Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Nông thôn thời kỳ đổi mới trong tiểu thuyết Thần thánh và Bươm bướm của Đỗ Minh Tuấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 129 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHAN THỊ NGỌC HÀ



NÔNG THÔN THỜI KỲ ĐỔI MỚI TRONG
TIỂU THUYẾT THẦN THÁNH VÀ BƯƠM BƯỚM
CỦA ĐỖ MINH TUẤN



LUẬN VĂN THẠC SỸ


Chuyên ngành: Văn học Việt Nam







Hà Nội – 2013



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHAN THỊ NGỌC HÀ


NÔNG THÔN THỜI KỲ ĐỔI MỚI TRONG
TIỂU THUYẾT THẦN THÁNH VÀ BƯƠM BƯỚM
CỦA ĐỖ MINH TUẤN



Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34



Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. TÔN PHƯƠNG LAN





Hà Nội - 2013



4
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1.Lý do chọn đề tài 1
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3.Mục đích nghiên cứu 13
4.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 10
5.Phƣơng pháp nghiên cứu 14
6.Cấu trúc đề tài 15
PHẦN NỘI DUNG 16
CHƢƠNG 1: TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN TRONG VĂN XUÔI
THỜI KÌ ĐỔI MỚI 16
1. 1.Khái quát về thể loại tiểu thuyết và những đổi mới trong quan niệm về
hiện thực và con ngƣời 16
1.1.1.Khái niệm và đặc trƣng thể loại 16
1.1.2.Vấn đề đổi mới về quan niệm hiện thực và con ngƣời trong tiểu thuyết
sau 1975 21
1.2.Tiểu thuyết viết về nông thôn trong văn xuôi đƣơng đại 29
1.2.1.Tiểu thuyết viết về nông thôn đặt trong bối cảnh chung của tiểu thuyết
đổi mới 29
1.2.2.Một số tiểu thuyết viết về đề tài nông thôn trong văn học đổi mới 38
1.3.Đỗ Minh Tuấn và tiểu thuyết Thần thánh và bƣơm bƣớm 46
1.3.1.Tác giả Đỗ Minh Tuấn 46
1.3.2.Tác phẩm Thần thánh và bƣơm bƣớm 47
CHƢƠNG 2: NÔNG THÔN VÀ NGƢỜI NÔNG DÂN TRONG TIỂU
THUYẾT THẦN THÁNH VÀ BƢƠM BƢỚM 51
2.1. Hiện thực cuộc sống nông thôn qua Thần thánh và bƣơm bƣớm 51
2.1.1. Một nông thôn đầy biến động trƣớc thời kì hội nhập kinh tế thị trƣờng . 51



5
2.1.2. Đồng tiền - nguồn sức mạnh vạn năng thao túng nhiều mặt giá trị văn
hoá, đạo đức 61
2.2. Hình ảnh ngƣời nông dân trong Thần thánh và bƣơm bƣớm 69
2.2.1. Ngƣời nông dân trong các mối quan hệ 70
2.2.2. Con ngƣời với đầy đủ những mặt tốt và mặt xấu 78
2.2.3. Ngƣời nông dân với khát vọng đổi đời ngây thơ và mù quáng 89
CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN BỨC TRANH NÔNG THÔN
TRONG TIỂU THUYẾT THẦN THÁNH VÀ BƢƠM BƢỚM 98
3.1. Kết cấu tiểu thuyết Thần thánh và bƣơm bƣớm 98
3.1.1. Kết cấu trần thuật 98
3.1.1.Kết cấu hình tƣợng 100
3.2. Sử dụng bút pháp hiện thực huyền ảo 104
3.2.1. Trong việc thể hiện không gian – thời gian nghệ thuật 105
3.2.2.Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật 105
3.3. Giọng điệu nghệ thuật 118
3.3.1. Giọng giễu nhại – xót xa 119
3.3.1. Giọng chia sẻ - cảm thông 127
KẾT LUẬN 128
TÀI LIỆU THAM KHẢO











1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nói tới tầm quan trọng của đề tài nông thôn trong văn học, nhà thơ
Hữu Thỉnh đã nhấn mạnh: “ Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, đặc biệt từ
thời kì đổi mới đến nay, mảng văn học đề tài nông nghiệp, nông dân, nông
thôn đã tạo ra đƣợc những giá trị to lớn, chiếm giữ một vị trí quan trọng trong
kho tàng đồ sộ, phong phú và đa dạng của nền văn học Việt Nam”[84]. Thật
vậy, từ xƣa tới nay, mảng đề tài viết về nông thôn luôn chiếm một vị trí khá
quan trọng trong nền văn học Việt Nam. Ở mỗi một giai đoạn lịch sử, hiện
thực nông thôn lại đặt ra những vấn đề mang tính thời đại và đặt ra những yêu
cầu cấp thiết cần đƣợc giải quyết đối với các nhà văn chuyên viết về đề tài
này. Các nhà văn luôn tìm ra hƣớng tiếp cận thích hợp hiện thực, phản ánh
đời sống, tâm tƣ, nguyện vọng của ngƣời nông dân và từ đó độc giả nhận ra
quan niệm, cách nhìn của chính nhà văn về hiện thực và con ngƣời cùng với
những vấn đề đặt ra trong đời sống nông thôn và ngƣời nông dân của giai
đoạn ấy.
1.2. Từ sau đổi mới hoà trong dòng chảy của tiểu thuyết nói riêng, của
văn học nói chung, tiểu thuyết viết về nông thôn đã có những chuyển đổi quan
trọng về tƣ duy nghệ thuật, đạt đƣợc những thành tựu mới. Các nhà văn đã có
một cái nhìn lịch sử mới trong một số vấn đề về nông thôn nhƣ thời kỳ cải
cách ruộng đất qua tiểu thuyết Ác mộng của Ngô Ngọc Bội, Ba ngƣời khác
của Tô Hoài, … thời hậu chiến nhƣ Sao đổi ngôi của Chu Văn, Bến không
chồng của Dƣơng Hƣớng…Đặc biệt một số tiểu thuyết đã đề cập đến những
vấn đề về nông thôn đƣơng đại trong thời buổi kinh tế thị trƣờng và đất nƣớc
bƣớc vào thời kỳ hội nhập nhƣ Ma làng của Trịnh Thanh Phong, Mảnh đất

2

lắm ngƣời nhiều ma của Nguyễn Khắc Trƣờng, Thuỷ hoả đạo tặc của Hoàng
Minh Tƣờng.
1.3. Thần thánh và bƣơm bƣớm là một cuốn tiểu thuyết viết về nông
thôn xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì sau đổi mới. Cuốn tiểu thuyết tiếp
cận hiện thực nông thôn từ những phƣơng diện rất mới mẻ: Đó là vấn đề của
ngƣời nông dân ( công ăn việc làm, trình độ dân trí, tâm linh, đạo đức…), là
vấn đề nông thôn ( văn hóa, y tế, các mối quan hệ họ tộc, gia đình…) là vấn
đề nông nghiệp ( đầu tƣ, dự án…). Tác phẩm đặc biệt thu hút ngƣời đọc ở
giọng điệu hài hƣớc, giễu nhại từ một cách đặt ra những vấn đề rất nghiêm
chỉnh. Đỗ Minh Tuấn đã xây dựng một hiện thực giả tƣởng trong tác phẩm
của mình để từ đó soi tỏ, lý giải hiện thực ngoài đời. Ông xây dựng tâm lý,
tính cách nhân vật nhƣ một cách đƣa ra những quan niệm, cách nhìn và cách
nghĩ về con ngƣời thời hiện đại.
1.4. Nông thôn là một trong hai đề tài lớn của văn học sau 1945, cũng
là nơi đang nóng với những vấn đề lớn trong xã hội. Đây cũng là nơi đặt ra
những thử thách không nhỏ cho bản lĩnh của nhà văn. Xuất phát từ lòng yêu
thích và hâm mộ ngƣời nghệ sĩ đa tài Đỗ Minh Tuấn cùng tiểu thuyết Thần
thánh và bƣơm bƣớm, đồng thời chúng tôi cũng mong muốn bổ sung thêm
kiến thức, giúp ích cho việc học tập, nghiên cứu sau này của bản thân nên
chúng tôi quyết định chọn đề tài “ Nông thôn thời kì đổi mới trong tiểu thuyết
Thần thánh và bƣơm bƣớm của Đỗ Minh Tuấn” cho luận văn cao học của
mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tiểu thuyết là thể loại từ xƣa đến nay không chỉ có khả năng ôm trùm
những vấn đề lớn của xã hội, thu hút nhiều ngƣời trong giới sáng tác đầu tƣ

3
thời gian, công sức mà đối với các nhà nghiên cứu phê bình, tiểu thuyết bao
giờ cũng là thể loại có sức hấp dẫn đặc biệt đối với họ.
Sau Đại hội Đảng VI ( 1986), văn học Việt Nam đã có một bƣớc chuyển

mình rất lớn lao trên tất cả các thể loại, đặc biệt là thể loại tiểu thuyết. Sự nở
rộ của tiểu thuyết thời kỳ đổi mới, đặc biệt là các tiểu thuyết viết về nông thôn
đƣợc coi nhƣ một thành tựu của văn học thời kỳ này đã thu hút các nhà
nghiên cứu quan tâm.
Trong quá trình tìm hiểu các tƣ liệu liên quan đến đề tài, chúng tôi có
đƣợc một số tƣ liệu và tạm phân ra mấy vấn đề chính sau đây:
2.1. Sự đổi mới tƣ duy tiểu thuyết và đề tài nông thôn trong tiểu thuyết
sau 1975
2.1.1. Sự đổi mới trong tƣ duy tiểu thuyết
Sau 1975, khi đất nƣớc thống nhất, văn học nói chung và tiểu thuyết nói
riêng đã bƣớc sang một chặng đƣờng mới, có những bƣớc chuyển và dấu hiệu
tích cực, đánh dấu vai trò của đƣờng lối “ cởi trói” văn nghệ của Đảng nói
chung và thành công của những cây bút văn xuôi nhiều thế hệ nói riêng.
Trong cách tìm tòi và thể nghiệm sự sáng tạo của mình, tiểu thuyết đã có
nhiều bài viết, đề cập đến các phƣơng diện và khía cạnh khác nhau. Có thể kể
đến các công trình:
Nguyễn Đăng Mạnh: Về một xu hƣớng tiểu thuyết đang phát triển (Nhân
dân, Ngày 26/10/1985)
Bích Thu với Những nỗ lực sáng tạo của tiểu thuyết Việt Nam từ sau Đổi
mới (Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, NXB Khoa học xã hội, 2001)
Lê Ngọc Trà ( 2002) trong cuốn sách Thách thức của sáng tạo thách
thức của văn hoá, NXB Thanh niên.
Nguyễn Thị Bình với Một vài nhận xét về quan niệm hiện thực trong văn
xuôi nƣớc ta từ sau 1975, Tạp chí văn học, số 4 - 2003.

4
Nguyễn Thị Bình, “ Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 – Một cái nhìn khái
quát”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2 – 2007.
Phong Lê “ Vài nét tiếp cận lịch sử và giá trị văn xuôi Việt Nam hiện
đại”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 3 – 2010.

Mỗi tác giả qua các công trình nghiên cứu của mình đều có cách nhìn,
cách tiếp cận khác nhau, song tất cả đều thống nhất ở mục tiêu chỉ ra sự đổi
mới trong cách tân tiểu thuyết, thể hiện nỗ lực đáng kể trong sáng tạo của các
cây bút văn xuôi Việt Nam trong thời kỳ mới. Các tác giả đã đƣa đến cho
ngƣời đọc thấy rõ đặc điểm của một xu hƣớng tiểu thuyết đang nổi lên trong
đời sống văn học những năm 80. “Đó là những tiểu thuyết nhà văn - qua tác
phẩm - tham gia vào cuộc sống nhƣ một nhà tƣ tƣởng, trong đó nội dung triết
luận chiếm một vị trí quan trọng”. [56]. Tác giả Lê Ngọc Trà ( 2002) trong
cuốn sách Thách thức của sáng tạo thách thức của văn hoá, NXB Thanh niên,
còn chỉ ra đặc điểm đầu tiên thể hiện sự cách tân của văn xuôi sau 1975 so với
thời kỳ trƣớc là tính chất phê phán. Nếu trƣớc đây trong tác phẩm nhân vật
chính thƣờng là nhân vật chính diện, là ngƣời tốt thì sau 1975 nhân vật chính
lại thƣờng là “ những nhân vật tiêu cực, giả dối, làm ăn phi pháp, thấp kém về
đạo đức”.[ 90; tr.18] Do vậy cảm hứng chủ đạo cũng thay đổi từ nhiệt tình
ngợi ca, khẳng định sang sự phê phán, châm biếm. Đặc điểm tiếp theo là “
tinh thần phân tích xã hội và sự chiêm nghiệm lại lịch sử” [ 90; tr.21]. Nếu
văn học trƣớc đây thiên về trình bày, miêu tả lịch sử và coi đó là sức hấp dẫn
của tác phẩm văn học thì văn học sau 1975 thiên về sự nghiền ngẫm lịch sử,
nhờ đó nó không chỉ ghi chép mà còn soi sáng chúng dƣới nhiều góc độ khác
nhau. Đặc điểm thứ ba là xu hƣớng văn học sau 1975 trở lại với đời thƣờng,
với số phận riêng” [ 90; tr.25], trong tính phong phú nhiều chiều, con ngƣời
“thiên về tính cá biệt hơn tính điển hình” [6]. Đặc điểm cuối cùng là sự đổi
mới “ phong cách và ý thức nghệ thuật” đƣợc thể hiện qua phƣơng thức trần

5
thuật hay việc sử dụng kỹ thuật dòng ý thức cho xây dựng nhân vật đã làm
nên nét khác biệt và do đó có sự đóng góp nhất định vào thành tựu chung của
văn học sau 1975.
2.1.2. Về đề tài nông thôn trong bối cảnh chung của văn xuôi đổi mới
Sau khi Đảng phát động công cuộc đổi mới, văn học nói chung và văn

xuôi viết về nông thôn nói riêng cũng có bƣớc chuyển biến cơ bản. Có thể
nhận thấy, hiện thực đƣợc phản ánh trong tác phẩm đã trở nên sinh động, đa
dạng và phong phú hơn nhờ không khí dân chủ của xã hội. Hàng loạt các tác
phẩm viết về đề tài “ tam nông” ra đời và ngay lập tức nhận đƣợc sự chú ý
của đông đảo dƣ luận, những ý kiến đánh giá phê bình của các nhà nghiên
cứu, các cuộc hội thảo toạ đàm đƣợc tổ chức nhằm tiếp thu, tranh luận, đánh
giá về những tác phẩm ấy.
Nhìn chung, mỗi công trình, mỗi bài viết đều đề cập đánh giá ở những
khía cạnh khác nhau nhƣng đa số đều hƣớng đến khẳng định giá trị đóng góp
của từng tác phẩm. Chẳng hạn, khi đề cập đến Thời xa vắng của Lê Lựu – tác
phẩm đoạt giải của Hội nhà văn năm 1990, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Lƣu
nhận định tác phẩm: “ là một sự phê phán mạnh mẽ những thói quen bảo thủ,
là một cảnh tỉnh, một niềm tâm sự nhắn gửi một lịch sử chua xót và thấm
thía” [49]. Về tiểu thuyết Bến không chồng của Dƣơng Hƣớng – tác phẩm
đƣợc nhận giải thƣởng của Hội nhà văn năm 1991, Nguyễn Văn Long nhận
định: “ Trong Bến không chồng, Dƣơng Hƣớng muốn lƣu ý ngƣời đọc đến
một phƣơng diện của xã hội nông thôn, nó chi phối đời sống ngƣời nông dân
không chỉ trong quá khứ mà cả cho đến mãi gần đây, đó là ý thức về tập quán
và dòng họ ( …). Nó vừa là một yếu tố góp phần củng cố cộng đồng làng xã,
đồng thời cản trở nông thôn trên con đƣờng phát triển” [46; tr.404] Về tác
phẩm Dòng sông mía của Đào Thắng – tác phẩm đạt giải A Cuộc thi tiểu
thuyết 2002 – 2005 của Hội nhà văn , nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến trong

6
bài viết Đọc Dòng sông mía của Đào Thắng(Tạp chí Sông Hƣơng, số 196,
tháng 6 /2009) đã nhận định: “Làng Mía cũng nhƣ mọi làng xã nông thôn
Việt Nam là địa bàn “thử nghiệm” những cuộc cải cách “long trời lở đất”,
những phong trào cải tạo “sắp đặt lại giang sơn”. Có những nỗ lực, những
thành tựu tích cực. Nhƣng những mặt trái của những công cuộc “cải cách”,
“cải tạo” này vẫn còn lại đó, bầy hầy, nhức nhối. Đọc Dòng sông Mía của

Đào Thắng thấy rõ không tìm hiểu nghiêm túc những mặt trái này thì không
thể hiểu đƣợc xã hội và lịch sử Việt đƣơng đại” . Đánh giá về tác phẩm Thuỷ
hoả đạo tặc - Hoàng Minh Tƣờng – tác phẩm nhận giải thƣởng Hội nhà văn
năm 1997, nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Thu Hằng trong bài viết “ Bức tranh
nông thôn một thời qua Gia phả đất, Tạp chí Nhà văn, 12/2012 khẳng định: “
Đấy chính là một bức tranh sinh động và sâu sắc đƣợc Hoàng Minh Tƣờng
khắc họa lại hiện thực cuộc sống nông thôn và ngƣời dân lao động vùng đồng
bằng Bắc bộ những thập niên 80 của thế kỷ XX một cách chân thực.”
Trong cuộc hội thảo về tác phẩm Mảnh đất lắm ngƣời nhiều ma của
Nguyễn Khắc Trƣờng do báo Văn nghệ tổ chức vào ngày 25 tháng 1 năm
1991, các nhà nghiên cứu Phong Lê, Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức,
Trần Đình Sử…đều đƣa ra những ý kiến nhằm khẳng định sự thành công
nhiều mặt của tác phẩm. GS Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định: “ Đã lâu lắm
mới xuất hiện một tác phẩm viết về nông thôn Việt Nam theo đúng cái mạch
của Tắt đèn, Chí Phèo…” [94; tr 391]. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức cũng
khẳng định: “ Nguyễn Khắc Trƣờng đã viết về nông thôn với cách nhìn chân
thực, chủ động làm bộc lộ qua những trang viết một nông thôn có nhiều
chuyển động, xáo trộn, đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu, tranh chấp nhau giữa
các thế lực” [94;tr.386].
Ở thể loại truyện ngắn, mảng đề tài viết về nông thôn cũng đạt đƣợc
những thành tựu xuất sắc gắn với các tên tuổi của các nhà văn nhƣ Nguyễn

7
Ngọc Tƣ, Nguyễn Hữu Nhàn…Cùng với đó là hàng loạt bài nghiên cứu, phê
bình đánh giá về các tác giả, tác phẩm ấy. Tìm hiểu về truyện ngắn Cánh
đồng bất tận - Nguyễn Ngọc Tƣ, nhà nghiên cứu Hoàng Thiên Nga trong bài
viết Đọc Nguyễn Ngọc Tƣ qua Cánh đồng bất tận, Báo Văn nghệ, Số 39, 24 –
9 – 2005, đã nhận định: “ Bối cảnh xã hội thấp thoáng đan xen trong cốt
truyện là rất thật (…). Nguyễn Ngọc Tƣ qua Cánh đồng bất tận đã góp lời
giục giã chính quyền phải thấm thía hơn về trách nhiệm nâng cao mức sống

ngƣời dân, có nhiều hơn nữa những xoay chuyển thiết thực để giảm tỉ lệ dân
nghèo rất đáng kể ở nông thôn, cụ thể là ngay tại đồng bằng sông Cửu Long”.
Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn đã cho ra đời hàng loạt các truyện ngắn viết
về làng quê nhƣ: Đám cƣới làng, Ngƣời quê, Vợ chồng hò hẹn, Làng quê yên
ả… Tháng 6 năm 2011, ông đã đƣợc Hội nhà văn Việt Nam trao giải tác phẩm
văn học xuất sắc về nông nghiệp, nông dân, nông thôn cho truyện ngắn chọn
lọc về làng quê đô thị hóa. Nguyễn Hữu Nhàn không đi vào những mặt trái
của làng quê trong quá trình phát triển, hoặc phê phán chống tiêu cực, mà
bằng một cách thật tự nhiên, nhất quán, ông chuyên chú đi vào các tầng văn
hoá của làng quê thời hiện đại. Tác giả Đỗ Hà trong bài viết Nhà văn Nguyễn
Hữu Nhàn gom chút hƣơng quê chƣng cất hƣơng đời” đã nhận định : Các
truyện ngắn của Nguyễn Hữu Nhàn “là những góc nhìn mới mẻ về các vấn đề
muôn thuở của làng quê(…) Bức tranh nông thôn có sự pha tạp của “dấu
hình” thành thị có nhiều nét mới tích cực nhƣng cũng không tránh khỏi những
vấp váp. Mỗi truyện ngắn là một góc nhìn nông thôn thu nhỏ, thật gần gũi,
thân quen mà vẫn rất mới mẻ, độc đáo.” [23]
Sau đổi mới, với không khí dân chủ cởi mở, các nhà nghiên cứu đã có rất
nhiều điều kiện thuận lợi khơi sâu vào nhiều tầng, vỉa để đánh giá và nhìn
nhận lại nhiều vấn đề của văn học, trong đó có đề tài văn xuôi viết về nông
thôn. Tác giả Trần Cƣơng qua bài nghiên cứu Văn xuôi viết về nông thôn nửa

8
sau những năm 80 đã nhận định có hai sự chuyển biến của văn xuôi viết về
nông thôn nửa sau những năm 86 so với những năm trƣớc đó là sự chuyển
biến trong chủ đề và sự chuyển biến trong phạm vi bao quát hiện thực. Theo
tác giả dƣờng nhƣ “Lần đầu tiên xuất hiện hai chủ đề thuộc về con ngƣời mà
trƣớc kia chƣa có. Đó là chủ đề về số phận con ngƣời và hạnh phúc cá nhân”
[9; tr.35]. Ở phạm vi phản ánh hiện thực, tác giả cũng đƣa ra nhận xét rằng
“các nhà văn nhƣ đã nhìn nhận và phản ánh hiện thực nông thôn kĩ càng. Họ
thấy những gì ở tầng sâu, mạnh ngầm của đời sống nông thôn”.[9; tr.36]. Và

cũng dƣới bút danh khác là Lã Duy Lan, tác giả đã cho ra đời cuốn Văn xuôi
viết về nông thôn tiến trình và đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, 2001. Với công
trình nghiên cứu này, tác giả đã đƣa đến một cái nhìn khái quát về văn xuôi
viết về nông thôn trƣớc và sau năm 1986 về cả mặt nội dung và nghệ thuật.
Nhƣ vậy, qua một số công trình nghiên cứu mà chúng tôi tiếp xúc đƣợc
trên đây, chúng tôi nhận thấy đề tài nông thôn chiếm một vị trí quan trọng
trong nền văn học đƣơng đại. Đặc biệt từ vài chục năm trở lại đây, tiểu thuyết
viết về nông thôn đã mang một diện mạo mới. Mảng tiểu thuyết đó đƣợc
nhiều nhà phê bình quan tâm. Trên cơ sở gợi dẫn của những ngƣời đi trƣớc,
chúng tôi đi vào nghiên cứu, tìm hiểu về tiểu thuyết Thần thánh và bƣơm
bƣớm của Đỗ Minh Tuấn nhằm đi đến sự khẳng định giá trị của cuốn tiểu
thuyết nói riêng và của nền văn học viết về nông thôn nói chung.
2.2. Về tác phẩm Thần thánh và bƣơm bƣớm
Tác phẩm Thần thánh và bƣơm bƣớm vừa ra đời đã tạo đƣợc một tiếng
vang lớn trên văn đàn bởi sự mới lạ về giọng điệu, về cách tiếp cận đề tài
nông thôn… Chính bởi vậy, tác phẩm đã thu hút rất nhiều sự chú ý, những ý
kiến đánh giá và các bài phê bình của các nhà nghiên cứu. Sau khi tham dự và
đoạt giải thƣởng cuộc thi Tiểu thuyết 2005 – 2010 do Hội nhà văn tổ chức,

9
Hội nhà văn đã mở một cuộc thảo luận về cuốn tiểu thuyết này. Chúng tôi có
thể tóm tắt qua những ý kiến nhƣ sau:
2.2.1. Các công trình nghiên cứu tiếp cận Thần thánh và bƣơm bƣớm từ
phƣơng diện nội dung:
- Nhà nghiên cứu Đặng Thân trong công trình “ Cảm tƣởng mông lung
khi đọc Thần thánh và bƣơm bƣớm” đã tiếp cận tiểu thuyết Thần thánh và
bƣơm bƣớm từ 3 vấn đề: trƣớc tiên là vấn đề bƣơm bƣớm và ông so sánh
điểm tƣơng đồng giữa Nabokov – một tác giả ngƣời Nga với Đỗ Minh Tuấn,
ở phần thứ 2, ông lý giải về vấn đề tình dục trong Thần thánh và bƣơm bƣớm,
phần thứ 3 ông tiếp cận vấn đề thần thánh trong tiểu thuyết từ nhân vật sƣ cô,

và từ 3 phần ấy ông đƣa đến 1 đánh giá ở phần thứ tƣ là “ Đỗ Minh Tuấn là
nhà văn hoá trùng điệp”. Đặc biệt, trong bài nghiên cứu này ông đi đến đánh
giá về bức tranh hiện thực xã hội đƣợc Đỗ Minh Tuấn xây dựng trong tiểu
thuyết: “Ngòi bút của Đỗ Minh Tuấn đủ cứng để xây dựng nên đƣợc một bức
tranh xã hội xác đáng và sinh động; đó là một xã hội đau thƣơng, tủi nhục đến
tột cùng. Tuy có phóng đại và có những khi rƣờm lời một cách nhiệt thành,
nhƣng mà ông đã thành công với khả năng khắc họa đời sống nông thôn Việt,
với rất nhiều nhân vật đứng đƣợc trong lòng ngƣời đọc.”
- Trong bài viết “ Nông thôn trong Thần thánh và bƣơm bƣớm còn đảo
lộn ghê gớm hơn cả thời cải cách”, tác giả Hữu Thỉnh đã khẳng định: “ Thần
thánh và bƣơm bƣớm đã đề cập đến một vấn đề nhức nhối nhất, đó là vấn đề
đạo đức xã hội, thể hiện ở sự săn đuổi đồng tiền ghê gớm nhất, bất cứ cái gì
cũng có thể biến thành tiền, biến một vật vô tri, vô giác thành thần thánh cũng
chỉ vì đồng tiền, cuộc săn đuổi các bộ hài cốt không biết có hay không cũng
chỉ vì tiền! Có thể nói chƣa có bao giờ lại đảo lộn nhƣ vậy!”
2.2.2. Các công trình nghiên cứu tiếp cận Thần thánh và bƣơm bƣớm từ
phƣơng diện nghệ thuật:

10
- Nhà nghiên cứu Phƣơng Lựu trong bài viết “ Đỗ Minh Tuấn mở đầu
cho phong cách hiện thực kì ảo của Việt Nam”, tác giả tiếp cận tiểu thuyết
Thần thánh và bƣơm bƣớm từ phƣơng diện nghệ thuật. Ông xâu chuỗi các sự
kiện của tác phẩm và đƣa đến kết luận: “ Có thể coi tiểu thuyết của Đỗ Minh
Tuấn là một sự mở đầu cho phong cách hiện thực kỳ ảo của Việt Nam”.[53]
- Tác giả Trần Ninh Hồ trong bài viết “ Có gì đáng đọc ở Thần thánh
và bƣơm bƣớm” đã tiếp cận tác phẩm từ phƣơng diện thời gian và không gian
nghệ thuật. Từ đó, ông đi đến kết luận về giá trị của tác phẩm: “ Đây là một
tác phẩm thật đặc sắc không chỉ trong phạm vi một quốc gia”.[32]
- Tác giả Lê Huy Quang trong bài viết “ Nhìn Thần thánh và bƣơm
bƣớm từ góc độ nghệ thuật”, ông tiếp cận tác phẩm từ sự so sánh tƣơng quan

với những thành công của tác giả Đỗ Minh Tuấn trên các phƣơng diện khác
nhƣ điện ảnh, thơ…Ông khẳng định: tiểu thuyết Thần thánh và bƣơm bƣớm
“chính là sự tổng hợp cách nhìn, cách nghĩ, cách thể hiện của một nhà thơ,
một họa sỹ, một ngƣời viết hài kịch và một đạo diễn điện ảnh.” [71] Và từ đó
ông đi vào tiếp cận tiểu thuyết từ 4 phần: Một bài thơ về thân phận nông dân;
Một bộ phim về những tính cách Việt; Một vở hài kịch về nông thôn thời đổi
mới; Một bức tranh lộng lẫy, huyền ảo về nông thôn.
- Tác giả Phạm Viết Đào trong bài viết “ Chất “ liêu trai quái dị”
trong tiểu thuyết Thần thánh và bƣơm bƣớm của Đỗ Minh Tuấn”, ông khẳng
định: “ chất “ liêu trai quái dị” trong tiểu thuyết Thần thánh và bƣơm bƣớm
của Đỗ Minh Tuấn là chất phát tiết từ các quan hệ cung cầu của thị trƣờng
thời mở cửa hội nhập, tạo nên một không gian nghệ thuật mang tính ẩn dụ nền
tảng, để cảnh báo về nguy cơ tận diệt của tâm linh văn hóa dân tộc trong một
thứ tƣ bản thị trƣờng rừng rú, hỗn loạn, vô đạo, vô luật và vô văn hóa”. [17]
- Tác giả Phạm Lƣu Vũ trong bài viết “ Thần thánh và bƣơm bƣớm –
vài cảm nhận sơ sài” tiếp cận tác phẩm từ lối viết của tác giả tiểu thuyết. Ông

11
đánh giá rất cao về lối viết này của Đỗ Minh Tuấn: “Đã đành thiên hạ cổ kim
không thiếu gì những cao thủ coi văn chƣơng nhƣ chuyện trong túi mình.
Song đùa giỡn kiểu Thần thánh và bƣơm bƣớm thì không phải ai cũng có thể
giỡn chơi đƣợc. Đó là một lối viết làm chủ chữ nghĩa nhƣng hoàn toàn buông
thả tƣ duy, và câu chuyện cứ thế trào ra, thẳng nhƣ tên bay, ào nhƣ nƣớc chảy,
lại biến hóa không biết đâu mà lƣờng.”[103]
2.2.3. Các công trình tiếp cận Thần thánh và bƣơm bƣớm từ cả hai
phƣơng diện nội dung và nghệ thuật:
- Trong bài viết “ Thần thánh và bƣơm bƣớm mấp mé một cái gì rất
lớn”, tác giả Phong Lê đã đi vào lý giải nội dung, cách tiếp cận đề tài và
giọng điệu của tác phẩm. Từ đó, tác giả đƣa đến một nhận định: “ Tôi cứ nghĩ
cuốn sách của Tuấn mấp mé một cái gì rất lớn. Rất hay về chủ đề, rất hay về

cách tiếp cận, rất hay về giọng điệu, rất hay về những cái mới mẻ trong biển
cả các cuốn sách viết rất giống nhau.”[45]
- Trong bài viết “ Thần thánh và bƣơm bƣớm – một tiểu thuyết về văn
hoá Việt Nam của Đỗ Minh Tuấn”, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử khẳng định
“Tiểu thuyết của Đỗ Minh Tuấn có ba điểm đặc sắc. Một là phản ánh hiện
thực văn hoá nông thôn thời kinh tế thị trƣờng; hai là sự khác biệt của hai thế
hệ cha – con; ba là tính hài hƣớc, giễu nhại, cƣời ra nƣớc mắt xuyên suốt cuốn
truyện, lôi cuốn ngƣời đọc từ đầu đến cuối.” [75]
- Tác giả Đỗ Ngọc Yên trong bài nghiên cứu “ Thần thánh và bƣơm
bƣớm một thể nghiệm đầy trăn trở” đã tiếp cận tác phẩm từ phƣơng diện đề
tài và bút pháp, từ đó đƣa ra đánh giá một cách rất khái quát về giá trị của
cuốn tiểu thuyết đối với hiện thực: “ Với cuốn tiểu thuyết Thần thánh và
bƣớm bƣớm, Đỗ Minh Tuấn đã cho trình làng ở tầm vĩ mô một bức phác họa
về nông dân - nông thôn hiện nay ở chiều sâu tâm thức văn hóa đang đƣợc
dịch chuyển từ quá khứ sang hiện tại. Qua đấy ngƣời đọc có thể thấy đƣợc số

12
phận lịch sử không phải của cái làng Bái Thƣợng, Bái Hạ cụ thể nào, mà là
của cả một dân tộc trong quá trình lột xác, đắp đổi thịnh suy”.[104]
- Tác giả Phan Huy Dũng trong công trình nghiên cứu Món nộm văn hoá
Việt hiện nay dƣới con mắt Đỗ Minh Tuấn ( Đọc tiểu thuyết Thần thánh và
bƣơm bƣớm của Đỗ Minh Tuấn ) đã tiếp cận tác phẩm từ phƣơng diện văn
hoá. Tác giả đi sâu vào nghiên cứu nội dung tác phẩm và đi đến khẳng định
Thần thánh và bƣơm bƣớm đã đƣa ra một “ món nộm” một “ nồi lẩu” văn
hoá, trong đó chứa đựng tất cả những thứ tạp nham, hổ lốn do tác động của
kinh tế thị trƣờng tạo nên. Bên cạnh đó, tác giả Phan Huy Dũng cũng đi vào
nghiên cứu sơ lƣợc về những đặc sắc nghệ thuật của Đỗ Minh Tuấn, từ đó đi
đến khẳng định: “Thần thánh và bƣơm bƣớm không thiếu những dấu hiệu
cách tân nghệ thuật tiểu thuyết, nhƣng nó đã đƣợc tác giả viết ra bằng tâm thế
của một nhà văn cổ điển vốn coi trọng, đề cao chức năng xã hội của văn học,

vốn tin vào sứ mệnh dẫn đạo cho nhân quần của sáng tác. Đây chính là điểm
tạo nên vị thế riêng của Đỗ Minh Tuấn trong nền tiểu thuyết Việt Nam đƣơng
đại – vị thế một kẻ có quan niệm “cổ điển” về văn học nhƣng không còn tin
vào cách viết “cổ điển”, rất chú trọng đổi mới hình thức nghệ thuật nhƣng lại
ít mặn mà với khuynh hƣớng trò chơi trong văn học mà hiện nay nhiều tác
giả, nhất là tác giả trẻ, đang hăm hở tham gia.”[13]
Ngoài ra còn có một số ý kiến rải rác in trong các bài viết, một số luận
văn, luận án về đề tài nông thôn khác.
Thần thánh và bƣơm bƣớm là một tiểu thuyết mới ra đời nhƣng đã thu
hút đƣợc rất nhiều sự quan tâm, chú ý của giới lý luận, phê bình. Từ những ý
kiến, những bài viết về tác phẩm, chúng tôi đã cảm nhận đƣợc sự thành công
của tác giả Đỗ Minh Tuấn và sự đóng góp của ông cả về phƣơng diện nội
dung và phƣơng diện nghệ thuật, mở ra một hƣớng tiếp cận mới, một cách
nhìn mới về hiện thực nông thôn thời kì hội nhập.

13
Tuy nhiên, cũng bởi vì đây là một tác phẩm mới nên chúng tôi cũng nhận
thấy rằng những bài nghiên cứu và những ý kiến trên mới mang tính chất gợi
mở và chƣa mang tính chuyên sâu, chuyên biệt về đề tài nông thôn thời kì đổi
mới trong tác phẩm. Hơn nữa việc nghiên cứu tiểu thuyết Thần thánh và
bƣơm bƣớm cần phải gắn với việc nghiên cứu hiện thực nông thôn và con
ngƣời nông dân đặt trong tƣơng quan với các tiểu thuyết viết về nông thôn
đƣơng đại ở một mức độ chuyên sâu hơn. Chúng tôi coi tất cả những bài viết
về Thần thánh và bƣơm bƣớm, và các tiểu thuyết viết về nông thôn là những
tƣ liệu rất quý báu. Kế thừa thành tựu nghiên cứu của ngƣời đi trƣớc, chúng
tôi sẽ cố gắng để có một cái nhìn sâu sắc và cụ thể hơn đối với cuốn tiểu
thuyết này đồng thời cho thấy đƣợc sự tìm tòi của Đỗ Minh Tuấn cũng là sự
đóng góp của ông về phƣơng diện đề tài và thể loại
3. Mục đích nghiên cứu
- Là một nghệ sĩ đa tài, Đỗ Minh Tuấn khổng chỉ khẳng định tài năng

của mình qua các bộ môn nghệ thuật nhƣ hội hoạ, điện ảnh, thơ…mà tài năng
của ông còn đƣợc khẳng định ở lĩnh vực tiểu thuyết. Tìm hiểu về tiểu thuyết
Thần thánh và bƣơm bƣớm, chúng tôi muốn tìm hiểu và góp phần khẳng định
những đóng góp của ông đối với nghệ thuật tiểu thuyết và tiến trình phát triển
của văn xuôi đƣơng đại.
Qua tác phẩm Thần thánh và bƣơm bƣớm và liên quan là những tiểu
thuyết viết về nông thôn, độc giả thấy đƣợc vấn đề “ tam nông” đƣợc đặt ra
hết sức cấp bách hiện nay. Sự khác biệt, mới mẻ trong lối viết, cách tiếp cận
hiện thực và giọng điệu của tác phẩm trong tiểu thuyết Thần thánh và bƣơm
bƣớm cho thấy việc tiếp cận và xử lý hiện thực là nhu cầu thiết yếu đối với
ngƣời viết.

14
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu chính của chúng tôi trong đề tài này là những
vấn đề về nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết Thần thánh và bƣơm
bƣớm.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Ngoài việc tập trung khảo sát Thần
thánh và bƣơm bƣớm, chúng tôi sẽ đặt cuốn tiểu thuyết này trong tƣơng quan
so sánh với một số tác phẩm viết về đề tài nông thôn thời kì đổi mới khác
nhƣ: Thời xa vắng – Lê Lựu, Ma Làng – Trịnh Thanh Phong, Mảnh đất lắm
ngƣời nhiều ma – Nguyễn Khắc Trƣờng, Dòng sông mía – Đào Thắng, Bến
không chồng – Dƣơng Hƣớng, Thuỷ hoả đạo tặc – Hoàng Minh Tƣờng
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu truyền
thống nhƣ:
- Phƣơng pháp khảo sát, thống kê
- Phƣơng pháp phân tích.
- Phƣơng pháp so sánh đối chiếu
- Phƣơng pháp khái quát tổng hợp.

6. Cấu trúc đề tài
Thực hiện đề tài này, ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, trong phần
Nội dung, chúng tôi chia làm 3 chƣơng:
Chƣơng I: Tiểu thuyết viết về nông thôn trong văn xuôi thời kì đổi mới
Chƣơng II: Nông thôn và ngƣời nông dân trong tiểu thuyết Thần thánh
và bƣơm bƣớm
Chƣơng III: Nghệ thuật biểu hiện bức tranh nông thôn trong tiểu thuyết
Thần thánh và bƣơm bƣớm



15
PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN TRONG VĂN
XUÔI THỜI KÌ ĐỔI MỚI
1.1. Khái quát về thể loại tiểu thuyết và những đối mới trong quan
niệm về hiện thực và con ngƣời
1.1.1. Khái niệm và đặc trƣng thể loại
1.1.1.1. Khái niệm và nguồn gốc:
Tiểu thuyết là một thể loại thuộc phƣơng thức tự sự và đƣợc coi là thể
loại giữ vị trí “thống soái” trong đời sống văn học. Nó “ là sản phẩm tinh thần
tiêu biểu nhất cho thời đại mới của lịch sử loài ngƣời, là thành quả rực rỡ, có
giá trị nhƣ một bƣớc nhảy vọt thực sự vĩ đại của hàng ngàn năm văn chƣơng
thế giới” [61]. Với ƣu thế “ biết tổng hợp vào bản thân mình những đối tƣợng
và biện pháp miêu tả của nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau ”[ 20; tr.535],
tiểu thuyết đã mang lại các giá trị tổng hợp và dấu ấn thời đại vào trong văn
học mà không thể loại nào có thể thay thế đƣợc. Tuy nhiên, tiểu thuyết cũng
là một thể loại văn chƣơng duy nhất, là “ nhân vật chính” bên cạnh các thể
loại chị em khác ( Thơ và Kịch), vẫn còn “đang biến chuyển”, “chƣa định

hình” và “ chƣa hề rắn lại”. Nó “ trẻ hơn chữ viết và sách, chỉ một mình nó
thích ứng hữu cơ với cách thức tiếp thu im lặng tức là đọc”. Nó “ là một sinh
linh thuộc giống nòi khác. Nó khó sống chung với các thể loại kia. Nó đấu
tranh giành lấy vị trí thống trị trong văn chƣơng, và nơi nào nó ƣu thắng ở đấy
những thể loại khác, thể loại cũ, bị phân hoá”. [61]
Tiểu thuyết luôn là thể loại “nóng” lôi cuốn sự quan tâm và kích thích
cảm hứng “đối thoại” của cả giới sáng tác, lý luận, phê bình và công chúng.
Có lẽ chính vì lý do ấy mà hiện nay tiểu thuyết đã trở thành tâm điểm của các

16
nhà nghiên cứu nhƣng vẫn chƣa có đƣợc một khái niệm chung nhất về thể
loại. Mỗi nhà nghiên cứu đƣa ra một khái niệm, một cách nhìn riêng về thể
loại theo cách tiếp cận của mình. Những khái niệm ấy sẽ góp phần làm nổi rõ
những đặc điểm từ những đóng góp của tiểu thuyết đối với nền văn học nhân
loại.
Nhà nghiên cứu N.T Rymar trong bài viết “ Tƣ duy tiểu thuyết và văn
hoá thế kỉ XX” do Song Mộc dịch, định nghĩa tiểu thuyết “ là một hình thức
của tƣ duy sử thi muốn giải quyết theo cách của sử thi những vấn đề vừa mới
đặt ra trƣớc con ngƣời mà sự xuất hiện của chúng đƣợc chế định bởi quá trình
tách biệt cá nhân qua hàng chục thế kỷ. Vì thế tiểu thuyết cũng còn là một
“thể loại không có quy phạm”, nhiệm vụ của nó là thiết lập mối tiếp xúc với “
hiện thực chƣa hoàn thành”. Nhƣng đấy mới chỉ là một mặt của vấn đề; còn
phƣơng diện khác của vấn đề nằm ở chỗ “tính chƣa đoàn kết” đó của thể loại
không có nghĩa cấu trúc thể loại của nó không hoàn toàn định dạng: tiểu
thuyết không chỉ mang tính biến dị khác thƣờng mà còn có tính bền vững
đáng kinh ngạc”. [63]
PGS.TS. Lý Hoài Thu định nghĩa tiểu thuyết: “ Là một hình thức tự sự
cỡ lớn, tiểu thuyết có những khả năng riêng trong việc tái hiện với một quy
mô lớn những bức tranh hiện thực đời sống, trong đó chứa đựng nhiều vấn đề
sâu sắc của đời sống xã hội, của số phận con ngƣời, của lịch sử, của đạo đức,

của phong tục…Nghĩa là, tiểu thuyết có năng lực phản ánh hiện thực một
cách bao quát và sinh động theo hƣớng tiếp cận trên cả bề rộng và chiều sâu
của nó”. [89; tr.184]
Nhƣ vậy, tiểu thuyết có nguồn gốc từ rất sớm, hình thành trong một quá
trình lâu dài và phát triển mạnh mẽ trong những điều kiện kinh tế, xã hội, văn
hoá, văn minh thích hợp. Về mặt khái niệm, nhìn một cách khái quát: Tiểu
thuyết là một thể loại lớn nằm trong phƣơng thức tự sự có khả năng phản ánh

17
hiện thực đời sống một cách bao quát ở mọi giới hạn không gian và thời gian,
khả năng khám phá một cách sâu sắc những vấn đề thuộc về thân phận con
ngƣời thông qua những tính cách đa dạng, phức tạp và khả năng tái hiện
những bức tranh mang tính tổng thể rộng lớn về đời sống xã hội.
Tiểu thuyết là một khái niệm thể loại, một tên gọi chung nhằm phân biệt
với các thể loại khác nhau nhƣ thơ, kịch…Tuy nhiên, đây là một thể loại lớn
có diện mạo đặc biệt phong phú nên sự phân loại trong tiểu thuyết thƣờng dựa
trên những cơ sở và tiêu chí khác nhau. Nếu phân chia theo khuynh hƣớng,
trào lƣu sáng tác thì có tiểu thuyết cổ điển, tiểu thuyết lãng mạn, tiểu thuyết
hiện thực…Nếu căn cứ vào đề tài thì có thể có tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết
đời tƣ thế sự, tiểu thuyết chiến tranh, tiểu thuyết viết về nông thôn, tiểu thuyết
khoa học viễn tƣởng, tiểu thuyết trinh thám…Trƣớc đây, học giả Phạm
Quỳnh phân chia tiểu thuyết thành 3 loại: tiểu thuyết ngôn tình, tiểu thuyết tả
thực và tiểu thuyết truyền kỳ. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã phân loại
tiểu thuyết thành 10 loại: tiểu thuyết phong tục, tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết
luân lý, tiểu thuyết truyền kỳ, tiểu thuyết phóng sự, tiểu thuyết hoạt kê, tiểu
thuyết tả chân, tiểu thuyết xã hội, tiểu thuyết tình cảm và tiểu thuyết trinh
thám…Có thể nói, mọi sự phân chia ở trên đều mang tính tƣơng đối bởi quá
trình tồn tại và phát triển của thể loại tiểu thuyết luôn diễn ra hiện tƣợng giao
thoa và sự thâm nhập lẫn nhau giữa các yếu tố nội dung cũng nhƣ hình thức.
1.1.1.2. Những đặc trƣng cơ bản của tiểu thuyết:

Trong tƣơng quan với các thể loại khác, tiểu thuyết nổi bật lên ở khả
năng phản ánh một cách “ toàn vẹn và sinh động” bức tranh mang tính tổng
thể của hiện thực đời sống. Đây là một trong những đặc trƣng cơ bản, là ƣu
thế lớn tạo nên tầm vóc, quy mô hiện thực cho tác phẩm tiểu thuyết. Phẩm
chất này của tiểu thuyết gắn chặt với nguồn gốc và sự ra đời của thể loại. Từ
những câu chuyện “ phiêu lƣu mạo hiểm” trong văn học phƣơng Tây đến

18
những câu chuyện “ thần tiên ma quái” trong văn học phƣơng Đông, tiểu
thuyết đi đến sự định hình về thể loại ở tính chất tiếp cận đời sống một cách
gần gũi, ở khả năng nhận thức và phản ánh hiện thực một cách sâu sắc. Là
một thể loại tiêu biểu cho phƣơng thức tự sự, tiểu thuyết có khả năng bao quát
lớn về chiều rộng của không gian cũng nhƣ chiều dài của thời gian, luôn luôn
“ vƣợt qua những đƣờng ranh về tri thức cũng nhƣ về phong thổ”. Sự phá vỡ
giới hạn này là một ƣu thế đặc biệt tạo tiền đề để các nhà tiểu thuyết mở rộng
đến tối đa tầm vóc hiện thực trong tác phẩm của mình. Nếu nói rằng văn học
là tấm gƣơng phản chiếu một cách chân thực và đầy đủ bức tranh đời sống
muôn màu, nhà văn là ngƣời thƣ ký trung thành của thời đại thì điều đó có lẽ
thích hợp nhất với tiểu thuyết. Giá trị hiện thực to lớn của tiểu thuyết đƣợc tạo
nên bởi một thế giới nghệ thuật “ siêu hiện thực” mà ở đó nhà văn không hề
chịu một giới hạn nào về số lƣợng nhân vật, khối lƣợng các sự kiện, biến cố,
chi tiết về không gian, thời gian, môi trƣờng, hoàn cảnh…
Tiểu thuyết có ƣu thế đặc biệt ở khả năng thâu tóm, dồn ép nhân vật, sự
kiện vào trong một khoảng không gian ngắn, thời gian hẹp…để tạo nên những
bức tranh hiện thực có quy mô vừa và nhỏ. Trên nền của những bức tranh đời
sống đã bị thu hẹp đó, nhà văn thuận lợi hơn khi đi sâu vào những cảnh ngộ
riêng của số ít nhân vật hoặc khai thác những quan hệ mang tính chất gia đình
với điều kiện là sự lựa chọn đó phải đạt đến ý nghĩa điển hình, chẳng hạn nhƣ:
Ơgiơni Grăngđê ( Banzac), Mảnh đất lắm ngƣời nhiều ma ( Nguyễn Khắc
Trƣờng), Bến không chồng ( Dƣơng Hƣớng)…

Bên cạnh khả năng tạo dựng bức tranh hiện thực với quy mô “ hoành
tráng”, khả năng khắc hoạ chân dung nhân vật thông qua sự khám phá những
vấn đề của số phận cá nhân và thân phận con ngƣời cũng là một đặc trƣng
quan trọng của tiểu thuyết. Những niềm vui, nỗi buồn, sự sung sƣớng hay đau
khổ, hạnh phúc hay bất hạnh…của đời sống con ngƣời từ lâu đã trở thành chất

19
liệu không thể thiếu trong hành trang sáng tạo của các nhà tiểu thuyết. Sức
hấp dẫn của tác phẩm sẽ đƣợc tăng lên rất nhiều nếu nhà văn biết xoáy sâu
vào những vấn đề của đời sống cá nhân. Những nhà tiểu thuyết lớn xƣa nay
đều bộc lộ tài năng và phong cách của mình rõ rệt nhất trong lĩnh vực sáng
tạo nhân vật: đó là Đônkihôtê của Xécvăngtéc, Pie, Natasa của L. Tônxtôi,
Tào Tháo, Trƣơng Phi, Khổng Minh của La Quán Trung…Thông qua những
nhân vật ấy, độc giả không chỉ nhìn thấy bộ mặt của xã hội đƣơng thời, những
biến chuyển của thời đại mà sâu xa hơn là còn đọc đƣợc những vấn đề muôn
thuở về thân phận con ngƣời.
Nét đặc biệt nữa làm cho tiểu thuyết khác với các thể loại khác nhƣ
truyện thơ, trƣờng ca, thơ trƣờng thiên và anh hùng ca là việc tái hiện cuộc
sống nhƣ một cái thực thể đang vận động. Tiểu thuyết hấp thụ vào bản thân
nó mọi yếu tố ngổn ngang, bề bộn của cuộc đời bao gồm cái cao cả lẫn cái
tầm thƣờng, nghiêm túc và buồn cƣời, cái bi và cái hài, cái lớn lẫn cái nhỏ. Có
thể diễn ra trong một không gian rộng ( hay hẹp) với một khối lƣợng nhân vật
không hạn chế.
Cuối cùng, tiểu thuyết là một thể loại mang bản chất tổng hợp. Từ trong
tiềm năng thể loại, tiểu thuyết có khả năng tổng hợp những phong cách nghệ
thuật của các thể loại văn học khác nhƣ thơ, kịch, ký…và khả năng tổng hợp
những thủ pháp nghệ thuật của các loại hình lân cận nhƣ điện ảnh, hội hoạ,
điêu khắc, âm nhạc… “Tiểu thuyết là một thể loại sinh sau đẻ muộn, vì vậy,
nó tiếp thu những cái tốt đẹp của các thể loại đã có ( anh hùng ca, thơ,
kịch…), sáng tạo thêm những yếu tố mới…Nhƣ một “ đứa con lai”, nó đẹp,

nó khoẻ, nó đầy sức sống” [61]. Trong nhiều trƣờng đoạn khác nhau, ngƣời
viết có thể vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo nhiều phƣơng thức: tự sự,
trữ tình, kịch. Trong quỹ đạo vận động của thể loại, ngƣời viết có thể khai
thác ƣu thế của điện ảnh, điêu khắc, âm nhạc, hội hoạ trong việc lắp ghép các

20
mảng không gian, đặc tả chi tiết, tạo hình nhân vật, phối âm, hoà sắc…Ngoài
ra, tiểu thuyết còn có khả năng dung nạp các hình thức của nhiều lĩnh vực
khoa học, trong đó có cả lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học ứng dụng,
khoa học viễn tƣởng.
Là một thể loại lớn của văn học, tiểu thuyết luôn luôn lƣu giữ trong mình
những yếu tố “ cổ sơ bất tử”, đồng thời không ngừng đƣợc hồi sinh đổi mới.
Với những ƣu thế đặc biệt của mình, tiểu thuyết càng ngày càng trở nên bổ
ích đối với nhận thức nghệ thuật của con ngƣời. Chừng nào nhân loại vẫn
khát khao đi tìm câu trả lời cho sự tồn tại của kiếp nhân sinh, khát khao lƣơng
thiện, khát khao tìm kiếm những cá tính nghệ thuật độc đáo, chừng đó tiểu
thuyết vẫn là một thể loại không thể thay thế.
1.1.2. Vấn đề đổi mới về quan niệm hiện thực và con ngƣời trong tiểu
thuyết sau 1975
Tiểu thuyết là một thể loại bám rễ sâu vào hiện thực đời sống và con
ngƣời thời đại, từ đó hút lấy nguồn dinh dƣỡng vô tận để phát triển và sáng
tạo. Chính vì vậy mà nó luôn song hành và không ngừng đổi mới tƣ duy sao
cho phù hợp với hiện thực, con ngƣời và tƣ tƣởng thời đại. Nói đến sự luôn
luôn đổi mới trong tƣ duy tiểu thuyết, nhà nghiên cứu N.T Rymar trong công
trình “ Tƣ duy tiểu thuyết và văn hoá thế kỉ XX” khẳng định: “ Nếu tiểu thuyết
có chết thì nó cũng chết từ từ, nghĩa là nó không chết với tƣ cách một thể loại
mà với tƣ cách một hình thức của thể loại này từng tồn tại trong lịch sử, nó
chết để thể loại hồi sinh và có khả năng có một cuộc sống mới”.[63]
Cùng với bƣớc chuyển mình của thời đại sang thời kì đổi mới, tiểu
thuyết - một loại hình tự sự cỡ lớn - cũng đang nỗ lực chuyển mình, đổi mới

tƣ duy nghệ thuật đặc biệt là cách tiếp cận hiện thực và con ngƣời, nhằm đáp
ứng yêu cầu của thời đại, của đời sống văn học và của đông đảo độc giả
đƣơng đại. Văn học thời đổi mới là giai đoạn chuyển biến từ tƣ duy sử thi

21
sang tƣ duy tiểu thuyết, từ cảm hứng lịch sử dân tộc sang cảm hứng thế sự đời
tƣ. Tiểu thuyết đã phát huy đƣợc khả năng tiếp cận và phản ánh hiện thực, con
ngƣời trong giai đoạn mới một cách nhanh nhậy và sắc bén.
Năm 1945 – 1975 là một giai đoạn đầy biến động của lịch sử nƣớc nhà.
Chúng ta phải chiến đấu chống hai kẻ thù xâm lƣợc là thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ. Điều kiện lịch sử ấy đã đặt ra cho văn học mục tiêu cứu nƣớc, nhà
văn là chiến sĩ và “ văn hoá – nghệ thuật là một mặt trận”. Giao cho văn học
nhiệm vụ dùng ngòi bút để chiến đấu chống kẻ thù, khích lệ tinh thần đấu
tranh của toàn dân tộc và tiểu thuyết cũng không nằm ngoài quỹ đạo chung
đó. Chính vì vậy, tiểu thuyết thời kì này mang tinh thần sử thi, diễn đạt kinh
nghiệm cộng đồng. Con ngƣời trong giai đoạn này là con ngƣời sống với cộng
đồng, xả thân vì nghĩa lớn, tìm thấy ý nghĩa cuộc đời trong sự gắn bó với
cộng đồng. Con ngƣời quen sống giữa đám đông, hoà mình với tập thể ít có
dịp đối diện với bản thân, sống với chính mình. Tƣ duy ấy đƣợc thể hiện rất
rõ trong các cuốn tiểu thuyết: Đất nƣớc đứng lên ( 1956) của Nguyên Ngọc,
Hòn đất (1964) của Anh Đức, Bão biển ( 1969) của Chu Văn, Dấu chân
ngƣời lính ( 1972) của Nguyễn Minh Châu và nhiều cuốn tiểu thuyết khác.
Trong sự vận hành chung của thể loại, nhìn lại những năm tiền đổi mới
(1975-1985) không thể không ghi nhận sự xuất hiện của một loạt tiểu thuyết
gây tiếng vang một thời nhƣ những tín hiệu dự báo mở ra một thời kỳ mới
trong sáng tạo và tiếp nhận văn chƣơng hiện đại nhƣ: Miền cháy (1977), Lửa
từ những ngôi nhà ( 1977) của Nguyễn Minh Châu, Cha và con và…( 1979)
của Nguyễn Khải, Những khoảng cách còn lại ( 1984), Đứng trƣớc biển (
1984), Cù laoTràm ( 1985) của Nguyễn Mạnh Tuấn, Mƣa mùa hạ ( 1982),
Mùa lá rụng trong vƣờn ( 1985) của Ma Văn Kháng… Các tác phẩm thời kì

này đã có khuynh hƣớng vừa mở rộng đề tài,vừa cố cƣỡng lại “ từ trƣờng”
của tiểu thuyết sử thi để gia tăng chất thế sự, đời tƣ. Hiện thực đƣợc miêu tả

×