trong đời sống chính trị của những người trí thức, sinh viên, học
sinh, viên chức và các tầng lớp trung gian khác ở thành thị, tạo điều kiện cho
họ đứng hẳn vào hàng ngũ cách mạng của nhân dân, phát huy lòng yêu nước
và tinh thần dân tộc chân chính, thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa cải
lương thoả hiệp dưới nhiều hình thức, giúp họ gần gũi, đoàn kết với những
người cộng sản, với công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác, có
điều kiện thuận lợi để học tập, rèn luyện, vượt qua những khó khăn, thử thách
trong đấu tranh cách mạng, phát huy khả năng cống hiến để ngày càng tiến
bộ, trưởng thành.
Thực tế đó đã nói lên một cách sâu sắc: Đảng Dân chủ Việt Nam ra đời
từ trong phong trào cách mạng của nhân dân, của Mặt trận Việt Minh, đấu
tranh cho quyền lợi cách mạng chung của dân tộc theo đường lối lãnh đạo
của Đảng tiền phong Mác-xít Lêninit, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
kính mến. Mặc dù thành phần Đảng Dân chủ Việt Nam khi mới thành lập là
trí thức, sinh viên, học sinh, viên chức nhưng từ năm 1948 có thêm các thành
phần khác như tư sản dân tộc, tiểu tư sản công thương và một số ít con em
phú nông, địa chủ. Vì vậy Đảng Dân chủ Việt Nam có cơ sở và điều kiện
thuận lợi để xây dựng lập trường chính trị, quan điểm và hành động thống
nhất với các chính đảng, các đoàn thể nhân dân trong mặt trận thống nhất, và
trong quá trình hoạt động của mình, Đảng đã hết sức chăm lo giáo dục đảng
viên "tăng cường rèn luyện và cống hiến" thể hiện tính chất tiến bộ của một
tổ chức Đảng chân chính.
Hoạt động đúng đắn dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Dân chủ Việt Nam đã phát huy được
khả năng thích hợp của mình hoạt động phục vụ cách mạng, phục vụ nhân
dân trên mọi chặng đường phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam,
cống hiến xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc.
Chương 2

HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG DÂN CHỦ VIỆT NAM
THỜI KỲ 1944-1954
2.1. Góp phần vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám - 1945.
Sau khi thành lập và gia nhập vào Mặt trận Việt Minh, với tư cách một
chính đảng cách mạng, Đảng Dân chủ Việt Nam đã nhanh chóng phát triển
về mọi phương diện, xây dựng và củng cố tổ chức thích ứng với yêu cầu
nhiệm vụ chính trị cụ thể của mỗi giai đoạn phát triển của cách mạng nước
ta.
Trong thời kỳ chuẩn bị và tiến hành cách mạng tháng Tám 1945, yêu
cầu vận động, tranh thủ, đoàn kết các tầng lớp trung gian ở thành thị ủng hộ
và tham gia cách mạng là yêu cầu quan trọng, cấp thiết trước mắt. Để góp
phần tích cực thực hiện yêu cầu đó, Đảng Dân chủ Việt Nam đã nhanh chóng
xây dựng, phát triển tổ chức và hoạt động trên cả nước, nhất là ở các thành
phố, thị xã.
Ở Bắc bộ, Đảng đã xây dựng tổ chức hoạt động ở Hà Nội, Hà Đông,
Sơn Tây, Hải Phòng, Kiến An, Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Yên, Hồng
Gai, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Tuyên
Quang, Yên Bái, Bắc Giang, Bắc Ninh.
Ở Nam Bộ, trước cách mạng tháng Tám, các anh em trí thức, sinh viên
trong nhóm Dương Đức Hiền về hoạt động ở Sài Gòn đã xây dựng tổ chức
tiền thân là "Tân dân chủ đoàn". Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công,
từ tổ chức tiền thân này phát triển và xây dựng tổ chức thành các Đảng bộ
Đảng Dân chủ Việt Nam ở các tỉnh và thành phố: Sài Gòn, Chợ Lớn, Cần
Thơ, Thủ Dầu Một, Biên Hoà, Bà Rịa, Sa Đéc, Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh,
Vĩnh Long, Mỹ Tho, Tân An, Rạch Giá, Long Xuyên, Châu Đốc, Sóc Trăng,
Hà Tiên.
Ở Trung Bộ, từ cuối năm 1945, Đảng đã cử cán bộ vào phối hợp với địa
phương tuyên truyền, vận động, xây dựng tổ chức ở các tỉnh và thành phố:
Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Thừa Thiên, Hà Tĩnh, Nghệ
An, Thanh Hoá.

Ở các cơ quan trung ương, Đảng đã phát triển đảng viên trí thức, viên
chức, xây dựng các chi bộ trực thuộc Trung ương ở một số Bộ như Bộ Giáo
dục, Bộ Canh Nông, Bộ Giao thông Công chính, Bộ Y tế, Bộ Tài chính, Bộ
Tư pháp
Đảng viên trong thời kỳ này bao gồm các thành phần xã hội: trí thức,
sinh viên, học sinh, viên chức - những thành phần này chiếm số đông trong
Đảng. Còn một số ít là những nhà tư sản dân tộc, tiểu tư sản công thương và
một ít con em phú nông, địa chủ ở nông thôn đi học và làm việc ở thành phố.
Ngay sau khi thành lập, Đảng Dân chủ Việt Nam đã đi vào hoạt động bí
mật, tích cực tuyên truyền, vận động những người trí thức, sinh viên, viên chức
và những người thuộc tầng lớp trung gian khác ở thành thị ngả theo cách mạng,
ủng hộ Mặt trận Việt Minh; tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình, diễn thuyết,
kêu gọi nhân dân đoàn kết, đứng lên đánh Pháp đuổi Nhật; tổ chức các đội
tuyên truyền vũ trang, đội danh dự trấn áp bọn mật thám, chỉ điểm ác ôn.
Tháng 11 -1944, Trung ương Đảng Dân chủ chủ trương ra tờ báo Độc
lập, cơ quan tuyên truyền vận động cách mạng của Đảng. Trong hoàn cảnh
hoạt động bí mật dưới sự kìm kẹp của thực dân Pháp và phát xít Nhật, tờ báo
đầu tiên đã ra đời với 2 trang giấy bản khổ nhỏ, in li-tô. Các đồng chí Dương
Đức Hiền và Nguyễn Đình Thi chịu trách nhiệm bài vở, Văn Cao phụ trách
in ấn. Những tờ báo Độc Lập lần lượt được xuất bản đã đem đến cho độc giả
trí thức, công chức ở các thành thị - trong số đó có những người đang đứng ở
ngã ba đường - thêm những dữ kiện để hiểu rõ phong trào cách mạng và Mặt
trận Việt Minh, giúp họ nhận rõ hơn con đường cách mạng nên theo để giải
phóng đất nước và nhận rõ những chính sách đàn áp, bóc lột cùng những âm
mưu thâm độc của phát xít Nhật và chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.
Báo Độc Lập đã góp phần làm nên thành tích căn bản của Đảng Dân chủ là
"thành tích giác ngộ cách mạng và cải tạo tư tưởng cho tầng lớp tiểu tư sản và
trí thức" {17}, vạch rõ thái độ "trung lập, khách quan" của tầng lớp đó về
chính trị là sai lầm bởi khi mà cuộc đấu tranh quân sự kế tục cuộc đấu tranh
chính trị đang diễn ra giữa nhân dân và kẻ thù mà đứng ngoài rìa cuộc vận lộn

đó tức là vô tình làm lợi cho địch và kêu gọi họ xuống đường đấu tranh để là
nhiệm vụ lịch sử của mình.
Tờ báo Độc lập đã cùng với các tờ báo của Đảng Cộng sản Đông
Dương, Mặt trận Việt Minh như "Cờ giải phóng", "Cứu quốc" v.v nâng cao
tính chiến đấu trên mặt trận tư tưởng, vũ trang thêm lý luận cho cán bộ và hội
viên các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận làm công tác tuyên truyền, vận
động cách mạng. Báo Độc lập đã phát huy tác dụng thực sự trong các tầng
lớp trung gian thành thị, nhất là ở Hà Nội và Hải Phòng.
Những bài luận văn như "Gấp tiến tới Tổng khởi nghĩa", bài "Mệnh
lệnh khởi nghĩa của Việt Minh", "Nghị quyết của Đảng Dân chủ Việt Nam
hưởng ứng tổng khởi nghĩa" cùng các bài nhạc "Tiến quân ca" (Văn Cao),
"Du kích ca" (Đỗ Nhuận), "Thanh niên cứu quốc ca" (Nguyễn Đình Thi) đã
gây thêm chất men hào hùng cho không khí tiền khởi nghĩa, thúc giục, động
viên các tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, công chức, học sinh, sinh viên hăng hái
tham gia phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Cuối năm 1944, đầu năm 1945, đồng chí Dương Đức Hiền tham gia
đoàn đại biểu của Tổng hội Việt Minh do đồng chí Hoàng Quốc Việt dẫn đầu
sang Quảng Tây (Trung Quốc) theo lời mời của đại diện Chính phủ Tưởng
Giới Thạch ở Hoa Nam để bàn việc hợp tác chống Nhật.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945) các đồng chí lãnh đạo của
Đảng Dân chủ đã bí mật triệu tập một cuộc hội nghị nghiên cứu bản Chỉ thị
"Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" của Đảng Cộng sản
Đông Dương để nắm rõ tình hình và phương hướng hành động. Với chiến
lược đề ra là: tích cực lột mặt nạ và đập tan các hạng Việt gian đầu hàng
Nhật, đặc biệt là các nhóm Đại Việt, các Đảng viên đã đi xuống các địa bàn,
chỉ đạo các cơ sở Đảng, tích cực tuyên truyền, vận động những người trí
thức, sinh viên, viên chức và cả những người thuộc tầng lớp trung gian khác
tham gia đấu tranh vạch trần bộ mặt cướp bóc của Nhật và thuyết "Đại Đông
Á" bịp bợm của chúng, kiên quyết chống chính phủ bù nhìn tay sai của Nhật
với nền độc lập giả hiệu và vạch mặt bọn bán nước, hại dân của các đảng

phái thân Nhật, góp phần phá tan ảnh hưởng của bè lũ thân Nhật trong các tầng
lớp nhân dân.
Thời kỳ này, đồng chí Dương Đức Hiền đã liên hệ, vận động một số trí
thức chủ chốt của tạp chí "Thanh Nghị" đi theo phong trào Việt Minh và sau
đó gia nhập Đảng Dân chủ Việt Nam.
Ngày 12-8-1945, được tin Nhật sắp tuyên bố đầu hàng Đồng Minh,
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và Tổng bộ Việt Minh đã lập Uỷ
ban Khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Uỷ ban chỉ huy lâm thời khu
giải phóng công bố mệnh lệnh khởi nghĩa, Uỷ ban khởi nghĩa ra quân lệnh số
1: "Giờ Tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam
vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà! Chúng ta phải hành động
cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng! cuộc
thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!" {3, 410-411}.
Ngày 13-8-1945, tại Tân Trào, Tuyên Quang, Hội nghị toàn quốc của
Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp quyết định phát động và lãnh đạo toàn
dân khởi nghĩa. Liền sau đó, ngày 16-8, Quốc dân Đại hội khai mạc, hơn 60
đại biểu thay mặt cho ba miền Bắc, Trung, Nam, kiều bào ở nước ngoài, các
đảng phái, đoàn thể, dân tộc, tôn giáo tiêu biểu cho ý chí thống nhất của toàn
dân tộc đã về dự. Đại hội đã tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa, thông
qua 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, và bầu Uỷ ban Dân tộc Giải
phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Đoàn đại biểu Đảng Dân chủ Việt Nam tham gia Quốc dân Đại hội Tân
Trào có luật gia Dương Đức Hiền, bác sỹ nha khoa Nguyễn Dương Hồng,
nhà thơ - kỹ sư canh nông Cù Huy Cận, nữ sinh Thanh Thuỷ.v.v Đồng chí
Dương Đức Hiền và đồng chí Cù Huy Cận đã được bầu vào Uỷ ban Dân tộc
Giải phóng Việt Nam.
Trong Cách mạng tháng Tám-1945, các đảng viên Đảng Dân chủ Việt
Nam đã nêu cao tinh thần cách mạng, kiên quyết và dũng cảm tham gia cuộc
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở nhiều nơi trong nước.
Được tin Tổng hội viên chức Hà Nội tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại

Nhà hát lớn vào chiều ngày 17-8 để ủng hộ Chính phủ bù nhìn Trần Trọng
Kim đang hoang mang, rệu rã, Uỷ ban Khởi nghĩa quyết định biến cuộc mít
tinh ấy thành cuộc mít tinh của quần chúng ủng hộ cách mạng. Chiều hôm
đó, đông đảo hội viên các đoàn thể cứu quốc ở nội và ngoại thành, các đồng
chí Đảng viên Đảng Dân chủ và các đội tuyên truyền xung phong Dân chủ
Đảng, đội tuyên truyền xung phong Hoàng Diệu, đội tuyên truyền thanh niên
xung phong đã được huy động đến nhà hát thành phố. Cuộc mít tinh vừa
khai mạc thì cờ đỏ sao vàng xuất hiện, các đội viên tuyên truyền xung phong
Việt Minh xông lên giành lấy diễn đàn, thông báo tin quân Nhật đã đầu hàng
đồng minh vô điều kiện, kêu gọi đồng bào ủng hộ Việt Minh khởi nghĩa. Một

×