Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 nhìn từ góc độ thi pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 148 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
********




PHẠM VĂN DŨNG




ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU
SAU 1975
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THI PHÁP



CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS -TS PHẠM THÀNH HƯNG



Hà Nội - 2010





MỤC LỤC


Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1
1.Lí do chọn đề tài
1
2.Lịch sử vấn đề
3
3. Mục đích nghiên cứu
9
4. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu
10
5. Cấu trúc luận văn
11
PHẦN NỘI DUNG
12
Chương I
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU

12
1.Nguyễn Minh Châu - người mở đường tinh anh cho một giai đoạn
văn học mới
12
1.1.Nguyễn Minh Châu - cây bút của mọi miền hậu phương - tiền
tuyến
12
1.2. Khát vọng đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong yêu cầu đổi mới

chung của văn học và thời đại
14
1.2.1. Đổi mới là một yêu cầu tất yếu của Văn học Việt Nam sau năm
1975
14
1.2.2. Khát vọng đổi mới của nhà văn Nguyễn Minh Châu
16
1.3. Sáng tác Nguyễn Minh Châu thời kỳ chống Mĩ
18
1.4. Những đột phá quả cảm trên con đường đổi mới tư duy nghệ
thuật
18
1.4.1. Những quan niệm mới về con người
18
1.4.2. Từ ý thức về con người cộng đồng tới ý thức về con người cá nhân
thế sự
22
1.4.3. Con người chủ thể lịch sử hay nạn nhân của lịch sử cùng với
25
những khát vọng sống và mưu cầu hạnh phúc

Chương II
NGHỆ THUẬT KẾT CẤU VÀ XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG
34
2.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện
34
2.1.1.Các kiểu cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
34
2.1.1.1. Kết cấu sự kiện
34

2.1.1.2. Kết cấu tâm lý
35
2.1.1.3. Truyện không có cốt truyện
37
2.1.1.4. Phối hợp nhiều kiểu kết cấu cốt truyện
39
2.1.2 Tổ chức sự kiện
41
2.1.2.1.Tổ chức một sự kiện duy nhất
41
2.1.2.2. Tổ chức mối tương quan giữa các sự kiện
42
2.1.2.3. Cách sắp xếp các thành phần cốt truyện
49
2.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống
53
2.2.1. Tình huống nghịch lý
54
2.2.2. Tình huống tâm lý
54
2.2.3. Tình huống ngẫu nhiên
57
2.3. Quan hệ giữa nhân vật và hoàn cảnh
58
2.3.1. Hệ thống nhân vật xây dựng trong quan hệ đối chiếu tương
phản
59
2.3.2. Hệ thống nhân vật được xây dựng trong mối quan hệ bổ sung
65
2.3.3. Hệ thống nhân vật được xây dựng trong mối quan hệ với nghịch


69
2.3.3.1. Định nghĩa về nghịch lí
69
2.3.3.2.Hệ thống nhân vật được xây dựng trong mối quan hệ với những
nghịch lí trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975
70
2.3.4. Hệ thống nhân vật xây dựng trong mối quan hệ với biểu tượng
83
2.3.4.1. Số phận nhân vật phản chiếu qua biểu tượng
85
2.3.4.2. Nội tâm và góc khuất tâm linh nhân vật biểu đạt qua biểu tượng
87


Chương III
NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KHÔNG GIAN - THỜI GIAN VÀ LỰA CHỌN GIỌNG
ĐIỆU TRẦN THUẬT
91
3.1. Tổ chức không gian nghệ thuật
91
3.1.1 Tổ chức không gian trong sự đối lập
92
3.1.2. Tổ chức không gian tư tưởng, không gian tâm lý, không gian
văn hoá thẫm mỹ
97
3.1.3. Tổ chức không gian đời thường mang ý nghĩa nhân sinh
101
3.1.4. Tổ chức không gian với nhiều hình thức biểu tượng
102

3.2. Tổ chức thời gian nghệ thuật
105
3.2.1. Tổ chức theo trình tự thời gian
106
3.2.1.1.Thời gian theo trật tự tuyến tính
106
3.2.1.2. Đảo trật tự thời gian
108
3.2.2. Tổ chức các lớp thời gian
110
3.2.2.1. Tổ chức thời gian đồng hiện
110
3.2.2.2.Tổ chức các mối liên kết thời gian
112
3.2.3 Tổ chức thời gian ảo, thời gian viễn tưởng
115
3.2.4 Mở rộng thời gian nghệ thuật
117
3.3.Giọng điệu trần thuật
118
3.3.1.1.Các hình thức trần thuật
118
3.3.1.1.1. Trần thuật từ ngôi thứ ba
118
3.3.1.1.2.Trần thuật từ ngôi thứ nhất
120
3.3.1.2. Cách tổ chức điểm nhìn trần thuật
123
3.3.1.2.1. Sử dụng một điểm nhìn trần thuật
123

3.3.1.2.2. Phối hợp các điểm nhìn
126
3.3.2 Tổ chức giọng điệu trần thuật
131


PHẦN KẾT LUẬN
138

1.Nghệ thật tổ chức hình tuợng có nhiều đặc sắc, cách tân
138
2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và những cách tân so với truyền
thống
139
3. Nghệ thuật trần thuật có bước vận động mới với những cách tân
cụ thể
140

1

MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Đã hai mươi mốt năm nhà văn Nguyễn Minh Châu vĩnh biệt chúng ta,
vĩnh biệt cuộc đời mà ông nặng lòng yêu quý. Nhưng một đời người - một đời
văn khắc khoải “ Một niềm tin pha lẫn lo âu ” đối với con người của ông chắc
sẽ còn để lại những dấu ấn khó phai nhạt trong lòng những người yêu văn
chương. Sáng tác của ông đã được ghi nhận như một dấu son chói sáng trên
con đường đổi mới và phát triển của văn học Việt Nam hiện đại.
Trước năm 1975 Nguyễn Minh Châu được biết đến và yêu mến qua
những trang viết về một hiện thực kháng chiến hào hùng, mang đậm chất sử

thi. Tác phẩm của ông được xem như những bước tượng đài ngôn từ tráng lệ
về sức mạnh và vẻ đẹp của dân tộc trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Trong các tác phẩm của ông, ý thức cộng đồng bao trùm tất cả, tình yêu Tổ
quốc là hệ quy chiếu duy nhất và cao cả để định giá mọi quan hệ từ gia đình
cho đến xã hội, mọi tình cảm từ riêng chung của con người. Trong hoàn cảnh
chiến tranh lúc này rất cần sự đồng lòng, đồng chí cao độ. Điều đó như một
tất yếu lịch sử. Hoà mình vào dòng chảy mãnh liệt của lịch sử thời đại chống
Mĩ, những trang viết của Nguyễn Minh Châu đã hoàn thành sứ mệnh văn
chương của mình.
Đất nước thống nhất giang sơn thu về một mối, kết thúc cuộc đấu tranh
giành quyền sống của dân tộc chúng ta bước vào một cuộc đấu tranh cho
quyền sống của mỗi con người. Trong cuộc đấu tranh lâu dài giữa đời thường
tưởng như giản đơn ấy, bao vấn đề nhân sinh đã đặt ra cho con người nói
chung, mỗi nhà văn như Nguyễn Minh Châu nói riêng những trăn trở và buộc
họ phải tự đổi mới mình cho phù hợp với yêu cầu của thời đại. Văn học sử thi
dần dần bộc lộ những sơ lược, công thức, khó đáp ứng được với cuộc sống
mới với bao phức tạp, bức xúc bôn bề. Với sự trăn trở của một ngòi bút có
lương tâm và trách nhiệm Nguyễn Minh Châu đã âm thầm lặng lẽ tìm hướng
đi, tự đổi mới chính mình, với những truyện ngắn mang tính luận đề, và sau
2

đó là một loạt truyện ngắn đậm chất đời tư - thế sự, khám phá con người và
hiện thực ở nhiều chiều đa dạng phong phú, với những đổi mới và cách tân
nghệ thuật. Không nằm ngoài những khai phá khác, những đổi mới ấy không
lập tức được chấp nhận và ghi nhận, đôi lúc trở thành những tranh luận mang
tính diễn đàn. Hàng loạt những bài phê bình xuất hiện, khen có, chê có về
truyện ngắn của ông, thậm chí báo Văn nghệ đã phải tổ chức cả một cuộc hội
thảo để lật các mặt của vấn đề nhằm tìm ra chân lí. Qua nghiên cứu, đánh giá
ở nhiều góc độ, phương diện khác nhau của các nhà nghiên cứu, phê bình, bạn
đọc… đặc biệt qua sức sống mãnh liệt của những truyện ngắn Nguyễn Minh

Châu trong thời gian cho đến nay ta vẫn thấy rõ giá trị và vị trí mở đường "
tinh anh và tài năng " ( Nguyên Ngọc ) đã được khẳng định chắc chắn. Đó là
những thành tựu không chỉ của nhà văn mà còn là của cả nền văn học hiện đại
Việt Nam trong chặng đường đổi mới văn học. Đánh giá về các tác phẩm của
mình Nguyễn Minh Châu đã từng nhận: " Mình viết văn suốt đời tràng giang
đại hải, có khi chỉ còn lại vài cái truyện ngắn ".
Với hi vọng nhỏ nhoi muốn góp một phần vào sự hoàn thiện trong
nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và sự nghiệp văn học của
ông nói chung, tôi quyết định chọn đề tài " Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu sau 1975 nhìn từ góc độ thi pháp " để nghiên cứu. Đồng thời
qua đó, tôi mong muốn được góp phần tìm hiểu sự vận động của quá trình văn
học trong giai đoạn thời kì đổi mới, tìm hiểu thêm một số vấn đề về nghệ
thuật truyện ngắn nhìn từ góc độ thi pháp học, một vấn đề đang được xem là
trung tâm của tự sự học hiện đại. Thực hiện đề tài này, chúng tôi hy vọng luận
văn của mình có ý nghĩa giúp mình mở rộng kiến văn, từ đó sẽ giảng dạy có
hiệu quả hơn, đáp ứng được một cách tốt hơn những yêu cầu giáo dục trong
thời kỳ mới.


2.Lịch sử vấn đề
3

Nguyễn Minh Châu là một nhà văn đã để lại nhiều dấu ấn đặc sắc trong
lịch sử văn học nước nhà. Cho đến nay đã có hàng trăm bài viết , hàng chục
công trình nghiên cứu lớn nhỏ đề cập đến nhiều khía cạnh về cuộc đời và sự
nghiệp của nhà văn. Theo thư mục tài liệu nghiên cứu tác giả, tác phẩm
Nguyễn Minh Châu do TS Nguyễn Trọng Hoàng và Nguyễn Đức Khuông
biên soạn năm 2002, số lượng bài viết về Nguyễn Minh Châu đã lên đến con
số 150. Đó là chưa kể đến các luận án Tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về Nguyễn
Minh Châu của các nghiên cứu sinh, học viên cao học qua nhiều thế hệ. Các

bài viết ấy đã được tập hợp , tuyển chọn và giới thiệu trong các cuốn Kỷ yếu
hội thảo 5 năm ngay mất Nguyễn Minh châu - Hội văn nghệ Nghệ An ,1995;
Nguyễn Minh Châu - con người và tác phẩm [ 3 ]; Nguyễn Minh Châu - về
tác giả và tác phẩm [ 21 ].
Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn nhất là những
truyện viết sau năm 1975 - là mảng sáng tác thu hút được sự chú ý đặc biệt và
gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu phê bình và đông đảo công chúng,
mà một trong những lý do là bởi sự cách tân nghệ thuật của nó. Cuộc " Trao
đổi về những truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu " [42 ]
đã chứng tỏ sức thu hút rộng rãi ấy. Tuy gây ra nhiều ý kiến trái chiều , song
qua thời gian những tìm tòi mở đường của Nguyễn Minh Châu nhanh chóng
được khẳng định. Truyện ngắn của ông dần dà được mặc nhiên thừa nhận ,
ngày càng có vị trí vững vàng trong công chúng văn học, trở thành đối tượng
cho những sự phân tích kỹ lưỡng , thấu đáo và khoa học. Cùng với sự ra đời
của các tập truyện "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê" đặc
biệt là tập truyện cuối " Cỏ Lau" là sự xuất hiện của hàng loạt bài viết phân
tích thành công cũng như hạn chế của Nguyễn Minh Châu trong các tập
truyện đó mà chủ yếu là đánh giá cao những thành tựu thể hiện sự vận động
đổi mới trong tư duy nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con người , phương
thức thể hiện Có thể kể đến một số bài viết nổi bật của Lại Nguyên Ân [
3,201-208 ], Ngô Thảo [ 51 ], Huỳnh Như Phương [ 3,164 -170 ],Trần Đình
4

Sử [ 46 ], Hoàng Ngọc Hiến [ 17 ], Đỗ Đức Hiểu [ 18 ], Lã Nguyên Tùng [ 37
], Nguyễn Văn Hạnh [ 14 ], Chu Văn Sơn [45], Lê Văn Tùng [ 57 ]
Về nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, tuy chưa có một công
trình nào nghiên cứu xem xét một cách toàn diện , trực tiếp đặc điểm truyện
ngắn nhìn từ góc độ thi pháp, song về các yếu tố liên quan đến nghệ thuật
truyện ngắn hoặc là những phương diện của nghệ thuật truyện ngắn như nhân
vật, cốt truyện , tình huống, nghệ thuật trần thuật thì đã có một số bài viết

và công trình đề cập đến.
Xem xét nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Ngô Thảo có
cùng quan điểm với Nguyễn Thị Minh Thái sau này , cho rằng nhân vật gây
được chú ý hơn cả trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu là nhân vật nữ,
những người phụ nữ đi qua chiến tranh. Tác giả đánh giá " Nguyễn Minh
Châu đã bộc lộ thế mạnh của một cây bút có khả năng phân tích và thể hiện
được những biến động tâm lý khá phức tạp của một con người không đơn
giản" [ 51 ].
Phạm Vĩnh Cư lại tìm thấy trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
những nhân vật tiểu thuyết đích thực ( Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát): Một
con người nhiều chiều, một tính cách vừa mâu thuẫn vừa thuần toàn, vừa cá
biệt vừa tiêu biểu, vừa là quá khứ của lịch sử tối tămvừa toả ánh sáng của
nhân tính vĩnh hằng của những giá trị đạo đức muôn đời [ 11 ]
Nguyễn Tri Nguyên nêu lên một kiểu nhân vật mới xuất hiện trong
nhiều sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh Châu: Kiểu nhân vật hướng nội [
38].
Trong một công trình nghiên cứu khá đầy đủ về Nguyễn Minh Châu,
Tôn Phương Lan đã phân loại nhân vật trong sáng tác Nguyễn Minh Châu
thành hai loại nhân vật đặc trưng nhất thể hiện được phong cách nghệ thuật
của nhà văn: nhân vật tư tưởng và nhân vật tính cách - số phận. Tác giả đã
nhận xét: " Nếu trước những năm 80 , Nguyễn Minh Châu chủ yếu chỉ xây
dựng dạng nhân vật loại hình thì càng về sau , ngòi bút của ông đã vươn tới
5

sự khắc hoạ nên các dạng nhân vật tư tưởng , nhân vật tính cách - những
nhân vật có số phận riêng so với cộng đồng ". Đây là những nhân vật " được
xây dựng theo một quan niệm nghệ thuật nhằm tạo ra khả năng thể hiện đời
sống với chiều sâu nhất định, vừa mang thông điệp của tác giả , lại vừa tồn
tại một cách khách quan như những "Con - người - này"; và hệ thống những
nhân vật đó "đa dạng , đông đảo " trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.

Tôn Phương Lan cũng rút ra những thủ pháp trong xây dựng nhân vật của nhà
văn: miêu tả tâm lý, sử dụng đọc thoại nội tâm cùng yếu tố ngoại hình và tên
gọi. Theo tác giả, quá trình tái hiện " Con người trong con người " đó là quá
trình đổi mới tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu và " một trong những
phương diện đặc sắc thể hiện phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu
chính là nhân vật " [ 30 ]
Cũng nhận diện về các kiểu loại nhân vật trong truyện ngắn sau năm
1975 của Nguyễn Minh Châu, Trịnh Thu Tuyết phân chia thành các loại nhân
vật: nhân vật tư tưởng, nhân vật tính cách , nhân vật thế sự, nhân vật số phận [
58]. Đồng thời tác giả chỉ ra qúa trình vận động và đổi mới thế giới nhân vật
của Nguyễn Minh Châu từ các nhân vật lí tưởng đến những nhân vật đa chức
năng phản ánh cuộc sống đời tư, thế sự như đã kể trên. Trịnh Thu Tuyết cũng
đã khẳng định những đóng góp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong xây
dựng nhân vật thể hiện qua các biện pháp dùng độc thoại nội tâm, chi tiết
miêu tả tâm lý xác thực, miêu tả ngoại hình sinh động [ 59 ]
Nhìn chung các bài viết, công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu đi vào
tìm hiểu các kiểu loại nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, song
chưa xem xét nghệ thuật tổ chức nhân vật trong các mối quan hệ cụ thể để
kết cấu nên hình tượng nhân vật trong các tác phẩm của ông nói chung và
trong truyện ngắn nói riêng .
Về cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu , Trịnh Thu Tuyết
đã nhận diện và phân tích khá rõ ba kiểu cốt truyện trong truyện ngắn sau
1975 của nhà văn: Cốt truyện luận đề, cốt truyện sinh hoạt - thế sự, cốt truyện
6

đời tư. Qua đó tác giả đã chỉ ra sự vận động đổi mới trong phương diện kết
cấu tác phẩm của Nguyễn Minh Châu là sự vận động từ những cốt truyện có
hành động bên ngoài chiếm ưu thế đến những cốt truyện chủ yếu dựa vào sự
vận đông tâm lý, cảm xúc bên trong. Từ đó Trịnh Thu Tuyết đã đi đến kết
luận : " Các sáng tác sau năm 1975 cuả Nguyễn Minh Châu đều thuộc kiểu

cốt truyện không biến cố, không có những xung đột khép kín dựa vào diễn
biến sự kiện . Cốt truyện được nới lỏng, chủ yếu dựa trên những xung đột tâm
lý chồng chéo không mở đầu, không có cao trào, cũng không kết thúc , tựa
dòng chảy " Tự nhiên, nhi nhiên " của cuộc sống vốn luôn tồn tại cùng những
mâu thuẫn, những xung đột vĩnh cửu"[59,140]. Trịnh Thu Tuyết cũng khẳng
định tuy đó không phải là kiểu cốt truyện mới mẻ trong lịch sử văn học nhân
loại, song những đóng góp của Nguyến Minh Châu trong đổi mới cốt truyện (
mở rộng khả năng phản ánh hiện thực, làm giảm bớt tính loại biệt ước lệ và sự
giản cách của nội dung nghệ thuật với hiện thực đời sống ) đã góp phần đưa
văn học về gần hơn với cuộc đời, con người [ 59]. Bên cạnh những
công trình nghiên cứu của Trịnh Thu tuyết, còn có một số ý kiến rãi rác đề
cập đến cốt truyện trong các bài viết về Nguyễn Minh Châu của các nhà
nghiên cứu phê bình khác. Chẳng hạn như Ngọc Trai có nhận xét khái quát: "
Phần lớn các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là loại truyện luận đề -
những luận đề về đạo đức nhân văn, về tâm lý xã hội " [ 55 ].
Công trình nghiên cứu của Trịnh Thu Tuyết và một số ý kiến về cốt
truyện nói trên chủ yếu đã nhận diện, phân chia các kiểu cốt truyện trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu dựa trên những đặc trưng nội dung , đề tài
của nó, song chưa đi vào cách tổ chức sự kiện , các thành phần cốt truyện theo
quan điểm nghệ thuật kết cấu. Cùng với nhân vật, cốt truyện, tình huống trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng là một phương diện nghệ thuật được
nhiều nhà nghiên cứu phê bình quan tâm và phân tích, đánh giá.
Bùi Việt Thắng, trên quan điểm loại hình, đã nêu lên ba dạng tình
huống cơ bản trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu: tình huống - tương
7

phản; tình huống - thắt nút; tình huống - luận đề, từ đó rút ra bài học nghệ
thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu: mối quan hệ đời sống - tình huống
truyện là mối quan hệ biện chứng [58].
Trịnh Thu Tuyết đã nhận xét về tình huống trong truyện ngắn Nguyễn

Minh Châu: trước năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra những tình huống
thử thách bên ngoài để các nhân vật của ông có điều kiện phát huy những sức
mạnh và vẻ đẹp tiềm ẩn vốn có của họ…Từ sau năm 1975, nhà văn chủ yếu
tạo ra những tình huống tâm lý nhằm đưa nhân vật vào những cuộc đấu tranh
nội tâm, những vận động tâm lý với những day dứt, sám hối hay chiêm
nghiệm, nếm trải … Tác giả đã phân tích những dạng tình huống trong truyện
ngắn sau năm 1975 của Nguyễn Minh Châu (tình huống tự nhận thức, tình
huống nghịch lý, tình huống bi kịch ) để làm rõ cho nhận thức trên [58].
Nghiên cứu phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, Tôn
Phương Lan đã nêu rõ quan điểm coi việc tìm ra những dạng tình huống phổ
biến trong sáng tác của ông là một thao tác để tìm hiểu sự “độc đáo , lặp lại và
phát triển" trong quá trình tiếp cận đời sống hiện thực con người [30, 122].
Với quan điểm ấy, tác giả đi vào phân tích ba dạng tình huống trong sáng tác
của Nguyễn Minh Châu (tình huống nhận thức, tình huống tương phản và tình
huống thắt nút); từ đó đi đến nhận xét: Sự tìm tòi của Nguyễn Minh Châu
trong xây dựng tình huống diễn ra trên cả bề rộng lẫn bề sâu; đó cũng là một
trong những phương diện thể hiện bản sắc riêng của Nguyễn Minh Châu [30].
Ngoài nhân vật, cốt truyện, tình huống, nghệ thuật trần thuật trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng được xem xét ở nhiều yếu tố: điểm
nhìn, giọng điệu, nhịp điệu, ngôn ngữ trần thuật, Trịnh Thu Tuyết [58], Tôn
Phương Lan [30] có sự phát hiện thống nhất về điểm nhìn trần thuật trong
sáng tác của Nguyễn Minh Châu: trần thuật từ ngôi thứ ba (Trần thuật “biết
hết”, trần thuật khách thể) và trần thuật từ ngôi thứ nhất. Trịnh Thu Tuyết có
nhận xét chung : “trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975,
tương quan giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật hay nói khác đi là điểm
8

nhìn trần thuật được tác giả chọn lựa và xác định rất tinh tế, phù hợp với mỗi
kiểu loại nhân vật và thể tài để mỗi hình thức trần thuật có thể phát huy cao
nhất tác dụng nghệ thuật của nó.” [58,41].

Về giọng điệu trần thuật theo Tôn Phương Lan, giọng chủ âm trong
sáng tác của Nguyễn Minh Châu là giọng thâm trầm, trước 1980, giọng chủ
âm này lẫn vào giọng trữ tình quen thuộc, còn sau 1980, nó được thể hiện
dưới nhiều sắc thái cụ thể, với những mức độ khác nhau. Đặc biệt vào thời kỳ
đầu những năm 80, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu có xu hướng đi vào
triết lý, xu hướng này chi phối giọng điệu của truyện khá rõ [30].Từ góc độ
nghệ thuật truyện ngắn, Trịnh Thu Tuyết đã nhận định: “ Đổi mới quan niệm
nghệ thuật về con người, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975
có sự thay đổi rõ nét trong giọng điệu trần thuật, tính chất độc thoại tôn kính
của sử thi đã được thay bằng tính chất bình đẳng, đa thanh hết sức mới
mẻ.”[58,47]. Tác giả đã phân tích tính chất này trong sáng tác của nhà văn
qua hai thời kỳ trước và sau năm 1975. Sau này, Trịnh Thu Tuyết đã tổng hợp
đầy đủ hơn quá trình vận động và đổi mới trong giọng điệu trần thuật của
Nguyễn Minh Châu: Từ giọng điệu trần thuật tôn kính đậm chất sử thi, đến
giọng điệu trần thuật suồng xã đậm chất đời thường; từ tính đơn giọng độc
thoại đến tính chất phức điệu, đa thanh [59].
Ngoài điểm nhìn, giọng điệu trần thuật, Tôn Phương Lan, Trịnh Thu
Tuyết còn đi vào phân tích ngôn ngữ, nhịp điệu trần thuật trong sáng tác của
Nguyễn Minh Châu.Tôn Phương Lan giới hạn việc xem xét giới hạn ngôn
ngữ trong phạm vi hẹp: cách sử dụng ngôn từ của ông trong việc miêu tả,
trong khả năng đưa ngôn ngữ văn chương gần gũi với ngôn ngữ của đời sống
tạo nên tính biểu cảm, biểu trưng nhằm nâng cấp nghệ thuật cho ngôn ngữ
trong tác phẩm của mình. Tôn Phương Lan cho rằng ngôn ngữ trong sáng tác
của Nguyễn Minh Châu là thứ ngôn ngữ “ được tinh lọc “[30]. Còn Trịnh Thu
Tuyết chỉ ra và phân tích nhịp điệu trần thuật phù hợp với mỗi loại thể tài,
nhân vật của Nguyễn Minh Châu, khẳng định hiệu quả nghệ thuật của nó là
9

“tác động vào thế giới nội tâm của người đọc, buộc người đọc không chỉ “
chứng kiến “ (câu chuyện sảy ra) mà phải “can thiệp” bằng cách tìm hiểu

suy ngẫm những vấn đề đặt ra trong tác phẩm…để cùng tác giả khám phá
những bề sâu bí ẩn của cuộc sống, con người”[58,46].
Nhìn chung các bài viết và công trình nghiên cứu kể trên đã xem xét
nhiều phương diện nghệ thuật truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ở nhiều
góc độ, bình diện khác nhau, và dù là phác thảo khái quát hay phân tích cụ thể
ít nhiều đều đề cập đến những khía cạnh, những yếu tố hoặc phương diện nào
đó của nghệ thuật truyện ngắn. Tuy nhiên, xem xét vấn đề này một cách toàn
diện, trực tiếp, hệ thống theo quan điểm nghệ thuật là toàn bộ tổ chức nghệ
thuật của tác phẩm thì thật sự chưa có một chuyên luận nào đi sâu nghiên cứu
nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Ở luận văn này, tôi cố gắng
khảo sát nhằm tìm hiểu nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ở góc độ
thi pháp, từ đó góp phần làm rõ tư tưởng nghệ thuật cũng như tài năng độc
đáo của của nhà văn mở đường “tinh anh và tài năng” này. Và thật sự, những
bài viết và các công trình nghiên cứu kể trên đã là những gợi ý, tham khảo
quý báu cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 nhìn từ
góc độ thi pháp để thấy được những đổi mới, nét đặc sắc trong quan niệm
nghệ thuật về con người - nơi thể hiện tập trung tư tưởng nhân bản sâu sắc
của Nguyễn Minh Châu, cũng như tài năng nghệ thuật của tác giả trong các
truyện ngắn.Tiếp cận truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu từ góc độ thi pháp
cho thấy sự cách tân nghệ thuật mang tính chất mở đường của ông - mở ra
những khả năng và hướng đi mới cho thể loại truyện ngắn trong nền văn xuôi
đương đại.
Nhìn chung, mục đích chính của luận văn là muốn khám phá những vẻ
đẹp đặc sắc trong phong cách nghệ thuật, những giá trị đích thực của truyện
10

ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 và những đóng góp của tác giả cho sự
đổi mới của nền văn xuôi Việt Nam.

4. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là các yếu tố thi pháp trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 thể hiện qua các phương diện nghệ
thuật tổ chức hình tượng không gian - thời gian, nhân vật; tổ chức cốt truyện,
trần thuật. Luận văn khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đặc
biệt là các tác phẩm sau năm 1975, vì đây là những sáng tác có giá trị nghệ
thuật cao, thể hiện rõ sự trăn trở tìm tòi đổi mới, sự " Dũng cảm điềm đạm "
của một cây bút tài hoa, giàu lương tâm và trách nhiệm, rất đỗi nhân hậu và
nặng lòng với con người, cuộc sống.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu này chúng tôi sử dụng linh hoạt và kết
hợp các phương pháp sau :
Phương pháp thống kê, phân tích tác phẩm văn học dựa vào những đặc
trưng thể loại.( Truyện ngắn, loại tự sự).
Phương pháp hệ thống: luận văn khảo sát, phân tích các hiện tượng văn
học như những bộ phận của một cấu trúc, những yếu tố của một hệ thống.
Sử dụng các khái niệm công cụ của thi pháp học khi tiếp cận tác phẩm
với góc độ nghiên cứu theo hướng thi pháp.
Sử dụng phương pháp so sánh khi xem xét sự vận động của quá trình
văn học, sự đổi mới trong sáng tác của tác giả thông qua những đặc điểm của
truyện ngắn sau 1975.
Sử dụng kết hợp linh hoạt một cách khoa học các phương pháp khác.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần
nội dung được trình bày trong ba chương:
Chương I. Quan niệm nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu
11

Chương II. Nghệ thuật kết cấu và xây dựng tình huống

Chương III. Nghệ thuật tổ chức không gian - thời gian và lựa chọn giọng điệu
trần thuật


























12


Chương I
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
1.Nguyễn Minh Châu - người mở đường tinh anh cho một giai đoạn văn
học mới
1.1.Nguyễn Minh Châu - cây bút của mọi miền hậu phương - tiền tuyến
Những người yêu mến văn học thường dành cho nhà văn Nguyễn Minh
Châu một tên gọi vừa giản dị vừa gần gũi dễ thương: nhà văn chiến sĩ. Một
người chiến sĩ luôn hào mình vào mọi hoàn cảnh của đất nước và chọn cho
mình một lẽ sống cao đẹp. Chính lí tưởng cao đẹp là điều mà cây bút dũng
cảm của Nguyễn Minh Châu luôn hướng tới và thể hiện rõ trên từng trang
viết. Cả cuộc đời của mình Nguyễn Minh Châu gắn bó với cách mạng và quần
chúng nhân dân, vì vậy hơn ai hết, ông thiếu rõ cuộc sống của nhân dân với
những tâm tư, tình cảm, ngay cả những biến động tinh vi và nhỏ nhất trong
tâm hồn họ cũng được ông thấu hiểu, ông hiểu rõ cuộc sống của những người
lính, của chiến tranh và cách mạng và đây cũng chính là mảnh đất nuôi dưỡng
và bồi đắp tâm hồn ông.
Sinh ra ở một vùng quê nghèo của miền trung gian khổ: làng Thơi, xã
Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Cuộc đời ông, ngay cả khi ông
đã đi khắp mọi miền đất nước luôn vẫn chịu những ám ảnh bởi cái dữ dội, cái
nghèo khó, hoang sơ của đất mẹ. Nhiều tác phẩm của ông đã thực sự gây xúc
động với những trang viết nặng ân tình trong sự gắn bó máu thịt và am hiểu
sâu sắc cho con người và quê hương.
Cuộc đời của Nguyễn Minh Châu luôn gắn liền với nhiều sự kiện của
cách mạng dân tộc và ở đâu, dù trong thời gian nào đi nữa ấn tượng lớn nhất
về ông trong lòng người đọc chính là hình ảnh của một anh bộ đội cầm bút.
Đó là những trang viết khi ông khoác trên mình chiếc ba lô, tham gia các cuộc
chiến. Hay những tác phẩm là kết quả của những ngày đi thực tế, lăn lộn ở
chiến trường của nhà văn trong những năm trước 1975. Nguyễn Minh Châu
đã từng tâm sự “ Tôi có kinh nghiệm mỗi chuyến đi thực tế của mình chỉ cần
có được cái may mắn và vinh dự, cuộc đời trao cho mình lấy một hai con

13

người như thế , họ đã sáng tác cho mình một nửa, làm hộ cái công việc nặng
nhọc, vất vả cho mình một nửa, họ như cái vạch nối giữa đời sống và nhà văn
” [ 28,96 ].
Năm 1975 sau khi đất nước vừa giải phóng, với cuốn sổ ghi chép trên
tay, ông có mặt ở nhiều nơi. Đất nước tuy hoà bình nhưng phải oằn mình đối
mặt với những khó khăn và phức tạp mới, phải giải quyết những hậu quả của
chiến tranh để lại trong đó có sự gắn liền và thống nhất hai miền. Năm 1977
tiểu thuyết Miền cháy ra đời đó là kết quả của một hành trình gian khổ của
người lính trong thời chiến.
Năm 1983, tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành ra
đời. Trong một cuộc thảo luận với báo văn nghệ Nguyễn Minh Châu đã từng
tâm sự: “ Sau chiến tranh, tôi đã đi thực tế nhiều lần, gặp nhiều đồng chí chỉ
huy và chiến sĩ cũ chuẩn bị cho một cuốn tiểu thuyết mà bối cảnh là cuộc
chiến đấu anh hùng ở thành cổ Quảng Trị năm 1972. Nhưng khi bắt tay vào
làm thì song song với những vấn đề chiến tranh chống Mỹ, cái “đời sống của
họ hôm nay ” nó bắt tôi phải quan tâm. Chắc các đồng chí cũng thấy những
biểu hiện của lối sống, đạo đức và thậm chí là cả quan niệm sống của những
con người xung quanh ta - nhất là thanh niên - khiến chúng ta không thể
không quan tâm và lo lắng ”.
Trong sự nghiệp văn học của mình, Nguyễn Minh Châu đã dành nhiều
trang viết của mình cho giải đất Miền Trung gian khổ và khối lửa. Đó là
những cuộc sống, con người cụ thể trong mối quan hệ với làng xóm, quê
hương, với vận mệnh đất nước, với thiên nhiên gần gũi một cách sống
động. Ta bắt gặp cuộc sống và con người hiện lên với một nét riêng rất
Nguyễn Minh Châu trong ( Mảnh đất tình yêu ) hay ( Phiên chợ Giát ) - tác
phẩm được hoàn thành trên giường bệnh khi nhà văn đang phải chiến đấu với
căn bệnh ung thư quái ác ở viện 108 - tác phẩm được Nguyên Ngọc đánh giá
là " một tuyệt tác của văn học hiện đại ".

14

Nguyễn Minh Châu đã làm việc, đã viết, đã cống hiến cho đến giây
phút cuối cùng của đời mình. Một con người suốt đời lao động và sáng tạo
nghệ thuật. Cho đến những ngày cuối đời mình trên giường bệnh, nhà văn vẫn
kê từng trang giấy trên gối để viết. Ông đã dốc hết cả hơi thở cuối cùng của
mình cho các trang văn.
1.2. Khát vọng đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong yêu cầu đổi mới
chung của văn học và thời đại
1.2.1. Đổi mới là một yêu cầu tất yếu của Văn học Việt Nam sau năm 1975
Nếu như Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 tồn tại và phát triển
trong hoàn cảnh chủ yếu là hai cuộc kháng chiến và gặp nhiều khó khăn trở
ngại từ khâu sáng tác đến tiếp nhận, dẫn đến mang đậm tính chất của văn học
thời chiến và nặng tính phiến diện trong việc phản ánh đời sống. Với việc quy
các sự đa dạng, phức tạp của hiện thực đời sống vào những mô hình mang
tính đơn giản, quy phạm, vào những hướng giải quyết có tính công thức, đề
cao bút pháp hiện thực, tái hiện đời sống trong trạng thái thức giống như nó
tồn tại, nhiều khi để mục đích phục vụ chính trị chi phối ít nhiều đáp ứng
được nhu cầu của lịch sử, tạo nên tác dụng to lớn trong việc thức tỉnh, động
viên tuyên truyền thêm sức mạnh và niềm tin cho nhân dân thì văn học thời
kỳ sau năm 1975 lại có những đổi mới mang tính tất yếu. Trong những điều
kiện mới của lịch sử - xã hội: đất nước thống nhất, cuộc kháng chiến thắng lợi
mở ra một thời kỳ mới, thời kì của độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã
hội Văn học cũng đã có những đổi mới thực sự. Gắn với vận mệnh của đất
nước một cách chặt chẽ, văn học dần chuyển sang một thời kì mới với những
vận động và quy luật khác trước.
Ngay sau năm 1975, cả nước đón nhận tinh thần hào hứng phấn khởi
của niềm vui chiến thắng nhưng đời sống còn biết bao khó khăn, gian khổ,
thử thách: những di hoạ của chiến tranh, đạo đức nhân cách của con người, và
hàng loạt các vấn đề khác Văn học với quan niệm là một hình thái của ý

thức xã hội, đã nhanh chóng chuyển mình để phản ánh những gì đang diễn ra
15

vô cùng mạnh mẽ của cuộc sống. Tình hình xã hội đã đặt ra những yêu cầu
mới trong đó có văn hoá nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng. Xong
ngay lập tức văn học chưa bắt kịp được những yêu cầu đó một cách thoã mãn.
Năm năm sau, năm 1980 đất nước chúng ta rơi vào khủng hoảng kinh
tế trầm trọng, và chính nó ảnh hưởng lớn đến mọi lĩnh vực của đời sống, văn
hoá xã hội, trong đó có văn học. Một thời kì đầy biến động đã đẩy không ít
văn nghệ sĩ rơi vào sự chao đảo, không giữ vững lập trường, bối rối trên con
đường lựa chọn cho mình một phương hướng sáng tác đúng đắn. Nguyên
Ngọc đã từng nhận xét đây chính là một " khoảng chân không trong văn học
".
Vượt qua khó khăn của cuộc khủng hoảng, từ năm 1986 nước ta thực
sự bước vào công cuộc đổi mới toàn diện. Đại hội Đảng VI với những quan
điểm mới về văn hoá xã hội và nhất là văn học nghệ thuật đã là nguồn động
viên khích lệ và tạo nên sự bứt phá mạnh mẽ trong văn học.
Xuất phát từ đổi mới mạnh mẽ của văn hoá xã hội, văn học cũng không
ngoại lệ, các sáng tác văn học đã kịp thay đổi để bắt kịp với hiện thực đời
sống và nhu cầu của người đọc. Cuộc sống khác xưa vì thế con người không
chỉ quan tâm đến sự kiện lớn của đất nước, ôn lại lịch sử mà họ quan tâm
nhiều hơn đến cuộc sống thường nhật, đến mỗi cá nhân và từng số phận con
người. Họ chú ý nhiều hơn đến cuộc sống riêng tư. Văn học lúc này thực sự
phải có một sức khái quát lớn, hiện thực cuộc sống phải được khai thác ở cả
bề rộng và chiều sâu để đáp ứng nhu cầu con người. Nhu cầu về thẫm mĩ cũng
thay đổi đáng kể và đi vào thực tế hơn. Hàng loạt các nhà văn đã tự đổi mới
mình như: Vũ Tú Nam, Chu Văn, Nguyễn Khải, Bùi Hiển, Lê Lựu, Ma Văn
Kháng, Bảo Ninh, Chu Lai, Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Minh Châu
cũng không là nhà văn ngoài lệ. Các tác phẩm trong thời kì này đã mở rộng và
đào sâu sự khám phá hiện thực con người trong tính đa dạng, phức tạp và luôn

biến động trong xu thế dân chủ hoá và thức tỉnh ý thức cá nhân, tinh thần
nhân bản. Chính văn học đã đổi mới ngay từ nhận thức, trong phương thức
16

tiếp cận hiện thực, trong khuynh hướng sáng tác và cả trong thi pháp và thể
loại.
1.2.2. Khát vọng đổi mới của nhà văn Nguyễn Minh Châu
Trong các nhà văn Việt Nam từ sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu là
một tấm gương tiêu biểu cho quá trình tự đổi mới. Ông đã tự làm mới mình và
góp công lớn vào sự đổi mới nền văn học nước nhà một cách âm thầm mà vô
cùng mạnh mẽ, quyết liệt và triệt để, không chỉ trong sáng tác mà biểu hiện
ngay cả trong tư duy nghệ thuật của mình. Được xem là ngòi bút tiêu biểu của
thời kỳ văn học đổi mới - người mở đường đầy tài hoa và tinh anh (Nguyên
Ngọc). Với một loạt các bài phê bình, tiểu luận… cùng những tác phẩm
không chỉ minh họa xuất sắc cho bước chuyển âm thầm mà quyết liệt trong
quan niệm sáng tác mà còn đạt tới sự hoàn thiện nghệ thuật, Nguyễn Minh
Châu đã tạo cho mình một vị trí không thể thay thế trong giai đoạn quá độ của
văn học trước và sau 1975, trở thành một nhà văn đặt nền móng toàn diện và
sâu sắc cho sự đổi mới cả về quan niệm nghệ thuật lẫn phương thức biểu đạt.
Những đổi mới của Nguyễn Minh Châu không chỉ thể hiện ở những tác
phẩm văn chương mà còn thể hiện rõ qua nhiều tiểu luận phê bình. Hãy đọc
lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ là một minh chứng cho
một nhân cách trung thực và dũng cảm đi đầu trong sự nghiệp đấu tranh đổi
mới văn học với một cảm quan nhạy bén của một người chiến sĩ đầy ý thức
trách nhiệm với những suy tư trăn trở khi nhìn và chỉ ra những quy luật tất
yếu.
Trong suốt chiều dài văn học, Nguyễn Minh Châu là người cảm nhận
được sớm nhất, sâu xa nhất những yêu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới
toàn diện. Ông đã cùng đi suốt thời kì ấy bằng sự lặng lẽ, âm thầm, khiêm
nhường nhưng rất kiên định và dũng cảm. Các bước đi của ông chậm rãi

nhưng chắc chắn. Nguyễn Minh Châu không ồn ào mà lặng lẽ đi tiên phong
trên con đường đổi mới. Với ông, đổi mới trước hết phải là tự đổi mới chính
mình, cho nên con đường dù chông gai, trắc trở đến đâu ông vẫn nguyện làm
17

người lính tiên phong trên tuyến đầu đổi mới ngay cả những sáng tác trước và
sau chiến tranh.
Đối với một nền văn học nói chung và với mỗi người nghệ sĩ, mỗi nhà
văn nói riêng bao giờ ý thức nghệ thuật và sáng tác luôn có mối quan hệ
khăng khít và tác động qua lại lẫn nhau. Ý thức nghệ thuật chính là yếu tố
căn bản chi phối và thúc đẩy sự vận động sáng tạo văn học. Với những trang
viết phê bình của Nguyễn Minh Châu khi chúng ta đi sâu tìm hiểu sự vận
động và ý thức đổi mới trong ý thức nghệ thuật là ta đã có cơ một cơ sở vững
chắc để lí giải những thành công trong sáng tác của ông. Chính sự vận động
và phát triển của một nền văn học chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố nhưng
quan trọng nhất và tác động trực tiếp có tính chất quyết định chính là ý thức
nghệ thuật của nhà văn. Đó là hệ thống những quan niệm của nhà văn về con
người, về nguyên tắc tiếp cận và phản ánh cuộc sống, về đề tài, chủ đề, cảm
hứng, nghệ thuật biểu đạt
Như vậy, có thể thấy Nguyễn Minh Châu là người mở đường xuất sắc
cho văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Nói như Nguyễn Khải, sau này đã có
người đứng trên vai ông để mà to lớn hơn nhưng vị trí tiên phong và những
cống hiến có tính chất khai phá của ông là không thể phủ nhận. Tìm ra hướng
đi mới cho văn học cả trên bình diện nội dung phản ánh lẫn bút pháp thể hiện
nhà văn đã công khai với bạn đọc một cách viết mới: hiện đại mà vẫn đậm đà
truyền thống. Ông đã đi được một chặng đường xa, dù nhọc nhằn nhưng thật
nhiều ý nghĩa. Từ Nguyễn Minh Châu vấn đề con người với số phận riêng
cùng vô vàn trăn trở âu lo đã được văn học quan tâm khai thác ở cách nhìn
mới. Hình như ông tự mình bứt phá và giúp một thế hệ nhà văn dám “bước
qua lời nguyền”, từ giã “cái thời lãng mạn” để đến với một thứ văn chương

chân thành hơn. Ở đó con người được sống thật, không phải cố tỏ ra “trùng
khít với chính mình, với bộ áo xã hội của nó một cách đau đớn, giả dối”
(Bakhtin).
1.3. Sáng tác Nguyễn Minh Châu thời kỳ chống Mĩ
18

Là nhà văn mặc áo lính, Nguyễn Minh Châu ý thức hết sức sâu sắc về
sứ mệnh thiêng liêng của người cầm bút trong giai đoạn khốc liệt nhất của
cuộc chiến. Đối với các sáng tác thời kì chống Mĩ, tâm niệm sáng tác trở
thành cháy bỏng trong ông lúc này là hướng đến cuộc “đấu tranh vì quyền
sống của cả dân tộc”, do vậy nhà văn đã dành gần nửa cuộc đời để say sưa
ngợi ca, mê mải khám phá vẻ đẹp lung linh, kỳ ảo của cuộc sống và tâm hồn
con người trong chiến tranh vệ quốc. Đó là những con người ngập tràn tình
cảm lãng mạn, trẻ trung tươi tắn như Lãm, Nguyệt (trong Mảnh trăng cuối
rừng), cô gái mang “niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống”, niềm tin ấy “như sợi
chỉ xanh óng ánh, bao nhiêu bom đạn dội xuống, cũng không hề đứt, không
thể nào tàn phá nổi”. Đó là Kinh, Lữ, Khuê, Cận, Lượng v.v (trong Dấu
chân người lính) - những viên ngọc, sáng đẹp một cách rực rỡ, không có tỳ
vết. Khó có thể tìm thấy một khiếm khuyết trong phẩm chất của họ. “Từ giã
gia đình, trường học, từ giã cuộc sống tương lai đẹp đẽ hết sức bảo đảm bắt
đầu dựng cho họ, từ bỏ trái hạnh phúc đang ửng hồng trong vườn nhà để đi
vào cuộc chiến đấu đầy vất vả, hy sinh khá là vô tư, lạc quan tươi trẻ”, đó là
những gì Nguyễn Minh Châu nói về họ. Đúng như, nhà phê bình N.I.Niculin
trong bài viết Nguyễn Minh Châu và sáng tác của anh nhận xét: niềm tin
vào tính bất khả chiến thắng của cái đẹp tinh thần, cái thiện đã được khúc xạ ở
chỗ, anh đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được bao
bọc trong một bầu không khí vô trùng…”
1.4. Những đột phá quả cảm trên con đường đổi mới tư duy nghệ thuật
1.4.1. Những quan niệm mới về con người
Trong cả cuộc đời sáng tác của mình Nguyễn Minh Châu được xem là

một người lính can trường và tiên phong trong công cuộc tự đổi mới mình và
tham gia vào quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật. Có thể nói sau năm 1975,
sự đổi mới ấy được bắt nguồn từ những trăn trở, day dứt, và ông đã dũng cảm
đi tới quyết định viết “ai điếu” cho một thời văn học lãng mạn, lý tưởng hoá
19

và đậm màu sắc minh hoạ tư tưởng. Sự đổi mới tư duy ấy bắt nguồn từ những
quan niệm mới mẻ về con người.
M.Gorki đã từng nói " Văn học là nhân học ", lời nói ấy còn vang vọng
mãi như một mệnh lệnh sáng tạo. Chính con người là trung tâm, là cái đích
cho sự khám phá nghệ thuật. Với văn học Việt Nam, trong suốt quá trình tồn
tại và biến đổi vẫn luôn là một sự vận động, tìm tòi và đổi mới không ngừng.
Sự đổi mới ấy được thể hiện ở nhiều bình diện xong ở trung tâm và chiều sâu
của những biến đổi ấy chính là sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con
người và sự hình thành những quan niệm nghệ thuật mới về con người.
Nếu như trong nền văn học kháng chiến là sự phát hiện và sáng tạo con
người quần chúng, con người của cộng đồng, con người tập thể. Được phát
triển trong điều kiện hoà bình, nền văn học Việt Nam từ sau năm 1975 vừa
được kế thừa từ những nguyên tắc truyền thống, đồng thời cũng mở ra những
bình diện mới trong sự thể hiện, lí giải con người. Quan niệm về con người
trong văn học thời kì đổi mới mang tính thống nhất của nền văn học dân tộc
trong toàn bộ quá trình vận động và phát triển nhưng cũng mang những nét
đặc trưng riêng của thời kì văn học sau năm 1975.
Ở thời kì này con người đã được thể hiện ở nhiều nét mới, được nhìn ở
nhiều vị thế và trong tính đa chiều của mọi mối quan hệ: con người với xã
hội, con người với lịch sử, con người với gia đình, con người với những
người khác và với cả chính mình. Con người được các nhà văn khám phá, soi
chiếu ở nhiều bình diện và nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống và tư
tưởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục vọng
tầm thường, con người cụ thể, cá biệt và con người trong tính nhân loại phổ

quát. Con người xuất hiện trong sự đan cài, xen lẫn, giao tranh giữa bóng tối
và ánh sáng, giữa " rồng phượng và rắn rết ", cao cả và thấp hèn. Và cái đích
để các nhà văn hướng đến là để hiểu biết con người hơn và luôn chú ý đến sự
thức tỉnh khả năng tự nhận thức của con người, để hướng con người đến cái
thiện, cái đẹp và sự hoàn thiện về nhân cách.
20

Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiên phong ở sự
chuyển biến trong quan niệm nghệ thuật về con người trong thời kì đổi mới
của văn học Việt Nam hiện đại. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh
Châu luôn gắn liền với quan niệm về con người. Nhà văn lấy con người làm
tâm điểm sáng tác và khẳng định cốt lõi của văn học là con người. Trong tập
tiểu luận phê bình Trang giấy trước đèn ông đã thẳng thật nói ra điều này: "
Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm - mà tâm điểm là con người "
[ 28,111].
Khi tìm đến con người, các nhà văn của mọi thời đại đều tiếp cận giải
mã con người theo những cách riêng khác nhau. Xong đều có chung mục đích
là để hiểu rõ con người hơn, hướng con người đến sự hoàn thiện, nhân bản
hơn. Là một nhà văn chân chính, Nguyễn Minh Châu chủ động đưa văn học
về với những quy luật vĩnh hằng của cuộc sống con người. Ông lấy đời tư và
bản chất bên trong của từng cá nhân con người làm điểm xuất phát và chuẩn
mực để đánh giá thế giới. Nhà triết học Nga nổi tiếng Berdiaep đã từng nói: "
Theo bản chất nội tại của nó, mỗi con người cũng là một thế giới lớn, một vũ
trụ vi mô, trong đó phản ánh và tồn tại toàn bộ thế giới hiện thực và tất cả
những thời đại lịch sử lớn chỉ trong chiều sâu của chính mình, con người
mới có thể tìm thấy một cách thực sự chiều sâu của các thời đại bởi vì chiều
sâu của các thời đại là những tầng lớp bí ẩn thầm kín nhất ở ngay trong con
người, những tầng chỉ bị che khuất, bị đẩy lùi sang bình diện thứ hai, thứ ba
do sự hạn hẹp của ý thức ".
Bằng ý thức, lương tâm và trách nhiệm của người cầm bút Nguyễn

Minh Châu đã mạnh dạn chỉ ra những thực trạng của nền văn học chống Mĩ.
Bên cạnh những thành công thì văn học thời kì kháng chiến chủ yếu được viết
bằng cảm hứng ngợi ca nên con người thường được miêu tả phiến diện - con
người thường quá " xấu " hoặc quá " tốt ". Trong các tác phẩm của ông trước
năm 1975 con người thường xuất hiện với một chiều tốt đẹp, có nhân cách

×