Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






PHẠM THỊ TRANG





ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT NGUYỄN TRÍ HUÂN







LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN











Hà Nội - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






PHẠM THỊ TRANG



ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT NGUYỄN TRÍ HUÂN




Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN


Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Tôn Phương Lan







Hà Nội - 2010



2
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU 4
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Lịch sử vấn đề 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 11
4. Phương pháp nghiên cứu 11
5. Cấu trúc luận văn 11
B. NỘI DUNG 13
Chương 1: NGUYỄN TRÍ HUÂN VÀ TIỂU THUYẾT HẬU CHIẾN 13
1.1 Quan niệm về tiểu thuyết hậu chiến 13
1.2 Một số đổi mới cơ bản của tiểu thuyết hậu chiến 19
1.2.1 Đổi mới quan niệm về hiện thực và cách tiếp cận hiện thực 20
1.2.2 Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người 27
1.2.3 Một số đổi mới về nghệ thuật tiểu thuyết 35
1.3 Tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân trong sự vận động của tiểu thuyết hậu
chiến 38
1.3.1 Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Trí Huân 38
1.3.2 Vị trí tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân trong tiểu thuyết hậu chiến . 41
Chương 2: QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI VÀ HIỆN

THỰC TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN TRÍ HUÂN 44
2.1 Quan niệm nghệ thuật về con người 44
2.1.1 Xây dựng bức chân dung chân thực về người lính 44
2.1.1.1 Những người lính anh hùng 44
2.1.1.2 Người lính trong tình cảm riêng tư 46
2.1.1.3 Người lính trong chiến đấu 52


3
2.1.2 Con người bi kịch trong tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân 57
2.2. Đổi mới cách nhìn về hiện thực 71
2.2.1 Quan niệm về chiến tranh 71
2.2.2 Bức tranh hiện thực trần trụi 77
Chương 3: NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT NGUYỄN TRÍ HUÂN 90
3.1 Nghệ thuật xây dựng nhân vật 90
3.1.1 Miêu tả nhân vật qua tâm lý 91
3.1.2 Miêu tả nhân vật bằng thủ pháp đồng hiện 96
3.2 Kết cấu tiểu thuyết 99
3.2.1 Kết cấu theo thời gian tuyến tính 100
3.2.2 Kết cấu theo dòng ký ức 102
3.3 Ngôn ngữ 105
3.3.1 Ngôn ngữ nhân vật 106
3.3.2 Ngôn ngữ người kể chuyện 110
3.4 Giọng điệu 112
3.4.1 Giọng điệu hào sảng, trầm hùng 112
3.4.2 Giọng chiêm nghiệm, suy tư 114
C. PHẦN KẾT LUẬN 118
TÀI LIỆU THAM KHẢO 121



4
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bất cứ một nền văn học chân chính nào, sự ra đời và phát triển của nó
đều gắn bó sâu sắc với thời đại và gắn với việc thực hiện xuất sắc nhiệm vụ
của thời đại đó. Sau năm 1975, cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước trường
kỳ và gian khổ của dân tộc kết thúc thắng lợi, cuộc sống hòa bình trở lại toàn
thể nhân dân Việt Nam. Cùng với đó, con người cũng phải đối mặt với những
biến đổi lớn trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh xã hội ấy, ý thức cộng
đồng đã dần nhường chỗ cho sự thức tỉnh ý thức cá nhân mỗi con người.
Văn học Việt Nam sau 1975 nói chung, tiểu thuyết sau 1975 nói riêng
phát triển trong điều kiện xã hội mới, trong môi trường ý thức cá nhân có
nhiều biến chuyển. Đặc biệt, từ sau Đại hội VI của Đảng, văn học dần trở lại
với chức năng và bản chất của chính nó. Văn học gắn bó với hiện thực, nhưng
không chỉ phản ánh hiện thực mà còn là suy ngẫm về hiện thực. Đối tượng
nghiên cứu và khám phá của văn học không chỉ là xã hội mà còn là con người
với tất cả sự phức tạp và bí ẩn của nó. Vấn đề quyền sống, nỗi đau khổ và
hạnh phúc của con người được văn chương khai thác với cảm hứng nhân đạo
sâu sắc.
Chiến tranh là đề tài xuyên suốt và nổi bật trong văn học Việt Nam.
Không chỉ trong thời chiến mà ngay khi chiến tranh đã kết thúc, tiếng súng đã
thôi gào thét, đề tài này vẫn có tính thời sự, luôn thu hút đông đảo các nhà văn
và vẫn có sức hấp dẫn đối với công chúng. Tiếp tục dòng mạch của văn xuôi
cách mạng, từ sau 1975, đề tài chiến tranh hấp dẫn sự quan tâm của người
cầm bút, nó là “món nợ dài” của các nhà văn mặc áo lính. Nhìn nhận lại cuộc
kháng chiến đã qua trở thành một nhu cầu tâm lý thường trực của các nhà văn,
nhất là những nhà văn từng kinh qua trận mạc.


5

Bước vào thời kỳ hòa bình, chiến tranh vẫn là đề tài chính của văn học.
Trong quan niệm của nhiều nhà văn chiến tranh vẫn là “siêu đề tài", người
lính vẫn là "siêu nhân vật", càng khám phá càng thấy những "độ rung không
mòn nhẵn" và công việc của những người cầm bút trong những năm chiến
tranh chỉ mới nói được một phần nào về cuộc sống, con người thời chiến. So
với tiểu thuyết viết về chiến tranh trong chiến tranh, tiểu thuyết hậu chiến đã
có nhiều chuyển biến mới từ đề tài, đến cốt truyện, nhân vật, thể loại và thi
pháp. Đó là sự chuyển hướng dần từ tư duy sử thi sang tư duy thế sự, từ cảm
hứng ngợi ca, khẳng định sang cảm hứng chiêm nghiệm, suy tư.
Dòng văn học hậu chiến không chỉ nở rộ với một khối lượng lớn các
tác phẩm đủ thể loại mà còn đánh dấu những về mặt đề tài, tư tưởng nghệ
thuật cũng như nghệ thuật xây dựng tác phẩm. Đặc biệt, trong giai đoạn này
xuất hiện nhiều tác phẩm văn xuôi của những nhà văn từng nhiều năm khoác
áo lính, thấm thía và trải nghiệm hiện thực bom đạn một thời. Khác với các
tiểu thuyết viết về chiến tranh trong chiến tranh, do có độ lùi khá xa nên thời
kỳ này, các nhà văn viết bằng tâm thế của người trở về sau chiến tranh nhìn
nhận lại cuộc chiến đã qua của dân tộc.
Có thể điểm qua hàng loạt gương mặt tiểu thuyết viết về chiến tranh
sau chiến tranh như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Nam Hà, Thái
Bá Lợi, Chu Lai, Xuân Đức, Trung Trung Đỉnh, Khuất Quang Thụy, Bảo
Ninh, Nguyễn Quang Lập… Nhận định về giai đoạn văn học này, nhà phê
bình Bùi Việt Thắng cho rằng “Có thể coi giai đoạn văn học 1975 – 1984 là
một chặng đường mới của tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng. Càng
lùi xa sự kiện thì tầm nhìn của nhà văn càng rộng, trong tương lai không xa
chúng ta sẽ được đón nhận những tác phẩm thành công hơn hôm nay trên đề
tài này” [78, 29].


6
Có những cây bút thể hiện sức sáng tác hết sức dồi dào, có những nhà

văn chỉ ghi dấn ấn trên văn đàn với một vài tác phẩm. Và có những lối viết
hấp dẫn thực sự, lại có những thể nghiệm còn chưa tới đích, song các nhà văn
đều đang hết mình trong một nỗ lực chung: làm mới mình và làm mới văn
chương.
Nguyễn Trí Huân xuất hiện sau năm 1975 với tiểu thuyết Năm 1975 họ
đã sống như thế và nhanh chóng được bạn đọc chú ý. Dẫu sáng tác không
nhiều song với đủ thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí sự, Nguyễn Trí Huân
đã góp phần làm phong phú thêm diện mạo văn học thời kỳ hậu chiến. Điểm
qua các sáng tác trong sự nghiệp của nhà văn, tiểu thuyết được xem là thể loại
thành công hơn cả với hai tác phẩm Năm 1975, họ đã sống như thế và Chim
én bay. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Trí Huân được đánh dấu bằng
hai giải thưởng lớn: giải thưởng Văn học Bộ quốc phòng 1985 – 1989 và giải
thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1990 với tác phẩm Chim én bay. Đồng
thời, ông cũng đoạt giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007.
Không những thế, các tiểu thuyết của ông ít nhiều còn tạo được sự chú
ý, đánh giá cao của dư luận và giới phê bình, đặc biệt là tác phẩm Chim én
bay. Đa số các ý kiến đều cho rằng, qua Chim én bay, Nguyễn Trí Huân đã
đặt ra được cách nhìn nhận mới về cuộc chiến tranh vừa qua, đó là “những
năm tháng chiến tranh xưa với tất cả sự khốc liệt của nó (…), lại vừa như
được đứng trước những vấn đề thời sự của cuộc sống hiện nay như: vấn đề
đổi mới cách nghĩ, cách sống, vấn đề nhân đạo cũng như việc giải tỏa hận thù,
ngăn chặn nọc độc của một cuộc chiến tranh mới…” [12]. Nhãn quan chân
thực, đầy tính nhân bản ấy không phải đến Chim én bay mới xuất hiện mà
thực ra nó đã manh nha từ trong Năm 1975 họ đã sống như thế. Tác phẩm
mang khuynh hướng sử thi này một mặt “đã dự báo những cuộc chiến tranh


7
xảy ra trong tương lai”, mặt khác “còn dự báo về sự lan rộng của những hiện
tượng tiêu cực ở miền Bắc” [2].

Xuất phát từ những thành tựu đáng ghi nhận của tiểu thuyết Nguyễn Trí
Huân trong dòng tiểu thuyết viết về chiến tranh sau chiến tranh, chúng tôi đã
lựa chọn đề tài Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân với mong muốn
hướng đến tìm hiểu, phân tích, đánh giá những đóng góp của tác giả vào giai
đoạn văn học sau năm 1975 nói riêng và văn học Việt Nam viết về đề tài
chiến tranh nói chung. Đồng thời, thông qua tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân,
luận văn tìm hiểu một số đặc điểm cũng như quy luật vận động của tiểu thuyết
viết về chiến tranh sau chiến tranh.
2. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu qui mô nào về nhà
văn Nguyễn Trí Huân và tiểu thuyết của ông. Tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân
thường được giới nghiên cứu, phê bình bàn luận trong các bài viết đăng trên
các báo, tạp chí và trong những công trình khoa học, bài viết về văn xuôi thời
kỳ hậu chiến, tiểu thuyết về đề tài chiến tranh và người lính.
Các bài viết về Nguyễn Trí Huân và tác phẩm của ông có thể chia thành
hai nhóm:
Nhóm thứ nhất, bao gồm các bài viết, bài phỏng vấn hay trò chuyện của
nhà văn xung quanh nghề văn – nghề báo. Báo Công an nhân dân số ra ngày
22/7/2008 có đăng bài viết “Nhà văn Nguyễn Trí Huân – Người luôn tự biết
mình” của tác giả Phạm Khải. Bài báo thể hiện cảm nhận của người viết về
con người Nguyễn Trí Huân trên cương vị là Tổng biên tập tuần báo Văn
nghệ, người đã từng 15 năm “cầm trịch” tờ Văn nghệ quân đội: “Nguyễn Trí
Huân là người có cái nhìn cuộc sống ôn hòa. Trong mỗi con người, bên cạnh
những mặt chưa hoàn thiện, ông luôn nhìn ra (và tìm ra) những nét đẹp tiềm


8
ẩn của họ”. [43]. Về sự nghiệp sáng tác, tác giả bài viết cho rằng, so với nhiều
nhà văn cùng trang lứa, Nguyễn Trí Huân thuộc diện viết ít, số sách của ông
có thể đếm trên đầu ngón tay. Lý giải về điều này, trong một lần trả lời phỏng

vấn của phóng viên, nhà văn đã thành thực bộc lộ: ông có một “thói quen
xấu” là cứ phải “bứt ra một thời gian dài đi đâu hẳn, thoát ra mọi sự vụ thì
mới có thể viết được” [43]. Vậy nhưng, sau khi từ chiến trường trở về, học
xong khóa I trường viết văn Nguyễn Du, ông liên tục vướng bận vào công
việc của nhà quản lý, nên thời gian dành cho văn chương trở nên eo hẹp dần.
Tiếp đó là bài phỏng vấn của tác giả Đức Đan đăng trên báo điện tử Tổ
quốc với nhan đề “Nguyễn Trí Huân: Làm báo phải có bản lĩnh”. Bài báo ghi
lại cuộc trò chuyện của nhà văn – nhà báo Nguyễn Trí Huân xoay quanh đạo
đức, phẩm chất nghề nghiệp của một người làm báo và sự khác biệt giữa
cương vị người cầm bút khi viết văn và khi làm báo. Dẫu không đề cập đến sự
nghiệp văn chương của Nguyễn Trí Huân song qua cuộc trò chuyện này, nhà
văn cũng thể hiện quan điểm của mình về phẩm chất quan trọng của nhà báo
nói riêng và người viết nói chung đó là bản lĩnh: “Để có một bài báo hay thì
nhà báo, nhà văn phải sống trong sự thật mà mình viết, phải trải. Nếu chỉ nghe
kể thôi để lấy tư liệu viết lại thì không thể hay được.” [18].
Nhóm thứ hai tập hợp những bài viết, phê bình, đánh giá về các sáng
tác của nhà văn Nguyễn Trí Huân, trong đó tập trung chủ yếu vào tiểu thuyết.
Về tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế, tác giả Hoài Anh có bài viết
“Tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân – Một cách nhìn chiến tranh xác thiết” đăng
trên website o. Thông qua việc phân tích các tình huống,
chi tiết của cuốn tiểu thuyết, tác giả Triệu Xuân đánh giá cuốn tiểu thuyết đã
thể hiện cách nhìn chân thực của nhà văn về một thời điểm của cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước từ đầu tháng 3 đến trước 30 tháng 4 năm 1975:
“Không chỉ dự báo những cuộc chiến tranh xảy ra trong tương lai, tiểu thuyết


9
còn dự báo về sự lan rộng của những hiện tượng tiêu cực ở miền Bắc”. Bên
cạnh đó, bài viết còn tổng kết một số thành tựu nghệ thuật đặc sắc của tác
phẩm như lối kể chuyện chính xác, sinh động; nghệ thuật xây dựng, miêu tả

tâm lý nhân vật chân thực.
Sau khi đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1988 - 1989,
tiểu thuyết Chim én bay đã nhận được sự chú ý của đông đảo dư luận cũng
như giới nghiên cứu, phê bình. Tiêu biểu trong số đó là hai bài viết “Chim én
bay – Một cách nhìn về chiến tranh” của tác giả Phạm Hoa đăng trên báo Văn
nghệ năm 1989 và “Đồng hiện – Một thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả trong
tiểu thuyết Chim én bay” của Ngô Vĩnh Bình đăng trên báo Văn nghệ năm
1990. Tác giả Phạm Hoa cho rằng Nguyễn Trí Huân đã thể hiện nhận thức về
hiện thực tàn khốc của chiến tranh bằng “một lối viết bộc lộ tính người”,
“giọng văn chứa đầy trăn trở, nghĩ suy, nặng nề tâm trạng”. Trong khi đó, tác
giả Ngô Vĩnh Bình lại đi sâu khai thác một thủ pháp nghệ thuật được coi là
đắc địa của Chim én bay đó là thủ pháp đồng hiện: “Đọc Chim én bay người
đọc vừa như thấy lại những năm tháng chiến tranh xưa với tất cả sự khốc liệt
của nó (…), lại vừa như được đứng trước những vấn đề thời sự của cuộc sống
hôm nay như: vấn đề đổi mới cách nghĩ, cách sống, vấn đề nhân đạo cũng như
việc giải tỏa hận thù, ngăn chặn nọc độc của một cuộc chiến tranh mới…”.
[12].
Bên cạnh những bài viết riêng lẻ, tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân thường
được nhắc đến trong các công trình nghiên cứu, những bài báo, bài nghiên
cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành xoay quanh tiểu thuyết viết về đề tài
chiến tranh thời kỳ hậu chiến. Quy mô nhất là luận văn thạc sĩ “Đề tài chiến
tranh trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985” (Vũ Thị Phương
Nga – do PGS.TS Lý Hoài Thu hướng dẫn, trường ĐH KHXH&NV). Nghiên
cứu đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết sau 1975, các bài viết thiên về tìm


10
hiểu một số nét đổi mới của tiểu thuyết giai đoạn này như: “Tiểu thuyết về
chiến tranh viết sau năm 1975” đăng trên Tạp chí Văn học số 5/1980, “Một
cách nhìn về đổi mới tiểu thuyết chiến tranh” đăng trên website của Viện Văn

học (PGS. TS Tôn Phương Lan); “Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh sau năm
1975 và những thành tựu nghệ thuật bị bỏ lỡ” (TS Nguyễn Phượng), “Ý thức
cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975” (PGS. TS Nguyễn Bích Thu)
in trong Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng
dạy. Bàn về hình ảnh người lính nói riêng và con người nói chung có một số
bài viết như “Chân dung tinh thần người lính qua một số tiểu thuyết hậu
chiến”, “Nhân vật của tiểu thuyết hậu chiến” (Đinh Thị Huyền) đăng trên
website báo Văn nghệ quân đội và Viện Văn học; “Cái nhìn mới về người
lính và sự thay đổi quan niệm về đề tài của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975”
(Nguyễn Tiến Đức) đăng trên website báo Văn nghệ quân đội. Các bài viết
này đề cập đến sự đổi mới quan niệm và cách thể hiện hình ảnh con người
trong tiểu thuyết viết về chiến tranh sau năm 1975 thông qua việc xây dựng
hình ảnh những người lính. Tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân cũng nằm trong
dòng chảy chung của sự vận động, đổi mới của thể loại khi tiếp tục khai thác
mảng đề tài chiến tranh cách mạng.
Như vậy, nghiên cứu về tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân chưa nhiều và
chưa thực sự tập trung. Với đề tài này, chúng tôi hướng đến cung cấp cho độc
giả cái nhìn toàn diện về tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân nói riêng và sự nghiệp
sáng tác của ông nói chung, cũng như những đóng góp của tiểu thuyết
Nguyễn Trí Huân trong tiến trình tiểu thuyết dân tộc.


11
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Triển khai đề tài Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân, luận văn
tập trung tìm hiểu hai tiểu thuyết: Năm 1975, họ đã sống như thế (1979) và
Chim én bay (1988).
Ngoài ra, chúng tôi cũng mở rộng hướng nghiên cứu, đặt các tiểu
thuyết này trong mối quan hệ với sáng tác thuộc các thể loại khác của Nguyễn
Trí Huân như: Mặt cát (1977), Dòng sông của Xô nét (1980), Cao nguyên

không xa xôi (1964) và các tiểu thuyết của các nhà văn cùng thời, cùng đề tài
như Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn
mày dĩ vãng, Nắng đồng bằng (Chu Lai), Lạc rừng (Trung Trung Đỉnh),
Trong cơn gió lốc, Không phải trò đùa (Khuất Quang Thụy), Thung lũng thử
thách (Thái Bá Lợi), Mở rừng (Lê Lựu)…
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sẽ sử dụng kết hợp các phương pháp như
phân tích – tổng hợp, thi pháp học, so sánh… Trong đó, phương pháp phân
tích – tổng hợp được sử dụng chủ đạo nhằm tiếp cận, đánh giá những đặc
điểm cơ bản nhất của tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân trên hai bình diện nội
dung, nghệ thuật.
Phương pháp so sánh hỗ trợ trong việc nghiên cứu những nét tương
đồng và khác biệt, đổi mới về đề tài, nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết… trong
các sáng tác của nhà văn.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn được chia thành 3
chương:


12
Chương I: Nguyễn Trí Huân và tiểu thuyết hậu chiến. Ở chương này,
chúng tôi phác thảo sơ lược diện mạo chung của tiểu thuyết viết viết về đề tài
chiến tranh và người lính sau năm 1975. Tiếp đó, giới thiệu cuộc đời và sự
nghiệp sáng tác của nhà văn – đại tá Nguyễn Trí Huân.
Chương II: Quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người trong tiểu
thuyết Nguyễn Trí Huân. Chương 2 tập trung tìm hiểu những đặc điểm nội
dung trong tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân thông qua nghiên cứu quan niệm,
cách nhìn nhận về hiện thực chiến tranh và người lính của nhà văn.
Chương III: Nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân. Trên cở sở phân
tích các đặc trưng trong cách phản ánh hiện thực chiến tranh và thể hiện hình

tượng người lính, chúng tôi rút ra một số thành tựu nghệ thuật tiểu thuyết trên
các phương diện cơ bản là nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ, kết cấu
và giọng điệu tiểu thuyết.


13
B. NỘI DUNG
Chương 1: NGUYỄN TRÍ HUÂN VÀ TIỂU THUYẾT HẬU CHIẾN
1.1 Quan niệm về tiểu thuyết hậu chiến
Tiếp thu những thành tựu từ văn học cách mạng giai đoạn 1945 – 1975,
văn học từ sau năm 1975 vẫn tiếp tục khơi sâu vào mảng đề tài chiến tranh
vốn là thế mạnh này. Với “vai trò then chốt trong đời sống văn học, tiểu
thuyết có những khả năng và ưu thế đặc biệt trong việc bao quát tầm vóc hiện
thực và khám phá những vấn đế của thân phận con người… nghĩa là tiểu
thuyết có năng lực phản ánh hiện thực ở cả bề rộng lẫn chiều sâu của nó” [86,
537], tiểu thuyết không chỉ ghi lại không khí phấn khởi của thời kì đầu độc
lập, dựng xây đất nước mà còn thể hiện sâu tâm tư, tình cảm của con người
trước những đổi thay lớn của thời đại. Phát triển trong một giai đoạn lịch sử
nhiều biến động, thể loại tiểu thuyết, vì lẽ đó, cũng có những chuyển biến
đáng kể trên mọi mặt, từ đề tài, nội dung phản ánh, tư tưởng cho đến hình
thức thể hiện.
Tiểu thuyết hậu chiến lâu nay đã trở thành khái niệm ước lệ chỉ tiểu
thuyết viết về chiến tranh ngay sau chiến tranh. Đây là thời kỳ tiểu thuyết mà
ngọn nguồn cảm hứng của nó vẫn nằm trong từ trường của chiến tranh. Đối
tượng phản ánh của tiểu thuyết hậu chiến có thể vẫn là hiện thực chiến tranh,
cũng có thể là cuộc sống hòa bình nhưng là một hòa bình trong những dư âm
và những ảnh hưởng nặng nề của cuộc chiến. Điểm chung lớn nhất của các
tác phẩm văn học hậu chiến chính là ở nhân vật. Đa số họ là những con người
đã từng tham gia chiến trận, vừa bước ra khỏi chiến tranh, đối mặt với cuộc
sống mới nhưng vẫn còn bị chi phối bởi quán tính của cuộc chiến đấu trường

kì, gian khổ trong quá khứ.


14
Trong bối cảnh đất nước đã bước sang thời bình, tiểu thuyết nói riêng,
văn học nói chung vận động theo khuynh hướng xa dần quỹ đạo của văn học
thời chiến và nghiêng dần sang góc độ đời tư – thế sự. Thời kỳ này xuất hiện
nhiều tiểu thuyết có sự đan xen của các đề tài trong cùng một tác phẩm. Một
số tiểu thuyết hướng vào đề tài đạo đức – sinh hoạt, hình ảnh người lính vẫn
rõ nét hoặc thấp thoáng xuất hiện. Lại có một số tác phẩm viết về chiến tranh
nhưng cũng không hoàn toàn quay lưng với cuộc sống thường ngày. Vì vậy,
tiểu thuyết hậu chiến là bộ phận lấy đề tài chiến tranh, người lính làm đề tài
tập trung tô đậm và chứa đựng ý nghĩa tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Tiểu thuyết hậu chiến đã xây dựng được một diện mạo mới cho dòng
tiểu thuyết viết về chiến tranh, cũng như cho toàn bộ giai đoạn văn học sau
năm 1975. Chiến tranh đã lùi xa, các nhà văn có thời gian suy ngẫm, nhìn
nhận lại những năm tháng mà mình trải nghiệm. Bởi thế, họ thấu hiểu con
đường đi đến chiến thắng phải thấm biết bao xương máu, nước mắt của đồng
bào, chiến sĩ. Nhưng điều đó trong chiến tranh dễ gì viết ngay được. Chiến
tranh chấm dứt, văn học phải phản ánh, ghi nhận đúng tính khách quan của
lịch sử, bản chất của vấn đề đã trở nên một nhu cầu của cả người viết, người
đọc và cả người thưởng thức. Trăn trở về điều này, ngay từ năm 1978, nhà
văn Nguyễn Minh Châu đã đặt ra câu hỏi cho hướng đi của tiểu thuyết chiến
tranh thời hậu chiến “Chiến tranh đã kết thúc, chúng ta cùng các nhân vật của
mình đã đi trọn vẹn một thời kì ba mươi năm, ở đấy tất cả những vấn đề quy
luật của chiến tranh đã phát triển trọn vọn, những số phận và tích cách nhân
vật cũng đã phơi bày trọn vẹn” thì “tiểu thuyết sẽ làm cái gì đây? Tiểu thuyết
viết về chiến tranh sẽ tìm lĩnh vực nào để cho mình có một chỗ đứng không
trùng lặp với chỗ đứng của hồi ký chiến tranh?” [47, 52].
Không phủ nhận, không phê phán những thành tựu của văn học viết về

chiến tranh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trước đó,


15
nhưng với tâm huyết của một người cầm bút, Nguyễn Minh Châu đã chỉ ra
rằng “Hình như trong ý niệm sâu xa của người Việt Nam chúng ta, hiện thực
của văn học có khi không phải là cái hiện thực đang tồn tại, mà là cái hiện
thực mọi người đang hy vọng, đang mơ ước… Những người cầm bút chúng ta
vô cùng cảm thông với dân tộc mình nhưng chẳng lẽ chúng ta có thể làm yên
tâm mọi người bằng cách mô tả các hiện thực ước mơ?” [47, 62]. Và khi lịch
sử lật sang một trang mới, nhà văn khẳng định, giữa “con người hay sự kiện”,
văn học viết về chiến tranh “phải viết về con người”. Đó không chỉ là sự lựa
chọn riêng của tiểu thuyết mà là câu trả lời chung cho các thể loại văn học.
Những trăn trở của Nguyễn Minh Châu trong bài “Viết về chiến tranh” cũng
thống nhất với nhận xét của Hoàng Ngọc Hiến về văn học cách mạng trước
năm 1975 – dòng văn học mang “chủ nghĩa hiện thực phải đạo” - trong bài
“Về một đặc điểm của văn học và nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua”
đăng trên báo Văn nghệ, số 23, ngày 9/6/1979 “Đứng ở bình diện cái phải tồn
tại, người nghệ sĩ dễ bị cuốn hút theo xu hướng miêu tả cuộc sống cho phải
đạo, còn đứng ở bình diện các đang tồn tại thì mối quan tâm hàng đầu là miêu
tả sao cho chân thật” [69, 99].
Nhiều người gọi tiểu thuyết giai đoạn ngay sau 1975 là “chặng đường
chuyển tiếp từ nền văn học cách mạng trong chiến tranh sang nền văn học của
thời kì hậu chiến” [69] để đi tới công cuộc đổi mới toàn diện, sâu sắc đồng bộ
với sự đổi mới của đất nước từ sau năm 1986. Do chịu sự chi phối của hoàn
cảnh mới: độ lùi của thời gian, tâm lý sáng tác, sự tiếp nhận của người đọc, cơ
chế mới, giao lưu văn hóa… đặc biệt là tầm văn hóa và tầm nhìn của xã hội
đều ở vị thế mới, tiểu thuyết viết về chiến tranh tất yếu cũng phải thay đổi. Đề
tài chiến tranh và người lính được các tác giả tiểu thuyết thể hiện phong phú
về chủ đề, đa dạng về phong cách và hình thức thể hiện. Điểm qua một số tác

phẩm xuất hiện trong khoảng thời gian sau thắng lợi của cuộc kháng chiến


16
chống Mỹ cứu nước để thấy được diện mạo chung của tiểu thuyết viết về
chiến tranh sau chiến tranh. Trước hết, nhắc đến giai đoạn văn học này không
thể bỏ qua nhà văn từng thành công với nhiều sáng tác từ thời văn học cách
mạng Nguyễn Minh Châu. Tiếp nối Dấu chân người lính – một tiểu thuyết
“có tiếng vang và được nhiều người khen” tái hiện không khí hừng hực sục
sôi “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” từ năm 1972 là hàng loạt sáng tác ra đời
sau năm 1975 như Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977), Những
người đi từ trong rừng ra (1982). Ngoài ra, có thể kể đến một số tiểu thuyết
khác như: Mở rừng (Lê Lựu), Biển gọi (Hồ Phương), Đất trắng (Nguyễn
Trọng Oánh), Trong cơn gió lốc (Khuất Quang Thụy), Họ cùng thời với
những ai, Thung lũng thử thách (Thái Bá Lợi), Nắng đồng bằng (Chu Lai),
Cửa gió (Xuân Đức), Những người báo bão (Vân Thảo), Đất miền Đông
(Nam Hà), Vùng trời (Hữu Mai), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)…
Cũng chính trong khoảng thời gian này, nhiều cây bút trẻ được khẳng
định như Xuân Đức, Thái Bá Lợi, Nguyễn Trí Huân, Khuất Quang Thụy và
ngay cả những nhà văn đã từng “chung thân” với đề tài chiến tranh cũng có
nhiều thể nghiệm mới khi tiếp tục khai thác dòng đề tài chiến tranh và người
lính từ trước đó. Điểm gặp gỡ chung của các nhà văn viết về cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước thời kì này là họ đều từng trải qua những năm
tháng đầy “máu và hoa” trên nhiều nẻo đường của đất nước. “Chu Lai, tác giả
của hàng loạt tiểu thuyết viết về đề tài người lính và chiến tranh: Phố, Ăn mày
dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc, Ba lần và một lần… đã từng có những năm tháng
“chịu trận” như thế ở một vùng ven đô Sài Gòn. Trung Trung Đỉnh cũng là
một nhà văn có nhiều vốn sống về chiến tranh và Tây Nguyên, đặc biệt là
cuộc chiến tranh du kích mà nhà văn từng là người trong cuộc. Bùi Bình Thi,
tác giả Hành lang phía Đông, mặc dù không phải là người lính nhưng đã có

nhiều năm lăn lộn với chiến trường. Lê Lựu, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Trí


17
Huân, Trần Huy Quang cũng không nằm ngoài hai trường hợp trên. Bởi thế
chiến tranh hiện diện trong tác phẩm của họ không chỉ là những sự kiện,
những biến cố lịch sử, mà còn là số phận con người” [25, 109].
Lý giải về “quán tính” của tiểu thuyết giai đoạn này khi tiếp tục ghi lại
những sự kiện nóng hổi vừa diễn ra của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, nhà văn Nguyễn Khải đã bày tỏ cảm nhận “chiến tranh ồn ào náo động
mà lại có cái yên tĩnh, giản dị của nó, hòa bình mà lại chứa chất những sóng
ngầm, những gió xoáy ở bên trong” [41]. So sánh với tầm vóc hai cuộc kháng
chiến tranh vệ quốc mà dân tộc ta đã trải qua, tiểu thuyết thời kì này thực sự
chưa thể với tới. Tuy nhiên, trên con đường tiếp tục đào xới một mảng đề tài
đã quá quen thuộc, các nhà văn – người lính luôn nỗ lực khám phá ra nhiều
điều bí ẩn chưa từng được biết đến bằng một cảm quan thực tế và suy ngẫm
khách quan hơn. Một trong những nguyên nhân của hiện tượng trên là do hiện
thực chiến tranh đã nới rộng khoảng cách so với hiện tại, nhờ đó người viết có
được độ lùi cần thiết để nhìn nhận lại sự thật một cách chân xác hơn về những
gì mình trải nghiệm.
Nhận xét chung về diện mạo tiểu thuyết hậu chiến, nhà phê bình Bùi
Việt Thắng cho rằng “Tiểu thuyết viết về chiến tranh hôm nay bị chi phối bởi
quy luật viết về hôm qua nhưng theo yêu cầu hôm nay” và nó “sẽ phát triển
trên cái nền của đời sống hòa bình, thường nhật kết hợp với hiện thực quá
khứ, được soi sáng trên quan điểm về chân lý lịch sử cụ thể và quan điểm về
con người” [78, 21-33]. Nhìn một cách bao quát, tiểu thuyết chiến tranh là
một trong những xu hướng phát triển của văn học hậu chiến. Trong khoảng
mười năm đầu từ sau 1975, văn xuôi vẫn trượt theo “quán tính” nghiêng về sự
kiện, về sự bao quát hiện thực trên một diện rộng lớn. Đặc biệt, một vài năm
ngay sau chiến tranh, vẫn xuất hiện các tiểu thuyết viết theo dấu ấn quen

thuộc của thời văn học kháng chiến như Tháng ba ở Tây Nguyên (Nguyễn


18
Khải), Năm 1975 họ đã sống như thế (Nguyễn Trí Huân), Trong cơn gió lốc
(Khuất Quang Thụy), Miền cháy (Nguyễn Minh Châu)… Khuynh hướng sử
thi dẫu đã mờ nhạt dần nhưng văn xuôi sử thi vẫn còn tiếp tục tầm ảnh hưởng
của nó trong khoảng mười năm đầu thời kì hậu chiến và vẫn để lại dư âm
trong những chặng đường tiếp theo. Tuy nhiên, vẫn là cuộc chiến ấy, vẫn
những con người đầy nhiệt huyết và sẵn sàng hi sinh ấy song “cảm hứng sự
thật về hiện thực và con người trở thành cảm hứng bao trùm đối với các nhà
văn” [81, 25]. Do đó, các nhà văn thời kì này “không né tránh những hy sinh,
thua thiệt tạm thời. Tính gay gắt của cuộc chiến đã được miêu tả tương đối
trung thực trên nhiều khía cạnh” [78, 33]. Đất trắng, Cửa gió, Biển gọi, Họ
cùng thời với những ai, Năm 1975 họ đã sống như thế… mở đầu cho một
khuynh hướng tiểu thuyết chiến tranh mới, cho dù ở các tác phẩm này, cảm
hứng sử thi vẫn giữ vị trí chủ đạo.
Càng gần với hiện đại, tiểu thuyết viết về chiến tranh càng giản lược độ
đậm đặc của các sự kiện lịch sử, thay vào đó là khuynh hướng tiểu thuyết đời
tư – thế sự. Bên cạnh khuynh hướng sử thi, chiến tranh - người lính còn là đề
tài lớn của một số khuynh hướng tiểu thuyết khác, trong đó phải kể đến
khuynh hướng nhận thức lại và khuynh hướng triết luận. Nguyễn Trí Huân
qua Chim én bay, Chu Lai với Ăn mày dĩ vãng, Bảo Ninh cùng Nỗi buồn
chiến tranh đã thể hiện cảm hứng nhân đạo sâu sắc khi phác họa số phận của
Quy, Hai Hùng và Kiên trở về sau chiến tranh với những hồi ức đẫm máu và
nước mắt trải dài qua mỗi trang viết.
Có thể nói, dù viết theo khuynh hướng nào thì tâm điểm mà tiểu thuyết
viết về chiến tranh sau chiến tranh vẫn là hướng đến con người. Dường như
sau một thời gian khá dài hướng văn học đến phục vụ chiến đấu, hướng ngòi
bút của nhà văn trở thành vũ khí cách mạng thì tiểu thuyết chiến tranh giai

đoạn này đã được trả về đúng thiên chức lớn nhất của nó như nhà văn Nguyễn


19
Minh Châu đã quan niệm “Văn học và đời sống là hai đường tròn đồng tâm
mà tâm điểm của nó là con người.” hay nói như Milan Kundera “Tiểu thuyết
nhịp bước cùng con người thường xuyên và trung thành từ buổi khởi đầu của
thời hiện đại” [61, 10].
Như vậy, tiểu thuyết hậu chiến là một bộ phận tiểu thuyết sáng tác ngay
sau chiến tranh, đề cập và tái nhận thức các vấn đề của chiến tranh. Điều này
mang lại cho tiểu thuyết hậu chiến những quan niệm mới về hiện thực và con
người, góp phần tạo nên bước phát triển mới so với loại hình tiểu thuyết chiến
tranh trong các giai đoạn trước đó.
1.2 Một số đổi mới cơ bản của tiểu thuyết hậu chiến
Bước vào một giai đoạn lịch sử mới với nhiều thay đổi không chỉ trên
bề mặt xã hội mà còn diễn ra trong chiều sâu tâm lý tiếp nhận, văn hóa độc
giả… tiểu thuyết hậu chiến nói riêng, văn học sau chiến tranh nói chung đứng
trước những thách thức lớn. Đó không đơn thuần là quy luật vận động của thể
loại mà điều quan trọng, tiểu thuyết còn phải cạnh tranh với hàng loạt thể loại
khác đã và đang đáp ứng được thị hiếu đa dạng của người đọc như thơ ca,
truyện ngắn… ngoài ra, còn chưa kể đến các phương tiện phát thanh, truyền
hình. Tuy nhiên, với những ưu thế vốn có, tiểu thuyết vẫn là thể loại chủ đạo
của đời sống văn học. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khẳng định đây mới là
“thời của tiểu thuyết” “Trong điều kiện hòa nhập với “sân bãi quốc tế”, văn
học (cũng giống như bong đá Việt Nam hay việc xuất khẩu hàng hóa công
nông nghiệp) buộc phải mạnh lên về chất lượng và cả về “hình thức bao bì”
của nó, tạo dựng một thương hiệu tử tế. Tiểu thuyết rõ ràng hợp thời hơn cả.”
[79]. Đã có một “thời của tiểu thuyết” từ năm 1930 - 1945 được tạo nên bởi
Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng
ghi lại giai đoạn hiện thực đầy khó khăn trước cách mạng tháng Tám. Tiếp



20
nối thời kì vẻ vang đó, cùng với ý thức “mỗi nhà tiểu thuyết, mỗi quyển tiểu
thuyết phải sáng tạo ra một hình thức riêng. Không có một công thức nào có
thể thay thế sự nghiền ngẫm liên tục đó…” [87], tiểu thuyết sau năm 1975
thực sự đã đánh dấu một bước chuyển mình trong đời sống thể loại.
Quá trình đổi mới tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 bắt đầu khá
sớm nhưng thầm lặng với những tín hiệu có tính dự báo trong Miền cháy, Lửa
từ những ngôi nhà của Nguyễn Minh Châu, Đất trắng của Nguyễn Trọng
Oánh, Năm 1975 họ đã sống như thế của Nguyễn Trí Huân và Trong cơn gió
lốc của Khuất Quang Thụy.
Trong phạm vi phần này, chúng tôi sẽ điểm qua một số nét đổi mới cơ
bản của tiểu thuyết hậu chiến trên các phương diện: mở rộng quan niệm về
hiện thực, đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người và đổi mới nghệ thuật
viết tiểu thuyết.
1.2.1 Đổi mới quan niệm về hiện thực và cách tiếp cận hiện thực
Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã kết thúc một giai đoạn trường chinh
lớn của dân tộc. Và đồng hành với nó, văn học cũng khép lại một thời kì đất
nước huy động toàn dân, toàn lực cho cuộc chiến đấu ấy. Khoảng cách với
hiện thực chiến tranh được nới rộng dần tạo điều kiện cho người cầm bút nhìn
nhận lại cả một chặng đường lịch sử mà văn học vừa trải qua. Nhiều điều cần
bổ sung cho lịch sử và văn học được đặt ra với các nhà văn. Từ sau 1975,
quan niệm về hiện thực của các nhà văn đã có nhiều thay đổi. Trong nhiều
tiểu thuyết, phạm vi hiện thực được mở rộng, có sự bổ sung những miền hiện
thực mới, những góc khuất, những vùng cấm địa mà trước đây chưa có hoặc ít
nói đến. Nếu như hiện thực trong chiến tranh đề cập đến những cam go, khốc
liệt nhưng rất hào hùng của dân tộc thì sau chiến tranh, bộ mặt thật của chiến



21
tranh đã hiện ra với tất cả sự khốc liệt của nó khi mà hiện thực được trình bày
không còn đơn giản, xuôi chiều như văn xuôi trước đây.
Sự đổi mới quan hệ nhà văn với hiện thực hậu chiến phải chăng bắt đầu
với nhu cầu được nói thật “Phương châm nhìn thẳng vào sự thật làm nhà văn
nhận rõ những non yếu của văn học thời kì trước” [75, 12]. Những năm đầu
ngay sau chiến tranh, tiểu thuyết vẫn còn đượm không khí nóng bỏng, khẩn
trương của những trận đánh trên đường tiến về Sài Gòn (Trong cơn gió lốc –
Khuất Quang Thụy, Năm 1975 họ đã sống như thế - Nguyễn Trí Huân). Tuy
nhiên, ngay sau cảm hứng say sưa, hào sảng với chiến thắng, những người
cầm bút nhạy cảm và có tinh thần trách nhiệm đã sớm nhận ra yêu cầu không
thể viết về chiến tranh như cũ nữa. Nhiều tác giả tìm về những thời kì khó
khăn, những thời điểm bước ngoặt hay những mặt trận thầm lặng chưa được
biết đến để bổ sung cho sự nhận thức và lí giải về cuộc chiến. Đọc Đất trắng
của Nguyễn Trọng Oánh, Miền cháy (Nguyễn Minh Châu), Thung lũng thử
thách (Thái Bá Lợi), Mở rừng (Lê Lựu) vẫn đầy ắp các sự kiện, vẫn ngột ngạt
khói lửa bom đạn song giọng điệu hào hùng, say sưa dường như đã chìm
xuống, thay vào đó là những suy tư, dự cảm về khó khăn, thử thách ở chặng
đường trước mắt. Thậm chí, có những đoạn văn trong Đất trắng đã nghiêng
hẳn về cảm quan bi thương gây nên nhiều tranh cãi cho độc giả và giới phê
bình vào thời điểm đó.
Vẫn những con người đã từng lăn lộn với trận mạc, vẫn những chiến
trường mịt mù khói lửa ấy nhưng rõ ràng vị thế của người viết đã tác động lớn
đến cách nhìn nhận về hiện thực cách mạng. Phải nói rằng, nếu không có
hàng chục chuyến đi về đất lửa Trị - Thiên – Huế để viết Thôn ven đường,
Dấu chân người lính, Miền cháy… không có những ngày tháng sống giữa
Trường Sơn, ở mặt trận Quảng Đà khốc liệt, không trải qua hơn 10 năm trời
trên chiến trường miền Nam sốt rét và đói khát gom góp những điều trông



22
thấy để viết nên những Đất trắng, Mở rừng, Thung lũng thử thách và nếu
không có độ lùi thời gian… thì tiểu thuyết không thể có những trang văn chân
thực về chiến tranh đến vậy. Sau này, khi độ lùi thời gian dài hơn, tư duy
nghệ thuật đổi mới thì những chiêm nghiệm, suy tư về cuộc chiến đã qua của
các nhà văn cũng sâu sắc hơn, tiểu thuyết có được một diện mạo mới và nhiều
tác phẩm hay mà đỉnh cao là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.
Hiện thực chiến tranh lúc này được nhận thức là cái chưa biết, không
thể biết hết, hiện thực phức tạp cần phải khám phá, tìm tòi. Hiện thực trong
các sáng tác tiểu thuyết được lựa chọn, chắt lọc, khái quát, tái tạo. Ngay cả ở
các tiểu thuyết cảm hứng sử thi vẫn giữ vị trí chủ đạo thì hiện thực đã được
miêu tả trên một bình diện mới.
Khác hẳn với chiến tranh trong Vùng trời (Hữu Mai), Đất nước đứng
lên (Nguyên Ngọc), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Thôn ven
đường (Xuân Thiều)… Đất trắng, Chim én bay, Thung lũng thử thách, Ăn
mày dĩ vãng… đưa độc giả khám phá một bộ mặt chiến tranh mới, ở đó không
phải lúc nào cũng có màu đỏ của chiến thắng, vinh quang mà nhiều khi là
màu xám của thất bại, mất mát, giết chóc…. Viết về chiến tranh từ góc cạnh
ấy, phải chăng các nhà văn như Nguyễn Minh Châu, Chu Lai, Nguyễn Trọng
Oánh, Khuất Quang Thụy… như được “giải tỏa” cảm xúc, như được “tri ân”
với người đã khuất và cả những người đang sống hôm nay.
Trong số các tác giả tiểu thuyết hậu chiến, có thể coi Nguyễn Minh
Châu là người tiên phong nhận thức được yêu cầu đổi mới của văn học. Ông
cho rằng “Phản ánh hiện thực không có nghĩa là xâu chuỗi các sự kiện như
lâu nay văn xuôi viết về chiến tranh đã làm, tất cả các thể loại văn học đều
phải lấy con người làm đối tượng phản ánh”. Quan niệm này của ông đã được
chứng minh bằng sự vận động trong sự nghiệp sáng tác của chính tác giả, từ


23

Dấu chân người lính cho đến Miền cháy và rõ hơn là trong các truyện ngắn
như Cơn giông, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở Miền Nam Ở các tiểu thuyết ngay
sau chiến tranh, mặc dù chất sử thi vẫn còn đậm đặc, song điều dễ nhận thấy
các nhà văn đã hướng ngòi bút nhiều hơn đến những thời điểm khốc liệt, gay
cấn của cuộc chiến. Và dần dần, cảm hứng sử thi mờ nhạt đi, thay vào đó là
cảm hứng đời tư thế sự. Người viết không chỉ mô tả hiện thực mà còn suy
ngẫm về hiện thực, họ nhận ra rằng chiến tranh thực sự “không phải trò đùa”.
Nhà văn đóng vai trò chủ động đối với việc lựa chọn hiện thực, thoát ra khỏi
sự ràng buộc của chủ nghĩa đề tài, vì thế tư tưởng và kinh nghiệm cá nhân của
nhà văn trở nên đặc biệt quan trọng.
Sau năm 1975, góc nhìn của nhà văn đã bắt đầu thay đổi, họ dần xa rời
việc ca ngợi một thời máu lửa đầy oanh liệt mà hướng tới những hậu quả
nặng nề của cuộc chiến đè nặng lên vai người lính trở về sau chiến tranh. Tiểu
thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh được xem là một trong những tác
phẩm viết về chiến tranh táo bạo nhất từ trước tới nay “chiến tranh với bộ mặt
gớm ghiếc của nó, với những mảnh vuốt của nó, với những sự thật trần trụi
bất nhân nhất của nó chỉ đơn thuần có nghĩa là một thời buổi, một quãng đời
mà bất kỳ ai đã phải trải qua đều mãi mãi bị ám ảnh, mãi mãi mất khả năng
sống bình thường, mãi mãi không thể tha thứ cho mình” [64]. Cách nhìn nhận
về “nghịch lý chiến tranh” ấy không hoàn toàn là cá biệt. Với cậu học sinh lớp
10 Hoàng trong Những mảnh đời đen trắng của Nguyễn Quang Lập, chiến
tranh như một trờ chơi, một tấn hề tuồng nhẹ nhàng, giáo điều. Cũng nói về
sự huỷ hoại của cuộc chiến, Khuất Quang Thuỵ đã thở dài “hơn ba chục năm
chiến đấu đã qua đủ để dân tộc ta kinh tởm sự huỷ hoại của nó rồi”. Song với
nhà văn “cái chết là sự kết thúc. Nhưng một sự hy sinh lại là cái bắt đầu”. Vì
thế, đọc tiểu thuyết Không phải trò đùa, người đọc vẫn thấy thấp thoáng niềm
lạc quan, sự hy vọng ẩn sâu trong đó.


24

Đối với các nhà văn, chiến tranh là nguồn đề tài vô tận, phong phú
nhưng viết về nó thật không dễ dàng, nhất là khi viết về một cuộc chiến tranh
đã đi qua. Mỗi nhà văn luôn phải đặt mình vào nhiều vị thế khác nhau để phản
ánh, suy ngẫm về cuộc chiến, khi thì là những người lính, khi là những người
anh hùng, cũng có lúc là nạn nhân… và luôn luôn không được phép quên
mình còn là một nghệ sĩ – “người thư ký trung thành của thời đại”. Bởi thế,
quan niệm về chiến tranh của thế hệ nhà văn hậu chiến cũng có nhiều biến
đổi, đặc biệt rõ ở các nhà văn đã từng thành công trong giai đoạn văn học
trước đó như Nguyễn Minh Châu, Hữu Mai, Nguyễn Khải, Hồ Phương… Có
thể nói thời gian càng lùi xa thì nhà văn càng có cái nhìn kỹ hơn, sâu hơn về
cuộc chiến. Và cách viết của họ cũng đa chiều hơn, toàn diện hơn. Những tổn
thương, mất mát của người lính được phản ánh trên tinh thần trung thành
tuyệt đối với lịch sử không bỏ sót một ai, và không bỏ sót điều gì.
Cũng phải khẳng định rằng, khoảng một vài năm đầu ngay sau khi cuộc
kháng chiến chống Mỹ kết thúc, những dư âm hào hùng, rực đỏ của một thời
khói lửa vẫn in dấu ấn sâu đậm trong nhiều cuốn tiểu thuyết. Hiện thực chiến
tranh được các nhà văn phản ánh trong Năm 1975 họ đã sống như thế, Trong
cơn gió lốc… vẫn thiên về ghi nhận các sự kiện vừa mới diễn ra tương tự các
tiểu thuyết ở giai đoạn trước (Gia đình má Bảy của Phan Tứ, Hòn Đất của
Anh Đức, Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu). Các tác giả viết về
cuộc chiến đã qua nhưng với tâm trạng của một người “cùng thời” với những
điều mình đang miêu tả. Do đó, ngợi ca, hùng tráng và tự hào vẫn là nguồn
cảm hứng chính của tác phẩm “có thể chúng tôi sẽ lần lượt ngã xuống, nhưng
lá cờ phải đi tới đích vinh quang, tới ngày toàn thắng” [83, 12]. So với các
tiểu thuyết đó thì ở Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh, không gian chiến
tranh đã nhuốm một màu sắc khác hẳn. Vẫn là lối miêu tả sự kiện theo
khuynh hướng sử thi song rải rác khắp các trang văn là không khí u ám, bi

×