Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Sự ra đời và hoạt động của Hội Khai trí tiến đức giai đoạn 1919-1925

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.75 KB, 119 trang )

-----------------

NGUYỄN LAN DUNG

SỰ RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI KHAI TRÍ TIẾN ĐỨC
GIAI ĐOẠN 1919 - 1925

Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số

: 60 22 54

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. PHẠM XANH

HÀ NỘI –2008

1


Mục lục

Trang
M U ..................................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................. 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 4
3. Đối t-ợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................... 5
3.1. Đối t-ợng nghiên cứu ...............................................................................5
3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 5
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu: ................................................................................ 5


4. Đóng góp của đề ti.............................................................................................6
5. Nguồn t- liệu và ph-ơng pháp nghiên cứu .......................................................... 7
4.1. Nguồn t- liệu ................................................................................................................. .7
4.2. Ph-ơng pháp nghiên cứu..............................................................................7
6. Bố cục đề tài ......................................................................................................... 7
CHNG 1 - BI CẢNH RA ĐỜI CỦA HỘI KHAI TRÍ TIẾN ĐỨC .............. 8
1.1. Hồn cảnh lịch sử.............................................................................................. 8
1.2. Chính sách hợp tác với người bản xứ ............................................................. 23
CHƯƠNG 2 - SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN VỀ MẶT TỔ CHỨC CỦA HỘI
KHAI TRÍ TIẾN ĐỨC GIAI ĐOẠN 1919-1925 .................................................. 29
2.1. Sự ra đời và chủ đích của Hội Khai trí tiến đức ............................................. 29
2.2. Sự phát triển về mặt tổ chức ........................................................................... 39
2.2.1. Hội viên .................................................................................................... 39
2.2.2. Sự ra đời và phát triển của các hội đồng .................................................. 47
2.2.2.1. Các hội đồng hành chính .............................................................. 48
2.2.2.2. Các hội đồng chun mơn ............................................................ 59
CHƯƠNG 3- CÁC HOẠT ĐỘNG CHÍNH CỦA HỘI KHAI TRÍ TIẾN ĐỨC
TRONG SÁU NĂM ĐẦU TIÊN ............................................................................ 66
3.1. Ban Văn học .................................................................................................... 66
3.2. Cơ quan ngôn luận .......................................................................................... 81
3.3. Ban Diễn thuyết .............................................................................................. 89
3.4. Ban Từ thiện ................................................................................................... 97
2


3.5. Ban Mỹ nghệ ............................................................................................. ....108
KÕt ln ............................................................................................................ 114
Tµi liƯu tham Kh¶o.....................................................................................119
Phơ Lơc...............................................................................................................122


3


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Những hậu quả của cuộc thế chiến thứ nhất với Pháp đã khiến chính phủ nước
này quyết định đưa Đông Dương trở thành một trong những khu vực được “ưu tiên”
khai thác trong chính sách khai thác thuộc địa trên quy mô lớn của mình – một trong
hai con đường để nước Pháp giải quyết những khó khăn trong nước và phục hồi lại vị
thế của mình. Trong khi đó, xã hội Việt Nam sau cuộc chiến tranh cũng chứng kiến
một loạt những sự biến đổi trên rất nhiều mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội.
Trước tình hình đó, thực dân Pháp đã nhận thấy sự cần thiết của việc sử dụng những
biện pháp về văn hoá trong việc điều tiết sự vận động của xã hội Việt Nam để đảm bảo
cho công cuộc khai thác thu được tối đa những lợi ích do xứ này mang lại. Tập hợp,
lơi kéo và lợi dụng các thành phần trí thức, thượng lưu người bản xứ – bộ phận có khả
năng tạo ra những ảnh hưởng quan trọng trong quần chúng để phục vụ cho sự thống trị
của Pháp, là một trong những biện pháp được chính quyền thực dân đề cao. Do đó,
song song với việc thực hiện chế độ kiểm duyệt, cấm đốn chặt chẽ đối với các tổ
chức, nhóm quần chúng có khuynh hướng đi ngược lại với lợi ích của nhà nước bảo
hộ, chính quyền thực dân đồng thời cũng dành sự ưu ái và hỗ trợ đặc biệt cho những tổ
chức có tư tưởng thân Pháp. Hội Khai trí tiến đức là một trong số rất ít những tổ chức
chính trị dưới màu sắc văn hố thực hiện được điều đó.
Có thể nói, Hội Khai trí tiến đức là một trong những tổ chức đáng chú ý tại Việt
Nam trong giai đoạn cận đại. Bởi Khai trí tiến đức khơng chỉ là tổ chức văn hố do
chính quyền thực dân thành lập có thời gian tồn tại lâu nhất ở Việt Nam trước cách
mạng tháng Tám, mà nó cịn chứa đựng trong đó những vấn đề liên quan đến chính trị.
Sự ra đời, tổ chức và hoạt động của tổ chức này gắn liền với chính sách thuộc địa qua
các đời tồn quyền Đơng Dương. Hội Khai trí tiến đức được coi là tổ chức thu hút
được sự tham gia của nhiều thành phần thuộc tầng lớp trên của xã hội, tích cực tuyên
truyền đắc lực và tận tâm cho những chính sách, chủ trương của thực dân Pháp. Đặc

biệt, Hội Khai trí tiến đức cịn có tầm hoạt động trên một phạm vi rộng, đặc biệt là Bắc
Kỳ, vì tổ chức này được sự đỡ đầu của các quan chức thực dân cao cấp cũng như Nam
triều.

4


Bởi vậy, làm rõ bản chất, những mặt tiêu cực, hạn chế và những khía cạnh “tích
cực” của Hội Khai trí tiếng đức khơng những có ỹ nghĩa về mặt khoa học mà cịn có ý
nghĩa thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới của đất nước hiện nay, khi có khơng ít các tổ
chức xã hội xuất hiện mang những dấu ấn chính trị được sự ủng hộ của các lực lượng
thù địch đi ngược lại chủ trương, đường lối của Đảng.
Với những lý do trên, tôi chọn luận văn “Sự ra đời và hoạt động của Hội Khai
trí tiến đức giai đoạn 1919-1925” làm luận văn luận văn cao học.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Tình hình nghiên cứu trong nước của đề tài
Trong thời gian qua, các tổ chức văn hóa, chính trị được thành lập trong những
năm sau thế chiến thứ nhất đã trở thành vấn đề thu hút được sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu.
Trong số các cơng trình nghiên cứu trước đây, Tạ Ánh Tuyết có lẽ tác giả duy
nhất chọn Khai trí tiến đức làm đối tượng nghiên cứu của mình trong khố luận tốt
nghiệp Bước đầu tìm hiểu sự ra đời và hoạt động của Hội Khai trí tiến đức những năm
1919-1925 (1996). Trong phần nghiên cứu của mình, dựa trên nguồn tài liệu chính là
Nam Phong tạp chí, tác giả chỉ tập trung vào phân tích một số hoạt động chính của Hội
từ khi thành lập cho đến năm 1925, còn về mặt cách thức tổ chức gần như không được
đề cập đến.
Trong khi đó, trong các cơng trình nghiên cứu khác, các học giả lại chủ yếu tập
trung vào ba nhóm văn hóa, chính trị lớn có xu hướng thân Pháp lúc bấy giờ là Nam
Phong tạp chí, Đơng Dương tạp chí và La tribune indigène (Diễn đàn bản xứ); cịn Hội
Khai trí tiến đức chỉ được đề cập một cách thoáng qua, như một chứng minh cụ thể

cho những biện pháp của chính quyền thực dân trong việc tiến hành cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ hai tại Việt Nam. Nguyễn Văn Trung có thể coi là một người nghiên
cứu chuyên sâu về vấn đề này với hai công trình tiêu biểu Chủ đích Nam Phong
(1972), Trường hợp Phạm Quỳnh (1975). Trong tác phẩm của mình, tác giả đã làm nổi
bật Nam Phong cùng Phạm Quỳnh với vai trò là người phát ngơn cho các chính sách
của chính quyền bảo hộ. Nam Phong và Phạm Quỳnh đã được đánh giá chủ yếu dưới
góc độ chính trị. Tác giả Trần Văn Giàu trong Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam –
sự thất bại của hệ ý thức tư sản (1975) đã có những đánh giá tương tự về bản chất
5


phản động, thực dân của Nam Phong và Đông Dương tạp chí. Gần đây trong cuốn Lịch
sử Việt Nam 1919-1930 do Tạ Thị Thúy chủ biên, vấn đề này cũng được đề cập một
cách cụ thể hơn. Đặt trong bối cảnh Việt Nam từ năm 1919 đến 1930, Hội Khai trí tiến
đức đã được dựng lên như một cơng cụ trong lĩnh vực văn hóa mà chính quyền thực
dân sử dụng để thúc đẩy mạnh mẽ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai. Ngồi ra, các
tác giả cịn tập trung vào tìm hiểu về các nhân vật có ảnh hưởng về chính trị, văn hóa
lúc bấy giờ như Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Phạm Quỳnh… như Việt Nam văn học
sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ, Nhà văn Việt Nam của Vũ Ngọc Phan,
Nguyễn Văn Vĩnh với việc cổ vũ và truyền bá chữ quốc ngữ (2004) của Nguyễn Thị Lệ
Hà… Tuy không đề cập đến một cách chi tiết, nhưng các cơng trình, đặc biệt là các
cơng trình về các cá nhân có liên quan đến Hội Khai trí tiến đức, cũng góp phần quan
trọng vào việc xây dựng hình ảnh của Hội Khai trí tiến đức.
Tình hình nghiên cứu ngồi nước của đề tài
Các vấn đề liên quan đến phong trào dân tộc ở Việt Nam cũng như những trí
thức Việt Nam tiêu biểu giai đoạn này cũng thu hút được sự quan tâm của các học giả
nước ngoài. Trong The rise of nationalism in Việt Nam (1900-1940) xuất bản năm
1976, William Duiker đã có những phân tích cụ thể về những người Việt Nam thân
Pháp cùng những cơ quan ngơn luận của nó. The modern barbarian, Nguyen Van Vinh
and the complexity of colonial modernity on Viet Nam (2004) của Christopher

E.Goscha cũng là một sự phân tích cụ thể về bối cảnh Việt Nam những năm đầu thế kỷ
XX, để từ đó đưa ra những đánh giá, nghiên cứu cụ thể về trường hợp Nguyễn Văn
Vĩnh
Như vậy, cho đến nay, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn diện
về Hội Khai trí tiến đức từ khi ra đời cho đến khi kết thúc, trong đó có giai đoạn 19191925. Tuy nhiên, những kết quả của các cơng trình nghiên cứu trên sẽ là nguồn tài liệu
quan trọng cho việc thực hiện luận văn này.
3. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Hội Khai trí tiến đức, cụ thể là bối cảnh
ra đời, cách thức tổ chức, bao gồm cơ cấu tổ chức, thành phần tham gia, cơ quan ngôn

6


luận và những hoạt động chính của tổ chức này trên các lĩnh vực chính trị, văn hóa,
khoa học và xã hội.
3.2. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Luận văn có nhiệm vụ làm rõ những nhân tố quan trọng dẫn tới sự ra đời của
Hội Khai trí tiến đức; tìm hiểu và đánh giá các hoạt động cụ thể của Hội Khai trí tiến
đức trong sáu năm; xác định rõ bản chất của Hội Khai trí tiến đức và những tác động
của Hội đối với xã hội lúc bấy giờ.
3.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Về thời gian: Hội Khai trí tiến đức chính thức ra đời vào tháng 2/1919 và sau
gần 26 năm hoạt động, tháng 9/1945 Hội Khai trí tiến đức chính thức bị giải thể. Tuy
nhiên, trong phần nghiên cứu, luận văn sẽ chỉ giới hạn thời gian nghiên cứu trong 6
năm hoạt động đầu tiên của hội (từ 1919 đến 1925). Năm 1925 được chọn làm giới
hạn cuối cùng bởi đến tháng 6/1925, Nam Phong chấm dứt vai trò là cơ quan ngơn
luận cho Hội. Do đó, mọi hoạt động và tập kỷ yếu của Hội khơng cịn được đăng tải
trên tạp chí. Năm 1925 cũng là thời điểm Phạm Quỳnh, chủ bút Nam Phong, người
sáng lập Hội Khai trí tiến đức, Tổng thư ký Hội chính thức xin rút khỏi Hội. Do đó, có

thể coi năm 1925 là một mốc trong hoạt động của Hội Khai trí tiến đức
Về nội dung: luận văn đi vào tìm hiểu về các hoạt động chính thức của Hội
Khai trí tiến đức, trong đó sẽ tập trung vào phân tích và đánh giá một số hoạt động
chính, được coi là điển hình nhất của hội.
4. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Về cơ bản, luận văn sẽ đi đến kết luận cụ thể về các hoạt động của Hội Khai trí
tiến đức từ năm 1919 đến năm 1925 trong vai trò là một tổ chức thực hiện và tuyên
truyền cho chính sách của chính quyền thuộc địa trong những năm đầu của cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ hai. Từ đó, đi đến đánh giá về vai trò thực sự của tổ chức này
trong việc đường lối cai trị của thực dân Pháp cũng như trong lịch sử Việt Nam cận
đại.
5. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7


5.1. NGUỒN TÀI LIỆU
5.1. Nguồn tài liệu
Nguồn tài liệu được sử dụng trong luận văn gồm có hai nguồn tư liệu chính.
Thứ nhất, đó là tạp chí Nam Phong. Nam Phong được xác định là cơ quan ngơn luận
chính thức của Hội Khai trí tiến đức trong sáu năm (1919-1925). Do đó, mọi hoạt động
liên quan đến tổ chức này được đăng tải đầy đủ trên tạp chí. Đây là nguồn tài liệu
chính. Thứ hai là các cơng trình nghiên cứu các tác giả đi trước có liên quan đến trực
tiếp hoặc gián tiếp đến luận văn.
5.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục đích của luận văn là tìm hiểu những hoạt động của Hội Khai trí tiến đức
trong việc tập hợp tầng lớp thượng lưu, trí thức và chuyển tải những nội dung trong
đường lối cai trị của chính quyền thuộc địa tới xã hội Việt Nam. Vì vậy phương pháp
lịch sử, phương pháp logic sẽ được sử dụng như hai phương pháp chính. Bên cạnh đó,
việc áp dụng các phương pháp thống kê, so sánh cũng cũng sẽ hỗ trợ luận văn trong
việc đi đến những nghiên cứu và lý giải về Hội khai trí tiến đức.

6. BỐ CỤC ĐỀ TÀI
Về kết cấu nội dung: Ngoài các phần mở đầu, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn gồm có 3 phần chính
Chương 1 - Bối cảnh ra đời của Hội Khai trí tiến đức
Chương 2 - Sự ra đời và phát triển về mặt tổ chức của Hội Khai trí tiến đức giai
đoạn 1919-1925
Chương 3 - Các hoạt động hính của Hội Khai trí tiến đức trong sáu năm đầu
tiên

8


CHƯƠNG 1 – BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA HỘI KHAI TRÍ TIẾN ĐỨC
1.1.HỒN CẢNH LỊCH SỬ
Năm 1914, cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ và Pháp dù không muốn
vẫn bị lôi kéo vào cuộc chiến đầy tổn thất này. Để đảm bảo cho sự thắng lợi trên mọi
phương diện khi rút ra khỏi cuộc chiến này, Pháp đã huy động mọi khả năng có thể, và
Đơng Dương – một thuộc địa mà Pháp đánh giá là giàu có và tiềm năng, cũng được
đẩy vào cuộc chiến tranh với luận điểm: “nghĩa vụ tham chiến của nhân dân Đông
Dương” [Chương Thâu (cb), 1999, tr 283].
Như chính Tồn quyền Đơng Dương lúc đó Ernest Roume tuyên bố “Nhiệm vụ
chủ yếu của Đông Dương rõ ràng là phải cung cấp cho chính quốc đến mức tối đa
nhân lực, vật lực và tài lực, đồng thời một mặt vẫn duy trì trật tự an ninh ở thuộc địa,
mặt khác vẫn giữ cho guồng máy chính trị và kinh tế chạy đều” [Dẫn theo Trần Văn
Giàu (cb), 1961, tr 228]. Giúp “mẫu quốc đánh đổ Đức tặc” và “Rồng Nam phun bạc”
trở thành khẩu hiệu lớn trong việc động viên mọi đóng góp của Đông Dương với nước
Pháp.
Để thực hiện cho kế hoạch “lơi kéo” các thuộc địa của mình vào cuộc chiến,
đồng thời vẫn đảm bảo cho quyền lợi của giới thực dân thuộc địa, Pháp đã tiến hành
những thay đổi trong chính sách thuộc địa cho phù hợp với tình hình thời chiến. Sự

thay đổi liên tục các viên toàn quyền Đơng Dương từ Vollenhoven, Roume đến
Sarraut chỉ trong vịng 4 năm đã phần nào phản ánh được “sự bức xúc” của “mẫu
quốc” khi muốn nhanh chóng thiết kế và áp dụng một chính sách cai trị thích hợp nhất
cho Đơng Dương trong một tình thế mới. Về cơ bản, chính sách của chính quyền thực
dân với Đơng Dương trong những năm thế chiến thứ nhất là nhất quán, và đã được
hoàn thiện dưới thời cai trị lần thứ hai của Abert Sarraut với tư cách là tồn quyền
Đơng Dương. Quyền hạn của tồn quyền Đơng Dương được nới rộng để kịp ứng phó
với mọi tình huống [Chương Thâu (cb), 1999, tr 289].
Về mặt chính trị, Pháp chú ý tăng cường và đề cao vai trị của chính phủ Nam
triều, hay nói cách khác, Nam triều “vơ tình” đã được đưa vào vị trí trung tâm, trở
thành người đề cao cơng ơn khai hóa của nước Pháp cũng như sự hợp tác tốt đẹp giữa
Việt Nam và nước Pháp, qua đó động viên, kêu gọi việc thực hiện chính sách động
viên của chính quyền thực dân. Do đó, chính trong giai đoạn chiến tranh đang diễn ra
9


ác liệt ở chính quốc, vinh danh của Nam triều được khẳng định hơn hẳn giai đoạn
trước. Ngay sau khi Khải Định lên ngơi vua năm 1916, chính quyền thực dân đã cho
đúc tiền Khải Định và tổ chức cho Khải Định một cuộc “Ngự giá Bắc tuần” với nghi lễ
tiếp đón long trọng. Từ năm 1918, ngày 2/5 Âm lịch hàng năm trở thành ngày Hưng
quốc khánh niệm. Tư tưởng trung quân được đặc biệt đề cao trong giai đoạn này, và
trung quân lúc này đồng nghĩa với việc trung thành với triều đình và nước Pháp [Trần
Văn Giàu (cb), 1961, tr 270]. Cũng chính giai đoạn này, các tờ báo của Pháp liên tục
tán tụng Khải định, ngay cả Đơng Dương tạp chí – một tờ báo chủ yếu phê phán chế
độ phong kiến cũng như những hệ quả liên quan đến nó, cũng tham gia vào việc này,
đồng thời khẳng định đây là giai đoạn thịnh trị trong lịch sử Việt Nam và “mẫu quốc”
sẽ giúp đỡ cho sự ổn định, phát triển của Việt Nam, vun đắp cho tình hữu nghị Pháp –
Việt. Bên cạnh việc nới rộng quyền lực của nhà vua, Pháp tiến hành thực hiện việc
chấn chỉnh quan trường nhằm củng cố lại hệ thống quan lại ở Bắc Kỳ nhằm tách Bắc
Kỳ ra khỏi Nam triều, quy định thành văn bản hệ thống tổ chức chính quyền ở Bắc Kỳ,

định rõ cách tuyển dụng quan lại. Năm 1917, Hoàng Việt tân luật được ban hành và áp
dụng ở Bắc Kỳ. Về bản chất, đây là bộ luật được soạn thảo dựa trên luật Gia Long với
những quy định cụ thể về việc thừa nhận và bảo vệ vai trị, vị trí của tầng lớp thống trị
trong xã hội, mà cụ thể là giai cấp phong kiến và đằng sau nó là thực dân xâm lược. Bộ
luật này cũng đồng thời cũng khẳng định vai trị của Cơng sứ Pháp trong việc xét xử
và tuyên bố tái thiết lập tòa án quân sự - một sự cảnh báo đối với mọi âm mưu nổi dậy
chống lại nền cai trị của thực dân.
Sự mở rộng của cuộc chiến ở chính quốc khiến cho lượng cơng chức người
Pháp tham gia vào bộ máy hành chính ở Việt Nam suy giảm. Do đó, các cơ quan dân
sự, vốn chỉ dành cho công dân nước Pháp, nay cũng được mở rộng cho phép người
Việt Nam tham gia nhưng chỉ giới hạn ở những chức vụ, cấp bậc nhỏ. Đây là thời
điểm đánh dấu sự xuất hiện đông đảo của đội ngũ công chức người Việt trong các
công sở của nhà nước. Trong các cơ quan bầu cử, chính quyền thuộc địa cũng thực
hiện việc tăng số người đại diện là người bản xứ. Thành phần tham gia vào Phòng tư
vấn bản xứ Bắc Kỳ, Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ cũng được nới rộng hơn đối với
người Việt (tập trung vào đối tượng là đại địa chủ, thương nhân giàu có, chức sắc cao
cấp). Ngồi ra, Hội đồng kỳ mục bản xứ hàng tỉnh ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ cũng được
củng cố và tăng cường vai trò hơn trước. Tuy nhiên, những ý kiến của Phòng tư vấn
10


Bắc Kỳ hay Hội đồng hàng tỉnh cũng chỉ là “thỉnh nguyện” [Dương Kinh Quốc, 1988,
tr 137] đối với chính quyền thực dân và những vấn đề liên quan đến chính trị tuyệt đối
khơng được đề cập đến.
Đối với cấp quản lý thấp nhất là làng xã, chính quyền thực dân cũng tiến hành
những điều chỉnh quan trọng. Sau cuộc cải lương hương chính năm 1904 ở Nam Kỳ,
năm 1915, một chủ trương cải lương hương chính với Bắc Kỳ cũng được chính quyền
thực dân xem xét nhằm “giúp nhà nước có thể kiểm sốt được việc các hương chức
quản trị dân theo luật lệ”. Tuy nhiên, do cuộc thế chiến lần thứ nhất bùng nổ nên chủ
trương này bị gác lại và chỉ thực hành thí điểm tại một số huyện thuộc tỉnh Hà Đông

vào năm 1915. Nội dung của đợt cải lương này chỉ dừng lại ở việc chỉnh đốn ngân
sách, lập Tòa Hội đồng làm nhiệm vụ quản lý làng xã, thư ký, thủ quỹ, loại bỏ những
hủ tục trong việc cưới hỏi, ma chay, sửa sang trường học... Cũng trong năm này, Tổng
đốc Hà Đơng Hồng Trọng Phu cho lập trường dạy kỳ mục, nhằm mục đích nâng cao
trình độ, “chỉ chun dạy những điều phổ thông”.
Về mặt kinh tế, khi chiến tranh diễn ra, nhiều ngành kinh tế của Đơng Dương bị
đình đốn vì trước đó bị phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường Pháp. Tình hình này nếu kéo
dài chẳng những sẽ ảnh hưởng đến chính sách động viên, mà cịn có thể gây ra những
đảo lộn nguy hiểm về chính trị và xã hội. Trong tình hình mới, chính quyền Đơng
Dương buộc phải có những điều chỉnh cơ bản trong chính sách kinh tế để duy trì sự ổn
định sản xuất, giảm thiểu tới mức tối đa những tác động tiêu cực của chiến tranh tới
đời sống kinh tế, đồng thời hướng nền kinh tế sang việc phục vụ cuộc chiến tranh ở
chính quốc, trên cơ sở đảm bảo cung cấp tối đa được nhân lực và vật lực cho nước
Pháp [Đinh Xuân Lâm (cb), 2000, tr 189]. Và trong trường hợp xấu nhất của cuộc
chiến tranh là bị chia tách khỏi chính quốc, Đơng Dương vẫn phải có đủ khả năng tự
ni mình và phát triển. Thực dân Pháp đã khắc phục tình hình khủng hoảng kinh tế
này theo hai hướng: một mặt nới rộng cho công nghiệp Đông Dương và tư sản bản xứ
hoạt động; mặt khác nới rộng cho kinh tế Đông Dương trở lại với thị trường cổ truyền
của nó mà trước đây đã bị Pháp hạn chế là thị trường Á Đơng [Chương Thâu (cb),
1999, tr 294]. Nói cách khác, chính trong thời điểm này, tính độc lập kinh tế của Đông
Dương đã được phát huy [Trần Văn Giàu, 1961, tr 237]. Những điều kiện đó đã làm
cho kinh tế Đơng Dương trong bốn năm chiến tranh có những chuyển biến quan trọng.
Trong nông nghiệp, để đáp ứng nhu cầu nông sản cho lương thực và công nghiệp, đẩy
11


mạnh phát triển trồng trọt ở thuộc địa trở thành chủ trương chung không chỉ ở Đông
Dương mà ở các thuộc địa khác của Pháp. Từ một nền nông nghiệp chuyên canh cây
lúa, nông nghiệp Việt Nam đã trở nên đa dạng hơn với sự xuất hiện của một số lượng
các loại cây trồng mới được du nhập từ bên ngoài như các loại đậu, cây thầu dầu, cây

thuốc lá… Mặc dù hạn hán diễn ra liên tục trong 4 năm gây nên những thiệt hại không
nhỏ nhưng cùng với cao su, gạo vẫn là loại cây trồng chính có khả năng xuất khẩu và
mang lại giá trị kinh tế cao. Trong khi đó, trên lĩnh vực cơng nghiệp, song song với
việc thúc đẩy mạnh mẽ những cơ sở, nhà máy có liên quan trực tiếp đến chiến tranh
(như Trường Kỹ nghệ Hà Nội và Sài Gòn chuyên đào tạo thợ cho binh xưởng, xưởng
gỗ ở Sài Gòn cung cấp chất axeton làm thuốc nổ, sở rượu Đông Dương sản xuất cồn
chế tạo thuốc súng…) [Đinh Xuân Lâm (cb), 2000, tr 189] …, thực dân Pháp cũng
phục hồi, duy trì hoạt động của những cơ sở cơng nghiệp sẵn có (nhà máy tơ, nhà máy
rượu, nhà máy cưa, xưởng thịt hộp…). Tư bản Pháp cũng tiếp tục đầu tư vào các
ngành khai mỏ, đóng tàu. Để phục vụ cho nhu cầu của Đơng Dương, chính quyền thực
dân cũng cho thành lập ở Sài Gịn một lị đúc gang. Tình hình thương mại trong những
năm chiến tranh cũng có những thay đổi đáng kể. Sự thiếu vắng các loại hàng hoá
nhập khẩu truyền thống từ chính quốc đã đẩy Đơng Dương vào tình trạng khủng hoảng
thiếu. Khi Pháp khơng thể trở thành đối tác thương mại chủ đạo của Đông Dương do
sự xuất hiện của chiến tranh, Đông Dương đã quay sang buôn bán với các quốc gia
trong khu vực như Trung Quốc, Indonexia, Philipin, Nhật Bản với mặt hàng buôn bán
chính là gạo và ngun liệu cơng nghiệp. Trong thời gian chiến tranh, hàng nhập từ
Trung Quốc chiếm 41% tổng số hàng nhập của Đông Dương [Đinh Xuân Lâm (cb),
2000, tr 188].
Nhưng cũng từ chiến tranh, bộ mặt kinh tế của Đơng Dương đã có những sự
chuyển biến quan trọng theo chiều hướng tích cực. Nền kinh tế Đơng Dương đã đạt
được sự tiến triển tương đối khi cán cân xuất nhập khẩu có sự chuyển dịch do nhu cầu
nhập khẩu nguyên vật liệu từ Pháp và gạo từ Nhật tăng cao, do quan hệ buôn bán với
các nước láng giềng được mở rộng [Tạ Thị Thuý (cb), 2007, tr 27]. Với nông nghiệp,
nhu cầu về các loại ngũ cốc tăng lên trên thị trường bên ngoài, nhất là trên thị trường
Nhật Bản do mất mùa liên tục, sản xuất và xuất khẩu lúa gạo được kích thích. Việc sản
xuất các sản phẩm nơng nghiệp mang tính chất thương mại khác như cà phê, chè, cao
su cũng được mở rộng với sự hình thành các vùng nơng nghiệp thương phẩm lớn ở
12



Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ [Tạ Thị Thuý (cb), 2007, tr 31]. Xuất siêu của Đông
Dương giai đoạn 1914-1918 đạt 442 triệu franc so với 152 triệu franc giai đoạn 19091913 [Dẫn theo Tạ Thị Thuý (cb), 2007, tr 28]. Sự thịnh vượng tương đối đó của nền
kinh tế cịn xuất phát tự sự phát triển của chính các ngành kinh tế do thiếu hụt hàng
nhập khẩu, chủ yếu là mặt hàng tiêu dùng. Trước đây, Đông Dương luôn phụ thuộc
vào nhập khẩu hàng hóa chủ yếu là hàng chế tạo từ Pháp, và nước này nhập khẩu chủ
yếu của Đông Dương nguyên vật liệu và các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới không
sản xuất được ở Pháp và trong quan hệ về thương mại Đông Dương luôn là người mau
nhiều của Pháp hơn là bán cho Pháp. Tuy nhiên, sự vướng bận vào cuộc thế chiến của
nước Pháp làm cho hàng hoá của Pháp cũng như các thuộc địa của Pháp vào Đông
Dương trở nên sụt giảm nhanh chóng; hàng hóa từ các nước tư bản khác cũng khơng
thể bằng trước chiến tranh. Thiếu thốn hàng hóa, giá cả hàng nội cũng như hàng ngoại
tăng vọt trở thành vấn đề với thị trường Đông Dương lúc này. Đây là cơ hội cho nền
thương mại Việt Nam phất lên và thể hiện vai trị của mình, phục vụ nhu cầu tiêu dùng
trong nước, thay thế hàng ngoại nhập. Quãng thời gian từ 1914-1918 là thời kỳ mà bộ
phận kinh tế do người Việt Nam làm chủ, đặc biệt trên lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, đã đạt được những kết quả quan trọng. Chấn hưng sản xuất trở thành
phong trào được cổ vũ mạnh mẽ. Nhờ chiến tranh, thương mại đã phần nào thốt khỏi
chính sách kìm hãm của đế quốc Pháp. Mặc dù chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ, nhưng bộ
phận kinh tế do người Việt làm chủ đã góp phần tạo dựng ở Đơng Dương trong những
năm thế chiến hình ảnh của một nền kinh tế dân tộc. Sự thiếu hụt hàng hoá phục vụ
cho nhu cầu của thị trường nội địa, cùng với sự xuất hiện của những đối tác ngoại
thương mới đã có tác dụng kích thích sự phát triển của một số ngành kinh tế Đông
Dương. Trên thực tế, trong chiến tranh, một số ngành công nghiệp, một số cơ sở kinh
tế suy giảm, nhưng số khác không bị cuộc khủng hoảng và sự tăng giá của đồng Đông
Dương tác động [Tạ Thị Thuý (cb), 2007, tr 29]. Sự nảy nở của nền kinh tế dân tộc
trong giai đoạn này là một bước nền quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế
người Việt trong giai đoạn sau chiến tranh, đặc biệt là trong những năm 1919-1924,
khi chính quốc, đặc biệt là tư bản chính quốc vẫn cịn đang vướng bận vào việc khôi
phục lại mọi mặt của nước Pháp thời hậu chiến.

Tiếp tục đường lối thống trị trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng của giai đoạn trước,
trong thời kỳ này, thực dân Pháp áp dụng “chính sách thực dân bằng sách vở” [Đỗ
13


Quang Hưng, 1998, tr 51] với quy mô và mức độ lớn hơn trước. Trước hết là về giáo
dục. Quan điểm rõ ràng trong mục tiêu của giai cấp thống trị khi điều chỉnh chính sách
giáo dục ở Việt Nam là ra sức đào trong lớp người “đã sống nhờ vào chúng ta và ở bên
cạnh chúng ta nhưng mù tịt về truyền thống của giống nòi và xa lạ với mơi trường
sống của mình” “một đội ngũ những tên tay sai trợ lực cho công cuộc cai trị thuộc địa
và phục vụ cho “chiến thắng của Mẫu quốc” [Dẫn theo Đỗ Quang Hưng, 1998, tr 51].
Do đó, phải khai thác triệt để hiệu quả của giáo dục với tư cách là một “công cụ chinh
phục tinh thần”. Để tạo điều kiện cho sự bành trướng nền giáo dục Pháp Việt có thể
diễn ra thuận lợi, năm 1906 Pháp cho thành lập “Đông Dương nha học cục”, làm
nhiệm vụ điều hành và quản lý giáo dục. Nhưng trên thực tế, ngay từ những năm đầu
thế kỷ 20, đứng trước sự xuất hiện rầm rộ của phong trào Đông Kinh nghĩa thực, duy
tân diễn ra trên cả ba miền đất nước, Pháp đã xúc tiến thực hiện xây dựng và phát triển
một nền giáo dục mới ở Việt Nam theo lối của Pháp. Năm 1907, với tham vọng tạo
dựng ở Việt Nam một cơ quan “vừa giảng dạy, vừa nghiên cứu khoa học để có thể
cạnh tranh với các trường đại học của các nước phương Đông” [Phan Trọng Báu,
1994, tr 73], toàn quyền Beau cho thành lập trường Đại học Đơng Dương với 5 trường
cao đẳng: luật, hành chính, khoa học, y, văn chương; nhưng phải đến năm 1913,
trường đại học này mới chính thức tuyển sinh. Nhưng sự điều chỉnh lớn nhất của Pháp
đối với hệ thống giáo dục ở thuộc địa phải là cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất năm
1906 với với ba đối tượng chịu tác động chính là hệ thống trường Pháp - Việt, hệ
thống trường dạy chữ Hán của giáo dục Nho học và hệ thống các trường chuyên
nghiệp. Mục đích của cuộc cải cách giáo dục này với các trường Nho học là tạo ra một
tầng lớp quan lại lấy cựu học làm chính nhưng cũng có tiếp thu được những thành quả
của giáo dục tân học; còn với hệ thống các trường Pháp Việt, nhà cầm quyền hy vọng
có thể đào tạo ra một đội ngũ công chức làm việc trong các cơng sở của người Pháp.

Theo đó, chữ Pháp, chữ Quốc ngữ đã được đưa vào các cấp học của giáo dục Nho học.
Từ năm 1915, hệ thống trường tiểu học Pháp Việt ở các tỉnh được mở rộng, đồng thời
tăng cường số lượng sinh viên trong các trường sư phạm [Trần Văn Giàu, 1961, tr
276]. Việc duy trì song song hai lối giáo dục Pháp học và Nho học trong cuộc cải cách
giáo dục lần thứ nhất đã tạo ra trong xã hội Việt Nam hai bộ phận trí thức là trí thức
Tây học và trí thức Nho học với sự phân hố về tư tưởng “một bên thì không ngừng
quay về với quá khứ âm thầm chống đối những cải cách có nguồn gốc phương Tây.
14


Một bên dựa trên quá khứ nhưng lại hướng về và chuẩn bị cho những đổi mới của đất
nước” [Dẫn theo Phan Trọng Báu, 2008, tr 15,16].
Song đến cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai, chính quyền thực dân đã bãi bỏ
toàn bộ hệ thống các trường Nho học và đưa hệ thống giáo dục Pháp - Việt lên vị trí
độc tơn. Tháng 5/1918, chính quyền thuộc địa ban hành bản Học chính tổng quy và
được coi như là văn bản pháp lý chính thức của nền giáo dục tồn liên bang. Theo đó,
hệ thống giáo dục ở Việt Nam được chia thành ba cấp là tiểu học, trung học, cao đẳng
và đại học; và ở mỗi cấp lại chia thành các bậc khác nhau. Tính đến những năm 20,
Pháp đã thành lập ở Việt Nam khoảng 3 nghìn trường tiểu học, 7 trường cao đẳng tiểu
học và 2 trường trung học [Đinh Xuân Lâm (cb), 2000, tr 223]. Nền giáo dục Việt
Nam đã có những thay đổi về hệ thống tổ chức, về cơ cấu ngành nghề và nội dung đào
tạo. Học sinh đã được trang bị những kiến thức phong phú trên nhiều lĩnh vực, không
chỉ giới hạn ở những ngành khoa học xã hội mà cả trên lĩnh vực khoa học tự nhiên.
Chính sách đó lại mang đến những giá trị tích cực khi đã đào tạo được một đội ngũ
những thanh niên khơng chỉ có kiến thức mà cịn có tinh thần kỷ luật, tư duy khoa học,
thói quen suy nghĩ và hành động một cách chủ động và độc lập.
Những thay đổi cơ bản trong chính sách giáo dục của nhà nước bảo hộ đã dẫn
tới những chuyển biến cơ bản trong xã hội. Hệ thống giáo dục được Pháp hoá triệt để
này đã thực hiện được mục tiêu chính của nó - đào tạo một đội ngũ những người biết
chữ mới làm tay trong các cơ quan, cơng sở của chính quyền thuộc địa, nhưng bản

thân nó cũng đáp ứng được một phần địi hỏi của tầng lớp thị dân, thương nhân và
cơng nhân viên chức cùng con em của họ về nhu cầu học hành, đồng thời đào tạo cho
xã hội nhiều lớp người có học mới có thể tham gia vào những ngành nghề khác nhau.
Dưới thời Pháp thuộc, tầng lớp trí thức đã có sự tăng trưởng về số lượng và chất
lượng. Nền giáo dục cận đại Việt Nam đã hình thành những tầng lớp trí thức khác
nhau, từ trí thức nhỏ chỉ có trình độ tiểu học đến trí thức bậc trung, bậc cao được đào
tạo từ các trường trung học, cao đẳng, đại học [Phan Trọng Báu, 1994, tr 181]. Do nội
dung đào tạo của nền giáo dục mới, do nhu cầu đa dạng của một xã hội đang phát
triển, nếu chỉ học hết tiểu học, họ cũng có thể là giáo viên các trường sơ học cơng hoặc
tư, là viên chức của các sở công, sở tư, cũng có người là chủ xí nghiệp loại nhỏ, chủ
tiệm buôn. Bậc cao đẳng và đại học, việc đào tạo chủ yếu phục vụ lợi ích của chính
quyền bảo hộ.
15


Cũng nằm trong chiến lược thực hiện “chính sách thực dân bằng sách vở” nhằm
tuyên truyền cho nền cai trị cũng như chính sách động viên nhân dân An Nam, ngay
đầu năm 1915, toàn quyền Sarraut chỉ thị cho tất cả các cơ sở phải sử dụng mọi
phương tiện và biện pháp để tuyên truyền cho cuộc chiến tranh “vì công lý và nhân
đạo” của đế quốc Pháp. Một tháng sau khi Hội đồng chính phủ Đơng Dương họp bàn
kế hoạch xuất bản sách vở và báo chí, vào tháng 6/1915, Thư viện truyền bá được
thành lập do F.H.Schneider làm quản lý, chịu trách nhiệm tồn bộ cơng việc xuất bản
sách vở và báo chí ở Đơng Dương. Sách, báo dưới các hình thức văn nghệ, thơ ca, hị
vè cổ… lần lượt được xuất bản để kêu goi nhân dân Đông Dương cùng hợp lực với
mẫu quốc trong cuộc chiến tranh.
Vẫn là “tiếng nói chính thức của nhà nước” và hiếm có những bài báo có tính
cách chống đối chính quyền thực dân [Huỳnh Văn Tòng, 1973, tr 72] như giai đoạn
1865-1907, nhưng báo chí Việt Nam trong những năm chiến tranh đã có những khởi
sắc rõ rệt. Người Pháp đến Việt Nam đã mang theo những yếu tố mới lạ của văn mình
phương Tây, góp phần vào sự thay đổi của đời sống văn hoá, đặc biệt là văn hố thành

thị. Hàng loạt các tờ báo, tạp chí xuất bản bằng chữ Pháp, chữ Quốc ngữ, chữ Hán đã
ra đời ở cả ba kỳ. Chỉ trong một thời gian ngắn, báo chí đã có sự phát triển nhanh
chóng, phản ánh mọi mặt của đời sống từ kinh tế, chính trị, văn học đến nghệ thuật, tư
tưởng. Sự phát triển của báo chí, sách vở là một mơi trường thuận lợi cho sự tuyên
truyền của các trào lưu tư tưởng mới. Những cơng trình giới thiệu về các tư tưởng triết
học, khoa học tự nhiên của các học giả phương Tây đã được in ấn và phổ biến trong
giới trí thức.
Những chuyển biến trên lĩnh vực văn hố cịn gắn liền với q trình mở mang
các đơ thị ở Việt Nam. Sự ra đời của hệ thống các đô thị theo kiểu phương Tây gắn
chặt với cuộc khai thác thuộc địa. Thành thị là biểu hiện sinh động cho sự/quá trình
hấp thụ và pha trộn các giá trị mới - cũ. Chính vì thế, khi những tư tưởng đổi mới từ
phong trào duy tân ở Trung Quốc, từ thành công của cuộc Minh Trị duy tân ở Nhật
Bản dội vào trong nước, thành thị trở thành nơi tiếp nhận và hưởng ứng đầu tiên.
Thành thị cũng trở thành nơi gặp gỡ của lớp sĩ phu yêu nước đã tư sản hố, của lớp trí
thức tân học mới ra đời, của những “chí sỹ nghĩa nhân” trên con đường tìm chân lý
cứu nước [Trần Văn Giàu (cb), 1961, tr 73]. Cùng với sự lớn mạnh của đô thị là sự
tăng lên nhanh chóng của tầng lớp thị dân. Trong vịng 8 năm (1912-1921), dân số Hà
16


Nội tăng 1 vạn người, Sài Gòn tăng 3.3 vạn người [Dẫn theo Đinh Xuân Lâm (cb),
2000, tr 253]. Sự phát triển và mở rộng của phương thức sản xuất mới đã làm cho bộ
mặt của thành thị có những thay đổi nhanh chóng. Cùng với những ảnh hưởng của yếu
tố tư bản mà nền thống trị thực dân mang lại, tầng lớp thị dân đã tạo ra một lối sống
riêng, một phong tục riêng mà ở đó vừa có sự kế thừa những giá trị văn hoá truyền
thống, vừa tiếp nhận được những nét mới. Sự phát triển và mở rộng của thành thị là
điều kiện cho tầng lớp thị dân, mà trước hết là tầng lớp trí thức mới và học sinh có
điều kiện tiếp thu những giá trị của văn hoá phương Tây. Đối với lớp sĩ phu phong
kiến, những thay đổi trong bộ mặt của đô thị cùng những tác động từ thế giới bên
ngoài cũng đã góp phần “lay động ý thức hệ phong kiến trong tư tưởng của họ, trên cơ

sở đó nhãn quan chính trị của họ đổi mới” [Trần Văn Giàu, 1961, tr 73]. Trong xã hội
Việt Nam, một nền văn minh đô thị đã xuất hiện.
Những biến đổi của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa thời thuộc địa đã từng
bước phá vỡ cơ cấu xã hội Việt Nam truyền thống. Đó là sự ra đời của giai cấp cơng
nhân, của tầng lớp tiểu tư sản và tầng lớp tư sản. Thành thị chính là mảnh đất sinh sơi,
nảy nở của hai tầng lớp xã hội mới này. Thời kỳ chiến tranh thứ nhất là giai đoạn giai
cấp tư sản có điều kiện vươn lên và phát triển một cách nhanh chóng. Sự đứt gãy mối
giao liên thương mại với thị trường bên ngoài, đặc biệt là từ nước Pháp và các thuộc
địa của Pháp đã đẩy Đông Dương vào tình trạng khan hiếm hàng hố. Để bù lấp những
khoảng trống trong nền kinh tế, đồng thời để mua chuộc tầng lớp tư sản Việt Nam,
chính quyền thuộc địa đã nới rộng nguyên tắc kinh doanh với tầng lớp này. Mặt khác,
lợi dụng sự giảm sút của tư bản Pháp, tư bản nước ngồi đã len lỏi trong thị trường
Đơng Dương, cạnh tranh buôn bán với tư bản Pháp và hợp tác kinh doanh với tư sản
Việt Nam [Trần Văn Giàu (cb), 1961, tr 250]. Đây là điều kiện thuận lợi để tư sản
người Việt phát triển sản xuất, kinh doanh. Giai đoạn những năm thế chiến thứ nhất là
thời điểm phát đạt đầu tiên của các nhà tư sản dân tộc trên cơ sở phát triển các nghề
thủ công. Những hãng bn người Việt có từ trước gặp thời cơ cũng đẩy mạnh bn
bán theo lối đầu cơ tích trữ. Với tầng lớp tư sản người Việt nói riêng và với nền kinh tế
dân tộc nói chung, sự bùng nổ của cuộc đại chiến lần thứ nhất, sự sút kém của tư bản
Pháp trong 5 năm trên thị trường Đơng Dương là một yếu tố tác động tích cực với quá
trình vận động đi lên của tầng lớp cũng như nền kinh tế này ngay khi nó mới hình
thành trong thời kỳ thuộc địa. [Trần Văn Giàu (cb), 1961, tr 251]. “Một dân tộc hàng
17


nghìn năm coi rẻ thương mại và mới ngày hơm qua khơng có đến một nhà bn lớn,
khơng phải mỗi lúc có thể trở thành một dân tộc bn bán… Những người Pháp xa
Bắc Kỳ sáu, bảy năm quay trở lại sẽ thấy một sự thay đổi lớn. Họ đã có những cửa
hàng lộng lẫy ở những phố sang trọng” [Dẫn theo Trần Huy Liệu, 1960, tr 165]. Do
mới ra đời, nội lực kinh tế còn hạn chế, lại vấp phải sự cạnh tranh và chèn ép của tư

sản Pháp, nên địa vị kinh tế của tư sản Việt Nam cịn khiêm tốn, chỉ có thể hoạt động
trong những ngành kinh tế nhỏ, ít quan trọng và đại đa số là tư sản thương nghiệp.
Trong khi đó, tư sản cơng nghiệp chiếm số lượng rất hạn chế và chỉ hoạt động trong
những ngành kinh tế ít chịu sự kìm kẹp, cạnh tranh gay gắt của tư sản Pháp và Hoa
kiều. Đáng chú ý là sự xuất hiện tuy không nhiều nhưng rất quan trọng của bộ phận tư
sản lớn, một số cịn có khả năng cạnh tranh với tư bản Pháp, như Nguyễn Sơn Hà,
Nguyễn Tiến Ân (mở xưởng sản xuất sơn), Bạch Thái Bưởi (kinh doanh vận tải đường
sông), Nguyễn Hữu Thu (kinh doanh vận tải đường thuỷ), Lưu Thoại Ký (kinh doanh
ngành xay sát gạo), Hồ Tá Khanh (sản xuất nước mắm)… Lớp người nay đã nhanh
nhạy nắm bắt và thậm chí tham gia vào một số ngành kinh tế độc quyền của tư bản
nước ngồi. Đó cũng là một báo hiệu rằng, “tầng lớp tư sản Việt Nam đang có những
chuyển biến để rồi họ có thể sẽ trở thành một lực lượng đáng kể trong xã hội Việt Nam
ở một giai đoạn mới” [Nguyễn Cơng Bình, 1959, tr 72]. Chính sự chủ động vươn lên
của tầng lớp tư sản Việt Nam trong những năm đó là bước đà quan trọng cho sự
chuyển mình của bộ phận này trong giai đoạn sau thế chiến thứ nhất, đặc biệt là trong
những năm 1919-1924. Việc tư bản Pháp tập trung vào việc tái thiết nước Pháp thời
hậu chiến cũng như sự chuyển hướng đầu tư sang lĩnh vực nông nghiệp ở thuộc địa đã
tạo ra những khoảng trống cần thiết trong ngành kinh tế để tư sản Việt Nam có thể tiếp
tục tận dụng và phát triển thực lực của mình. Đó là sự mở rộng hoạt động kinh doanh,
sản xuất theo chiều sâu và chiều rộng. Khi các nhà tư bản nước ngoài quay trở lại thị
trường Việt Nam thì giới doanh nhân trong nước đã có những bước phát triển nhất
định, gây dựng và chen chân được vào một số ngành kinh tế vốn làm lĩnh vực độc
quyền của tư bản Pháp và tư bản Hoa kiều. “Chưa bao giờ người ta thấy thương nhân
Việt Nam hoạt động mạnh như trong thời kỳ này” [Nguyễn Cơng Bình, 1959, tr 79].
Trong hầu khắp các ngành kinh tế, từ buôn bán nhỏ lẻ, dịch vụ, in ấn, sản xuất hàng
thủ cơng đến cơng nghiệp chế biến, khai khống, xuất nhập khẩu… đều thấy bóng
dáng của những nhà tư sản Việt Nam và bắt đầu có sự liên kết giữa những nhà tư sản
18



bản xứ. Sự vận động đi lên của giai cấp tư sản còn thể hiện ở sự mở rộng quy mô kinh
doanh, sản xuất. Một số hãng buôn đã tranh thủ điều kiện thuận lợi để thu lợi nhuận
(năm 1920, số vốn của Quảng Hưng Long đã tăng hơn 3 lần số vốn năm 1907, tương
tự với công ty Liên Thành là hơn 2 lần… [Nguyễn Cơng Bình, 1959, tr 80]). Bên cạnh
đó, nhiều xí nghiệp quy mơ lớn cũng hình thành bắt nguồn từ sự phát triển của nhiều
xí nghiệp, hãng bn nhỏ trước đó. Những năm đầu sau thế chiến thứ nhất là thời kỳ
phát đạt nhất của tư sản Việt Nam. Những hoạt động này cũng đã góp phần thúc đẩy
sự phát triển của bộ phận kinh tế dân tộc, đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng của bộ
phận người bản xứ, đồng thời thể hiện một ý thức chính trị. Thay thế cho hình ảnh của
những sĩ phu gác bút để làm kinh tế vì một tình yêu nước lớn lao, với một khát vọng
chấn hưng nền kinh tế nước nhà trong những năm đầu thế kỷ XX, là hình ảnh của một
lớp người lấy sản xuất, kinh doanh làm sự nghiệp đã có sự trưởng thành cả về chất
lượng và số lượng để trở thành một giai cấp độc lập trong cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ hai. Không chỉ dấn thân vào hoạt động kinh tế vì lợi ích của cá nhân, họ còn mang
khát vọng phục dựng một nền kinh tế do người Việt làm chủ, hành động vì lợi ích
chung của cộng đồng mình. Tuy nhiên, cho đến thời điểm đó, sự mạnh lên về mặt kinh
tế của này lực lượng này lại không tương xứng với vị thế xã hội của nó. Họ bắt đầu
cảm thấy khơng bằng lịng vì sự thiếu ảnh hưởng và vị trí khiêm tốn của mình trong xã
hội thuộc địa.
Bên cạnh đó, tầng lớp tiểu tư sản trong thời chiến cũng có điều kiện tốt để tập
hợp nhanh và đông hơn. Họ bao gồm cả tiểu thương, thợ thủ cơng, học sinh và trí thức
và địa bàn cư trú là thành thị. Giới công chức nhà nước, trí thức là bộ phận quan trọng
nhất của giai cấp tiểu tư sản. Theo ước tính, số lượng trí thức Việt Nam trong những
năm 20 là khoảng 5000 người [Marr, David.G, 1981, tr 32]. Chính sách mở rộng cho
người dân bản xứ được tham gia vào các cơ quan nhà nước, xây dựng thêm trường học
các cấp và thực hiện một số cải cách mang tính chất cải lương tại các làng xã đã góp
phần thúc đẩy sự gia tăng của tầng lớp tiểu tư sản. Sự phát triển nhanh chóng và nở rộ
của báo chí là điều kiện thuận lợi để có thể tiếp cận, tìm hiểu về những trào lưu tư
tưởng mới, những thành tựu khoa học, kỹ thuật phương Tây. Chính vì vậy, những
thơng tin đó có tác động khơng nhỏ tới trình độ và sự nhận thức của giới trí thức với tư

cách là những người có khả năng đọc và hiểu được chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Mặc
dù chính sách giáo dục của chính quyền thực dân “ngay từ những trường học đầu tiên
19


cho đến mãi 25 năm sau, việc đào tạo thông ngôn, thư ký cho cơ quan mới thành lập
vẫn là mục tiêu chính” [Phan Trọng Báu, 1994, tr 182], nhưng thực tế vẫn tạo ra
những hiệu ứng ngược lại. Cho đến những năm 20, trí thức cựu học và trí thức tân học
là hai thành phần chính cấu thành tầng lớp trí thức Việt Nam. Trong khi bộ phận sĩ phu
chỉ hiểu biết lờ mờ về những tư tưởng dân chủ phương tây nhưng lại bắt đầu nghi ngờ
về những giá trị của hệ tư tưởng Nho giáo, thì bộ phận trí thức tân học lại có sự hiểu
biết khá nhiều về những thành tựu của văn hoá phương Tây, nhưng lại nhận thức khá
mờ nhạt về tư tưởng Nho giáo [Marr,G.David, 1981, tr 8-9]. Trong đợt khai thác thuộc
địa lần thứ nhất, tiểu tư sản mới chỉ là một tầng lớp, nhưng đến đợt khai thác thứ hai,
tầng lớp này đã phát triển nhanh chóng về số lượng, chất lượng, trở thành một giai cấp
độc lập. Vào những năm 1920, ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, chính bộ phận tiểu tư sản, chủ
hiệu, công chức dân sự, sinh viên, thơng ngơn, giáo viên… đã bước lên võ đài chính trị
[Marr. G.David, 1971, tr 262-265].
Có thể nói, song song với việc nới lỏng chính sách thuộc địa, sự phát triển
tương đối của nền kinh tế Đông Dương trong những năm chiến tranh là sự ra đời và
trưởng thành của tầng lớp tư sản, tiểu tư sản bản xứ, trong đó đáng chú ý là bộ phận
những người Việt Nam thân Pháp ở thành thị [Duiker.W, 1976, tr 110]. Đối với những
người Việt Nam thân Pháp, đặc biệt là tư sản giàu có, có quyền lợi phụ thuộc chặt chẽ
vào chính sách của chính quyền thực dân, sự trưởng thành của những tầng lớp này tỏ
ra phù hợp với nhu cầu của chính quyền thuộc địa khi chính quyền muốn tạo ta một bộ
phận thượng lưu giàu có làm hẫu thuẫn xã hội đắc lực cho mình [Đinh Xuân Lâm (cb),
2000, 194-195]. Tuy nhiên, mục tiêu chính trị của họ lại có giới hạn, ở trạng thái nước
đơi và có thái độ chống lại các hành động bạo lực dưới mọi hình thức và dễ dàng đi
đến thỏa hiệp khi những yêu cầu cải cách của họ, dù là nhỏ nhất được chính quyền đáp
ứng. Do đó, đây được coi là bộ phận nòng cốt, là chỗ dựa cho việc thực thi các chính

sách của chính quyền thực dân sau này.
Cũng chính từ chính sách để Đơng Dương tự ni lấy mình trong bốn năm
chiến tranh ấy, một bộ phận tư sản, tiểu tư sản Việt Nam cấp tiến, nhận thức rõ được
tình trạng bị xâm chiếm của đất nước cũng hình thành. Đây là một hệ quả tất yếu và là
điều đã được cảnh báo ngay từ cuối thế kỷ XIX “Những kẻ thù kiên quyết của nền
giáo dục bản xứ cảnh báo Paul Bert rằng, một người dân bản xứ được giáo dục khơng
đơn giản có nghĩa là bớt một phu mà có nghĩa là thêm một kẻ phiến loạn” [Buttinger.J,
20



×