Tải bản đầy đủ (.pdf) (193 trang)

Sự chuyển đổi thi pháp từ ca dao cổ truyền đến ca dao hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.43 MB, 193 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


Nguyễn Hằng Phƣơng




SỰ CHUYỂN ĐỔI THI PHÁP
TỪ CA DAO CỔ TRUYỀN ĐẾN CA DAO
HIỆN ĐẠI

(Trên tư liệu ca dao trữ tình người Việt)

Chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số : 50407



LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN




HÀ NỘI - 2004


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



Nguyễn Hằng Phƣơng


SỰ CHUYỂN ĐỔI THI PHÁP
TỪ CA DAO CỔ TRUYỀN ĐẾN CA DAO
HIỆN ĐẠI

(Trên tư liệu ca dao trữ tình người Việt)

Chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số : 50407


LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN


Người hướng dẫn khoa học
GS. TS. NGUYỄN XUÂN KÍNH
PGS. TS. TRẦN ĐỨC NGÔN




HÀ NỘI - 2004
MỤC LỤC

Chương 1 12
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU SỰ CHUYỂN ĐỔI THI PHÁP TỪ
CA DAO CỔ TRUYỀN ĐẾN CA DAO HIỆN ĐẠI 12

1.1. Thi pháp, thi pháp học và thi pháp văn học dân gian 13
1.1.1. Thi pháp và thi pháp học 13
1. 1.2. Thi pháp văn học dân gian 15
1.2. Khái niệm ca dao cổ truyền và vấn đề ca dao hiện đại 18
1.2.1. Khái niệm ca dao cổ truyền 18
1.2.2. Vấn đề ca dao hiện đại 19
Chương 2 51
SỰ CHUYỂN ĐỔI ĐỀ TÀI VÀ CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO 51
TỪ CA DAO CỔ TRUYỀN ĐẾN CA DAO HIỆN ĐẠI 51
2.1. Đề tài trong ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại 52
2.1.1. Khái niệm đề tài 52
2.1.2. Vấn đề đề tài trong sáng tạo văn học nghệ thuật và việc nghiên cứu nó trong quá trình
tìm hiểu các yếu tố thi pháp của ca dao người Việt 54
2.1.3. Những đề tài có mặt trong ca dao 58
2.2. Cảm hứng chủ đạo trong ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại 78
2.2.1. Khái niệm cảm hứng chủ đạo và việc tìm hiểu cảm hứng chủ đạo trong văn học nghệ
thuật 78
2.2.2. Cảm hứng chủ đạo trong ca dao 80
Chương 3 93
SỰ CHUYỂN ĐỔI CỦA NHÂN VẬT TRỮ TÌNH 93
TỪ CA DAO CỔ TRUYỀN ĐẾN CA DAO HIỆN ĐẠI 93
3.1. Các khái niệm 94
3.1.1. Khái niệm nhân vật trữ tình 94
3.1.2. Khái niệm nhân vật trữ tình trong ca dao 95
3.2. Những điểm tương đồng và dị biệt về phương diện nhân vật trữ tình giữa ca dao cổ
truyền và ca dao hiện đại 97
3.2.1. Những điểm tương đồng 98
3.2.2. Những điểm dị biệt 107
Chương 4 142
SỰ CHUYỂN ĐỔI NGÔN NGỮ 142

TỪ CA DAO CỔ TRUYỀN ĐẾN CA DAO HIỆN ĐẠI 142
4.1. Ca dao với các phương thức nghệ thuật tạo hình và biểu hiện 144
4.1.1. Khái niệm phương thức tạo hình, phương thức biểu hiện và mối quan hệ giữa chúng với
chức năng phản ánh hiện thực của văn học nghệ thuật và ca dao 144
4.1.2. Những khác biệt giữa ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại trong việc sử dụng các
phương thức nghệ thuật 147
4.2. Ca dao với tính mơ hồ đa nghĩa trên bình diện ngôn ngữ văn học 163
4.2.1. Khái niệm tính mơ hồ đa nghĩa trong văn học nghệ thuật 163
4.2.2. Những khác biệt của tính mơ hồ đa nghĩa trên bình diện ngôn ngữ văn học trong ca dao
cổ truyền và ca dao hiện đại 164
KẾT LUẬN 179
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 188






















QUY ƢỚC TRÌNH BÀY

1. Về nghĩa của ký hiệu
a. Chữ số Ả rập (1,2,3…) đứng ở bên trái mỗi lời ca dao cổ truyền là số
thứ tự của lời đó trong bộ Kho tàng… đồng thời là tên gọi của lời khi kết hợp
với chữ cái đầu của lời ca dao; đứng ở bên trái mỗi lời ca dao hiện đại là số thứ
tự của lời đó trong sách trích dẫn.
b. Sau mỗi lời ca dao cổ truyền:
Chúng tôi lấy nguyên văn các chú thích về xuất xứ mỗi lời ca dao in trong
bộ Kho tàng (chỉ dựng bản chớnh nờn chỉ ghi xuất xứ bản chớnh)
- Các chữ cái là tên sách (viết tắt) được dùng để tập hợp ca dao vào bộ
Kho tàng
- Cỏc chữ số La mó là tờn tập và quyển sỏch
- Các chữ số Ả rập là tên trang sách có ghi lời đó
Vớ dụ: 1. Ai ăn cau cƣới thỡ đền
Tuổi em cũn bộ chƣa nên lấy chồng
HPV164 NASLI22b NGCK 118b TCBDI199 TNPDI 17
Như vậy, lời ca dao A1 ở trên có 1 bản chính được ghi trong 5 sách: Hát
phường vải, trang 164; Nam âm sự loại, tập I, trang 22b; Nam giao cổ kim lý
hạng ca dao chỳ giải, trang 118b; Thi ca bỡnh dõn Việt Nam, tập I, trang 199;
Tục ngữ phong dao, tập I, trang 17.
Riờng 3 cuốn sỏch Tục ngữ và dõn ca Việt Nam (Tục ngữ ca dao dõn ca
Việt Nam) thỡ cú ký hiệu riờng, sẽ trỡnh bày cựng với bảng chữ tắt sau:
1. ANPT An Nam phong thổ thoại
2. CDTCM Ca dao trước cách mạng
3. CDTH Ca dao sưu tầm ở Thanh Hóa
4. CVPD Cổ Việt phong dao

5. DCBTT Dõn ca Bỡnh Trị Thiờn
6. DCNTBI Dõn ca Nam Trung bộ, tập I
7. DCNTBII Dõn ca Nam Trung bộ, tập II
8. DCTH Dõn ca Thanh Húa
9. ĐNQT Đại Nam quốc tỳy
10. HHĐN Hương hoa đất nước
11. HPV Hát phường vải
12. HT Hợp tuyển thơ văn ViÖt Nam Văn học dân gian
13. LHCD Lý hạng ca dao
14. NASLI Nam õm sử loại, quyển I
15. NASLII Nam õm sử loại, quyển II
16. NASLIII Nam õm sử loại, quyển III
17.NGCK Nam giao cổ kim lý hạng ca dao chỳ giải
18. NPGT Nam phong giải trào
19. PDCD Phong giao, ca dao, phương ngôn, tục ngữ
20. TCBDI Thơ ca bỡnh dõn Việt Nam, tập I
21. TCBDII Thơ ca bỡnh dõn Việt Nam, tập II
22. TCBDIII Thơ ca bỡnh dõn Việt Nam, tập III
23. TCBDVI Thơ ca bỡnh dõn Việt Nam, tập IV
24. THQP Thanh Húa quan phong
25. TNPDI Tục ngữ phong dao, tập I
26. TNPDII Tục ngữ phong dao, tập II
27. VNP1I Tục ngữ và dõn ca Việt Nam, xuất bản lần thứ nhất, tập I
28. VNP1II Tục ngữ và dõn ca Việt Nam, xuất bản lần thứ nhất, tập II
29. VNP7 Tục ngữ ca dao dõn ca Việt Nam, xuất bản lần thứ bảy
c. Sau mỗi lời ca dao hiện đại:
Chữ cái sau mỗi lời ca dao hiện đại là tên (viết tắt) của các cuốn sách chúng
tôi lấy làm tư liệu nghiên cứu. Tôn trọng tính lịch sử của tư liệu, chúng tôi ghi
nguyên dạng tên sách, tập sách do Nhà xuất bản in, ví dụ: Ca dao chống Mỹ cứu
nước tập ba, Ca dao chống Mỹ cứu nước tập IV,…

Sau đây là bảng chữ viết tắt:
1. CDCMCN t. ba Ca dao chống Mỹ cứu nước tập ba
2. CDCMCN t. IV Ca dao chống Mỹ cứu nước tập IV
3. CDVN 1945-1975 Ca dao Việt Nam 1945-1975
4. CDST từ 1945 đến nay Ca dao sưu tầm từ 1945 đến nay
5. CHOGLD Cụ Hồ ở giữa lũng dõn
2. Về quy ước dùng ký hiệu
Cỏc ký hiệu thụng bỏo về xuất xứ của ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại chỉ
áp dụng trong trường hợp những lời trích dẫn ca dao rút từ các cuốn sách.
Trường hợp các lời ca dao nằm trong phần trích dẫn nguyên văn một ý kiến nào
đó hoặc lấy từ các bài viết lẻ, chúng tôi dùng chú thích (tra ở phần tài liệu tham
khảo) để chỉ dẫn xuất xứ.
Vớ dụ:Lời ca dao Ch 211 sau rỳt từ bộ Kho tàng, chỳng tụi thụng bỏo xuất
xứ bằng ký hiệu:
211. Chẳng tham vựa lúa anh đầy
Tham năm ba chữ cho tày thế gian
TCBDI503 TCBDIII 146 TNDI 85
Cũn lời ca dao sau lấy từ một bài viết, chỳng tụi dựng chỳ thích để chỉ dẫn
xuất xứ:
Cỏn bộ lỏt chun lỏt hoa
Chỳng em nỏt da nỏt cổ. [92.46 ]




Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
SỰ CHUYỂN ĐỔI THI PHÁP TỪ CA DAO CỔ TRUYỀN
ĐẾN CA DAO HIỆN ĐẠI
Suy cho cùng, nghiên cứu khoa học là nhằm thoả mãn những nhu cầu về

nhận thức và cải tạo thế giới. Để thực hiện được điều đó một cách tốt nhất trong
điều kiện có thể, không thể không dựa trên cơ sở lý luận và thực tế của chuyên
ngành. Những cơ sở khoa học đó nếu được chuẩn bị đầy đủ sẽ tạo điều kiện cho
nghiên cứu khoa học có thể thực hiện tốt những chức năng cơ bản như mô tả,
giải thích, tiên đoán và sáng tạo khoa học. Và chính những chức năng trên sẽ
giúp nghiên cứu khoa học đạt được mục đích đã đặt ra.
Thực hiện luận án Sự chuyển đổi thi pháp từ ca dao cổ truyền đến ca dao
hiện đại cũng cần đi theo con đường nhận thức như trên. Ở đây, xây dựng,
chuẩn hoá, thống nhất các khái niệm, thuật ngữ có liên quan đến đối tượng
nghiên cứu là vấn đề cần được xem xét. Đặc biệt, sự ưu tiên chú ý đến những
vấn đề khác có mối quan hệ với ca dao hiện đại - một bộ phận thơ dân gian gây
nhiều ý kiến tranh luận tất sẽ phải đặt ra ở chương này.
1.1. Thi pháp, thi pháp học và thi pháp văn học dân gian
Nếu đặt vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ thì nhiều nội dung sẽ phải giải
quyết ở mục này. Tuy nhiên, do điều kiện tư liệu và trong giới hạn của đề tài
luận án, người viết chủ yếu quan tâm đến những khái niệm cơ bản của khoa học
thi pháp, khoa học thi pháp chuyên ngành; qua đó thể hiện quan điểm về việc sử
dụng các khái niệm trong phạm vi đề tài luận án.
1.1.1. Thi pháp và thi pháp học
Theo các nhà nghiên cứu, cho tới nay vẫn chưa tìm thấy một cách hiểu
thống nhất về khái niệm thi pháp và thi pháp học.Một số nhà lý luận văn học
Nga như M.Khrapchenko, A.Bushmin, G.Pospelov, P.Nikolaev, L.Timofeev
đều cho rằng hiện nay các định nghĩa về thi pháp đều mơ hồ hỗn hợp, quan hệ
của nó với nhiều bộ môn nghiên cứu văn học chưa được xác định rõ ràng [Dẫn
theo 143.57]. Trong thực tế, cách hiểu về các khái niệm trên của các nhà nghiên
cứu Nga khác nhau và giữa họ với các nhà nghiên cứu Pháp, Mỹ cũng có nhiều
điểm không tương đồng. Tuy vậy, “nếu chưa đi sâu vào các khía cạnh riêng lẻ
mà cần có cái nhìn tổng quan, thì không thể không thấy rằng, dù khác nhau bao
nhiêu, thi pháp vẫn có một phạm vi xác định. Đó là nghệ thuật và thi pháp học là
khoa học nghiên cứu văn học với tƣ cách là một nghệ thuật. Định nghĩa này có

thể bao hàm mọi cách hiểu rộng, hẹp khác nhau nhất về thi pháp và thi pháp
học”[143.57]. Aritxtôt (384 - 322 tr.CN) - nhà bác học và triết học Hylạp cổ đại
trong cuốn Thi pháp học đã xác định thi pháp học là khoa học nghiên cứu về
nghệ thuật thi ca như là một nghệ thuật. Sau ông, các nhà thi pháp học vẫn tiếp
tục duy trì truyền thống nghiên cứu đó.
Ở Nga, các nhà nghiên cứu đã có những phát biểu chính thức về thi pháp
học qua các công trình của mình. Chẳng hạn, V. Zhirmunsky trong Nhiệm vụ
của thi pháp học (1919 - 1923) viết: “Thi pháp học là khoa học nghiên cứu văn
học như là một nghệ thuật”. V. V. Vinôgradov (1963) cũng nêu định nghĩa: “Thi
pháp học là khoa học “về các hình thức, các thể, các phương tiện, phương thức
sáng tạo nghệ thuật ngôn ngữ, về các kiểu cấu trúc, các thể loại tác phẩm văn
học C. Khráptrencô - một trong những đại diện tiêu biểu của trường phái thi
pháp học lịch sử ở Liên Xô viết: “Không hề kỳ vọng một định nghĩa thật đầy đủ,
thật bao quát, tôi cho rằng có thể xác định thi pháp học như môn khoa học
nghiên cứu các phương thức và phương tiện thể hiện cuộc sống bằng nghệ thuật,
khám phá cuộc sống bằng hình tượng” [70.242]. Có thể nói, đây là một trong
những định nghĩa tổng quát nhất và thuyết phục nhất về thi pháp học [34.298].
Các nhà nghiên cứu phương Tây xem ra ưa những đối tượng nghiên cứu cụ
thể hơn. R. Jakobson (1960), từ góc độ ngôn ngữ học xác định nhiệm vụ thi
pháp học là “nghiên cứu chức năng thơ của phát ngôn thơ”. TS. Todoror (1973)
thì coi đối tượng của thi pháp học là các “thuộc tính đặc trưng của ngôn từ văn
học”, “các quy luật chung của sự tồn tại của văn học”. Cũng có khi, thi pháp học
được thu hẹp trong một thể loại thi ca, chẳng hạn Từ điển thuật ngữ phê bình
văn học phƣơng Tây hiểu thi pháp học là: “hệ thống lý luận hay học thuyết lấy
thơ làm đối tượng nghiên cứu để khám phá các quy tắc và nguyên tắc sáng tác
thi ca”. Trong công trình Việt Nam văn học sử yếu của nhà nghiên cứu Dương
Quảng Hàm (Việt Nam) hoặc trong công trình Thi pháp học khái thuật của
Trương Tư Tự (Trung Quốc), thi pháp học còn được hiểu thu hẹp hơn, chỉ là hệ
thống phép tắc, cách luật của thơ [143.58].
Ở Việt Nam, các nhà khoa học đã vận dụng những vấn đề lý luận trên vào

nghiên cứu cụ thể. Tuy nhiên, mới qua tìm hiểu một số định nghĩa về thi pháp
và thi pháp học, chúng ta đã thấy bộc lộ nhiều quan điểm khác nhau. Vấn đề
không đặt ra ở đây là phê phán quan điểm nào, song chọn cách hiểu nào là điều
cần thiết. Tác giả sách Văn học và thời gian cho rằng: “Nhìn chung, có hai cách
hiểu về thi pháp. Một là lý luận khoa học về nghệ thuật ngôn từ. Truyền thống
này có từ Aritxtôt, Horace, Boa Lô. Một số tác giả hiện đại phương Tây như R.
Jakobson, N. Frye, TS. Todorov xem thi pháp là lý luận về các quy luật chung
của văn học, của thể loại ( ). Hai là, hệ thống các nguyên tắc sáng tạo của một
tác giả, nhóm tác giả hoặc trường phái, giai đoạn, thời đại mà với chúng, các
sáng tác đã được tạo ra trong thực tế văn học. Ở đây, điều quan trọng không phải
là các khái niệm lý luận của nhà lý luận, mà là cách quan niệm, cách hiểu của
nhà văn đã chi phối cách sáng tác, vận dụng ngôn ngữ, hư cấu nhân vật, bộc lộ
cá tính, xây dựng thể loại. Cách hiểu này cũng có truyền thống từ Aritxtốt,
nhưng quan niệm thi pháp như thế tồn tại cùng văn học, trong văn học và trước
Aritxtốt nhiều” [146.10].
Trong luận án này, chúng tôi cơ bản tán đồng khái niệm thi pháp theo cách
hiểu thứ hai.
1. 1.2. Thi pháp văn học dân gian
Nhìn một cách khái quát thì lịch sử thi pháp học là một quá trình phát triển
theo chiều hướng tích cực. Cùng với bước đi của thời gian, bộ môn khoa học
này càng ngày càng được chuyên biệt hoá, lúc đầu nó là một bộ phận nằm trong
mỹ học và lý luận văn học, sau tách ra trở thành bộ môn khoa học độc lập. Đối
tượng nghiên cứu của bộ môn khoa học này cũng dần dần được mở rộng, đầu
tiên là thơ sau đó là cả thơ và văn xuôi; đầu tiên là văn học viết sau đó là cả văn
học viết và văn học dân gian. Việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian không
chỉ mở rộng phạm vi, đối tượng nghiên cứu của khoa học thi pháp mà còn đem
đến cho bộ môn khoa học này những kết quả khả quan và mở ra những hướng
nghiên cứu có hiệu quả.(Chẳng hạn, công trình của Prốp và hướng nghiên cứu
cấu trúc). Vậy thi pháp văn học dân gian là gì? Nghiên cứu thi pháp văn học dân
gian là nghiên cứu những vấn đề gì?

Crapxốp (1906-1980) - nhà pholklore học Xô viết cho rằng: “Thi pháp với
tư cách là tổng hợp những đặc điểm hình thức nghệ thuật của các tác phẩm ngôn
từ bao gồm:
a. Những đặc điểm của cấu trúc tác phẩm;
b. Hệ thống những phương tiện phản ánh, nhờ những phương tiện này mà
văn học viết và văn học dân gian xây dựng những bức tranh về cuộc sống,
những hình tượng về con người và tái tạo những hiện tượng khác nhau của thực
tại (các sự kiện lịch sử; sinh hoạt và đạo đức của con người; thiên nhiên);
c. Những chức năng tư tưởng thẩm mỹ của cấu trúc tác phẩm và những
chức năng tư tưởng thẩm mĩ của các phương tiện thể hiện tác phẩm (sự thể hiện
một cách xúc cảm trước hiện thực, sự đánh giá những sự kiện và hành vi của
nhân vật, sự khám phá ý đồ sáng tạo cùng giá trị tư tưởng nghệ thuật và tay nghề
sáng tạo ra tác phẩm) [Dẫn theo 81. 27-28].
Crapxốp còn cho rằng văn học dân gian và văn học viết có cái chung,
nhưng đồng thời văn học dân gian có đặc điểm riêng là sáng tạo của quần chúng
nhân dân. Ông lại chỉ ra rằng, thi pháp văn học dân gian còn là những đặc điểm
của hình thức, của cách thức thể hiện và biểu hiện riêng của từng nghệ nhân.
Cuối cùng thi pháp bao gồm cả những đặc điểm của dân tộc [Dẫn theo 81.28].
Như vậy, tuy chưa chính thức định nghĩa về thi pháp văn học dân gian
song Crapxốp đã có ý thức phân biệt sự khác nhau giữa thi pháp văn học viết và
thi pháp văn học dân gian khi đưa ra khái niệm thi pháp. Có thể nói, Crapxốp đã
gián tiếp phát biểu định nghĩa thi pháp văn học dân gian và thực chất, khái niệm
thi pháp văn học dân gian đã được nhà folklore học Xô viết này xác định.
Chu Xuân Diên trong bài viết Về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân
gian cũng đã khẳng định tầm quan trọng của việc nghiên cứu thi pháp văn học
dân gian và định nghĩa như sau:
“Thi pháp văn học dân gian là toàn bộ các đặc điểm về hình thức nghệ
thuật, về phương thức và thủ pháp miêu tả biểu hiện, về cách cấu tạo đề tài, cốt
truyện và phương pháp xây dựng hình tượng con người Việc nghiên cứu thi
pháp văn học dân gian bao gồm từ việc khảo sát những yếu tố thi pháp riêng lẻ

như phép so sánh thơ ca, các biểu tượng và luật thơ, các mô típ và cách cấu tạo
cốt truyện, cách mô tả diện mạo bên ngoài và tâm lý bên trong của nhân
vật đến việc khảo sát những đặc điểm thi pháp chung của từng thể loại, và cuối
cùng là nêu lên những đặc điểm phổ thông và những đặc điểm dân tộc của thi
pháp văn học dân gian nói chung. Nghiên cứu thi pháp văn học dân còn bao gồm
cả việc khảo sát những đặc điểm phong cách cá nhân của người sáng tạo và diễn
xướng trong mối quan hệ với những đặc điểm thi pháp truyền thống.”[24.19]
Các định nghĩa ở trên cho thấy thi pháp nói chung, thi pháp văn học dân
gian nói riêng là vấn đề khá rộng. Nó không chỉ bao gồm các yếu tố hình thức
nghệ thuật đơn thuần mà còn là những yếu tố nội dung mang tính hình thức. Đó
là những yếu tố nằm trong văn bản. Riêng với bộ phận văn học dân gian, ngoài
những yếu tố nằm trong văn bản được coi là đối tượng khảo sát chính, yếu tố
ngoài văn bản như đặc điểm phong cách cá nhân của người sáng tạo, phương
thức diễn xướng cũng cần được xem xét. Bởi nó góp phần làm nên nét riêng
biệt của tác phẩm văn học dân gian, tạo ra thi pháp văn học dân gian.
Nghiên cứu sự vận động biến đổi của thi pháp ca dao, việc xác định yếu tố
nào nằm trong bình diện thi pháp là cần thiết. Tất nhiên, hạn định các yếu tố thi
pháp nằm trong giới hạn nghiên cứu cũng cần phải đặt ra. Quy chiếu vào luận
án, chúng tôi xác định những yếu tố thi pháp chủ yếu cần nghiên cứu là đề tài,
cảm hứng chủ đạo, nhân vật trữ tình và ngôn ngữ. Đây không chỉ là những yếu
tố thi pháp quan trọng trong văn bản trữ tình mà còn là những yếu tố thi pháp có
sự vận động biến đổi rõ rệt trong ca dao người Việt. Ngoài ra, yếu tố ngoài văn
bản ca dao - phƣơng thức diễn xƣớng có vai trò không nhỏ trong việc biểu đạt
nội dung trữ tình cũng sẽ được đề cập đến trong những trường hợp cần thiết.
Chúng tôi hy vọng, tìm hiểu phƣơng thức diễn xƣớng là một trong những cố
gắng bước đầu góp phần hoàn thiện hướng nghiên cứu ca dao theo tinh thần
khoa học thi pháp.
1.2. Khái niệm ca dao cổ truyền và vấn đề ca dao hiện đại
1.2.1. Khái niệm ca dao cổ truyền
Có thể nói, nhiều vấn đề liên quan đến việc nhận diện ca dao cổ truyền như

hệ chủ đề, đề tài, chức năng và đặc điểm thi pháp đều đã được minh định. Các
nghiên cứu về ca dao cổ truyền của giới khoa học nước ta trong đó có nhiều nhà
folklore học không những đã khẳng định sự tồn tại của thể loại ca dao mà còn
xác nhận rằng có thi pháp ca dao. Tất cả những điều đó đã tạo nên một quan
niệm khá nhất quán về ca dao cổ truyền. Tuy nhiên, khái niệm ca dao cổ truyền
vẫn cần được thống nhất cách hiểu.
Thuật ngữ ca dao đã từng được dùng với nhiều nghĩa rộng, hẹp khác nhau.
Theo nghĩa gốc thì “ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có khúc
điệu” [180. 26].
Và một thời “ca dao là danh từ chung chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành
phổ biến trong dân gian có hoặc không có khúc điệu” [180. 26]. Ở trường hợp
này, ca dao đồng nghĩa với dân ca.
Trên thực tế, nội hàm khái niệm ca dao đã dần dần có sự thu hẹp. Hiện nay,
các nhà nghiên cứu cơ bản thống nhất “dùng danh từ ca dao để chỉ riêng thành
phần nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ) của dân ca (không kể những tiếng đệm,
tiếng láy, tiếng đưa hơi)” [180. 26]. Với nghĩa này, ca dao là bộ phận chủ yếu và
quan trọng nhất của thơ dân gian truyền thống. Thí dụ lời ca dao: Còn duyên kể
đón ngƣời đƣa / Hết duyên đi sớm về trƣa mặc lòng được xem là rút ra từ bài
dân ca quan họ Bắc Ninh Còn duyên với những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa
hơi như sau: Còn duyên (là duyên) kẻ đón (kẻ đón) người đưa. Hết duyên (là
duyên) đi sớm (đi sớm) về trưa (chứ trưa) mặc lòng. Người còn không đôi tôi
cũng (ố không là) còn không, (Ha hội ha, hư hội hư là hứ hội hừ),
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giới nghiên cứu nước ta đã sử dụng
tập hợp từ ca dao hiện đại (hay ca dao mới) để phân biệt với ca dao cổ truyền
(còn gọi là ca dao cổ).
Như vậy, ca dao cổ truyền (hay ca dao cổ) là khái niệm chỉ riêng thành
phần nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ) của dân ca (không kể tiếng đệm, tiếng
láy, tiếng đƣa hơi) đƣợc sáng tác và sƣu tầm chủ yếu từ Cách mạng Tháng Tám
trở về trƣớc.
1.2.2. Vấn đề ca dao hiện đại

Tìm hiểu ca dao hiện đại, muốn hay không cũng phải đề cập đến một số
vấn đề có liên quan tới sự ra đời, tồn tại, phát triển và những tiêu chí nhận diện
nó. Bởi trên thực tế, trong xã hội hiện đại, có nhiều tác phẩm thơ ca hoặc do
quần chúng sáng tác lưu truyền hoặc do các nhà thơ chuyên nghiệp sáng tác
đều có đặc điểm nội dung và hình thức nghệ thuật mang dấu ấn dân gian. Vậy
thực chất, ca dao hiện đại với tư cách là một thể loại của sáng tác dân gian có
còn tồn tại? Thời điểm ra đời, tình hình phát triển và đặc điểm thi pháp của nó ra
sao? Dựa trên cơ sở nào mà ta có thể nhận diện được bộ phận thơ dân gian này?
Đó là những vấn đề mà chúng tôi sẽ cố gắng làm sáng tỏ trước khi đưa ra khái
niệm ca dao hiện đại.
1.2.2.1. Thực tế tồn tại của ca dao hiện đại
Có hay không có văn học dân gian hiện đại? Đó là vấn đề đã từng gây
nhiều ý kiến tranh luận trong giới nghiên cứu nói chung. Ở Liên Xô cũ, từ
những năm 30 của thế kỷ XX, các cuộc thảo luận về vấn đề này đã từng diễn ra
khá sôi nổi. Một số ý kiến phủ nhận “Cái hiện đại” trong văn học dân gian,
không công nhận có folklore hiện đại. Song, nhiều nhà khoa học Nga như: V. E.
Guxep, S.Nadobelep, K. V. Tsixtốp .v.v vẫn khẳng định có sự tồn tại của
folklore trong thời kỳ hiện đại.
Ở Việt Nam, từ những năm 60, vấn đề văn học dân gian hiện đại cũng đã
được đặt ra. Đặc biệt, vào năm 1969, cuộc thảo luận về vấn đề này trên Tạp chí
Văn học đã thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu.
Trong điều kiện lịch sử xã hội mới, những hình thức văn hoá văn nghệ dân
gian đích thực gần như vắng bóng; nhu cầu tinh thần của nhân dân cũng gần như
được thoả mãn bởi sự phát triển mạnh mẽ của những sáng tạo nghệ thuật chuyên
nghiệp, vì thế có ý kiến cho rằng văn học dân gian không còn cơ sở để tồn tại
[135.44]. Hoặc gần đây có những nhà nghiên cứu phân vân về tương lai của thể
loại tiêu biểu có tính linh hoạt và có sức sống lâu bền như ca dao.
Tuy nhiên, phần đông các nhà nghiên cứu vẫn khẳng định sự tồn tại tự
nhiên và vai trò quan trọng của văn học dân gian hiện đại trong đời sống xã hội.
Theo dòng thời gian, những ý kiến của các tác giả như Hà Châu [17], Vũ Ngọc

Phan [134], Chu Xuân Diên [26], Trần Đức Các [5], Nguyễn Văn Diệu [29],
Nguyễn Tấn Đắc [32], Trần Quốc Vượng [185], Trần Gia Linh [92]. Cao Huy
Đỉnh [37], Đặng Văn Lung [93] đều khẳng định sự tồn tại của văn học dân gian
hiện đại và vai trò của nó trong đời sống xã hội hiện nay.
Có thể nói, trong những sáng tác dân gian hiện đại, ca dao là một thể loại
khá tiêu biểu, có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Theo giới thuyết ở phần
mở đầu, chúng tôi chủ yếu nghiên cứu những lời ca dao hiện đại được sáng tác
và sưu tầm từ 1945 đến 1975. Từ 1975 đến nay vì những lý do chủ quan và
khách quan, phong trào sáng tác cũng như công tác sưu tầm, nghiên cứu bộ phận
ca dao mới này còn nhiều điều bất cập.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã mở ra một kỷ nguyên mới-
kỷ nguyên độc lập dân tộc- tạo điều kiện cho xã hội Việt Nam phát triển về mọi
mặt, trong đó có sự phát triển của khoa học Văn học dân gian. Tất nhiên, sự phát
triển của khoa học văn học dân gian nằm trong sự phát triển chung của toàn bộ
nền văn hoá mới, trên cơ sở ba nguyên tắc dân tộc hoá, đại chúng hoá và khoa
học hóa mà Đảng ta đã đề ra trong bản Đề cƣơng văn hoá Việt Nam năm 1943.
Thực ra, môn khoa học nghiên cứu thực sự có tính chất khoa học về văn
học dân gian được ra đời, phát triển trên cơ sở những sáng tạo văn hoá văn nghệ
dân gian và những thành tựu của việc sưu tầm, giới thiệu, nghiên cứu vốn văn
hoá văn nghệ đó Vậy, cùng với những sáng tạo văn hoá văn nghệ dân gian, thể
loại ca dao ở giai đoạn lịch sử mới này tồn tại và phát triển như thế nào?
Từ năm 1945 đến 1954 - một năm sau cách mạng và suốt chín năm kháng
chiến chống thực dân Pháp, thực hiện chủ trương “cách mạng hoá tư tưởng,
quần chúng hoá sinh hoạt” do Đảng phát động, các nhà văn hoá và văn nghệ sĩ
trong những đợt đi thâm nhập thực tế “đã có dịp được chứng kiến một sự phát
triển rầm rộ và phong phú của phong trào văn nghệ quần chúng”[25.87]. Cùng
với các thể loại khác của sáng tác dân gian, ca dao trong thời kỳ này xuất hiện
dưới những hình thức hết sức sáng tạo và độc đáo: “ca dao dán trên báng súng,
tông dao, lưỡi mác, bi đông, nồi chảo, ba lô, viết trên tường, trong lòng máng
tre, “đi theo” chiếc đòn gánh của anh nuôi gánh cơm ra trận địa”[25. 88].

Có lẽ hình thức sáng tạo sau là trường hợp rất hiếm gặp trong sáng tác thơ
ca dân gian. Theo Hoài Thanh, trong Nói chuyện thơ kháng chiến, ở “chiến dịch
Cao - Bắc - Lạng (1950) một đồng chí cấp dưỡng gài vào nắm cơm gánh ra trận
địa cho bộ đội chiến đấu mấy câu thơ:
Mời anh xơi nắm cơm chay,
Ăn no lấy sức phanh thây quân thù.
Bộ đội chiến đấu ngoài mặt trận đáp lại cũng bằng cách dán trả mấy câu
thơ vào chiếc đòn gánh gánh cơm:
Hôm nay tớ nhận cơm chay,
Ngày mai tớ gửi mƣời Tây làm quà "[ Dẫn theo 26. 51]
Điều kỳ diệu gì sẽ xảy ra khi những tác phẩm thơ ca ấy được quần chúng
đón nhận, lưu truyền, sáng tạo và nhân lên trong sinh hoạt lao động, chiến đấu?
Từ năm 1954 đến năm 1975 - thời kỳ dân tộc ta phát động cuộc kháng
chiến thần kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược ở miền Nam và xây dựng Chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, các hình thức đa dạng của ca dao lại được khơi nguồn và
phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Những tập Ca dao chống Mỹ, Ca dao chiến
sĩ liên tục ra đời từ phong trào sáng tác, sưu tầm ca dao ở tiền tuyến. Ở hậu
phương, các tập ca dao về chủ đề sản xuất và xây dựng cuộc sống mới, tất cả
cho tiền tuyến như: Hàng về (Ca dao về thương nghiệp), Của chung (ca dao về
chống tham ô lãng phí), Đẩy lùi sóng gió (ca dao phòng chống lụt bão), Biết đâu
nên vợ nên chồng từ đây (ca dao về sản xuất và hôn nhân), Ánh đèn bổ túc (ca
dao về bổ túc văn hoá), Thay ngƣời đi xa (ca dao về nông nghiệp), Ngàn xanh
(ca dao về lâm nghiệp), Khơi dòng nƣớc lên (ca dao về thuỷ lợi) lần lượt được
xuất bản. Lại có một số tập ca dao sưu tầm tập hợp từ các phong trào thi đua sản
xuất và chiến đấu, từ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ được ra
mắt độc giả: Ca dao kháng chiến, Ca dao sƣu tầm (từ 1945 đến nay) Một số
nhà xuất bản thời đó như: Nhà xuất bản Văn học, Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, Nhà xuất bản Phổ thông, đã rất tích cực trong việc sưu tầm, tuyển chọn ca
dao. Đặc biệt, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, trong nhiều lần xuất bản còn
mở hẳn một chuyên mục phản ánh tình hình sáng tác, sưu tầm và hướng dẫn

cách thức sáng tác, sưu tầm ca dao cho quần chúng, nhất là các chiến sĩ ngoài
mặt trận. Chẳng hạn, trong cuốn Ca dao chống Mỹ cứu nƣớc tập ba, Nhà xuất
bản ghi: “Chúng tôi xin mách nước với các đồng chí là nên thuộc thật nhiều ca
dao truyền thống, học lấy cách suy nghĩ bằng hình tượng của nhân dân lao động,
học lấy lời ăn tiếng nói của nhân dân, học cả lối biểu hiện nữa”. [11.69] Ban
biên tập còn phân tích nội dung và hình thức nghệ thuật một lời ca dao tiêu biểu
có nội dung chống Mỹ với nhan đề: “Cần thêm rất nhiều thơ ca căm thù như
thế”. Như vậy, rõ ràng dù đây là phong trào văn hóa văn nghệ không chuyên,
song yêu cầu về chất lượng trong đó có tính tư tưởng là điều mà các nhà xuất
bản hết sức quan tâm. Điều đó còn cho thấy, số lượng ca dao mà ngày nay
chúng ta lưu giữ được cũng mới chỉ là một phần được tuyển chọn từ trong số vô
vàn lời ca dao đã từng ra đời và lưu truyền trong quần chúng.
Sau 1975, các nhà xuất bản vẫn rải rác cho ra đời một số cuốn sưu tập ca
dao mới như: Ca dao Việt Nam (1945-1975), Ca dao chống Mỹ cứu nƣớc chọn
lọc, Cụ Hồ ở giữa lòng dân, Ca dao về Bác Hồ, Ca dao kháng chiến chống
Pháp chọn lọc v.v
Cụ Hồ là vị cha chung, Tháng giêng là tháng lập công, Bao giờ hết cỏ
Tháp Mƣời, Mau lên hỡi bạn xe thồ, Giao thừa cùng hẹn đón xuân, Cƣới xƣa
thách lợn thách vàng, Mình về ta chẳng cho về, Tay cầm vở toán bìa vàng, Hôm
qua đi chợ đƣờng xa, Ai ơi chớ lấy chồng non là một số lời ca dao tiêu biểu ra
đời trong các phong trào sáng tác, sưu tầm thời đó.
Tuy nhiên, hiện tượng sáng tác ca dao như sáng tác thơ không làm mất đi
vai trò quan trọng của việc sáng tạo và diễn xướng ca dao theo phương thức cổ
truyền. Những sinh hoạt tập thể mà các thành viên trong đó dựa trên giai điệu
dân ca cổ truyền để đặt lời mới vẫn xuất hiện trong xã hội hiện đại. Hình thức
văn nghệ phù hợp với hình thái sinh hoạt tập thể như hò tiếp vận, hò đối đáp
cũng vẫn được duy trì và trong những thời điểm lịch sử cụ thể, nó phát triển
thành phong trào ca hát quần chúng rất mạnh mẽ. Những sinh hoạt hò hát vừa
nêu chính là “biến thể trong những điều kiện xã hội mới của các loại hò lao động
và hát đối đáp trước cách mạng” [25.238]. Trong kháng chiến chống Mỹ, phong

trào “Tiếng hát át tiếng bom” cũng góp phần tích cực vào việc khơi dậy niềm
say mê sáng tạo thơ ca của quần chúng. Có thể nói, các hình thức ca hát trên là
mảnh đất màu mỡ để ca dao nảy mầm và phát triển.
Những ghi chép sau của các nhà nghiên cứu, nhà văn là một vài minh hoạ
chưa đầy đủ cho phong trào sáng tạo và thưởng thức thơ ca dân gian sôi nổi, hồn
nhiên đó.
Trong bài Những ngƣời sáng tác ca dao ở nông thôn hiện nay, tác giả Đặng
Văn Lung đã miêu tả một đêm lao động và sáng tác ca dao như sau: “Ở đây
không thể có sự thống kê chính xác nào về số lượng ca dao hôm ấy. Câu này
tiếp câu kia như tranh lợp nhà, khi giống nhau ở phần đầu, khi giống nhau ở
phần giữa hay phần cuối, thậm chí giống nhau hai phần ba hay cũng bài ấy đổi
đi mấy chữ. Người ta không nghĩ đến chất lượng câu ca dao vừa làm, cũng
chẳng nghĩ đến việc ghi lại, sửa chữa để gửi đến một bài báo nào, chỉ miễn sao
động viên được mọi người vui vẻ, hăng hái hoàn thành công việc của mình.
Ngƣời ta cũng không thể nhớ đƣợc câu ca dao ấy do ai làm ra”[95].
Đây là một đoạn miêu tả cảnh sinh hoạt văn nghệ trong khuôn khổ truyền
thống cũ do nhà văn Trần Đăng ghi lại vào thu đông năm 1949: “Xẩm tối, anh
chính trị viên xem đồng hồ tính nhẩm một chương trình sinh hoạt văn nghệ cấp
tốc Kiểm thảo nội bộ không còn gì để kiểm thảo nữa, ở các nhà, các trung
đội đã bắt đầu vui hát. Chèo Éttipô tẩu mã cười nôn ruột. Thơ. Tình quân dân, ý
nghĩa anh là bộ đội đi giết giặc, tôi là dân ở nhà tăng gia sản xuất. Những lời hai
ngƣời ngâm đối đáp văn hoa rất dài. Giọng ngâm tốt sang sảng của hai đội viên
thi nhau ngân dài và đọc l ra n: “Anh nà chiến sĩ ngàn phương”, “Tôi đi tô thắm
điệu đời đêm lay” nghe phơi phới, non trẻ, tươi thắm lạ thường ” [ Dẫn theo
25. 238].
Bài viết Từ một giọng hò quen thuộc (báo Quân đội nhân dân số 3890 ra
ngày - 12/3/1972) lại miêu tả cảnh sinh hoạt hò hát trong lao động của một đơn
vị thanh niên xung phong trong đó có “Sửu và Thức là hai cô ở tổ đánh mìn” nổi
tiếng về “giọng hò hay” và về “tài xuất khẩu thành hò”:
“Cuộc đối đáp của chúng tôi đang ở phút hào hứng. Cậu Ngà vừa mới cất

lên một câu: Em rằng mìn giỏi nhất min,
Dọa chồng có dọa giật mìn hay không?
Nguyễn Thị Thức liền trả lời ngay:
Mìn kia chị để mở đƣờng
Cho chồng ra trận diệt phƣờng xâm lăng!
Vợ em khuôn phép giỏi giang,
Dạy chồng chắc hẳn cũng không dùng mìn.
Ngà ta đỏ mặt tía tai lên, đành chịu khen: giỏi giỏi, nhưng phải truy cho cô
ta một câu nữa mới được:
Quê em hẳn đất gan gà,
Quả khế thì ngọt, đàn bà thì chua.
Lập tức cậu ta bị Thức dồn luôn:
Có chua mới át mùi tanh,
Quê hƣơng đánh giặc nổi danh Nam Hà.
Có về Kim Bảng cùng ta,
Để biết đàn bà vác giáo đuổi Tây "[Dẫn theo 25. 498]
Đó là những cảnh sinh hoạt văn nghệ, hò hát của quần chúng trong
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ mà các tác giả ghi lại được. Còn biết bao
nhiêu lần sinh hoạt văn nghệ, bao nhiêu cuộc hò hát và bao nhiêu lời ca dao, bao
nhiêu dị bản ca dao nảy sinh trong cuộc sống sinh hoạt, chiến đấu, lao động như
thế mà ta chưa sưu tầm lưu giữ được?
Thực tế sáng tác, sưu tầm, xuất bản ca dao ở trên cho thấy, trong giai đoạn
lịch sử hiện đại, ca dao nói riêng, các hình thức sinh hoạt văn hoá văn nghệ dân
gian nói chung vẫn tồn tại và phát triển. Có thể khẳng định rằng, chủ trương văn
nghệ phục vụ cuộc sống lao động và chiến đấu, văn nghệ trở về với cội nguồn
dân tộc của Đảng là nhân tố quan trọng thúc đẩy phong trào văn hoá, văn nghệ
quần chúng, góp phần bảo lưu và phát triển các hình thức sáng tạo văn nghệ dân
gian cổ truyền trong đó có thơ ca. Tuy nhiên, sự tồn tại, phát triển đó trước hết
xuất phát từ nhu cầu và khả năng sáng tạo, thưởng thức văn nghệ của đại bộ
phận quần chúng nhân dân. Nói như nhà thơ Xuân Diệu, đó là sự tồn tại khách

quan, không thể cưỡng lại được của hình thức sáng tạo nghệ thuật theo phương
thức tập thể và truyền miệng ngay cả trong những điều kiện lịch sử mới của đời
sống nhân dân. Hình thức sáng tạo này tuy không còn là hình thức duy nhất xưa
kia, song vẫn tiếp tục tồn tại để đáp ứng một loại nhu cầu sáng tạo tinh thần mà
những hình thức sáng tạo theo phương thức văn học thành văn không thể thoả
mãn được [Dẫn theo 25. 89].
Tất nhiên, do đòi hỏi cấp thiết của cuộc sống chiến đấu lao động khẩn
trương trong điều kiện lịch sử xã hội mới, do chưa có thời gian để trau chuốt gọt
rũa, do được văn bản hoá quá sớm , nhiều tác phẩm ca dao hiện đại còn ở dạng
phác thảo, chưa đủ độ chín về nội dung và hình thức biểu hiện, cá biệt có những
lời ca dao thuần tuý mang tính tuyên truyền, hô khẩu hiệu, ít chất thơ.
Từ khi đất nước thống nhất đến nay, sáng tác dân gian ngày càng phải đối
mặt với một thức tế: tự vận động để tồn tại bên cạnh những loại hình văn học
nghệ thuật chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp vốn có nhiều ưu thế về nội
dung và hình thức biểu hiện. Song, văn học dân gian hiện đại trong đó có ca dao
vẫn tiếp tục tồn tại (tuy có chiều hướng lắng xuống), tự nguyện đóng “vai trò
“ngự sử” trong đời sống dư luận” [92.47].
Bên cạnh những lời ca dao đã được sưu tầm thiên về âm hưởng ngợi ca: ca
ngợi Đảng Bác, ca ngợi cuộc sống mới, ca ngợi những con người dũng cảm
trong cuộc chiến chống kẻ thù xâm lược , còn một bộ phận không nhỏ ca dao
xuất hiện trong thời kỳ hiện đại vẫn đang lưu truyền trong sinh hoạt của quần
chúng hoặc in lẻ tẻ trong các bài viết nhưng vì những lý do khách quan và chủ
quan mà ta chưa sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu đầy đủ. Bộ phận ca dao này
ngoài một số lời mang âm hưởng ngợi ca có không ít lời chứa đựng nội dung hài
hước châm biếm, phê bình giáo dục đậm chất thời sự khá sâu sắc và thấm thía.
Xét về cả nội dung và thi pháp, bộ phận ca dao này có nhiều vấn đề để chúng
ta quan tâm.
Trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc những năm 60, 70,
làm ăn tập thể theo kiểu cũ dễ tạo ra “lỗ hổng” để các hiện tượng tiêu cực xuất
hiện và ca dao mới đã kịp thời lên tiếng:

Mỗi ngƣời làm việc bằng hai,
Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe
Mỗi ngƣời làm việc bằng ba,
Để cho chủ nhiệm xây nhà, xây sân. [92.45]
Cũng trong thời kinh tế bao cấp ấy, những hiện tượng “lật đời” như lời ca
dao sau cũng được đưa vào ca dao:
Thủ kho to hơn thủ trƣởng
Vào nhà thủ trƣởng lại tƣởng thủ kho
[92.46]
Cá biệt có lời ca dao mang âm hưởng tục ngữ, phản ánh mối quan hệ bất
bình đẳng nảy sinh giữa tướng tá và binh lính. Đáng lưu ý là ở chỗ hiện tượng
này tuy không phổ biến nhưng rất thực dù trong thời hiện đại và lời ca dao sử
dụng lối chơi chữ khá độc đáo:
CÁN BỘ LÁT CHUN LÁT HOA
CHÖNG EM NÁT DA NÁT CỔ
[92.46].
Trong xã hội hiện đại, nhiều lời ca dao lưu truyền trong dân gian, tuy chưa
được sưu tầm, xuất bản, song nó thực sự là những tác phẩm gây được sự chú ý
của công chúng tiếp nhận và là những bài học nhân sinh sâu sắc hoặc những
“liều thuốc trường sinh" không phải mua bằng tiền bạc.
Đó là những lời châm biếm nhẹ nhàng nhưng thâm thúy sâu cay kiểu người
muốn làm ra vẻ khác đời như trường hợp là thi sĩ sau:
Nhà thơ là phải đánh răng
Mặc quần áo mới và năng gội đầu.
Có lẽ, chính cuộc sống khó khăn, thiếu thốn về vật chất trong giai đoạn
chuyển đổi nền kinh tế thị trường đã sản sinh ra những tác phẩm truyền miệng
kiểu như lời ca dao sau. Cùng với nội dung mang tính hài hước, điều thú vị là lời
ca dao này sử dụng khá linh hoạt thể thơ lục bát và đã có dị bản:
Vợ mình là con ngƣời ta,
Con mình do vợ đẻ ra,

Ngẫm ta với họ chẳng bà con chi.
Không ăn thì để làm gì?
Và:
Vợ mình là con ngƣời ta,
Con mình do vợ đẻ ra,
Suy đi tính lại chẳng bà con chi.
Không ăn thì để làm gì?
Nếu hiểu theo nghĩa đen của văn bản thì lời ca dao là một sự “tự ám thị”
nghe vừa xót xa, vừa hài hước. Song, sau này trong nhiều trường hợp, lời ca
dao chỉ dùng để đùa vui, về mối quan hệ gần gũi nhưng nghe “rất phi lý” giữa
người chồng và người vợ (không hẳn là dùng để phản ánh hiện thực theo
nghĩa đen của văn bản). Nhưng, dù hiểu theo nghĩa nào, vào thời diểm lịch
sử nào thì lời ca dao trên vẫn như một món ăn tinh thần phù hợp với khẩu vị
hài hước của người dân lao động Việt Nam trong cuộc đời còn quá nhiều lo
toan, vất vả.
Đôi khi, thế hệ trẻ hiểu lầm về lớp người đi trước. Song, nên chăng trong
một vài trường hợp cụ thể, chúng ta cũng nên suy ngẫm. Lời ca dao “tinh
quái” sau phải chăng là sự phát hiện tinh tường của con mắt dân gian và nó đã
chọc đúng “tim đen” của một số người tham quyền cố vị:
Tre già măng mọc đúng rồi,
Mọc đâu thì mọc đừng chồi ghế ông.
Không chỉ quan tâm đến những vấn đề kinh tế, chính trị, ca dao giai đoạn
này còn có những lời phản ánh các khía cạnh tế nhị trong cuộc sống riêng tư của
con người - vấn đề lựa chọn hạnh phúc gia đình. Xin dẫn một lời ca dao với hai
dị bản sau:
Dị bản 1: - Nồi tròn lại úp vung tròn,
Bao nhiêu nồi méo vẫn còn đợi vung.
Dị bản 2: - Nồi tròn lại úp vung tròn,
Bao nhiêu nồi méo vẫn còn lựa vung.
Hai dị bản là hai “cuộc đời”, hai sắc thái trữ tình của văn bản ca dao. Điều đó

chứng tỏ lời ca dao này đã vận động theo quy luật sáng tạo của tác phẩm dân
gian và thực sự gây được hứng thú đối với chủ thể sáng tạo và công chúng tiếp
nhận. Từ cách nói hình ảnh “nồi nào vung ấy” trong văn học dân gian truyền
thống, các tác giả hiện đại đã đưa ra ít nhất hai tình huống không mấy dễ chịu
mà những người không may mắn có được sự hoàn thiện trời cho trong cuộc đời
thường gặp phải.
Một số người hay thơ, làm thơ “theo kiểu dân gian” cũng là hiện tượng đáng
lưu ý. Bút Tre Đặng Văn Đăng là một trong những người làm thơ như thế. Ông
có một số tập thơ xuất bản vào những năm 60 và đã từng bị phê là có nhiều câu
nôm na, tự nhiên chủ nghĩa. Thơ ông nôm na. Điều ấy ông công nhận. Nhưng
theo ông, đó là những tác phẩm viết ra để tuyên truyền chủ trương chính sách
của Đảng [184.8]. Điều thú vị là từ khi những vần thơ nôm na và cái bút danh
Bút Tre ra đời, nhiều vần thơ “dán nhãn” Bút Tre được xuất bản miệng khắp nơi.
Vậy chính ông - Bút Tre Đặng Văn Đăng đã khơi nguồn cho phong trào sáng tác
và truyền khẩu thơ ca từ những năm 60 của thế kỷ XX đến những ngày này của
thế kỷ XXI. Những vần thơ “dán nhãn” Bút Tre mà dân gian xuất bản miệng ấy
nên chăng có thể sưu tầm và xếp vào bộ phận ca dao hiện đại cho dù nó có “ngồ
ngộ” hay đôi khi “ngô nghê” đi nữa; bởi đâu phải cứ văn học nghệ thuật là phải
cực hay? Ngay văn học chuyên nghiệp cũng có hiện tượng những tác phẩm chưa
hay bên cạnh những tác phẩm tuyệt diệu. Và biết đâu, cái ngồ ngộ, ngô nghê ấy
là dụng ý, là một biện pháp của nghệ thuật trào phúng mới? Quần chúng nhân
dân trong thời kỳ hiện đại có cả công nhân, trí thức mà chẳng lẽ không thể chỉnh
cho những câu ca sau “chính danh" hơn, đúng “phép tắc ngữ nghĩa” hơn:
Chú về công tác bảo tàng,
Cũng là công việc cách màng giao cho.
Hay: - Hôm nay trời nhẹ mây cao
Anh Ga ga rỉn bay vào vũ tru (trụ).
Hoặc : - Anh đi công tác Buôn Mê,
Thuột xong một cái lại về cùng em.
v.v

Nguyễn Bảo Sinh cũng là một hiện tượng sáng tác “theo kiểu dân gian”.
Song, có lẽ thơ ông làm ra để tự thưởng thức, tự ngâm nga, tự triết lý về cuộc
đời, không nhằm mục đích tuyên truyền như Bút Tre Đặng Văn Đăng. “Ông làm
thơ như một cách ghi nhật ký, ghi lại những ý nghĩ bất chợt mỗi khi ông ngẫm ra

×