Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Sáng tác văn học của Gia Định tam gia xã thời Nguyễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1019.82 KB, 112 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
***

PHẠM QUỲNH AN



SÁNG TÁC VĂN HỌC CỦA
GIA ĐỊNH TAM GIA THI XÃ THỜI NGUYỄN



NGÀNH: VĂN HỌC
MÃ SỐ: 60 22 34


LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. TRẦN NGỌC VƯƠNG



HÀ NỘI - 2008

4
MỤC LỤC


Lời cảm ơn ………………………………………………………………………
2
Lời cam đoan ……………………………………………………………………
3
PHẦN MỞ ĐẦU
7
1. Ý nghĩa, mục đích của đề tài …………………………………………………
7
1.1. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài …………………………………………….
7
1.2. Mục đích của đề tài ……………………………………………………
8
2. Lịch sử vấn đề ………………………………………………………………….
9
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài ……………………………………
10
4. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………………
11
5. Những đóng góp mới của đề tài ………………………………………………
11
6. Bố cục của luận văn ……………………………………………………………
11


PHẦN NỘI DUNG
13
Chương 1: Bối cảnh thời đại và thân thế, sự nghiệp của Gia Định tam gia ….
13
1.1. Tình hình chính trị-xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX …
13

1.1.1. Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII ……………………………………
13
1.1.2. Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX ………………………………………
17
1.2. Người Minh Hương ở Việt Nam …………………………………………….
21
1.3. Văn học miền Nam Việt Nam trong bối cảnh văn hóa nghệ thuật dân tộc
24
1.4. Gia Định tam gia: thân thế và sự nghiệp …………………………………….
30
1.4.1. Trịnh Hoài Đức ……………………………………………………….
32

5
1.4.2. Lê Quang Định ……………………………………………………….
36
1.4.3. Ngô Nhơn Tĩnh ……………………………………………………….
37
Tiểu kết chương 1 ………………………………………………………………
40
Chương 2: Sáng tác văn học của Gia Định tam gia ……………………………
42
2.1. Trịnh Hoài Đức ………………………………………………………………
42
2.1.1. Bộ sách Gia Định thành thông chí – một công trình có giá trị lịch sử, địa
lý, văn hóa về vùng đất Nam kỳ ………………………

42
2.1.2. Giá trị của Cấn Trai thi tập …………………………………………
45

2.1.2.1. Tình yêu quê hương, đất nước ………………………………
45
2.1.2.2. Tình cảm đối với gia đình, bạn bè …………………………….
53
2.1.2.3. Tình yêu đối với thiên nhiên và cái đẹp ……………………….
55
2.1.2.4. Những tâm sự thầm kín ……………… …………………….
57
2.2. Lê Quang Định ………………………………………………………………
60
2.2.1. Bộ sách Hoàng Việt nhất thống dư địa chí – một công trình có giá trị
địa lý, lịch sử, văn hóa của Việt Nam ………………………………
60
2.2.2. Giá trị của Hoa Nguyên thi thảo ……………………………………
62
2.2.2.1. Tình yêu quê hương, đất nước ………………………………
62
2.2.2.2. Tình cảm đối với gia đình ……….…………………………….
65
2.2.2.3. Tình yêu đối với thiên nhiên và cái đẹp ……………………….
67
2.2.2.4. Cảm thức về thời gian và không gian …………………………
71
2.3. Ngô Nhơn Tĩnh ………………………………………………………………
75
2.3.1. Tình yêu quê hương, đất nước và nỗi ưu thời mẫn thế ……………….
76
2.3.2. Khát vọng hướng tới cảnh an nhàn và vẻ đẹp thiên nhiên ……………
80


6
2.3.3. Nỗi sầu của một người đa cảm ……………………………………….
83
2.3.4. Tình cảm đối với bạn bè ……………………………………………
85
Tiểu kết chương 2 ………………………………………………………………
88
Chương 3: Sáng tác văn học của Gia Định tam gia trong bối cảnh văn học
Nam kỳ thế kỷ XVIII – XIX …………………………………………

90
3.1. Thái độ nhập cuộc và tinh thần thực tiễn …………………………………….
90
3.2. Khuynh hướng bình dân hóa ………………………………………………
97
3.3. Khuynh hướng bộc lộ con người cá nhân ……………………………………
103
Tiểu kết chương 3 ………………………………………………………………
108
KẾT LUẬN
109
TÀI LIỆU THAM KHẢO
111



7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Ý NGHĨA, MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

So với lịch sử lâu dài của đất nước, Nam kỳ còn là vùng đất mới, nhưng cũng đủ
để hình thành nên một nền văn hóa mà những đặc điểm của nó giúp chúng ta hiểu rõ
hơn về lịch sử phát triển của cả dân tộc. Tìm hiểu về văn hóa nghệ thuật nói chung và
văn chương nói riêng của Nam kỳ là một công việc hết sức cần thiết và thú vị. Sáng tác
văn học của Gia Định tam gia – ba văn sĩ tài hoa của đất Gia Định xưa – sẽ giúp chúng
ta hiểu thêm về đời sống và con người của vùng đất mà ngày nay chúng ta gọi là Nam
bộ.
Là triều thần nhà Nguyễn, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tĩnh
không chỉ có công trong những việc quan trọng mà triều đình giao phó như đi sứ, lập
sổ điền địa, phân định lại chế độ đất đai sau chiến tranh loạn lạc… mà còn là ba văn sĩ
lớn nhất thời Nguyễn lúc bấy giờ, đóng góp nhiều công trình, tác phẩm có giá trị cho
Nam kỳ nói riêng và cả nước nói chung. Vấn đề vai trò của triều Nguyễn trong lịch sử
dân tộc hiện đang là mối quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, trong
đó nhiều vấn đề đang được nhìn nhận lại, nhiều vấn đề còn gây tranh cãi, nhiều vấn đề
còn là bí ẩn. Văn học, với tư cách là sự phản ảnh hiện thực, giúp chúng ta hiểu hơn về
con người và thời đại mà nó sinh sống. Sáng tác văn học của ba triều thần nhà Nguyễn,
được người đương thời ca tụng và từ đó mệnh danh các tác giả của chúng là Gia Định
tam gia, đến nay vẫn còn giá trị bởi chính nó là tiếng nói của lịch sử giúp chúng ta hiểu
rõ hơn về đời sống xã hội và tinh thần thời Nguyễn.
Ba tác gia, mỗi người một vẻ, đã có những đóng góp nghệ thuật hết sức độc đáo
cho văn chương triều Nguyễn và lịch sử văn học dân tộc. Tuy vậy, cho đến thời điểm
này, sáng tác văn học của các ông chưa được tìm hiểu một cách kĩ lưỡng, xứng đáng
trong các công trình nghiên cứu phê bình văn học trung đại. Sự thiếu sót này có nhiều
nguyên do, mà một trong những lý do căn bản là chúng ta vốn có định kiến với nhà

8
Nguyễn, cho rằng đó là thời kỳ chuyên chế phản động nhất trong lịch sử phong kiến
Việt Nam. Ngoài ra, việc Gia Định tam gia chưa được quan tâm đúng mức còn do
chúng ta ngại đề cập vấn đề “Minh Hương” và vai trò của họ đối với đất nước, do thiếu
tư liệu và thông tin về văn học miền Nam cũng như những thiên kiến, mặc cảm về

mảng văn học này… Gần đây, các nhà nghiên cứu đang nhìn nhận, đánh giá lại vai trò
của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn với mong muốn rút ngắn khoảng cách
giữa hiện thực khách quan và nhận thức lịch sử về vấn đề đó. Đổi mới tư duy sử học
theo hướng tiếp cận và nhận thức đối tượng một cách khách quan, trung thực trong khả
năng cao nhất của sử học có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nhu cầu điều chỉnh
thái độ, nhận thức của chúng ta về các vấn đề chính trị, xã hội thời Nguyễn. Bên cạnh
đó, việc tìm hiểu những vấn đề văn hóa, nghệ thuật miền Nam Việt Nam thời Nguyễn
ở các phạm vi và mức độ khác nhau cũng sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện, đúng
đắn hơn về vùng đất Nam kỳ cũng như tiến trình phát triển của văn hóa, lịch sử dân
tộc. Chúng tôi thiết nghĩ, việc tìm hiểu thơ văn của Gia Định tam gia - ba văn quan lớn
của triều Nguyễn, khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật, khám phá những đặc điểm
mới trong toàn bộ sáng tác văn chương của các tác giả này là hết sức cần thiết. Bởi vậy,
đề tài này có thể cung cấp tư liệu cho các nhà nghiên cứu và những người có cùng mối
quan tâm.
1.2. Mục đích của đề tài
Căn cứ vào điều kiện thực tế cho phép, trong luận văn này chúng tôi hướng tới
các mục đích sau:
- Dựa vào một số tư liệu lịch sử, luận văn sẽ trình bày bối cảnh chính trị-xã hội,
đặc biệt là ở miền Nam Việt Nam dưới thời trị vì của Gia Long và Minh Mạng, để có
thể hiểu rõ hơn thời đại của Gia Định tam gia.
- Trình bày tiểu sử của Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh.
- Cung cấp các kết quả nghiên cứu về Gia Định tam gia thông qua việc phân
tích các giá trị nội dung, nghệ thuật tác phẩm của các ông, đặt các giá trị đó trong mối

9
quan hệ với văn chương hậu kì trung đại, tìm ra phong cách riêng của từng người…,
nhằm mang đến cho các nhà nghiên cứu và độc giả quan tâm một cái nhìn sâu hơn về
trước tác của Gia Định tam gia cũng như ý nghĩa của mảng thơ văn này đối với văn
học dân tộc.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Tên tuổi của Gia Định tam gia đương thời đã được người ta nhắc đến như đại
diện tiêu biểu cho văn chương Nam kỳ. Tuy nhiên, trong ngành nghiên cứu văn học
trung đại nước ta, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về ba tác gia này. Các
ông được đề cập đến trong một số cuốn sách về văn học trung đại, văn học triều
Nguyễn, nhưng chưa có cuốn sách nào tìm hiểu một cách hệ thống về cuộc đời, sự
nghiệp và tác phẩm của Gia Định tam gia hay của từng tác giả trong nhóm. Lượng bài
viết trên các báo, tạp chí nghiên cứu về các ông cũng chưa có nhiều và những vấn đề
đặt ra trong đó chưa thực sự sâu sắc. Một số công trình, bài viết có liên quan đến Gia
Định tam gia là:
- Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập (Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn,
Ngô Hữu Tạo dịch, NXB Thuận Hóa, 1993): Công trình này có giới thiệu về thân thế,
sự nghiệp của Gia Định tam gia.
- Từ điển văn học (Bộ mới) (Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi… chủ biên, NXB
Thế giới, 2004): Bộ sách có trình bày tiểu sử, thân thế và sự nghiệp của các tác gia
trong Gia Định tam gia.
- Gia Định tam gia (Hoài Anh biên dịch-chú giải, NXB Tổng hợp Đồng Nai,
2006): Đây là công trình riêng về Gia Định tam gia, nhưng chủ yếu chỉ là giới thiệu tác
phẩm của các ông. Sách này cũng ghi tiểu sử và bước đầu đề cập đến giá trị nội dung,
nghệ thuật của các sáng tác văn chương của Gia Định tam gia, song chưa phân tích
nhiều và đặt trong hệ thống.
Ngoài ra, một số công trình, bài viết khác có đề cập đến Gia Định tam gia trong
những nghiên cứu chung về văn học trung đại Việt Nam, về văn học miền Nam, văn

10
chương triều Nguyễn, văn chương các thi xã ở Nam kỳ…, chẳng hạn như công trình
Lịch sử văn học Việt Nam (tập I, Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, NXB Khoa học xã
hội, 1980), công trình Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn (Nguyễn
Phong Nam chủ biên, NXB Giáo dục, 1997), bài viết “Mấy ý kiến về việc nghiên cứu
cái gọi là “văn học Đàng Trong”” của Trần Nghĩa trong Tạp chí Văn học (số 4/1977),
bài viết “Văn học Hán Nôm ở Gia Định” của Cao Tự Thanh trong cuốn Địa chí văn

hóa thành phố Hồ Chí Minh (tập II, Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công
Bình chủ biên, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1988)… Nhìn chung, những nghiên cứu
về Gia Định tam gia chưa nhiều, chưa chuyên sâu và chưa có hệ thống.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các tác phẩm văn, thơ của Gia Định tam gia.
Do điều kiện không cho phép, chúng tôi chỉ tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của
các tác phẩm viết bằng chữ Hán trên bản dịch nghĩa (chủ yếu là các bản dịch nghĩa
trong cuốn Gia Định tam gia do Hoài Anh biên dịch – chú giải của NXB Tổng hợp
Đồng Nai ấn hành năm 2006). Trong khi phân tích, để đảm bảo tính chặt chẽ của việc
trích dẫn nên chúng tôi sẽ vẫn trích dẫn cả phiên âm chữ Hán và bản dịch nghĩa.
Tên đề tài của chúng tôi là: “Sáng tác văn học của Gia Định tam gia thi xã thời
Nguyễn”. Trong phạm vi đó, chúng tôi tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
- Thông qua việc tập hợp, bổ sung các tư liệu, luận văn sẽ dựng lại bối cảnh thời
đại và tiểu sử các tác gia trong Gia Định tam gia thi xã.
- Phân tích tác phẩm văn học của từng người trong Gia Định tam gia, tìm hiểu
giá trị nội dung và nghệ thuật được các tác giả gửi gắm trong đó, đồng thời bước đầu
tìm hiểu quan niệm nghệ thuật của mỗi người.
- Trong quá trình phân tích tác phẩm, luận văn chú ý đến những điểm chung và
khác biệt giữa các tác gia để cho thấy đóng góp riêng của từng người đối với nền văn
học dân tộc.

11
- Vì con người và tác phẩm của Gia Định tam gia là sản phẩm của một thời đại
phức tạp, ở đó mỗi yếu tố của hiện thực đều có thể là nguyên nhân của những sáng tạo
tinh thần và ngược lại, cho nên trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ liên hệ đến
những đặc điểm của bối cảnh lịch sử, văn hóa thời Nguyễn.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành đề tài này, chúng tôi đã sử dụng tổng hợp nhiều thao tác nghiên
cứu chuyên ngành và liên ngành:
- Phương pháp phân tích ngữ văn: Phương pháp này chú ý tìm hiểu chữ nghĩa cụ

thể để lột tả được tư tưởng văn bản của tác phẩm.
- Phương pháp trực giác: Với nguyên tắc dùng cảm giác để nhận thức và đánh
giá hiện tượng văn học, ghi lại những ấn tượng đặc trưng về hiện tượng đó, phương
pháp này tránh được những suy lý giáo điều, sơ lược hóa.
- Phương pháp xã hội học: Nghiên cứu sự tác động của xã hội đến sáng tác văn
học sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về tác phẩm, tác giả văn học.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này giúp hiểu rõ bản chất, vị trí của một
tác giả, hiện tượng văn học trong các mối tương quan đa chiều của nó.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
- Lần đầu tiên, chúng tôi cung cấp tương đối đầy đủ tư liệu về cuộc đời và sự
nghiệp của Gia Định tam gia, đặt trong mối quan hệ với bối cảnh thời đại các ông
sống.
- Bước đầu đưa ra những đánh giá mới về giá trị nội dung, nghệ thuật của thơ
văn các tác gia này.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Phần mở đầu: Nêu ý nghĩa và mục đích của đề tài, lịch sử vấn đề, đối tượng và
phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, những đóng góp mới và bố cục của luận
văn.
Phần nội dung: Gồm 3 chương:

12
Chương 1: Bối cảnh thời đại và thân thế, sự nghiệp của Gia Định tam gia
Chương 2: Sáng tác văn học của Gia Định tam gia
Chương 3: Sáng tác văn học của Gia Định tam gia trong bối cảnh văn học Nam
kỳ thế kỷ XVIII - XIX
Kết luận: Đánh giá chung về giá trị nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm
văn học của Gia Định tam gia, khẳng định những đóng góp của ba tác gia này trong
nền văn học dân tộc.

13

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH THỜI ĐẠI
1.1. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VIỆT NAM CUỐI THẾ KỈ XVIII, ĐẦU THẾ
KỈ XIX
1.1.1. Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII
Thế kỉ XVIII là giai đoạn rất phức tạp trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Sau khi
phát triển đến đỉnh cao dưới thời Lê Thánh Tông (1460 – 1498), chế độ phong kiến
Việt Nam dần lộ ra những mâu thuẫn và bất ổn của nó mà các cuộc nội chiến tranh
giành quyền lực và lãnh thổ sau đó đã chứng minh. Nội chiến phong kiến Lê – Mạc
(1545 – 1592), Trịnh – Nguyễn (1627 – 1672) đã khiến đất nước rơi vào tình trạng bị
chia rẽ. Sự chia cắt lãnh thổ làm thay đổi bộ mặt đất nước mà từ đây các bộ phận của
nó có điều kiện để phát triển về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa theo một hướng
khác.
Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra trong thế kỉ XVIII, nhất là từ cuối
những năm 30. Ở Đàng Ngoài, tính trong vòng hơn 30 năm đã có hàng chục cuộc nổi
dậy, trong đó nhiều cuộc khởi nghĩa kéo dài trong nhiều năm. Các cuộc khởi nghĩa tiêu
biểu mà chính quyền Đàng Ngoài phải đối phó là khởi nghĩa ở Thanh Nghệ, Hưng Hóa
do Lê Duy Mật lãnh đạo, bắt đầu từ năm 1738 và kéo dài cho đến 1770; khởi nghĩa do
Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ tổ chức ở Hải Dương, Kinh Bắc vào những năm từ 1739
đến 1741; khởi nghĩa do Hoàng Công Chất lãnh đạo từ 1739 đến 1769 ở Sơn Nam,
Hưng Hóa; khởi nghĩa do Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chấn lãnh đạo năm 1740 ở Sơn
Nam hạ; khởi nghĩa do Nguyễn Danh Phương khởi xướng ở Sơn Tây, Tam Đảo từ
1740 đến 1751; khởi nghĩa do Nguyễn Hữu Cầu lãnh đạo từ 1741 đến 1751 ở Đồ Sơn,
Vân Đồn và Kinh Bắc nêu cao khẩu hiệu “Lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo”…
Mặc dù thất bại, phong trào nông dân Đàng Ngoài đã buộc chính quyền Lê – Trịnh
phải có những điều chỉnh nhất định trong chính sách cai trị. Song cùng với những thất
bại ấy, nhân dân Đàng Ngoài đã phải gánh chịu những khó khăn của một nền sản xuất

14
kinh tế bị ngừng trệ và tàn phá. Người dân phải đối mặt hàng ngày với nạn đói và tình

trạng nông nghiệp bị đình đốn.
Sau cuộc Nam tiến của Nguyễn Hoàng, lãnh thổ Việt Nam đã được mở rộng về
phía nam. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược Đông Phố, đặt phủ Gia Định,
lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm
huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Chính quyền Đàng Trong đã có những thắng
lợi nhất định trong việc mở rộng lãnh thổ và bảo vệ nó trước những cuộc chiến tranh
với các chính quyền Chân Lạp và Xiêm La. Từ 1732, chính quyền Đàng Trong lấy Gia
Định làm đại bản doanh trong các hoạt động quân sự và từng bước củng cố thế lực của
mình. Chính vì vậy, tình hình kinh tế xã hội cũng như sự phát triển văn hóa ở khu vực
Gia Định – Tân Bình được đẩy mạnh. Nông nghiệp ở miền Nam được chú trọng phát
triển bởi đất đai và sức lao động của con người là tất cả những gì các lưu dân có được
khi bắt đầu cuộc sống ở vùng đất mới. Nhưng do lợi thế về địa lý và do những nguyên
nhân kinh tế xã hội khác, kinh tế nông nghiệp ở đây đã mang yếu tố sản xuất hàng hóa
khá rõ nét. Hoạt động thương nghiệp được chú trọng đã thúc đẩy sự phát triển đến độ
phồn thịnh của Gia Định như một thương cảng trung tâm ở phía nam tổ quốc và của
các thương cảng khác như Hội An, Hà Tiên vào giữa thế kỷ XVIII, mặc dù sau đó hai
thương cảng này đã bị tàn phá bởi chiến tranh. Sự góp mặt của các cộng đồng dân cư
khác nhau ở miền Nam lúc bấy giờ cũng làm tăng thêm sắc thái đô thị trong đời sống
xã hội ở Nam kỳ. Có thể thấy không khí sinh hoạt, buôn bán tấp nập mang tính đô thị ở
Gia Định thời đó trong Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức: “Hai huyện
Bình Long, Tân Long dân cư đông đúc, chợ phố san sát, nhà cửa liên tiếp nối nhau…
Tàu thuyền từ biển lui tới buôn bán, cột buồm san sát, thật là đô hội lớn ở thành Gia
Định cả nước không đâu sánh bằng. Dân quen nghề buôn bán, có người chuyên sống ở
chợ búa. Có kẻ ở trên thuyền, gọi là dân sông nước; có nhiều kẻ từ các nơi đến tụ họp,
gọi là dân tứ chiếng…”. Để phục vụ mục đích quân sự (mua thuốc đạn, khí giới),
Nguyễn Ánh thu hút thương nhân nước ngoài đến buôn bán các sản phẩm nông lâm

15
nghiệp được sản xuất với một khối lượng lớn như gạo, đường, tiêu, gỗ, sa nhân…
Nhiều tài liệu còn ghi chép lại việc mở rộng buôn bán với nước ngoài của chính quyền

Đàng Trong cho thấy sự phát triển của kinh tế khu vực phía nam thời này. Chẳng hạn,
giáo sĩ dòng Tên người Việt Nam là Philipphê Bỉnh đã viết trong cuốn Truyện nước An
Nam Đàng Trong như sau: “Người thành Macao có kính chuộng nhà Nguyễn cùng
sang buôn bán, mà đong gạo, cùng mua cá khô nước ngọt, vì hai giống ấy thì trong
Đồng Nai dư dật. Lại giống gỗ thơm, ngà voi, hồ tiêu, lông chim thì lắm… Chẳng
những là các tàu Macao chở đày những gạo, mà lại nhiều tàu Đại Minh cùng nước khác
cũng đến buôn bán. Song Đàng Ngoài chẳng có nhiều mà buôn bán như vậy, cũng
chẳng được chở gạo đi…”
1
. Như vậy, bên cạnh những phức tạp về mặt chính trị, đời
sống kinh tế ở miền Nam Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đã được đẩy mạnh, đặc biệt là sự
phát triển mạnh mẽ của nông lâm nghiệp và thương nghiệp.
Ở Đàng Trong, cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất trong lịch sử Việt Nam diễn
ra vào năm 1771, đó là khởi nghĩa Tây Sơn do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ,
Nguyễn Lữ khởi xướng. Sau khi xây dựng căn cứ Tây Sơn ở miền thượng Tây Nguyên,
từ 1771, nghĩa quân tiến xuống đánh chiếm vùng hạ đạo. Hoạt động chủ yếu của nghĩa
quân trong giai đoạn đầu là tấn công vào bộ máy chính quyền ở các làng xã, đốt sổ thuế
và các văn tự vay nợ, lấy của người giàu chia cho người nghèo. Năm 1773, quân Tây
Sơn chiếm được phủ thành Quy Nhơn, sau đó tiến ra Bắc giải phóng Quảng Ngãi,
Quảng Nam, cắt đứt kinh thành Phú Xuân với Gia Định. Quân Trịnh lợi dụng tình hình
rối ren đó ở Đàng Trong, cho Hoàng Ngũ Phúc đem quân vào tấn công. Đến năm 1775,
Nguyễn Phúc Thuần cùng triều thần bỏ trốn vào phía nam, sau đó 2 năm (1777) thì bị
Tây Sơn bắt giết. Sau khi Phúc Thuần bỏ trốn, quân Trịnh chiếm Phú Xuân, đánh vào
Quảng Nam. Cuối năm 1775, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã chiếm được
Phú Yên, sau đó Nguyễn Lữ thắng trận ở Gia Định. Quân Nguyễn tan rã, Nguyễn Ánh

1
Dẫn theo Cao Tự Thanh, “Văn học Hán Nôm ở Gia Định”, Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Tập II
(Văn học), Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình chủ biên, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1988,
tr.61.


16
cùng tàn quân chạy trốn ra đảo Côn Lôn rồi sang Xiêm cầu viện. Đến năm 1778,
Nguyễn Ánh chiếm lại Sài Gòn. Trong chiến cuộc dai dẳng giữa Tây Sơn và chính
quyền Nguyễn Ánh từ sau khi Nguyễn Phước Thuần bị giết đến tháng 9 năm 1788 khi
Nguyễn Ánh chiếm Gia Định lần cuối cùng, quân Tây Sơn bên cạnh việc liên tiếp đối
phó với các thế lực chống đối của Nguyễn Ánh và tập đoàn Lê Trịnh còn phải đối phó
với quân xâm lược Xiêm và Mãn Thanh.
Như vậy, bắt nguồn từ Đàng Trong, cuộc khởi nghĩa đã lan rộng đến quy mô cả
nước. Chiến thắng của nghĩa quân Tây Sơn và sự thiết lập của chính quyền Tây Sơn đã
làm thay đổi bộ mặt đất nước. Trong thời trị vì của mình, Quang Trung đã có một số
chính sách tích cực đối với sự phát triển xã hội. Để đối mặt với những khó khăn và hậu
quả sau chiến tranh, vua đốc thúc việc xây dựng hệ thống chính quyền mới và củng cố
lực lượng quốc phòng. Ông là người biết trọng dụng nhân tài, cho nên trong bộ máy
chính quyền mới không chỉ có những người từng giúp Quang Trung gây dựng sự
nghiệp mà còn có mặt các nhân tài Bắc Hà từng là cựu thần nhà Lê. Trần Trọng Kim
trong Việt Nam sử lược cũng ca ngợi đức độ của vua: “Vua Quang Trung nhà Nguyễn
Tây Sơn là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng,
rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học. Khi ngài ra lấy Bắc
Hà, những người như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng và nhất là
đối với một xử sĩ như Nguyễn Thiệp thì thật là khác thường”
2
. Cũng theo ghi chép của
Trần Trọng Kim, vua Quang Trung là người khuyến khích dùng chữ Nôm “để gây
thành cái tinh thần của nước nhà”. Tuy nhiên, triều đại Tây Sơn phải đối phó với quá
nhiều khó khăn chồng chất sau nhiều thế kỉ chiến tranh và loạn lạc của đất nước, mặt
khác trong nội bộ lãnh đạo cũng xuất hiện nhiều mâu thuẫn, nên đã trở thành triều đại
ngắn ngủi nhất trong lịch sử các vương triều Việt Nam.
Sau khi Nguyễn Huệ mất (1792), nội bộ nhà Tây Sơn bị rạn nứt nghiêm trọng.
Tháng 6 năm 1801, Nguyễn Ánh sau khi tập hợp binh sĩ đã quay trở lại chiếm được


2
Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, NXB Văn học, 2008, tr.421-422.

17
thành Phú Xuân. Quân Tây Sơn tan rã, Nguyễn Quang Toản – người kế vị của Quang
Trung – phải bỏ chạy ra Thăng Long. Tháng 7 năm 1802, Nguyễn Ánh chiếm được
thành Thăng Long, lên ngôi tôn, chấm dứt triều đại Tây Sơn.
1.1.2. Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX
Vấn đề vai trò của nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc cho đến nay vẫn còn là một
đề tài cần phải tranh luận và tìm hiểu nhiều hơn nữa. Tuy nhiên không thể phủ nhận vai
trò ổn định đất nước của Nguyễn Ánh với tư cách tiếp nối sứ mạng thống nhất đất nước
mà lịch sử đã đặt ra từ trước với thắng lợi của Nguyễn Huệ trong phong trào Tây Sơn.
Ngoài ra, nhà Nguyễn, bắt đầu bằng sự trị vì của Gia Long (Nguyễn Ánh), đã có một
hệ thống tổ chức chính quyền với quy chế hoạt động hết sức hiệu lực. Luật pháp được
Gia Long và nhà Nguyễn rất coi trọng. Năm 1815, Luật Gia Long được ban hành. Tuy
nói theo luật Hồng Đức nhưng thực ra mô phỏng luật nhà Thanh, nên bộ luật này rất hà
khắc trong những quy định về xử phạt. Triều Nguyễn tổ chức bộ máy nhà nước theo
mô hình tập quyền chuyên chế với sự tập trung quyền hành vào tay hoàng đế, bên cạnh
đó xây dựng một quân đội thường trực mà các binh sĩ trong đó rất được ưu đãi.
Về kinh tế, từ cuối thế kỉ XVIII, Đàng Trong nói riêng và Việt Nam nói chung
đã đạt được những thành tựu đáng kể, đặc biệt là về thương nghiệp. Chính quyền
Nguyễn Ánh đã đưa ra các chính sách thuế khóa và trưng mua chặt chẽ (thuế đinh, thuế
điền, vụ thuế, thuế các sản vật…), phát triển khối lượng nông lâm sản với khả năng
xuất khẩu lớn. Gia Định trở thành thương cảng lớn nhất Việt Nam thời bấy giờ. Các
nghề thủ công cổ truyền cũng phát triển, như nghề đúc, nghề rèn, nghề thợ bạc, thợ
súng… Tuy việc phát triển kinh tế gắn liền với mục đích phục vụ chiến tranh của
Nguyễn Ánh, song không thể phủ nhận những tác động mạnh mẽ của nó đối với đời
sống xã hội và văn hóa của Việt Nam, đặc biệt là ở miền Nam.
Để phát triển thủ công nghiệp, nhà Nguyễn cho tăng cường các nghề thủ công

truyền thống và bên cạnh đó xây dựng các quan xưởng. Gia Long đã cho lập xưởng
đúc tiền ở Bắc Thành, sau đó lập các quan xưởng khác ở Huế mà đội ngũ lao động

18
trong đó được tập trung từ nhiều địa phương với tay nghề cao. Đặc biệt năm 1839,
quan xưởng đã theo mẫu của châu Âu đóng thành công chiếc tàu chạy máy hơi nước
đầu tiên tại Việt Nam.
Thời kỳ này, triều Nguyễn ban hành nhiều chính sách khẩn hoang tích cực, thu
hút được một lực lượng lớn những lưu dân người Việt cùng với người Khmer, người
Hoa vỡ đất hoang, lập phố xá, mở rộng lãnh thổ đất nước về phía nam. Ngoài ra phải
kể đến thành tựu phát triển thủy lợi và nông nghiệp ở vùng đồng bằng ven biển Bắc bộ
và đặc biệt là vùng đồng bằng Nam bộ. Ngay sau khi lên ngôi, “Thế Tổ lại sửa sang
những đường sá, xoi đào các sông ngòi, đắp các đê điều, để cho việc làm ăn của dân
gian được tiện lợi (…) truyền cho quan ở các trấn phải xoi đào sông ngòi và các cửa
bể, và nhất là ở Bắc thành phải giữ gìn đê điều cho cẩn thận: chỗ nào không có thì đắp
thêm, chỗ nào hư hỏng thì phải sửa lại”
3
. Chủ trương “dĩ nông vi bản”, Gia Long rất
coi trọng vấn đề sản xuất nông nghiệp. Từ 1803 đến 1805, vua cho đo đạc lại toàn bộ
ruộng đất, lập địa bạ cho từng làng ở Bắc Hà. Hệ thống địa bạ thời Gia Long có thể coi
là đầy đủ, chi tiết nhất tới lúc đó. Năm 1804, Gia Long ban hành chính sách quân điền.
Chính sách này về sau cũng được Minh Mạng áp dụng một cách chặt chẽ. Song biện
pháp phát triển nông nghiệp có hiệu quả hơn là chính sách doanh điền, bắt đầu từ năm
1828 với việc Minh Mạng cho tổ chức khai hoang dưới hình thức doanh điền. Nhà
nước cấp vốn khai hoang lập làng ở vùng đất ven biển. Chính sách này đã làm tăng
diện tích canh tác trong những năm trị vì của Minh Mạng và sau này là Thiệu Trị. Nhìn
chung, việc khai khẩn đất hoang trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX bên cạnh việc
khuyến khích sản xuất nông nghiệp đã có những tác động tích cực đến sự ổn định
chính trị thời đó: mâu thuẫn giai cấp trong phạm vi địa phương được xoa dịu phần nào,


3
Trần Trọng Kim, Sđd, tr.459-460.

19
“thậm chí ở một số thời điểm còn tạo ra được trong đời sống tư tưởng – chính trị vùng
này một bề ngoài có vẻ ổn định”
4
.
Đất nước thống nhất, đặc biệt là sự mở rộng lãnh thổ về phương nam hình thành
nên những vùng đất mới đã tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế hàng hóa. “Yếu
tố sản xuất hàng hóa xuất hiện khá sớm trong kinh tế nông nghiệp Nam bộ cùng với
chính sách kinh tế cưỡng bức và chỉ huy của chính quyền Nguyễn Ánh thời kì 1789 –
1802 đã đẩy kinh tế địa phương nhanh chóng đạt tới sự phân công lao động lớn thứ
nhất – sự tách rời giữa thành thị với nông thôn nói như F. Ăng-ghen”
5
. Tuy nhiên, vì
nhiều lý do, đặc biệt là lý do chính trị, kinh tế thương nghiệp giai đoạn đầu thế kỉ XIX
có chiều hướng suy thoái. Một mặt là vì nhà Nguyễn áp dụng chính sách thuế khóa
phức tạp, chế độ kiểm soát ngặt nghèo đối với hoạt động thông thương. Năm 1834,
Minh Mạng còn ra lệnh cấm họp chợ do sợ xảy ra bạo loạn. Mặt khác, nhà Nguyễn hết
sức dè dặt trong hoạt động ngoại thương. John White, một người Mỹ, đã viết trong
cuốn Một chuyến hành trình đến xứ Cochinchina
6
(A voyage to Cochinchina, Bostn,
1823) về tình hình buôn bán ven biển phía Nam nước ta cuối thời Gia Long như sau:
“Việc buôn bán ven biển xứ này có vẻ hoạt động nhưng chỉ là giả tạo thôi, vì hàng hóa
trên các thuyền bản địa không đáng bao nhiêu. Thuyền buôn không bao giờ đủ hàng để
trao đổi, vì nhà vua buộc mỗi thuyền phải chở cho triều đình một số hàng, thường là
gạo, thực phẩm cho quân lính, gỗ và vật liệu xây dựng, quân nhu cho các đạo binh”;
và, ở một đoạn khác: “Nền thương mại của xứ Cochinchina hiện nay chẳng còn gì so

với hoạt động trước kia (…). Việc buôn bán với Ma Cao hoàn toàn bị cắt đứt”
7
. Song
song với sự suy thoái của kinh tế thương nghiệp, các đô thị cũng dần trở nên kém phồn
thịnh. J. White viết: “Trước đây, Hội An là thị trường của các tỉnh phía Bắc (…).

4
Cao Tự Thanh, “Văn học Hán Nôm ở Gia Định”, Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Tập II (Văn học),
Sđd, 1988, tr.80.
5
Cao Tự Thanh, “Văn học Hán Nôm ở Gia Định”, Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Sđd, tr.77.
6
Thời kì này người ngoại quốc đến giao thương với Việt Nam thường dùng tên “Cochinchina” (hoặc các biến thể
của nó như “Cochinchine”, “Cocinchina”, “Cauchinchina”) để chỉ vùng lãnh thổ Đàng Trong.
7
Dẫn theo Nguyễn Phan Quang, Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn, Nguyễn Phong Nam chủ
biên, NXB Giáo dục, 1997, tr.11.

20
Nhưng bây giờ Hội An rất nghèo nàn, hoang phế, rất ít khi hoặc chẳng bao giờ được
tàu bè đến thăm, ngoài các thuyền địa phương và vài thuyền nhỏ từ ngoài Bắc vào”. Về
Đà Nẵng, tác giả này nhận xét: “trước đây là một thành phố cảng đông đúc, nay chỉ còn
là một thành phố tồi tàn, bẩn thỉu”.
Về đối ngoại, triều Nguyễn chú ý thần phục nhà Thanh, nhưng đối với phương
Tây lại tỏ ra nghi kị. Ý thức về nguy cơ bị chủ nghĩa tư bản phương Tây xâm hại chủ
quyền đất nước, Gia Long và Minh Mạng đã tiến hành những hoạt động điều tra, thăm
dò, mặt khác củng cố quốc phòng và tiếp thu thành tựu kỹ thuật phương Tây. Trong
thời nội chiến với Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã tranh thủ học được khá nhiều kỹ thuật
phương Tây trong việc xây thành, đóng tàu, đúc vũ khí, phát triển thủy quân… Trong
thời trị vì của mình, Minh Mạng đã cử nhiều phái đoàn vượt biển đến các căn cứ

phương Tây ở Đông Nam Á, ở Ấn Độ, Trung Hoa… để thăm dò tình hình.
Tóm lại, giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX là một giai đoạn phức tạp,
nhiều biến cố trong lịch sử Việt Nam với những cuộc nội chiến kéo dài, những cuộc
khởi nghĩa dồn dập dẫn theo những thay đổi căn bản của cục diện xã hội cũng như của
đời sống nhân dân. Gánh trên vai những trọng trách lớn lao của lịch sử sau khi đất
nước được thống nhất và mở rộng về lãnh thổ, nhà Nguyễn đã duy trì những chính sách
nhằm đảm bảo nền độc lập và bình ổn cho đất nước, trong đó bên cạnh những chính
sách chuyên chế và độc đoán, nhiều giải pháp của Gia Long và Minh Mạng tỏ ra có
hiệu lực trong việc ổn định, phát triển kinh tế-xã hội. Trên thực tế, triều Nguyễn nói
chung và Gia Long, Minh Mạng nói riêng đã có những cống hiến tích cực trên nhiều
phương diện. Dưới triều Gia Long, quốc hiệu Việt Nam đã được đặt (1804) và về
cương vực lãnh thổ, đất nước đã được mở rộng trên một diện tích lớn hơn rất nhiều.
Triều Nguyễn, bắt đầu từ Gia Long và Minh Mạng, đã xây dựng một cơ chế quân chủ
tập quyền mạnh mẽ với một bộ máy hành chính và một thiết chế vận hành quy củ. Tuy
nhiên, với những hạn chế mang tính chủ quan và lịch sử của mình, thời Nguyễn dưới
sự trị vì của Gia Long và Minh Mạng vẫn diễn ra những cuộc khởi nghĩa nông dân với

21
số lượng và quy mô lớn. Do vậy, xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XIX vẫn chứa trong nó
nhiều mâu thuẫn, bất ổn.
1.2. NGƯỜI MINH HƯƠNG Ở VIỆT NAM
Là hai nước láng giềng, Việt Nam và Trung Quốc có những mối quan hệ chặt
chẽ, trong đó phải kể đến sự di cư của người dân từ nước này sang nước kia, và bất kể
vì lý do gì, nó cũng tạo ra sự giao thoa về mặt văn hóa. Người Hoa nói chung và người
Minh Hương - những người quê gốc nhà Minh bên Trung Quốc – nói riêng, từ lâu đã
hòa nhập với người Việt trong tiến trình xây dựng xã hội; và bằng việc gắn bó cuộc
đời, sự nghiệp của họ với mảnh đất mà họ chọn để lưu lại vĩnh viễn, nhiều người trong
số đó đã thực sự trở thành những công dân Việt có nhiều cống hiến đáng kể cho đất
nước.
Đầu thế kỷ XVI, để tự giải phóng khỏi những đợt cấm và giết đạo tại Trung Hoa

và Nhật Bản, nhiều người dân của hai nước này đã chạy bằng đường biển xuống phía
nam đến Đàng Trong xin tị nạn tôn giáo. Nhiều giáo sĩ phương Tây ở Đàng Ngoài
cũng phải Nam tiến khi chúa Trịnh thi hành chính sách cấm đạo. Hội An trở thành một
thành phố truyền đạo và một hải cảng sầm uất chính nhờ vào sự cư trú và lao động tích
cực của các nhóm tị nạn này. Một nhóm khác, là di thần phản Thanh phục Minh Trung
Hoa không chịu “cạo tóc gióc bím” theo phong tục Mãn, do Trần Thượng Xuyên,
Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu… cầm đầu cũng đến Đàng Trong xin tị nạn chính trị, cư
trú ở Biên Hòa, Mỹ Tho, Hà Tiên. Trong thời các chúa Nguyễn, người Hoa tại Hội An
đã làm trung gian trao đổi với Tây phương và Trung Hoa, giúp triều chính kiểm soát
ngoại thương, thu thuế thương thuyền… Nhiều nhóm người Hoa thành lập các làng
Minh Hương dọc các tỉnh ven duyên ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định… Người
Minh Hương trong quá trình hòa nhập với người bản địa đã giúp các chúa Nguyễn và
vương triều Nguyễn khai phá miền đông, miền tây của Nam bộ lúc bấy giờ, lập nên
những vùng đất mới như Đông Phổ - Gia Định, Mang Khảm (Hà Tiên). Họ vỡ đất phá
rừng, đào kinh cất phố, đưa kỹ thuật và văn hóa Trung Hoa vào miền Nam Việt Nam.

22
Sau khi quân Tây Sơn chiếm Gia Định, Nguyễn Ánh lúc đó mới 15 tuổi, phải
trốn ở đảo Phú Quốc, sau đó về lập chiến khu gần Hà Tiên. Bị quân Tây Sơn chiếm
luôn Hà Tiên, Nguyễn Ánh sai Mạc Thiên Tứ (con trai Mạc Cửu) sang Xiêm La cầu
viện. Bị quân Tây Sơn lập mưu tráo thư, vua Xiêm nghi Mạc Thiên Tứ định chiếm
ngôi, liền bắt giam. Cùng với hai con và tướng Tôn Thất Xuyên, Thiên Tứ tự vẫn.
Người con sống sót của Thiên Tứ là Mạc Tử Sanh sau này được Nguyễn Ánh nhớ ơn,
phong chức lưu thủ cai quản Hà Tiên.
Năm 1787, từ Xiêm La trở về nước, Nguyễn Ánh được nhiều người Hoa giúp
chiếm lại Hà Tiên và Long Xuyên. Để trả ơn, Nguyễn Ánh phong tước vị cao trong
triều đình cho những vị tướng gốc Hoa đã giúp mình. Nhiều người gốc Hoa có tài, đỗ
đạt trong những khoa thi của triều Nguyễn đã ra giúp nước. Tầng lớp sĩ phu thường
được triều đình trọng dụng, chẳng hạn như Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhơn Tĩnh được cử
làm sứ bộ sang dâng Ấn xin triều đình Mãn Thanh thừa nhận vương quốc chư hầu…

Võ Trường Toản, nổi tiếng “Kinh học uẩn súc”, là người gốc Hoa, tuy không tham gia
việc triều chính, nhưng có công lớn trong việc đào tạo các danh sĩ như Trịnh Hoài Đức,
Ngô Nhơn Tĩnh, Lê Quang Định, Phạm Đăng Hưng, Ngô Tùng Châu… Năm 1787,
Nguyễn Ánh cho lập bốn bang ngữ phương lớn gốc Hoa tại miền Nam là Quảng Đông,
Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam, sau thay đổi lại thành bảy bang là Phúc Kiến, Phúc
Châu, Hải Nam, Quế Châu, Lôi Châu, Triều Châu, Quảng Châu. Sau này, thể hiện việc
quan tâm đến tình cảm quê hương của người Hoa, Gia Long ban hành một số điều luật
quy định về việc thành lập các tổ chức bang, hội, làng, xã. Theo những điều luật này,
người Hoa được tụ cư trong các nhóm cộng đồng theo nguồn gốc địa phương, có quan
hệ thân tộc và huyết thống. Người Minh Hương được tụ cư trong các tổ chức làng gọi
là “Minh Hương xá” mà người cầm đầu được tuyển chọn qua các kì thi, được nhà vua
phê chuẩn hoặc bổ nhiệm. Vua Minh Mạng khi bổ sung Luật Gia Long, quy định người
có bố gốc Hoa, mẹ gốc Việt là người Việt nhưng cho phép giữ tên gọi là Minh Hương,
và đã là người Minh Hương thì được phép thi cử làm quan như người Việt Nam. Tuy

23
nhiên, Minh Mạng cũng đưa ra những chính sách hạn chế quyền tự trị của người Hoa.
Do vậy nhiều người Hoa đã nổi dậy chống Minh Mạng, bị giết hại, và từ đó người Hoa
không còn được ưu đãi như trước nữa.
Nhưng nhìn chung, triều Nguyễn, đặc biệt là thời trị vì của Gia Long, đã áp
dụng những chính sách mềm dẻo để tận dụng sức lao động, sáng tạo của người Hoa
vào việc phát triển kinh tế, khai khẩn đất đai và trong công việc bang giao của triều
đình với Trung Quốc. Theo Châu Hải trong bài “Triều Nguyễn với các nhóm cộng
đồng người Hoa ở Việt Nam thế kỉ XIX”
8
, điểm nổi bật ở tư tưởng chỉ đạo trong cách
ứng nhân xử thế của các triều vua Nguyễn thể hiện ở đạo lý “nhu viễn nhân”. Đối với
giới “sĩ”, triều Nguyễn vận dụng kinh điển “tôn hiền” (tôn trọng bậc hiền tài); đối với
giới “nông” thì chan hòa rộng rãi; đối với giới “công” vận dụng nguyên lý “lai bách
công”, nghĩa là thu hút thợ trăm nghề đến với mình; chỉ đối với giới “thương”, nhà

Nguyễn dù không có quy định cụ thể song luôn đề cao cảnh giác.
Như vậy, đối với người Hoa và người Minh Hương, triều Nguyễn đã vận dụng
những chính sách mà ở đó có “kết hợp hài hòa giữa khoan dung với tính thiết chế chặt
chẽ (…). Sự kết hợp đó, không những đã phát huy được khả năng thương mại của
người Hoa trong quá trình hình thành các tụ điểm kinh tế ở Việt Nam mà còn gìn giữ
được trật tự trị an trong những khu vực mới hình thành đó”
9
. Nguyên tắc ứng xử với
người Hoa của triều Nguyễn, trên phương diện nào đó, đã trở thành một đạo lý. Đó
chính là lý do khiến cho nhiều người Hoa, người Minh Hương trở thành những công
dân Việt thực sự với những đóng góp tích cực trong việc xây dựng, phát triển đất nước.
Họ hòa nhập một cách nhanh chóng, gắn bó một cách chặt chẽ với đời sống của người
bản địa. Có lẽ trong tâm thức họ, sự gắn bó ấy đã tạo nên một nét riêng biệt của tâm
hồn, một nghĩa tình cao cả và thiêng liêng thường có ở những người tha phương,
những người mà với họ, mảnh đất vốn không phải quê hương đã trở nên thân thiết hơn

8
Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn, Sđd.
9
Châu Hải, “Triều Nguyễn với các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam thế kỉ XIX”, Những vấn đề lịch sử
và văn chương triều Nguyễn, Sđd, tr.115.

24
bất cứ nơi nào khác và trở thành cơ duyên cho sự tồn tại của mình. Có lẽ bởi vậy, nhiều
người trong số họ đã cất lên tiếng nói tha thiết, giàu trắc ẳn với cuộc đời và thể hiện
tình yêu, sự gắn bó với quê hương, như các nhà thơ gốc Hoa trong tao đàn Chiêu Anh
Các hay Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tĩnh trong Gia Định tam gia …
1.3. VĂN HỌC MIỀN NAM VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH VĂN HÓA NGHỆ
THUẬT DÂN TỘC
Thành tựu nổi bật nhất về mặt văn hóa, học thuật của Việt Nam giai đoạn cuối

thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX là sử học với tên tuổi của các sử gia Lê Quý Đôn, Ngô Thì
Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Bùi Huy Bích, Bùi Dương Lịch, Phan Huy Chú… Lê triều thông
sử, Phủ biên tạp lục, Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, Lịch triều hiến chương loại
chí của Phan Huy Chú được coi là những công trình quý giá về lịch sử. Quốc sử quán
triều Nguyễn cũng biên soạn Việt sử thông giám cương mục gồm 53 quyển, chép từ đời
Hùng Vương đến thời Lê Mẫn Đế. Bên cạnh đó, Quốc sử quán còn biên soạn những
loại sách dã sử, các sách về “liệt truyện” danh nhân, các sách ghi chép về khoa cử…
Về y học cũng có nhiều tác phẩm được biên soạn mà đặc biệt là Y tông tâm lĩnh của
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Về lịch sử, địa lý, địa chí có Lê triều thổ địa chí,
An Nam chí, Gia Định thành thông chí, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Nghệ An ký,
Phủ biên tạp lục, Cao Bằng Lục, Hải Dương chí lược… Về kiến trúc và điêu khắc, đặc
điểm nổi bật của thời kì này là “tính hiện thực và tính dân tộc”
10
. Tượng Phật Bà ở
chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), tượng Phật Quan thế âm ở chùa Dạm (Bắc Ninh), tượng La
Hầu La, tượng Tuyết Sơn ở chùa Tây Phương (Hà Tây) đã thoát khỏi những kiểu cách
ước lệ cũ.
Về văn học, đây là thời kì phát triển rực rỡ nhất của văn học trung đại Việt Nam
với những tên tuổi như Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm, Phạm Nguyễn
Du, Phạm Quý Thích, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát… Khuynh hướng sáng tác của
văn học giai đoạn này liên quan chặt chẽ với hiện thực phức tạp lúc đó. Văn học

10
Lịch sử văn học Việt Nam, tập I, Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, 1980, tr.308.

25
thường xoay quanh những đề tài như khởi nghĩa nông dân (Hịch của Lê Duy Mật, Hịch
Tây Sơn, bài thơ Chim trong lồng của Nguyễn Hữu Cầu, Ai tư vãn tương truyền của Lê
Ngọc Hân…). Vì chia rẽ về chính trị, tư tưởng thời đại được phản ánh trong văn học
với những màu sắc khác nhau dựa trên những lập trường chính trị khác nhau. Nếu như

chủ đề ca ngợi sự vĩ đại của những người nông dân trong công cuộc khởi nghĩa của họ
thuộc về mảng văn học của các tác giả như Phan Huy Ích, Ngô Ngọc Du, Lê Ôn Phủ,
Vũ Huy Tấn, nhóm Ngô gia văn phái , thì ngược lại, một nhóm các tác giả khác, trên
lập trường chính trị đối lập với nghĩa quân Tây Sơn và các cuộc khởi nghĩa nông dân,
lại sáng tác với chủ đề chống Tây Sơn, ca tụng Nguyễn Ánh, triều Nguyễn và các
tướng lĩnh, binh sĩ chiến đấu cho nhà Nguyễn (Hịch đánh Tây Sơn của Lê Huy Giao,
Chiến tụng Tây hồ phú của Phạm Thái, Văn tế trận vong tướng sĩ của Nguyễn Văn
Thành, Văn tế Võ Tánh và Ngô Tòng Chu của Đặng Đức Siêu…). Cả hai mảng đề tài
đối nghịch này đều là sản phẩm của lịch sử, bởi vậy khi tìm hiểu dưới góc độ văn học,
chúng ta không nên phán xét về mặt giá trị đạo đức kiểu như chỉ một trong hai mang
tính chính nghĩa. Cần phải đặt tác phẩm trong bối cảnh lịch sử của nó, nơi mà chính
nhận thức của chúng ta về nó cũng phải thay đổi để ngày càng khách quan hơn, tránh
được sự phiến diện, quy chụp và thiên lệch của tư duy lịch sử.
Khuynh hướng nổi bật của văn học thời kỳ này là phê phán xã hội. Truyện Kiều
của Nguyễn Du lên án chế độ phong kiến thối nát đã vùi dập con người trong bể lưu lạc
của cuộc đời. Nhân vật Thúy Kiều là hiện thân của cái đẹp bị xã hội bạc đãi. Với tiếng
nói mạnh mẽ và da diết xuất phát từ lòng nhân đạo, Nguyễn Du đã để lại cho đời một
tác phẩm tuyệt diệu mà chính nó đã khiến cho tên tuổi ông trở nên bất tử. Chinh phụ
ngâm của Đặng Trần Côn và Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều cũng là
những tác phẩm nổi tiếng thời bấy giờ, mang trong chúng hơi thở của thời đại với
những đau thương của cuộc nội chiến phong kiến, với cái phi lý, tàn khốc của chế độ
cung tần mỹ nữ… Bên cạnh khuynh hướng phê phán xã hội là khuynh hướng trữ tình
lãng mạn. Thu dạ lữ hoài ngâm của Đinh Nhật Thận bộc lộ những tâm sự cá nhân, thơ

26
Hồ Xuân Hương đề cập đến khát vọng nữ quyền, thơ Bà Huyện Thanh Quan thể hiện
rõ nỗi buồn và niềm hoài cổ…
Một đặc trưng của văn học giai đoạn này, khiến cho văn học “khởi sắc, trở
thành văn chương đạt mức cổ điển”, theo Lê Trí Viễn, là “một trào lưu nhân đạo, nhân
văn chủ nghĩa thấm nhuần vào văn chương, phá vỡ nhiều mảng quan trọng trong thi

pháp trung đại, mà sự xuất hiện con – người – cá – nhân thay thế dần con người công
dân, con người cộng đồng, dù là cộng đồng đạo lý hay cộng đồng tôn giáo, là điểm
then chốt”
11
. Cái “tôi” cá nhân xuất hiện trong văn học như một sự phản ứng lại tình
trạng bị kìm nén, bị giấu kín trong quan niệm nghệ thuật trước đó. Cái “ngất ngưởng”
của Nguyễn Công Trứ, cái ngông nghênh mà ung dung, tự tại của Cao Bá Quát, sự nổi
loạn của Hồ Xuân Hương, cái đằm thắm sâu lắng của Nguyễn Du…, chỉ vậy thôi cũng
đủ cho thấy tinh thần nhân đạo với sự giải phóng tinh thần của con người cá nhân thời
đó mạnh mẽ, mãnh liệt đến thế nào.
Đàng Trong, với những đặc trưng về mặt xã hội và lịch sử, đã hình thành một
nền văn học mà đặc điểm, giá trị của nó chịu ảnh hưởng của những sắc thái văn hóa
mang tính đặc thù. Văn học miền Nam Việt Nam cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX,
được bắt nguồn từ văn học Đàng Trong (1600 – 1777), nằm trong một giai đoạn có
nhiều biến động của lịch sử khu vực cũng như của văn hóa Đại Việt. Bởi vậy, có những
vấn đề của văn học cần phải được nhìn nhận trong mối quan hệ với tiến trình văn hóa
của Việt Nam và khu vực, đặc biệt là ở Nam kỳ.
Việc mở rộng đất đai về phía nam, sự tiếp nhận đồng thời các yếu tố văn hóa từ
nhiều nguồn gốc, quy luật nối tiếp và chối bỏ của sự sàng lọc để mưu sinh đối với
những vấn đề của văn hóa ở vùng đất mới… đã tác động rõ rệt đến việc hình thành một
nền văn hóa xã hội ở Nam Hà mà từ đây các yếu tố căn bản của nó rẽ sang một nhánh
khác với Bắc Hà. Từ thế kỷ XIV thời Phạm Dữ Dật (con Phạm Ngũ Lão) mang quân
tiến vào phía nam dẫn theo một số đông dân cư theo vào lập nghiệp, “hầu hết là dân

11
Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn, Sđd, tr.176-177.

27
nghèo tù tội, hành khất, hạng lưu dân thoát vùng đất cũ với hy vọng của kẻ đánh bạc
chẵn lẻ”

12
, những lưu dân người Việt đã bắt đầu cuộc sống ở vùng đất mới với vô vàn
khó khăn, bỡ ngỡ trước thiên nhiên hoang dã, trước bao thử thách của cuộc mưu sinh.
Chỉ từ khi Nguyễn Hoàng tiến vào đây mới “mang lại cho họ một ý nghĩa đầy đủ về
hai chữ định cư và cuộc sống bắt đầu có sinh khí”
13
. Cũng từ đây, đời sống văn hóa xã
hội ở miền Nam đã phát triển theo một hướng khác. Trong khi văn chương Đàng Ngoài
vẫn tiếp tục khơi theo dòng truyền thống, đó là sự phát triển của văn chương bác học,
văn chương thành văn, lấy đối tượng trí thức làm căn bản, thì văn chương Đàng Trong,
ngược lại, đi theo hướng bình dân hóa, lấy đối tượng là quần chúng lao động. Đơn giản
bởi chính những người lao động ấy là lực lượng khai phá và xây dựng vùng đất mới,
chính họ là người chủ của cuộc sống mà họ chọn để bắt đầu, cũng chính họ làm chủ cái
vốn liếng văn nghệ mà ở thời điểm khởi phát nó trước nhất được coi như một sự giải
trí, cần thiết để bù đắp lại cho những ngày lao khổ. Cũng vì vậy, khác với miền Bắc,
văn chương miền Nam nặng về nói và trình diễn. Đấy là nguyên nhân phát triển của
các loại nghệ thuật trình diễn, những bài thơ, vè, ca kịch…, đặc biệt sự phát triển của
hò vè, truyện, thơ, hát bội như các bộ môn căn bản của văn nghệ miền Nam.
Khi nghiên cứu về văn học Hán Nôm Gia Định, bộ phận tiêu biểu nhất của văn
học miền Nam Việt Nam thời bấy giờ, Cao Tự Thanh nhận xét: “Việc xuất hiện của
Sơn hội với các nhà thơ Chỉ Sơn Trịnh Hoài Đức, Nhữ Sơn Ngô Nhơn Tịnh, Kỳ Sơn
Diệp Minh Phụng, Phục Sơn Vương Kế Sinh, Hối Sơn Huỳnh Ngọc Uẩn… cho thấy
đầu những năm 80 của thế kỷ 18, lực lượng trí thức địa phương ở Gia Định đã bắt đầu
tách ra như một tầng lớp riêng biệt có những sinh hoạt văn hóa – xã hội độc lập. Văn
học Hán Nôm ở Gia Định chính thức ra đời từ đó, với một lực lượng sáng tác – tầng
lớp trí thức có khả năng cũng như nhu cầu sáng tác văn học viết và quan trọng hơn, đã
đứng vào điểm xuất phát trên con đường tự ý thức về một nhu cầu sáng tác văn

12
Nguyễn Văn Xuân, “Khi những lưu dân trở lại”, Tuyển tập Nguyễn Văn Xuân, NXB Đà Nẵng, 2002, tr.544.

13
Nguyễn Văn Xuân, Sđd, tr.544.

×