Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Khuất Quang Thụy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC






LÊ THỊ THÚY LAN




NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT
KHUẤT QUANG THỤY




LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC




HÀ NỘI – 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC






LÊ THỊ THÚY LAN



NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT
KHUẤT QUANG THỤY


LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 32

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS ĐOÀN ĐỨC PHƯƠNG




HÀ NỘI – 2013

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1.Lý do chọn đề tài 1
2.Lịch sử vấn đề 3
3. Đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu 6
4. Phương pháp nghiên cứu 6

5. Cấu trúc của luận văn 7
Chương 1 KHÁI LƯỢC VỀ NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TÁC CỦA KHUẤT QUANG THỤY 8
1.1.Khái lược về nghệ thuật tự sự 8
1.1.1 Về tự sự học 8
1.1.2 Nghệ thuật tự sự 9
1.2. Sáng tác của Khuất Quang Thụy 15
1.2.1. Hành trình sáng tác 15
1.2.2. Quan niệm sáng tác 19
Chương 2 NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT VÀ TỔ CHỨC
CỐT TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT KHUẤT QUANG THỤY 23
2.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 23
2.1.1.Khái lược về nhân vật và nhân vật trong tiểu thuyết Khuất Quang Thụy . 23
2.1.2. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật 31
2.1.3 Nghệ thuật miêu tả hành động của nhân vật 38
2.1.4. Nghệ thuật biểu hiện nội tâm của nhân vật 44
2.1.5. Ngôn ngữ nhân vật 49
2.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện 57
2.2.1. Khái niệm cốt truyện 57
2.2.2. Các kiểu tổ chức cốt truyện trong tiểu thuyết Khuất Quang Thụy 60
Chương 3 ĐIỂM NHÌN, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT KHUẤT QUANG THỤY 71
3.1. Điểm nhìn trần thuật 71
3.2. Ngôn ngữ trần thuật 75
3.3. Giọng điệu trần thuật 84
3.3.1 Giọng điệu trào lộng, giễu nhại 85
3.3.2. Giọng điệu triết lý 90
KẾT LUẬN 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chiến tranh là một đề tài lớn của văn học Việt Nam. Đồng hành với
những sự kiện lịch sử vĩ đại của dân tộc trong thế kỉ XX, đặc biệt là hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, văn học về đề tài chiến tranh đã có
những thành tựu rực rỡ, nhất là ở thể loại tiểu thuyết.
Khuất Quang Thụy là nhà văn quân đội, ông là một trong những nhà
văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với Nguyễn
Trí Huân, Chu Lai, Lê Lựu… đã trải qua chiến tranh chống Mỹ. Sau khi gia
nhập quân đội tham gia chiến đấu nhiều năm ở chiến trường Tây Nguyên,
giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX ông chuyển về làm biên tập viên, rồi Trưởng
ban văn xuôi, Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Khuất
Quang Thụy có nhiều tác phẩm viết về người lính có giá trị, được dư luận đón
nhận, đánh giá cao. Ông đã được trao giải thưởng Nhà nước năm 1997, giải
thưởng của Bộ Quốc phòng, Hội Nhà văn Việt Nam. Khuất Quang Thụy có
lối sống giản dị, lặng lẽ. Ông ít xuất hiện trên các diễn đàn hay trước công
chúng, tác phẩm của ông cũng không được quảng bá rộng rãi nên ít được bạn
đọc hiện nay biết đến. Việc tìm hiểu nghiên cứu về Khuất Quang Thụy cũng
như các tác phẩm của ông còn hết sức ít ỏi, khiêm tốn chưa có chiều sâu và
thực sự xứng tầm.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, lớp lớp những
nhà văn đã làm nên một nền văn học kháng chiến với nhiều thành tựu to lớn,
có ý nghĩa quan trọng, đó là: Anh Đức, Nguyên Ngọc, Nguyễn Đình Thi,
Nguyễn Minh Châu, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khải… Ngày nay, trước sự phát
triển của đời sống xã hội, văn học nghệ thuật cũng có sự chuyển mình mạnh
mẽ, song thiết nghĩ, đề tài chiến tranh trong văn học vẫn là một đề tài lớn, có
giá trị sâu sắc. Các tiểu thuyết: Những bức tường lửa, Không phải trò đùa,
Góc tăm tối cuối cùng của Khuất Quang Thụy khai thác rất thành công cuộc
chiến tranh chống Mỹ cứu nước (chiến dịch Đường Chín-Khe Sanh) và cuộc


2
chiến tranh biên giới Tây Nam. Các tác phẩm này là điển hình, tiêu biểu cho
các tác phẩm văn học viết về chiến tranh những giai đoạn này.
Quan tâm đến đề tài chiến tranh cả ở việc sáng tác, thưởng thức và quá
trình nghiên cứu về tác phẩm là rất cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay. Nhà văn Ngô Thảo trong cuốn Văn học về người lính đã đúc kết sự quan
trọng của việc quan tâm đến đề tài chiến tranh trong văn học: "Quan tâm tới
đề tài chiến tranh chính là tìm về ngọn nguồn để hiểu đúng, nhận thức đúng,
khám phá đúng những vấn đề xã hội của đời sống hôm nay. Quan tâm tới đề
tài chiến tranh là để tìm hiểu cái áp lực, cái xu hướng cùng những qui luật
đang chi phối sự phát triển của xã hội và con người hiện nay. Quan tâm tới đề
tài chiến tranh, còn là tìm chiếc chìa khóa để mở cánh cửa đi vào thế giới tinh
thần, tình cảm từng con người, từng thế hệ cũng như toàn thể xã hội mà văn
học đang có ước muốn tích cực tham gia vào việc biến cải nó ngày càng tốt
hơn, hoàn thiện hơn" [19, tr. 144]. Rõ ràng, cả ba tiểu thuyết Những bức
tường lửa, Không phải trò đùa, Góc tăm tối cuối cùng đã khai thác triệt để
đề tài chiến tranh trên cả diện rộng và bề sâu, dưới nhiều góc nhìn khác nhau.
Ở mỗi tiểu thuyết có phạm vi đề tài khác nhau, nhưng tựu chung lại, tác giả đã
khai thác tối đa và hiệu quả đề tài chiến tranh, đem lại giá trị biểu hiện cao
trong việc khắc họa hình ảnh đất nước con người Việt Nam từ kháng chiến
chống Mỹ cứu nước cho tới nay.
Đến nay, vẫn chưa có công trình nào nhận diện một cách đầy đủ và hệ
thống về văn học Việt Nam sau 1975. Các công trình khoa học thường chỉ đi
sâu khảo sát một số vấn đề nổi cộm của văn học đương thời. Đó là những
bước đi cần thiết để có một sự nghiên cứu toàn vẹn về giai đoạn văn học sôi
động này. Thiết nghĩ, ba cuốn tiểu thuyết của Khuất Quang Thụy mà chúng ta
đang nghiên cứu được coi là khá đặc sắc và có những nét riêng so với những
tiểu thuyết viết về chiến tranh, sau chiến tranh như các tác phẩm của Bảo
Ninh, Dương Hướng, Chu Lai, Hữu Mai Việc nghiên cứu những nét riêng

này cũng góp phần làm phong phú thêm lý luận về tiểu thuyết Việt Nam sau
1975 viết về chiến tranh.

3
2. Lịch sử vấn đề
Sau chiến tranh, văn xuôi là loại hình văn học phát triển sớm và có
thành tựu rất đáng kể, ở cả tiểu thuyết, truyện ngắn và ký. Sự phát triển toàn
diện này đã thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.
Vì vậy, chỉ sau khoảng một thập niên từ ngày hoà bình lập lại, một số bài viết
đã tập trung vào việc nhận diện và dự báo những bước phát triển tiếp theo của
nó. Từ đó đến nay, văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói riêng đã trở thành đề
tài cho rất nhiều những công trình nghiên cứu. Có thể điểm qua một vài nét sơ
lược về các chặng đường nghiên cứu vấn đề này như sau:
- Nguyễn Đăng Mạnh trong Về một xu hướng tiểu thuyết đang phát
triển (Nhân dân, 26/10/1985) tập trung khắc họa đặc điểm của một xu hướng
tiểu thuyết đang nổi lên trong đời sống văn học những năm 80. Đó là những
tiểu thuyết mà nhà văn - qua tác phẩm - tham gia vào cuộc sống như một nhà
tư tưởng, nội dung triết luận chiếm một tỉ lệ quan trọng và điển hình con
người mới là những người cách mạng có tri thức hay những công nông trí
thức hóa. Tác giả ghi nhận xu hướng này là một sự vận động hợp lí của tiểu
thuyết để đáp ứng yêu cầu nhận thức của con người trước các vấn đề của thực
tiễn xã hội, đất nước.
- Lại Nguyên Ân trong Văn xuôi gần đây, diện mạo và vấn đề (Đất
Quảng, số 36/1985; Văn nghệ quân đội, số 1/1986) là người đầu tiên đi vào
các vấn đề khái quát diện mạo của văn học mười năm sau chiến tranh qua bốn
mảng đề tài: văn xuôi chiến đấu, văn xuôi sản xuất, văn xuôi phong tục - lịch
sử và văn xuôi tâm lí - xã hội. Ở đề tài chiến đấu, tác giả chủ yếu chỉ ra hạn
chế của văn xuôi: trong tình thế “hôm nay ngồi viết cái hôm qua”, các nhà
văn vẫn chưa có sự đổi mới trong quan niệm và sáng tạo nghệ thuật. Ở văn
xuôi tâm lí - xã hội, tác giả khẳng định đây là mảng đề tài thể hiện rõ rệt hơn

cả tính chất chuyển giai đoạn của đời sống xã hội sau 1975.
- Bùi Việt Thắng trong bài viết Văn xuôi hôm nay (Nhân dân,
10/5/1987) lại đi từ nhận định văn xuôi đang mở ra nhiều hướng, nhiều cách
tiếp cận đời sống, để khái quát thành ba khuynh hướng chính: “xông thẳng

4
vào đời sống hiện tại”, “nhận thức lại thực tại” và vấn đề đạo đức, nhân cách
của con người mới trong xã hội. Ở phương diện nghệ thuật, tác giả điểm đến
dấu ấn của cá tính nhà văn và giọng điệu đối thoại trong tác phẩm. Trong một
bài viết khác: Những biến đổi trong cấu trúc thể loại tiểu thuyết sau 1975
(1995), tác giả chỉ ra kỹ hơn đổi mới nghệ thuật ở một thể loại tiêu biểu là tiểu
thuyết từ phương diện cấu trúc. Khẳng định sau 1975, tiểu thuyết có sự biến
đổi từ cấu trúc lịch sử - sự kiện sang cấu trúc lịch sử - tâm hồn, tác giả cho
rằng ký ức là yếu tố quan trọng được nhà văn dùng để tổ chức tác phẩm và
bước đầu đặt ra vấn đề xác định ảnh hưởng của các loại hình nghệ thuật khác
đối với cấu trúc thể loại tiểu thuyết. Những vấn đề này một lần nữa đã được
tác giả đề cập đến trong chuyên luận gần đây: Tiểu thuyết đương đại (Nxb
Quân đội nhân dân, 2005).
- Vũ Tuấn Anh trong bài viết Đời sống thể loại trong quá trình văn học
đương đại (Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, Nxb Khoa học xã hội,
2001) phác họa sự vận động của văn học Việt Nam trong khoảng hai mươi
năm cuối thế kỉ XX từ góc nhìn thể loại. Khẳng định sức mạnh nghệ thuật của
tiểu thuyết trong giai đoạn chuyển mình của đời sống xã hội, tác giả quan tâm
đến những biến đổi làm nên diện mạo mới của thể loại này. Đó là sự phong
phú về đề tài, sự đa dạng của các “chủng loại” tiểu thuyết, dấu ấn đậm nét của
cá tính sáng tạo, tư duy nghệ thuật với tính chất tổng hợp, đào sâu, tính đối
thoại gia tăng và những mô hình cấu trúc mới.
- Cho đến năm 2007, có thể nói, chuyên luận Văn xuôi Việt Nam 1975 –
1995 (Nxb Giáo dục) của Nguyễn Thị Bình là một công trình mang tính tổng
kết khái quát 20 năm văn học hậu chiến một cách đầy đủ và sâu sắc nhất. Tiền

thân của chuyên luận này chính là luận án Tiến sĩ Ngữ văn được tác giả bảo
vệ thành công từ cuối những năm 90. Lấy mốc dừng sự khảo sát là năm 1995,
tác giả một phần có được một khoảng thời gian chẵn năm vừa dừng lại ở một
chặng văn học Việt Nam bắt đầu có sự thay đổi hệ hình trong quan niệm văn
học, từ văn học hậu chiến sang văn học hội nhập. Trong khoảng mười năm
tiếp theo đó, tác giả cũng bổ sung vào phần phụ lục hai tiểu luận bước đầu

5
nhận diện văn học giai đoạn này. Vì vậy, xét đến thời điểm hiện tại, đây vẫn
là công trình nhận diện văn xuôi hậu chiến toàn diện hơn cả.
Khuất Quang Thụy là một người lính cầm bút xuất sắc, với nhiều tác
phẩm viết về đề tài chiến tranh. Tuy vậy, ông là người khiêm tốn, lặng lẽ, ít
xuất hiện hay đăng đàn trên các diễn đàn. Người ta thường mệnh danh ông là
"thợ lặn bậc bảy" bởi ông chỉ cặm cụi viết và rất hay "lẩn". Mấy năm gần đây,
đặc biệt là khi ông được giải thưởng của Hội Nhà văn, Giải thưởng Nhà nước
về văn học nghệ thuật, người ta bắt đầu chú ý nhiều đến ông. Đến nay, chưa
có một công trình nào nghiên cứu trực tiếp và riêng biệt về nghệ thuật tự sự
của tiểu thuyết Khuất Quang Thụy, có chăng chỉ là những đề cập gián tiếp
hoặc nghiên cứu từng tiểu thuyết của ông. Một số bài báo trên báo in, báo
mạng cũng đã viết về Khuất Quang Thụy cũng như các sáng tác của ông. Đặc
biệt, ngay sau khi tiểu thuyết Không phải trò đùa ra đời, trên báo Văn nghệ
đã có cuộc tọa đàm về tiểu thuyết này với sự tham gia của nhiều nhà nghiên
cứu, lý luận phê bình văn học, một số nhà văn, nhà thơ. Ngoài ra, trên tạp chí
Văn nghệ Quân đội từ năm 1984 đến nay có đến hàng chục bài viết của các
tác giả đề cập trực tiếp đến ba cuốn tiểu thuyết của Khuất Quang Thụy. Đáng
chú ý trong số này là các bài viết của Nguyễn Thanh Tú, Hồng Diệu, Từ Sơn,
Đinh Thanh Hương Hay một số những bài viết khai thác phương diện nội
dung trong những sáng tác của Khuất Quang Thụy. Ví dụ như bài Luận về
anh hùng về chiến thắng và đồng đội của tác giả Nguyễn Chí Hoan đăng trên
báo Văn nghệ số ra ngày 29-4-2006; nhà văn Khuất Quang Thùy từ Nhà hoà

hợp đến… Đối chiến của Dương Tử đăng trên website , hay
bài viết Chiến tranh dưới góc nhìn xã hội học của Khuất Quang Thụy của
Văn Chinh đăng trên website
Ngoài ra còn một số bài nghiên cứu, luận văn, khóa luận tốt nghiệp
cũng nghiên cứu về những khía cạnh khác nhau trong sáng tác của Khuất
Quang Thụy, mà chủ yếu về phương diện nội dung.



6
3. Đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đến nay, Khuất Quang Thụy đã sáng tác gần
chục tiểu thuyết và rất nhiều truyện ngắn, kịch. Luận văn lấy đối tượng
nghiên cứu là ba cuốn tiểu thuyết của Khuất Quang Thụy: Không phải trò
đùa, Góc tăm tối cuối cùng và Những bức tường lửa. Ngoài ra, chúng tôi
cũng nghiên cứu các sáng tác còn lại của Khuất Quang Thụy để so sánh, đối
chiếu và rút ra những nhận định.
3.2. Mục đích nghiên cứu:
- Chỉ ra vai trò của nghệ thuật tự sự đối với sự hình thành, phát triển và biến
đổi của thể loại tiểu thuyết.
- Nghiên cứu nghệ thuật tự sự qua các tiểu thuyết của Khuất Quang Thụy, để
từ đó thấy được dòng chảy, sự biến đổi về mặt hình thức nghệ thuật của tiểu
thuyết Việt Nam sau năm 1975.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Để thực hiện luận văn này, bên cạnh việc làm việc
trực tiếp với văn bản ba cuốn tiểu thuyết: Những bức tường lửa, Không phải
trò đùa, Góc tăm tối cuối cùng, chúng tôi đã tham khảo nhiều nguồn tài liệu,
từ các giáo trình, từ điển đến các bài nghiên cứu trên các báo, tạp chí, các
trang web do giảng viên hướng dẫn và cung cấp, cũng như tư liệu khác sưu
tập được trong quá trình nghiên cứu, triển khai đề tài.
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn góp phần làm rõ thêm về hệ

thống các tiểu thuyết nói riêng và tác phẩm văn học nói chung sau năm 1975
về đề tài chiến tranh, đặc biệt là những đổi mới về nghệ thuật tự sự trong tiểu
thuyết của Khuất Quang Thụy.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát, thống kê
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh văn học

7
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần nội dung của luận văn được triển
khai thành ba chương:
- Chương 1: Khái lược về nghệ thuật tự sự và hành trình sáng tác của Khuất
Quang Thụy
- Chương 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật và tổ chức cốt truyện trong tiểu
thuyết Khuất Quang Thụy
- Chương 3: Ngôn ngữ, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết
Khuất Quang Thụy

8
Chương 1
KHÁI LƯỢC VỀ NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG
TÁC CỦA KHUẤT QUANG THỤY
1.1. Khái lược về nghệ thuật tự sự
1.1.1 Về tự sự học
Tự sự học là ngành nghiên cứu còn non trẻ, định hình từ những năm 1960
– 1970 ở Pháp nhưng đã nhanh chóng vượt biên giới, trở thành một trong
những lĩnh vực học thuật được quan tâm phổ biến trên thế giới. Ở Việt Nam,
các công trình về tự sự học xuất hiện khá muộn và đến nay vẫn còn ở tình
trạng lẻ tẻ, nhưng bước đầu đã có thể cung cấp một số công cụ hữu hiệu cho

người nghiên cứu. GS Trần Đình Sử nhấn mạnh trong bài viết Tự sự học –
Một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng: “Lý thuyết tự sự có thể
coi như một bộ phận không thể thiếu của hành trang nghiên cứu văn học hôm
nay. Còn nói theo ngôn ngữ của Thomas Kuhn, thì đó là “một bộ phận cấu
thành của hệ hình lý luận hiện đại”. Tóm lại, trong nền lý luận văn học hiện
đại, vấn đề tự sự học nói chung và nghệ thuật tự sự nói riêng giữ một vai trò
quan trọng của nghiên cứu văn học.
Đến nay, mặc dù tự sự học đã có mặt ở Việt Nam cũng khá lâu nhưng các
nhà nghiên cứu vẫn chưa đưa ra được một định nghĩa chung nhất về nghệ
thuật tự sự, vẫn có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thuật ngữ “tự sự”. Có
ý kiến cho rằng tự sự và trần thuật là một; lại có ý kiến muốn nhìn nhận hai
vấn đề này theo hai phương diện khác nhau. TS Đỗ Hải Phong (ĐH Sư phạm
HN) trong bài viết Vấn đề người kể chuyện trong thi pháp tự sự hiện đại nhấn
mạnh rằng: “ Chúng tôi dịch thuật ngữ Naratology là “ trần thuật học” chứ
không phải là “tự sự học” vì thuật ngữ “tự sự đã được dùng để chỉ một trong
ba loại lớn của văn học (phân biệt với “kịch”, “trữ tình”). Như vậy ở đây “tự
sự” được coi như một thể loại văn học để khu biệt “trần thuật” – một phương
thức, hay một cách kể chuyện.

9
1.1.2 Nghệ thuật tự sự
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì “Tự sự là phương pháp tái hiện đời
sống bên cạnh hai phương thức khác là trữ tình và kịch”. Còn trần thuật được
coi là “Phương diện cơ bản của phương thức tự sự là việc giới thiệu, khái
quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo
cái nhìn của một người trần thuật nhất định”. Từ đó ta có thể thấy rằng, khái
niệm “trần thuật” được xác định một cách rõ ràng và cụ thể hơn. Tuy nhiên,
dù hiểu theo cách nào thì thực chất „tự sự học” hay “trần thuật học đều là cách
dịch từ thuật ngữ Naratalogie (tiếng Pháp), hay Naratology (tiếng Anh) –
nghĩa là lý thuyết kể chuyện. Ta có thể hiểu, tự sự là một phương thức tái hiện

lại hiện thực đời sống. Nghiên cứu nghệ thuật tự sự cũng có nghĩa là nghiên
cứu phương thức sáng tạo của tác giả dựa trên những chất liệu đời sống.
Chính vì thế có thể hiểu hai khái niệm tự sự và trần thuật là hai khái niệm
đồng chất với nhau. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi muốn tìm hiểu
về “nghệ thuật tự sự” hay cũng chính là “ nghệ thuật trần thuật” của tác giả
Khuất Quang Thụy trong các cuốn tiểu thuyết: Những bức tường lửa, Không
phải trò đùa, và Góc tăm tối cuối cùng. Nhìn nhận các tác phẩm này dưới
góc độ tự sự học, chúng tôi hi vọng sẽ gợi mở được những vấn đề có giá trị
trong các tác phẩm giàu ý nghĩa này.
Chúng ta đều biết, một trong những mốc đánh dấu quá trình phát triển của
tiểu thuyết, về mặt thể loại so với các loại hình văn học khác chính là ở
“người tự sự”. Người tự sự đảm nhiệm công việc thuật lại câu chuyện. Người
tự sự có vai trò trong dẫn dắt câu chuyện và giọng điệu của tác phẩm, và trở
thành một nhân vật đặc biệt của tác phẩm đó. Về mối quan hệ giữa người tự
sự với tác giả, có khi chỉ là một người, cũng có khi là hai người khác nhau; có
khi là một nhân vật trong câu chuyện, có khi là một kẻ đứng ngoài câu chuyện
để kể nó với độc giả.

10
Ngôn ngữ tự sự là một khía cạnh cực kỳ quan trọng của nghệ thuật tự sự.
Nó được ví như “Cái áo tư tưởng của nhà văn” (Nguyên Ngọc) hay nói như
nhà nghiên cứu TS Nguyễn Thị Bình: “Ngôn ngữ mang nhãn quan hiện thực
– đời thực” (Đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu – một thành công đáng chú ý
của văn xuôi sau 1975). Ngôn ngữ không chỉ là công cụ để nhà văn tái tạo
hiện thực mà còn là nội dung, là cơ sở đầu tiên để độc giả đánh giá, phân tích
tác phẩm. Ngôn ngữ có thể là ngôn ngữ khái lược, ngôn ngữ miêu tả trường
cảnh. Thông qua ngôn ngữ, nét sáng tạo và phong cách của mỗi nhà văn được
thể hiện rõ nét. Vì thế tìm hiểu nghệ thuật tự sự ta không thể bỏ qua khía cạnh
ngôn ngữ tự sự.
Một yếu tố quan trọng khác của nghệ thuật tự sự là giọng điệu và góc nhìn

hay điểm nhìn tự sự. Khi có nhiều giọng điệu, tác phẩm sẽ là tác phẩm “đa
thanh”. Sự chuyển đổi giọng điệu cũng đem lại những thay đổi mới mẻ trong
cách kể chuyện. Đây là một phương thức quan trọng để bộc lộ tư tưởng.
Nội dung nghệ thuật tự sự đã được nhiều tác giả đề cập đến khá rõ ràng.
Diệp Tú Sơn chia các khía cạnh của nghệ thuật tự sự thành: người tự sự, góc
nhìn tự sự, và phương thức tự sự. Tác giả Manfred Jahn trong một công trình
nghiên cứu công bố ngày 28/7/1993 đăng tải trên trang web Uni-koeln.de lại
đi sâu vào làm rõ nghệ thuật tự sự ở các khía cạnh: cấu trúc trần thuật; điểm
nhìn; tình huống trần thuật; bối cảnh và không gian hư cấu; tính cách và sự
mô tả tính cách; diễn ngôn hay cách sử dụng lời nói.
Sự nhận thức về tự sự nói chung và các khía cạnh của nghệ thuật tự sự nói
riêng đã được hoàn thiện dần theo thời gian cũng tương tự như chính bản thân
của nghệ thuật tự sự được hiện diện trong chiều dài phát triển của thể loại.
Như chúng ta đã biết, trong các câu chuyện cổ tích hay thần thoại của văn học
dân gian, nghệ thuật tự sự chưa được hình thành một cách rõ nét. Người kể
chuyện xa rời nội dung của câu chuyện kể. Những người kể chuyện trong văn
học dân gian hầu hết là những người biết tuốt, dẫn dắt người đọc tham gia vào

11
câu chuyện và chưa tạo được một bản sắc riêng, một phong cách riêng rõ
ràng. Đến văn học hiện đại, do ý thức được tầm quan trọng của giọng kể
(giọng kể là cảm nhận đầu tiên và cũng là ấn tượng cuối cùng, dư vị cuối cùng
của người đọc truyện) nên mỗi nhà văn đều tìm cách khẳng định mình bằng
một phong cách riêng thông qua một giọng kể riêng. Với nghệ thuật tự sự,
giọng điệu là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu, nó không chỉ phản
ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả mà
còn có tác dụng quyết định trong việc tạo sức thu hút với người đọc.
Nghệ thuật tự sự còn bao hàm rất nhiều vấn đề như nhân xưng của tự sự:
mối quan hệ giữa người tự sự với nhân vật, tác giả, về góc độ tự sự, về
phương thức tự sự, thời gian – không gian tự sự. Về không gian và thời gian

tư sự, nhiều nhà nghiên cứu nhận định đây là một trong những yếu tố quan
trọng cấu thành một tác phẩm tự sự. Engles trong tác phẩm Chống During đã
có một nhận định rất thú vị về tầm quan trọng của không gian và thời gian:
“Hình thức cơ bản của mọi tồn tại là thời gian và không gian, những tác phẩm
ở ngoài thời gian, tồn tại ở ngoài không gian đều là hoang đường”. Không
gian và thời gian trong tác phẩm là địa điểm và thời điểm diễn ra câu chuyện,
trong đó các nhân vật hiện lên và bộc lộ thân phận, cá tính của mình. Tùy theo
sự sáng tạo của nhà văn mà người ta có thể chia thành thời gian khách quan,
thời gian tâm lý. Hoặc phân tách thành không gian hiện thực, không gian ảo,
không gian thiên nhiên. Đi sâu vào mối quan hệ thời gian nghệ thuật, không
gian nghệ thuật với nhân vật, Diệp Tú Sơn nhận xét: “Mỗi nhân vật trong tiểu
thuyết đều là sản phẩm của thời gian, không gian riêng biệt”. Nếu nói rằng
nhân vật là đứa con cưng của tiểu thuyết thì thời gian, không gian chính là
người mẹ lớn của nhân vật. Mỗi nhà văn trong sáng tác của mình lại tâm đắc
với một không gian riêng. Ta có thể nhận ra không gian đặc trưng quen thuộc
của Nguyên Ngọc ở vùng Tây Nguyên với Đất nước đứng lên, Rừng xà nu,
Mạc Ngôn gắn bó với không gian vùng Cao Mật qua Báu vật của đời; Đàn

12
hương hình, hay với Khuất Quang Thụy ta thấy ông gắn bó với không gian
vùng núi rừng nơi có thể diễn ra những trận đánh ác liệt, hay cũng là nơi hậu
phương vững chắc.
Một khía cạnh nữa của nghệ thuật tự sự là phương thức tự sự hay cách
thức tự sự. Mỗi nhà văn bằng tài năng của mình đều tự đi tìm một phong cách
riêng, một phương thức tự sự của riêng mình.
Trên đây chúng tôi vừa trình bày những khái quát nhất định về những khía
cạnh được coi là nội dung cơ bản của nghệ thuật tự sự, mỗi khía cạnh lại
mang những giá trị và ý nghĩa riêng. Ở mỗi loại hình khác nhau, những yếu tố
ấy lại mang những đặc điểm riêng biệt. Trong tiểu thuyết hay truyện ngắn,
nghệ thuật tự sự đều gồm những yếu tố chung như trên nhưng với truyện

ngắn, do đặc trưng thể loại nên yêu cầu về giọng kể, nhịp điệu dồn nén hơn;
ngôn ngữ phải ngắn gọn; không gian – thời gian tự sự cũng không mở rộng
như tiểu thuyết. Ngược lại, tiểu thuyết thường tái hiện hiện thực không gian
rộng, thời gian dài, hiện thực cũng phong phú hơn với cuộc đời của nhiều
nhân vật. Chính nhờ nghệ thuật tự sự độc đáo mà nhiều tác phẩm đã có sức lôi
cuốn với người đọc, tạo nên phong cách không thể xóa nhòa của nhà văn.
Nghệ thuật tự sự luôn gắn với đề tài và chủ đề của tác phẩm. Đề tài và chủ
đề là những khái niệm chủ yếu thể hiện phương diện khách quan của nội dung
tác phẩm văn học. Đọc bất cứ tác phẩm nào chúng ta cũng bắt gặp những
cảnh, những người, những tâm lý sống động.
Ðề tài là phạm vi hiện thực mà nhà văn chọn lựa và miêu tả, thể hiện tạo
thành chất liệu của thế giới hình tượng trong tác phẩm đồng thời là cơ sở để
từ đó nhà văn đặt ra những vấn đề mà mình quan tâm. Có thể nói, đề tài là
khái niệm trung gian giữa thế giới hiện thực được thẩm mĩ hóa trong tác phẩm
và bản thân đời sống. Người ta có thể xác định đề tài trên hai phương diện:
bên ngoài và bên trong.

13
Nói đến phương diện bên ngoài là nói đến sự liên hệ thuần túy đến phạm
vi hiện thực mà tác phẩm phản ánh. Ở đây, sự xác định đề tài thường dựa trên
cơ sở các phạm trù lịch sử - xã hội. Có thể nói đến đề tài chống Pháp, chống
Mĩ, đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, đề tài công nhân, nông dân, bộ đội
Tuy nhiên, để tránh sự đồng nhất đề tài và đối tượng phản ánh và thấy
được tính chất của phạm vi được phản ánh, cần phải đi vào phương diện bên
trong của đề tài. Ðó là cuộc sống nào, con người nào được thể hiện trong tác
phẩm. Nói cách khác, đó chính là tính chất của đề tài bên ngoài. Trong trường
hợp này, đề tài chính là vấn đề được thể hiện trong tác phẩm và trong nhiều
trường hợp nó trùng khít với chủ đề. Chẳng hạn, Sống mòn của Nam Cao viết
về người trí thức tiểu tư sản nhưng đó là người trí thức tiểu tư sản quẩn
quanh, bế tắc, mòn mỏi. Tiếng hát sông Hương của Tố Hữu viết về người

con gái giang hồ với cuộc sống đau đớn, tủi nhục và ước mơ tốt đẹp của họ
trong cuộc sống cũ
Trong tác phẩm văn học, thường không phải chỉ có một đề tài mà có rất
nhiều đề tài liên quan nhau, bổ sung cho nhau để tạo thành một hệ thống đề
tài. Pospelôp cho rằng: "Hệ đề tài là toàn bộ đề tài của tác phẩm hoặc sáng
tác". Chẳng hạn, Truyện Kiều của Nguyễn Du vừa có đề tài về tình yêu, về
hạnh phúc lứa đôi, về các quan mặt sắt đen sì, về nông dân khởi nghĩa, về
cuộc đời của các cô gái lầu xanh Các đề tài đó gắn bó chặt chẽ với số phận
bi thảm của nàng Kiều. Trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, bên cạnh đề tài về
cuộc sống bi thảm của người nông dân còn có các đề tài về cuộc sống của bọn
quan lại tham lam, ích kỉ, về cuộc đời của các em bé nghèo khổ Như vậy,
khi nói đến đề tài của một tác phẩm hoặc của văn học nói chung, thực chất
không phải chỉ nói một đề tài mà là cả một hệ thống đề tài.
Chủ đề là vấn đề chủ yếu, trung tâm, là phương diện chính yếu của đề tài.
Nói cách khác, chủ đề là những vấn đề được nhà văn tập trung soi rọi, tô đậm,

14
nêu lên trong tác phẩm mà nhà văn cho là quan trọng nhất. Có thể nêu lên một
số chủ đề của các tác phẩm:
Tắt đèn của Ngô Tất Tố tập trung phản ánh số phận bi thảm của người
nông dân do chế độ sưu thuế, sự bóc lột tàn khốc trong xã hội thực dân nửa
phong kiến. Chí Phèo của Nam Cao lại tập trung tô đậm vấn đề tha hóa, biến
chất của một bộ phận nông dân và ước mơ làm người lương thiện của họ.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du nêu bật lên số phận bi kịch của người phụ
nữ, những ước mơ vươn tới hạnh phúc, vấn đề đấu tranh để thực hiện tự do và
công lí. Qua Vợ nhặt, Kim Lân đã phản ánh cuộc sống khốn khổ của nhân
dân ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 và tình cảm hướng về cách mạng
của họ đồng thời nêu lên một vấn đề có ý nghĩa nhân bản sâu sắc: đó là cái
tình trong cuộc sống đời thường của những người lao động trong một hoàn
cảnh gần như hoàn toàn bế tắc. Trong Mùa lạc, Nguyễn Khải quan tâm đến

sự thay đổi số phận của những con người đã từng chịu nhiều bất hạnh trong xã hội
cũ, nay đã tìm lại được niềm vui, hạnh phúc và chỗ đứng trong xã hội mới.
Trong một tác phẩm, thường không phải chỉ có một chủ đề duy nhất mà có
nhiều chủ đề gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau tạo thành một hệ thống chủ
đề (Pospelôp gọi là hệ vấn đề). Trong hệ thống chủ đề, có thể nổi lên vài chủ
đề có ý nghĩa trung tâm, quán xuyến toàn bộ tác phẩm, đó là chủ đề chính.
Bên cạnh đó, có những chủ đề có ý nghĩa bộ phận, góp phần bổ sung, làm nổi
bật chủ đề chính, được gọi là chủ đề phụ. Trong một tác phẩm, các chủ đề
không có giá trị ngang nhau nên việc xác định đúng đắn chủ đề chính, chủ đề
phụ sẽ góp phần quan trọng trong việc lí giải ý nghĩa của tác phẩm.
Khác với tác phẩm trữ tình, hiện thực được tái hiện qua những cảm xúc,
tâm trạng, ý nghĩ của con người, được thể hiện trực tiếp qua những lời lẽ bộc
bạch, thổ lộ, tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó –
qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó.


15
1.2. Sáng tác của Khuất Quang Thụy
1.2.1. Hành trình sáng tác
Nhà văn Khuất Quang Thuỵ (các bút danh khác: Hưng Long, Vân Huyền)
sinh ngày 12 tháng 1 năm 1950 tại làng Thanh Phần, xã Phúc Hoà, huyện
Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây. Hiện ở Hà Nội, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1982).
Xuất thân trong một gia đình nông dân, tốt nghiệp phổ thông trung học ở
quê, Khuất Quang Thuỵ nhập ngũ, từng tham gia chiến đấu trong đội hình sư
đoàn 320 (đại đoàn Đồng Bằng anh hùng) tại các mặt trận Quảng Trị, Tây
Nguyên những năm chống Mỹ cứu nước. Năm 1976 được điều về trại sáng
tác văn học của Tổng cục Chính trị và sau đó học Trường Viết văn Nguyễn
Du khoá I. Tốt nghiệp, nhà văn về làm biên tập viên rồi Trưởng ban văn xuôi
tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Khuất Quang Thụy đã từng là người lính

chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên ác liệt trong những năm kháng chiến
chống Mỹ. Nhờ trải nghiệm chiến trường và có năng khiếu văn chương, cộng
với sự rèn dũa ngòi bút của mình, anh được xem là cái "mỏ" vô tận về chiến
tranh, được đánh giá là một trong những nhà văn viết về chiến tranh xuất sắc.
Năm 1984, Khuất Quang Thụy chuyển về công tác tại Tạp chí Văn nghệ
Quân đội. Từ đó đến nay, anh tiếp tục sáng tác và tham gia công tác quản lý
(là Phó tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội). Năm 2009, anh nghỉ hưu
song sức lực và nhiệt huyết vẫn còn mạnh, cộng với độ chín của tài năng, anh
tiếp tục sáng tác và ấp ủ những dự định lớn. Có thể tóm tắt các giải thưởng
cũng như các tác phẩm Khuất Quang Thụy sáng tác ở các thời điểm như sau:
Giải nhất cuộc thi truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1984.
Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng 1984 -1989 với tác phẩm Không phải
trò đùa. Tiểu thuyết này đã được tặng giải tác phẩm xuất sắc ở thể loại văn
xuôi, cùng với tiểu thuyết Ông cố vấn (Hữu Mai), Chim én bay (Nguyễn Trí
Huân) và tập truyện Gió từ miền cát của Xuân Thiều.

16
Năm 2005, tiểu thuyết Những bức tường lửa của Khuất Quang Thụy
cũng đã đạt giải A giải thưởng 5 năm của Bộ Quốc phòng. Ngay sau đó, năm
2006, tiểu thuyết này đã được tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam. Ghi nhận
những đóng góp của Khuất Quang Thụy cho nền văn học nghệ thuật nước nhà,
ông đã được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Về các tác phẩm của Khuất Quang Thụy (bao gồm cả tiểu thuyết, truyện
ngắn, kịch, kịch bản phim):
- Trong cơn gió lốc (Tiểu thuyết, 1980)
- Trước ngưỡng cửa bình minh (Tiểu thuyết, 1985)
- Không phải trò đùa (Tiểu thuyết, 1988)
- Giữa ba ngôi chùa (Tiểu thuyết, 1989)
- Góc tăm tối cuối cùng (Tiểu thuyết, 1989)
- Người ở bến Phù Vân (Tập truyện, 1985)

- Thềm nắng (Tập truyện, 1985)
- Người đẹp xứ Đoài (Tiểu thuyết, 1991)
- Nước mắt gỗ (Tập truyện, 1986)
- Những bức tường lửa (Tiểu thuyết, 2004)
- Đất và người (kịch bản phim, 2002)
- Đối chiến (tiểu thuyết, 2010)
Có thể nhận định chắc chắn rằng: hầu hết các sáng tác của Khuất
Quang Thụy đều tập trung vào hai đề tài lớn là chiến tranh cách mạng và cuộc
sống của con người hôm nay, trong đó hình tượng người lính trong và sau
chiến tranh được khắc họa đậm nét ở nhiều góc độ khác nhau. Các tiểu thuyết
Trong cơn gió lốc, Những bức tường lửa, Đối chiến được đánh giá là những
tiểu thuyết sử thi xuất sắc về cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của toàn
dân tộc. Trong cơn gió lốc lấy cảm hứng từ chiến thắng của chiến dịch Tây
Nguyên với “trung đội gió lốc” của Mánh thuộc tiểu đoàn do Nguyên-một
hình mẫu người lính lý tưởng–làm tiểu đoàn trưởng. Một sư đoàn chủ lực

17
trong hệ thống quân đoàn tham gia chiến dịch Tây Nguyên đã được phác họa
cả ở quá trình vận động di chuyển cũng như đánh địch. Bằng việc tạo ra sự đa
dạng về điểm nhìn và người kể chuyện (tác giả, Mánh, sử dụng nhật ký chiến
trường của Mánh), Trong cơn gió lốc đã đem lại góc nhìn đa diện về chiến
tranh, hiện thực cuộc chiến hiện lên chân thực và sống động. Những bức
tường lửa ghi nhận sự đổi mới mạnh mẽ trong việc phản ánh về chiến tranh
cũng như xây dựng hình tượng người lính. Khác với tiểu thuyết sử thi giai
đoạn 1945-1975, tiểu thuyết Khuất Quang Thụy đã xây dựng kiểu nhân vật
tập thể và các nhân vật cá nhân khách quan và chân thực hơn. Bên cạnh
những thành tích, chiến công, ưu điểm, các nhân vật này cũng có những sai
lầm, khuyết điểm nhất định. Người lính có thể anh hùng trong chiến trận
nhưng lại “khốn nạn” ở ngoài đời thường (như đánh giá của chính ủy Lương
Xuân Báo về Hùng Phong). Với hệ thống người kể chuyện và việc sử dụng

ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ gần gũi với đời sống, Khuất Quang Thụy đã
đem đến cho tiểu thuyết sử thi một diện mạo mới, một cách tiếp cận gần gũi
và hiệu quả từ người đọc. Với tiểu thuyết Đối chiến, chúng ta lại thấy được
chiến tranh từ góc nhìn là những người lính bên phía địch, chắc chắn hiện
thực cuộc chiến và những nhân vật sẽ được nhìn nhận với những điều mới mẻ
và khác biệt hấp dẫn. Trong khi đó, tiểu thuyết Không phải trò đùa phản ánh
một thời kỳ mà toàn dân tộc cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ lớn:
giải quyết các vấn đề sau chiến tranh chống Mỹ và tham gia chiến tranh biên
giới Tây Nam đánh đuổi bọn diệt chủng Pôn Pốt. Bằng việc xây dựng kết cấu
song tuyến nhân vật, tác giả đã đưa người đọc cùng hành trình với Tuấn và
Tình, hai người lính trở về sau chiến tranh chống Mỹ giờ lại thực hiện hai
nhiệm vụ mới. Trong khi Tuấn trở lại đơn vị cũ để tham gia các trận đánh thì
Tình lại trở về quê sau đó cũng tìm đến đơn vị cũ để hoàn tất thủ tục công
nhận liệt sỹ cho đồng đội mình là Thái. Tiểu thuyết Trước ngưỡng cửa bình
minh và vở kịch nói Chuyển trạng thái cũng là những tác phẩm viết về chiến

18
tranh xuất sắc của Khuất Quang Thụy, ở đó chiến tranh hiện lên trong suy
nghĩ và hành động của nhiều loại nhân vật, nhiều tình huống và các sự kiện
khác nhau.
Ở các tập truyện ngắn, trên từng chặng đường sáng tác của mình, Khuất
Quang Thụy đã phản ánh sâu sắc cuộc sống người lính sau chiến tranh đồng
thời với nó là các vấn đề của xã hội và thân phận con người. Trong truyện
ngắn cùng tên tập truyện Người ở bến Phù Vân, Sinh là một người lính tham
gia chiến tranh chống Mỹ và sau đó là chiến tranh biên giới Tây Nam, anh
gặp rất nhiều gian nan trong tình yêu với Vân, cuối cùng vượt qua bao thử
thách họ cũng trở thành vợ chồng. Thảo trong Sau mỗi nụ cười, một người
lính trở về sau chiến tranh, kết duyên cùng Vân nhưng họ gặp bất hạnh khi
Thảo không thể có con nữa. Tưởng chừng hạnh phúc của hai người rồi sẽ đến
hồi tan vỡ, không gì cứu vãn nổi thì đến phút cuối một giải pháp toàn vẹn đã

được đặt ra. Khuất Quang Thụy xây dựng cốt truyện là đêm trước ngày Thảo
và Vân ra tòa để ly dị, hai vợ chồng thổn thức bên nhau, họ vẫn còn yêu nhau
lắm nhưng đành phải cách xa. Thế rồi sau một đêm thức trắng, sáng sớm Vân
đã chợt nảy ra ý tưởng “xin một đứa con nuôi” và được Thảo chấp nhận.
Hạnh phúc đã đến với họ và những người thân, ngày đứa trẻ được đưa về nhà:
“Tối hôm đó nhà Vân đông nghịt người đến chơi. Ông bố chồng Vân bỗng vui vẻ
hẳn lên, cười nói rang rang. Bà con hàng xóm kéo tới đầy nhà chúc mừng ông, chúc
mừng vợ chồng Thảo” [30, tr. 116].
Những vấn đề của xã hội cũng được phản ánh rõ nét trong các tập
truyện của Khuất Quang Thụy. Đó là nhân vật Vân trong Người ở bến Phù
Vân đứng trước nhiều khó khăn, cô “đang phải chiến đấu vất vả, căng thẳng
để bảo vệ sự thật, chống lại những kẻ lợi dụng chức quyền để chèn ép kẻ
khác, tham ô, móc ngoặc, ăn hối lộ” [30, tr. 66]. Đó còn là chuyện về các vấn
đề của nông thôn sau chiến tranh, từ chuyện sản xuất nông nghiệp, phát triển
kinh tế đến xây dựng đời sống văn hóa. Tập truyện Nước mắt gỗ thì đề cập

19
trực tiếp đến vấn đề sinh nhai của con người, đứng trước những khó khăn của
cuộc sống, con người dễ sa ngã và vi phạm pháp luật. Ông Chiến trong Lối rẽ
khi nhất quyết cứ phải lo cho vợ một cái máy bơm nước đã định làm vài
chuyến buôn phạm pháp, nhưng cuối cùng thì ông ngộ ra: “Thôi đi về! Chẳng
có máy bơm thì mẹ con nhà nó tát bằng gàu cũng chẳng sao. Chứ… thằng này
không thể… mà muốn có máy bơm cũng có. Vườn táo đấy… Rồi bán cha nó
cái đồng hồ quả lắc đi. Thiếu nữa thì sang cậu Khoái bảo ứng trước cho vài ba
nghìn, việc đếch gì phải…” [31, tr. 166-167]. Những vấn đề của nông thôn,
các quan hệ phức tạp giữa các dòng họ, đoàn thể chính quyền đã được nhà
văn Nguyễn Khắc Trường thể hiện rất thành công trong tiểu thuyết Mảnh đất
lắm người nhiều ma. Mảnh đất lắm người nhiều ma, một cái nhìn mới về
bức tranh đất nước trong thời chiến và hậu chiến, với gánh nặng không phải
chỉ là chiến tranh, về phía khách quan; mà còn là những lầm lạc của con

người, trong một bối cảnh có quá nhiều biến động và thử thách, mà tất cả
những ai “do lịch sử để lại” đã không đủ tầm và sức để vượt qua. Đó là thử
thách của phát động quần chúng cải cách ruộng đất, phong trào hợp tác hoá,
việc phá đình - chùa, và của những nền nếp tâm lý, ý thức vẫn còn nguyên sự
hủ lậu, chưa thể nào thay đổi được trong một xã hội nông nghiệp manh mún,
lạc hậu, và tâm lý làng xã lưu cữu ngàn đời. Một lần nữa Khuất Quang Thụy
đã thành công khi chuyển thể tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma
thành kịch bản phim Đất và người. Bộ phim đã đem lại ấn tượng sâu sắc cho
người xem, góp phần vào sự phát triển của thể loại phim truyền hình mấy năm
gần đây.
1.2.2. Quan niệm sáng tác
Trong bài báo Nhà văn Khuất Quang Thuỵ: Cày nốt những đường cày
cuối vụ (trang báo mạng Công an nhân dân, 3/9/2012) Khuất Quang Thụy
tâm sự trong sự đau đáu, day dứt nhớ thương: “Tôi mất đúng mười năm để
hoàn tất cuộc hành trình từ Sơn Tây vào Sài Gòn. Còn cuộc hành trình đời

20
lính thì còn lâu mới xong. Mà có lẽ thế hệ chúng tôi thì mãi mãi cho đến khi
về với đất vẫn chưa thể nói là đã làm xong cuộc hành trình chiến tranh, bởi
chúng tôi đã trải qua một thời kỳ, một cuộc chiến quá khốc liệt, cả dân tộc đã
dồn hết toàn lực vào đó, mỗi con người chúng tôi dồn hết tâm sức và trí tuệ
vào đó nên thoát ra khỏi nó không phải là chuyện dễ”.
Đúng như nhà văn tâm sự, chiến tranh đã lùi xa gần bốn mươi năm.
Bốn mươi năm đủ để một thế hệ trưởng thành, vậy mà thế hệ những nhà văn
như Khuất Quang Thụy, Chu Lai, Bảo Ninh…vẫn chưa thể ra khỏi "từ
trường" của cuộc chiến. Và hình như chính nhờ cái "từ trường" của cuộc
chiến tranh đang còn rất mạnh nên mỗi khi cầm bút viết thì cái “từ trường” đó
lại hút những trang văn về lại với thời lửa đạn xưa. Mỗi nhà văn đều có một
thế mạnh, một vùng đất, một đề tài để sáng tác. Với Khuất Quang Thụy có lẽ
đề tài chính của ông vẫn là sáng tác về người lính và chiến tranh cách mạng,

người lính thời hậu chiến.
Là một nhà văn quân đội, Khuất Quang Thụy có cái nhìn chiến tranh
nói riêng và hiện thực cuộc sống hậu chiến tranh từ nhiều phía, và nhiều góc
độ khác nhau. Bên cạnh niềm vui chiến thắng còn có những số phận, những bi
kịch – những nạn nhân của chiến tranh. Khuất Quang Thụy như một họa sỹ
cần mẫn vẽ lên cho độc giả chiêm ngưỡng những bức tranh muôn màu về đời
sống con người trong chiến tranh và âm vang của nó. Những bức tranh của
một thời kì lịch sử không thể quên bởi nó chứa những hồi ức đan chéo nhau
của niềm vui, nỗi buồn và cả những bất hạnh. Trong tiểu thuyết của mình,
Khuất Quang Thụy nhìn chiến tranh đúng với bản chất của nó, với sự tàn phá,
chết chóc, với những tổn thất to lớn không chỉ của một số người mà của cả
một thế hệ, của cả một dân tộc. Bộ mặt khốc liệt của chiến tranh đặc biệt cụ
thể với những bà mẹ mất con, người vợ mất chồng, những đứa trẻ sớm mồ côi
cha mẹ. Ở chiến trường, người lính coi sự hi sinh của mình là bình thường
nhưng chính những người thân của họ ở hậu phương phải chịu đựng hậu quả

21
của sự hi sinh ấy. Những tiểu thuyết viết về chiến tranh trong chiến tranh
thường tránh nói đến những tổn thất và nỗi ghê sợ chiến tranh. Nhưng ngay
sau khi chiến tranh kết thúc, khi viết vể chiến tranh đã bắt đầu có sự dồn nén
làm bật ra những vấn đề nổi cộm về số phận của con người. Mối quan hệ và
sự tác động qua lại phức tạp giữa hiện thực chiến tranh và con người ngày
càng được nhà văn quan tâm chú ý. Tác động đó còn kéo dài sau chiến tranh –
khi họ có thể cởi bỏ chiếc áo lính trận để khoác lên mình chiếc áo đời thường,
đó là cuộc hành trình nhận thức lại cuộc sống và nhận thức lại chính mình.
Khuất Quang Thụy luôn nhận thấy trong tâm hồn một con người có cả mặt tốt
và mặt xấu, cái thiên lương và cái xấu, mặt tối và mặt sáng chỉ có điều ở
người này hay người khác phần nào nó lấn át hơn mà thôi. Đôi khi, có những
thời điểm khác nhau trong cuộc đời phần này hay phần kia biến đổi khó phân
định.Vì thế những phẩm chất tốt đẹp được hình thành trong chiến đấu không

thể bền vững trong điều kiện thử thách mới. Trong tâm hồn một con người
luôn có những biến dạng mới – những biến dạng ấy tốt hay xấu đi phụ thuộc
vào nghị lực và sự kiên định ở mỗi người.
Tiểu thuyết của Khuất Quang Thụy một mặt tái hiện lại hiện thực chiến
tranh khốc liệt với hình tượng những người lính - thế hệ thanh niên một thời,
thế hệ những người sẵn sàng hy sinh không toan tính, một mặt lại thể hiện âm
vang của chiến tranh với hình tượng những người lính trong thời bình. Chiến
tranh đã là câu chuyện của quá khứ nhưng những thắng lợi và mất mát, những
diễn biến phức tạp trong đời sống tâm hồn mỗi con người vẫn là một ám ảnh
chưa xa. Âm vang của chiến tranh đi vào đời sống và số phận của cả những
người trực tiếp chiến đấu cũng như không trực tiếp. Là người trong cuộc hôm
nay, vui và đau buồn với những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống hôm nay,
nhiều nhà văn đã hướng sự tìm tòi vào việc phát hiện những kinh nghiệm,
những bài học nảy sinh từ mối liên hệ hai chiều đó. “Chiến tranh đã đưa đẩy
họ tới những nẻo đường bất ngờ, ở đấy có niềm vui, nỗi buồn, có tình yêu

×